Giáo sư Trần Ngọc Ninh đã ra đi thanh thản ở tuổi 103 vào ngày 16 tháng 7 năm 2025 tại Bệnh viện Hoag, thành phố Newport Beach, miền Nam California. Tin tức về sự qua đời của giáo sư chỉ được gia đình thông báo hai tuần sau đó, theo đúng nguyện vọng của thầy về một tang lễ Phật giáo vô cùng đơn giản, được tổ chức riêng tư trong phạm vi gia đình. Không có cáo phó, không có điếu văn, và gia đình đã thực hiện đúng những gì thầy mong muốn. Thầy được an táng tại nghĩa trang Loma Vista Memorial Park, thành phố Fullerton, cách Little Saigon khoảng 20 km, bên cạnh phần mộ của người vợ quá cố, mất vào năm 2020 trong thời kỳ đại dịch Covid-19. Bia mộ của thầy rất giản dị, không ghi học hàm hay danh hiệu – chỉ khắc tên thầy và pháp danh “Orgyen Karma, biểu tượng cho hoạt động giác ngộ”.
*
Tôi mơ về một nước Việt Nam hòa
bình, tân tiến trên nền tảng của những giá trị tinh thần mà lịch sử đã nhồi vào
nền văn hiến của nước ta. Cả cuộc đời xã hội của tôi là để đóng góp vào sự ước
mong ấy.
Trần Ngọc
Ninh, Ước Vọng Duy Tân, 2012
Hình 1: trái, đến thăm Gs Trần
Ngọc Ninh, Huntington Beach ngày 21 & 29.6.2018, ở tuổi 95 mà Thầy vẫn còn
rất minh mẫn và sắc bén; trên bàn là những số báo Tình Thương (1963-1967) có
các bài viết của Thầy; phải, Gs Trần Ngọc Ninh đang ký tặng Ngô Thế Vinh cuốn
Làm Gì? (1979), bên cạnh là tác phẩm Nuôi Sẹo của Thư Quán Bản Thảo do
nhà văn Trần Hoài Thư tặng Gs Trần Ngọc Ninh. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
TIỂU SỬ
Trần Ngọc
Ninh, tên thật, còn có bút hiệu Kỳ Ngọc, Trần Ngọc, Trần Lê sinh ngày 6 tháng
11 năm 1923 tại Hà Nội, nguyên quán Ninh Bình Bắc Việt, thân phụ là giáo viên
nghèo, đôi khi nhà không đủ ăn; vừa đi học vừa viết báo phổ thông y học như với
tờ Vui Sống để kiếm sống với bút hiệu Kỳ Ngọc; một số bài báo còn sưu tập được
đã đăng lại trong Tuyết Xưa.[2]
•
1939 học sinh trường Bưởi, sinh viên Khoa học ban Toán cùng với Triều Sơn, rồi
chuyển sang học Y khoa
•
1946-1948 nội trú các bệnh viện Hà Nội
•
1948 thi đỗ Tiến sĩ Y khoa và trình luận án: “Contribution à la
Physiopathologie des Traumatismes Thoraciques”
•
1949 Diplôme de Docteur en Médecine, France
•
1948-1950 bác sĩ thường trú bệnh viện Yersin / Phủ Doãn Hà Nội
•
1952-1954 sang Pháp du học với Gs Robert Merle d’Aubigné ở bệnh viện Cochin về
ngành giải phẫu chỉnh trực và với Gs Pierre Petit về ngành giải phẫu tiểu nhi ở
bệnh viện St Vincent de Paul; qua Anh tu nghiệp về giải phẫu thần kinh ngoại vi
và xương sống với Sir Herbert Seddon / London
•
1954 về nước, di cư vào Nam sau Hiệp định Genève. Các giáo sư Phạm Biểu Tâm,
Nguyễn Hữu, Đào Đức Hoành, Ngô Gia Hy, Nguyễn Đình Cát đều từ Hà Nội vào Sài
Gòn... và trở thành ban giảng huấn cốt cán của Đại học Y Khoa Sài Gòn sau khi
người Pháp rút đi.
•
1961 Thạc Sĩ Y khoa Pháp / Agrégation des Facultés Françaises de Médecine
(Section Chirurgie Orthopédique).
•
1962-1975 giáo sư và trưởng khoa phẫu khoa chỉnh trực và phẫu nhi khoa, Đại học
Y khoa Sài Gòn, Việt Nam
•
1965-1966 Tổng trưởng Văn hóa Xã hội đặc trách Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa, chủ
trương phát triển phong trào thanh niên, đưa Hướng đạo vào sinh hoạt học đường.
•
1962-1975 trưởng khoa phẫu thuật chỉnh trực, Bệnh viện Bình Dân Sài Gòn
•
1966-1975 giáo sư Văn minh Đại cương và Văn Hóa Việt Nam, Đại học Vạn Hạnh Sài
Gòn, Việt Nam
•
1965 thành viên sáng lập Tổ chức Hội đồng Bộ trưởng Giáo dục Đông Nam Á (SEAMEO
/ Southeast Asian Ministers of Education Organization) Bangkok & Singapore
•
1966-1975 hội viên Hội đồng Soạn thảo Danh từ Chuyên môn, Sài Gòn, Việt Nam
•
1969-1975 hội viên Hội đồng Quốc Gia Giáo dục, Sài Gòn Việt Nam
•
1977 ngày 6 tháng 6, cùng gia đình vượt biển tới đảo Pulau Besar Mã Lai, chọn định
cư tại Hoa Kỳ
•
1978-1980 thi ECFMG & FLEX như một bác sĩ ngoại quốc, vẫn phải qua hai năm
thực tập tại các bệnh viện ở Denver, Colorado; rồi Pittsburg với các Gs James
S. Miles và Gs William B. Kiesewetter
Giữa thời gian đèn sách, ông vẫn
hoàn tất một tập luận đề chính trị “Làm Gì” trên 300 trang, với ghi chú nơi cuối
sách: “Viết xong lúc giữa trưa ngày 24 tháng 3 năm 1979 tại Trường Sơn của Mỹ
Châu”. (Rocky Mountains Ranges Denver, Colorado / ghi chú của người viết)
•
1980 trở lại hành nghề Y khoa tại Nam California, nhưng chủ yếu vẫn là các hoạt
động văn hóa giáo dục; viết bài cho các báo Tập San Y Sĩ, Thế Kỷ 21, Khởi
Hành...
•
2000 tham gia Ban Cố vấn Viện Việt Học (Westminster, California) do Gs Nguyễn
Đình Hoà sáng lập
•
2003-2008 Viện trưởng Viện Việt Học, giáo sư giảng dạy lớp Ngữ pháp Việt ngữ tại
Viện Việt Học
•
2018 Ông vẫn minh mẫn ở tuổi 95, hiện cư ngụ tại thành phố Huntington Beach, miền
Nam California.
TÁC PHẨM
Văn Hóa
1- Những
Vấn đề Văn hóa Giáo dục và Xã hội [Sưu tập Diễn Văn của Gs Trần Ngọc Ninh, Tổng
trưởng Văn hóa Xã hội
đặc trách Giáo dục Việt Nam Cộng
Hoà]. Sài Gòn Việt Nam 1966
2- Văn
hóa Dân tộc trước những Nhu cầu của Đất nước. Nxb Vovinam, Sài Gòn Việt Nam
1969
3- Đức
Phật Giữa Chúng Ta. Nxb Lá Bối, Sài Gòn Việt Nam 1972
4- Làm
Gì? Tập Luận đề Tháng Chín. Với bút hiệu Trần Lê.
Nxb Việt Nam Hải Ngoại,
California 1979
5- Tuyết
Xưa; Tuyển tập các Vấn đề Văn hóa Việt Nam. Nxb Khởi Hành California Hoa Kỳ
2000
6- Tố
Như và Đoạn Trường Tân Thanh với những giả thuyết mới về Nguyễn Du và Đoạn Trường
Tân Thanh, cũng như mối liên hệ giữa Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương. Nxb Khởi Hành
& Viện Việt Học, California
Hoa Kỳ 2004
7- Cơ
Cấu Việt Ngữ, Nxb Lửa Thiêng Sài Gòn Việt Nam 1973; Viện Việt Học California
Hoa Kỳ tái bản 2009
8- Dạy
Đọc Dạy Viết Tiếng Việt. Viện Việt Học, California Hoa Kỳ 2010
9- Ước
Vọng Duy Tân. Văn Hóa, Huyền Thoại, Văn Học Sử. Tuyển tập Trần Ngọc Ninh. Viện
Việt Học, California Hoa Kỳ 2012
10- Ngữ
Pháp Việt Nam. Viện Việt Học, California Hoa Kỳ 2017
11- Ngữ
Pháp Tiếng Việt Đầu Tiên, Cho Tuổi 5 Năm - 15 Năm.
Viện Việt Học, California Hoa Kỳ
2017
Y Học
1- Nhà
Thương, Phóng sự, Nxb Văn Hóa Hà Nội, Việt Nam 1946
2- Thượng
Kinh Ký Sự / Éthique Médicale de la Médecine Traditionnelle du Vietnam, d’
après les Mémoires d’un Voyage à la Capitale de Hải Thượng Lãn Ông
(18e siècle), Isis, Bruxelles, Belgique 1950
3- Những
Bệnh Cần Cấp Cứu, Gió Việt, Sài Gòn Việt Nam 1956
4- Một
Chút Lịch sử Y khoa Đại học đường Sài Gòn. Tập San Y Sĩ, Montréal Canada 2000
5- Lịch
sử hình thành hai Chuyên khoa Y Học: Phẫu khoa Chỉnh trực và Phẫu Nhi khoa ở Việt
Nam. Tập San Y Sĩ, Montréal Canada 2000
6- Hơn 200 bài
khảo cứu chuyên khoa được in trong các Tạp chí Y khoa xuất bản tại Việt Nam,
Pháp và Mỹ.
Hình 2: bìa một số những cuốn sách của GS Trần Ngọc
Ninh.
[tư liệu
Ngô Thế Vinh]
THƯ TỊCH BÁO CHÍ
Ngoài
những tác phẩm đã in thành sách, và các bài khảo cứu chuyên khoa được in trong
các tạp chí Y khoa Việt Nam và quốc tế, Giáo sư Trần Ngọc Ninh còn viết nhiều
bài báo liên quan tới các đề tài văn hóa. Sau đây là phần Thư Tịch trên ba tạp
chí đã được số hóa/ digitized: Tình Thương, Bách Khoa, Thế Kỷ 21 do thủ thư Phạm
Lệ Hương, Viện Việt Học sưu tập. Cũng phải kể thêm những bài báo trên tạp chí
Khởi Hành (1996-2018), chưa có trong phần thư tịch này.
TÌNH
THƯƠNG
https://vietecologypress.blogspot.com/p/tinh-thuong.html
•
Y tế và chính trị. / Trần Ngọc Ninh. Tình Thương, số 1 (tháng 1-1964), tr.
9-10.
•
Mười lăm năm ấy, kỷ niệm về Triều Sơn. / Trần Ngọc [pseud. Trần Ngọc Ninh].
Tình Thương, số 1, (tháng 1-1964.), tr. 46-50.
•
Những vấn đề hiện tại của giáo dục Việt Nam. / Trần Ngọc Ninh. Tình Thương, số
3-4 (tháng 3 & 4-1964), tr. 9-11.
•
Tinh thần đại học; hay là phiếm luận chung quanh vấn đề đại học. / Trần Ngọc
Ninh. / Tình Thương, số 5 (tháng 5-1964), tr. 6-12.
•
Ngô Thế Vinh & Nguyễn Hữu Ân: Phỏng vấn giới giáo sư đại học về vấn đề sinh
viên - GS. Trần Ngọc Ninh. Tình Thương, số 12 (tháng 12-1964), tr.6-7.
•
Ngày mai của nền đại học y khoa Việt Nam. / Trần Ngọc
Ninh].
Tình Thương, số 14 (Xuân Ất Tỵ, tháng 1-1965), tr. IV-VI.
•
Các vấn đề thanh viên và sinh viên trong thời đại. / Trần Ngọc Ninh. Tình
Thương, số 20 (tháng 8-1965), tr. 17-20.
BÁCH
KHOA
https://www.nguoi-viet.com/ThuVienNguoiViet/BachKhoa.php?thuvien=1-30
•
Xã hội và văn hóa thái cổ Việt Nam. (pt.1) / Trần Ngọc Ninh.
Bách Khoa, số 343, tr. 5-14.
•
Xã hội và văn hóa thái cổ Việt Nam. (pt.2) / Trần Ngọc Ninh.
Bách Khoa, số 344, tr. 29-37.
•
Đức Phật và sự cải tạo xã hội. (pt.1) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 345, tr.
9-16.
•
Đức Phật và sự cải tạo xã hội. (pt.2) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 346, tr.
31-39.
•
Đức Phật và sự cải tạo xã hội. (pt.3) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 347, tr.
33-41.
•
Tương lai chúng ta. / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 348, tr. 9-12; 71-77.
•
Viết về xã hội và văn hóa thái cổ Việt Nam. / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số
349, tr. 39-45.
•
Sự kết thúc của chiến tranh Đông Dương II. / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 351,
tr. 9-11.
•
Ánh sáng của đạo Phật trong đời sống cộng đồng. (pt.1) / Trần Ngọc Ninh. Bách
Khoa, số 351, tr. 23-30.
•
Ánh sáng của đạo Phật trong đời sống cộng đồng. (pt.2) / Trần Ngọc Ninh. Bách
Khoa, số 352, tr. 23-27.
•
Ánh sáng của đạo Phật trong đời sống cộng đồng. (pt.3) / Trần Ngọc Ninh. Bách
Khoa, số 353, tr. 31-40.
•
Giáo dục là một sự đầu tư cần được quản trị và kế hoạch hóa: Căn bản kinh tế học
của giáo dục. (pt.1 - Viết cho ngày mai của dân tộc) / Trần Ngọc Ninh. Bách
Khoa, số 368, tr. 31-38.
•
Giáo dục là một sự đầu tư cần được quản trị và kế hoạch hóa: Căn bản kinh tế học
của giáo dục. (pt.2 - Viết cho ngày mai của dân tộc) / Trần Ngọc Ninh. Bách
Khoa, số 369, tr. 23-31.
•
Giáo dục là một sự đầu tư cần được quản trị và kế hoạch hóa: Căn bản kinh tế học
của giáo dục. (pt.3 - Viết cho ngày mai của dân tộc) / Trần Ngọc Ninh. Bách
Khoa, số 370, tr. 23-29.
•
Thương thảo về từ-nguyên của hai tiếng "Cái" và "Con" [với
ông Bình Nguyên Lộc] (pt.1) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 373, tr. 19-26.
•
Thương thảo về từ-nguyên của hai tiếng “Cái” và “Con” [với ông Bình Nguyên Lộc]
(pt.2) / Trần Ngọc Ninh, Bách Khoa, số 374, tr. 29-37.
•
Văn hóa và y khoa. / Trần Ngọc Ninh. Bách khoa, số 374, tr. 43-50.
•
Thương thảo về từ-nguyên của hai tiếng”Cái” và “Con” [với ông Bình Nguyên Lộc]
(pt.3) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 375, tr.19-22,
•
Thương thảo về từ-nguyên của hai tiếng “Cái” và “Con” [với ông Bình Nguyên Lộc]
(pt.4) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 376, tr. 23-30.
•
Ý nghĩa của Truyện Kiều trong dân gian. (pt.1) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số
381, tr. 13-22.
•
Ý nghĩa của Truyện Kiều trong dân gian. (pt.2) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số
382, tr. 23-31.
•
Nguyễn Trãi, huyễn thực và sắc không. / Trần Ngọc Ninh.
Bách Khoa, số 390, tr. 9-15;
tr. 82-85.
•
Sống với ý thức hệ. (pt.1) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 394, tr. 9-17.
•
Ngữ lí học và cơ cấu Việt ngữ. / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 395, tr. 21-28.
•
Sống với ý thức hệ: Các hệ phái sa môn và Bà La Môn qua lăng kính Phật giáo.
(pt.2) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 395, tr. 29-34.
•
Sống với ý thức hệ: Các hệ phái sa môn và Bà La Môn qua lăng kính Phật giáo.
(pt.3)/ Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 396, tr. 39-42.
•
Sống với ý thức hệ: Các hệ phái sa môn và Bà La Môn qua lăng kính Phật giáo.
(pt. 4) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 397, tr. 33-40.
•
Huyền thoại học và huyền thoại lí học trong sự đi tìm nguồn gốc dân tộc. / Trần
Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 413, tr. 39-46.
•
Y khoa và văn chương. / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 413, tr. 73-79.
•
Tư tưởng Việt Nam. (pt.1) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 421-422, tr. 49-54;
113-117.
•
Tư tưởng Việt Nam. (pt.2) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 423, tr. 29-33.
•
Tư tưởng Việt Nam. (pt.3) / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 424, tr. 31-37.
•
Bàn luận về cơ cấu và ngôn ngữ. / Trần Ngọc Ninh. Bách Khoa, số 425, tr. 39-44.
THẾ KỶ
21
https://www.nguoi-viet.com/ThuVienNguoiViet/TheKy21.php
•
Tuởng nhớ ký giả Trần Việt Sơn. / bài nói chuyện của Bác sĩ Trần Ngọc Ninh,
Bích Hằng ghi. Thế Kỷ 21, số 111 (7-1998), tr. 24-31.
•
Vấn đề trọng đại nhất của nghìn năm tới: nguy cơ và hứa hẹn. (pt. 1) / Thế Kỷ
21, số 132 (4-2000), tr. 26-34.
•
Vấn đề trọng đại nhất của nghìn năm tới: nguy cơ và hứa hẹn. (pt. 2) / Thế Kỷ
21, số 133 (5-2000), tr. 39-44.
•
Vấn đề trọng đại nhất của nghìn năm tới: nguy cơ và hứa hẹn. (pt. 3) / Thế Kỷ
21, số 134 (6-2000), tr. 35-38.
•
Vấn đề trọng đại nhất của nghìn năm tới: nguy cơ và hứa hẹn. (pt. 4) / Thế Kỷ
21, số 135 (7-2000), tr. 43-48.
•
Vấn đề trọng đại nhất của nghìn năm tới: nguy cơ và hứa hẹn. (pt. 5) / Thế Kỷ
21, số 136 (7-2000), tr. 43-47.
•
Vấn đề trọng đại nhất của nghìn năm tới: Đặt vấn đề. (pt. 6) /
Thế Kỷ 21, số 137 (9-2000), tr.
73-80.
•
Những người rỗng (The Hollow men: một bài thơ của T.S. Elliot (1888-1965). Trần
Ngọc Ninh. Thế Kỷ 21, số 148 (8- 2001), tr. 38-44. [thơ dịch sang Việt ngữ được
tác giả chép tay trang 44]
•
Tưởng nhớ nhà văn Phạm Duy Tốn. / Trần Ngọc Ninh. Thế Kỷ 21, số 174 (10-2003),
tr. 38-41 & 17.
•
Bốn mươi năm sau. / Trần Ngọc Ninh. Thế Kỷ 21, số 175 (11- 2003), tr. 15-19.
•
Hồ Xuân Hương và Đoạn Trường Tân Thanh. [Pt.1] / Trần Ngọc Ninh. Thế Kỷ 21, số
193 (5-2005), tr. 31-37.
•
Hồ Xuân Hương và Đoạn Trường Tân Thanh. [Pt. 2] / Trần Ngọc Ninh. Thế Kỷ 21, số
196 (8-2005), tr. 36-40.
•
Những vấn đề và thách thức của thời đại. / Trần Ngọc Ninh.
Thế Kỷ 21, số 207 (7-2006), tr.
18-23.
•
Tuyên dương một nhà trí thức Việt Nam. / Trần Ngọc Ninh.
Thế Kỷ 21, số 215 (3-2007), tr.
23-24.
GIÁO SƯ Y KHOA LỖI LẠC
Nguyễn Lương
Tuyền là một trong số môn sinh hiếm hoi của GS Trần Ngọc Ninh, đã nhận viết về
phần sự nghiệp Y khoa của Thầy Ninh. Nguyễn Lương Tuyền, sinh năm 1945 tại Hải
Dương, lớn lên ở Hà Nội. 1954 di cư vào Nam, học sinh Chu Văn An, 1963 sinh
viên Y khoa Sài Gòn, 1968 thủ khoa kỳ thi Nội trú các Bệnh viện. Làm nội trú rồi
thường trú Khu Giải phẫu Trẻ em BV Nhi Đồng với GS Trần Ngọc Ninh là Trưởng
khoa. 1975 tỵ nạn Canada, đã đậu 2 Boards về General Surgery, và Pediatric
Surgery. 1980 Associate Professor in Pediatric Surgery tại The Montreal
Children’s Hospital, McGill University.
Nguyễn Lương Tuyền viết:
Những dòng sau
đây là phác họa một phần Y nghiệp của vị Thầy của nhiều thế hệ bác sĩ Việt Nam.
Năm nay 2021, Thầy Ninh sắp tròn 100 tuổi.
Bài viết của
Thầy Ninh gần đây nhất, liên quan đến Y Học, mà Thầy gọi là “Bài Giảng cuối
cùng”, được đăng trong một số Tập San Y Sĩ tại Canada, Thầy đã kết thúc bài
viết: “Tôi rời Sài Gòn năm 1977 và chế độ Xã hội Chủ nghĩa bóp méo nền Y Khoa
nhân dân, chủ trương kết hợp một Y Khoa khoa học phôi thai và Nghề thuốc Dân tộc.
Trái tim của tôi vẫn hướng về đất nước và nhân dân Việt Nam. Kí ức của tôi vẫn
đầy những hình ảnh yêu thương những cuộc đời, những hi vọng không thành của con
người Việt Nam. Tôi nhìn nhận sự chịu đựng và can đảm của các anh, các chị khi
đổi đời, sự hội nhập rất rực rỡ của các anh, các chị là một chứng minh rằng nền
Giáo dục Y khoa ở Sài Gòn của nước Cộng Hòa Việt Nam không phải là dở… bài giảng
cuối cùng của đời tôi mong rằng sẽ đem lại cho các anh, các chị một niềm tự tin
và tự hào xứng đáng. Xin chào các anh và các chị
– cựu sinh viên của Y khoa Đại
học Sài Gòn”.
GS Trần Ngọc
Ninh sinh năm 1923 trong một gia đình có truyền thống làm nghề dạy học. Năm
1941, Thầy vào học Y Khoa Hà Nội. Thầy kể lại trong tập sách Một chút Lịch sử Y
khoa Đại học đường Sài Gòn [6]: Sự học thuốc ngày xưa là chuyện thiên nan vạn
nan. Anh của Thầy bị lao hạch, một người em 5 tuổi chết vì lao phổi và khi thấy
Mẹ của Thầy than khóc: phải chi gia đình có một người làm thầy thuốc! Thầy quyết
định vào học Y Khoa. Trong nhiều năm, Thầy vừa đi học vừa viết báo Văn Hóa để
kiếm thêm tiền giúp gia đình. Một gia đình thanh bạch của một nhà giáo.
Hình 3: Từ phải,
Gs May, Gs Trần Ngọc Ninh, Gs Nguyễn Hữu, Gs Phạm Biểu Tâm, Gs Trịnh Văn Tuất.
[Album gia đình Gs Phạm Biểu Tâm]
Hình 4: Một buổi
họp Hội Đồng Khoa Đại học Y Khoa Sài Gòn, từ trái, Gs Trần Ngọc Ninh, Gs Trịnh
Văn Tuất, Gs Trần Vỹ, Gs Caubet, Gs Phạm Biểu Tâm, Gs Huard, Gs Trần Đình Đệ,
Gs Nguyễn Đình Cát, Gs Nguyễn Hữu, Gs Ngô Gia Hy. [Album gia đình Gs Phạm Biểu
Tâm]
Việc học thuốc
của Thầy, vào lúc đó, hoàn toàn bên người bệnh tại nhà thương. Còn sách vở thì
phải vào thư viện gần như mỗi ngày, từ chiều đến tối, cho đến khi thư viện đóng
cửa. Thiết tưởng cũng nên biết trường Y Khoa được thành lập từ năm 1902 là trường
duy nhất dành cho 3 nước Đông Dương (Việt, Miên, Lào). Cho tới khi Thầy Ninh
vào học 40 năm sau, trường vẫn không có nhiều cải thiện vì do tình trạng chiến
tranh. Cuộc chiến tranh mà người cộng sản gọi là giải phóng, giành độc lập, chống
lại quân Pháp xâm lược, bùng nổ ngày 19 tháng 12 năm 1946. Trường Y Khoa Hà Nội
được chia làm hai: một số theo BS Tôn Thất Tùng vào bưng biền chiến đấu dưới ngọn
cờ chống Pháp do Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản xách động, một số BS và nhân viên
Y Tế đã ở lại Hà Nội, trong số này có các BS Phạm Biểu Tâm, Trần Ngọc Ninh. Ông
cùng một số đồng nghiệp đã từng bị Pháp bắt vào tù ở Hà Nội. Ít lâu sau, tất cả
được trả tự do khi vị Khoa trưởng Y khoa lúc đó là GS Pierre Huard đã can thiệp
với quân Pháp để các BS, và nhân viên Y tế về làm việc tại các Bệnh viện ở Hà Nội.
Từ năm 1946 đến năm 1948, nội
trú các Bệnh viện Hà Nội.
Năm 1949, tốt
nghiệp Y khoa Bác sĩ với luận án Pathophysiologie des traumatismes thoraciques.
Từ năm
1948 tới năm 1950, BS thường trú các Bệnh viện Hà Nội. Năm 1952, sang Pháp du học,
Thầy bắt đầu học ở Lyon với GS Guilleminet theo thư giới thiệu của GS Pierre
Huard, Khoa trưởng Đại học Y khoa Hà Nội. Guilleminet là một GS nổi tiếng bên
Pháp về Giải phẫu Chỉnh trực (Chirurgies Orthopédiques) và Giải phẫu Trẻ em
(Chirurgies Infantiles). Ông đã học được từ GS Guilleminet rất nhiều kỹ thuật,
thí dụ như mổ môi bị sứt và chẻ hàm (bec de lièvre et division palatine), bệnh
giả khớp bẩm sinh (pseudarthrose congénitale). Sau một thời
gian học ở Lyon, ông được GS Guilleminet gửi lên Paris, tiếp tục học Giải phẫu
Chỉnh trực với GS rất nổi tiếng tại nhà thương Cochin là GS Robert Merle
d’Aubigné. Đi học với các GS nổi tiếng ở Pháp là một hành trình đầy gian nan.
Hình 5: Nguyễn
Lương Tuyền tới thăm Thầy, GS Trần Ngọc Ninh tại Huntington Beach, California
2018. [tư liệu Nguyễn Lương Tuyền]
Ta hãy nghe GS Ninh kể lại thời gian đầu của
GS trong Service của GS Merle d’Aubigné:
“Tôi từ Lyon
lên Paris để vào làm việc trong Khu Trực Nhi (Service d’Orthopédie Infantile) của
Bệnh viện Cochin, cát bụi tôi lại trở về với cát bụi. Bốn tháng đầu, tôi lang
thang ở hành lang, không được mó tới bệnh nhân. Muốn xem một tấm X-ray cũng phải
xin phép bà Y tá trưởng. Thân phận của một anh phụ tá ngoại quốc là thân phận của
một kẻ lạc loài. Buổi sáng ở nhà thương, ngồi chồm hổm, mỗi tuần hai lần vào lớp
nghe giảng về các bệnh trong tuần, thu hình một xó như con chó tiền rưỡi… ở cửa
ngõ, có khi lên lầu để ngó qua cửa kính xem Thầy mổ. Buổi chiều ra thư viện hoặc
vào phòng thí nghiệm Mô học / Histologie xem những slides mà chẳng ai thèm xem.
Chán nản quá, một bữa tôi xin với Thầy để được đi xem những sưu khảo tài liệu của
GS Leucène, đồng thời tôi xin Thầy một đề tài để khảo sát. Hôm sau, Ông cho gọi
tôi lên và bảo tôi thử xem có thể rút tỉa ra được một cái gì từ “Hội chứng
Volkmann đã thành tật". Ông còn dặn tôi “nếu không làm được thì hãy nói sớm,
Ông sẽ cho một đề tài khác. Từ hôm đó, mỗi buổi sáng, nếu không theo Thầy, tôi
lại đi tìm hồ sơ các bệnh nhân cũ và lần lượt gọi bệnh nhân trở lại để khám.
Buổi chiều,
tôi ra khảo sát ở thư viện, nhưng trong 10 năm sau cùng cũng chỉ tìm được dăm
bài mà không bài nào có thực chất. Tôi đã hơi nản thì thấy một bài của Sterling
Bunnell nói về bệnh của các cơ nhỏ ở bàn tay, không dính líu gì đến đề tài của
tôi nhưng nhờ nó mà tôi có được một ý kiến mới. Sau khi đã kiểm chứng là ý kiến
của mình đúng. Tôi khởi sự viết luận văn và hoàn thành sau một tuần để trình Thầy.
Hai ngày sau,
tôi được nhắn vào gặp Thầy khi Thầy mổ xong. Cas mổ lớn, gần 3 giờ chiều mới
xong. Bà thư ký mời tôi vào gặp Thầy. Ông hỏi tôi: “Ai dạy anh trình bầy bài khảo
luận?” Tôi trả lời là tự tôi. Thầy nói: tôi thích cách anh trình bày, tôi đọc
bài anh viết tối qua, đọc một mạch. Anh có ý kiến mới. Từ lâu lắm rồi, tôi
không được đọc một bài lí thú như bài anh viết.”
Bài viết của
BS Ninh được GS Merle d’Aubigné gửi đăng ở Revue de Chirurgie Orthopédique et
de Traumatologie – một Revue rất có uy tín ở Pháp với tác giả là R. Merle
d’Aubigné et Trần Ngọc Ninh. Sau “biến cố” đó, GS Ninh, một cách gián tiếp, được
thế giới phẫu khoa về xương công nhận Ông là được xuất thân từ “Trường phái
Merle d’Aubigné, BV
Cochin ở Paris”. Bài viết đã được phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới. GS Ninh
đã được tham dự vào mọi hoạt động của Khoa / Service. GS R. Merle d’Aubigné còn
để GS Ninh được giảng dạy tại đại giảng đường. GS Ninh nói “sự học của tôi được
bảo đảm ở Paris cũng như ở bất cứ nơi nào trên thế giới.”
Học Giải phẫu Trẻ em với GS
Pierre Petit
GS
Merle d’ Aubigné giới thiệu Thầy Ninh với GS Pierre Petit, một GS nổi tiếng về
Giải phẫu Trẻ em, đang làm Trưởng Khu Giải phẫu Trẻ em tại nhà thương St
Vincent de Paul ở Paris. Hai người rất “tâm đầu ý hiệp”. Thầy vẫn giữ liên lạc
mật thiết với GS Pierre Petit sau khi rời Pháp để trở về VN năm 1954. Mỗi năm,
GS Ninh đều qua Pháp, làm việc với GS Petit ở BV St Vincent de Paul để “update”
về Giải Phẫu Trẻ em trong một tháng.
GS Petit có
sang VN vào khoảng năm 1965 để giảng dạy sinh viên Y Khoa Sài Gòn tại BV Nhi Đồng
trong suốt một năm ở Khu Giải Phẫu Trẻ em của GS Ninh.
Hiệp Định Genève 20/7/1954, GS
Ninh về nước.
Sau nhiều
tháng bị vây hãm, Điện Biên Phủ thất thủ, Pháp phải ký Hiệp định đình chiến tại
Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954. Đất nước bị “chia đôi” tại vĩ tuyến 17, miền Bắc
cộng sản còn miền Nam là người Việt quốc gia. Hiệp định cũng dự trù sau 2 năm sẽ
có một cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Cuộc tổng tuyển cử đã không
diễn ra. CSVN đã chuẩn bị chiếm miền Nam bằng võ lực. Đó là chuyện xảy ra sau
này.
Sau khi Hiệp định
Genève được ký kết, chánh phủ quốc gia vừa mới thành lập, ông Ngô Đình Diệm về
nước chấp chánh ngày 7 tháng 7 năm 1954 với gánh nặng phải định cư gần 1 triệu
người Bắc chạy trốn chế độ cộng sản di cư vào Nam. GS Ninh từ biệt các GS
Petit, Merle d’Aubigné, để trở về miền Nam, cùng lúc các bác sĩ, nhân viên y tế
từ miền Bắc, nhất là từ các BV Phủ Doãn, Bạch Mai, di cư vào miền Nam.
GS Phạm Biểu
Tâm và một số đông đảo các BS của miền Bắc đã “di chuyển” trường Y Hà Nội vào
miền Nam sáp nhập với chi nhánh Y Khoa ở Sài Gòn để thành lập Đại học Y khoa Sài Gòn, cùng với
các BS thuộc Section de Saigon như các GS Trần Quang Đệ, Đặng Văn Chiếu, Thái
Minh Bạch, Trần Lữ Y, Nguyễn Phước Đại... Các GS hai miền đã cùng nhau xây dựng
một Trường Y Khoa tiên tiến, đã đào tạo ra những người thầy thuốc có đầy đủ khả
năng vững vàng với trình độ không thua kém các bác sĩ xuất thân từ những trường
Y khoa của các nước tân tiến trên thế giới. GS Trần Ngọc Ninh đã sáng lập và điều
hành hai Khu thiết yếu: Khu Giải phẫu Chỉnh trực, điều trị các bệnh về xương
(Orthopédies) tại BV Bình Dân và Khu Ngoại Khoa Trẻ em (Chirurgie Infantile) tại
BV Nhi Đồng Sài Gòn.
GS Trần Ngọc Ninh và kỳ thi Thạc
sĩ Pháp Quốc
GS Ninh đã viết,
cũng trong Tập sách “Một chút Lịch Sử Y khoa Đại học Sài Gòn” [6] do Hội Y Sĩ VN
Canada ấn hành 2002: “Với chức vụ phụ trách lớp hay giảng sư, tôi chỉ là con số
không: không được vào Hội đồng Khoa để chính thức dự bàn vào công việc của trường
Y Khoa. Tôi quyết định lấy bằng Agrégé / bằng Thạc sĩ Pháp. Trên thực tế chỉ là
bằng để dạy học.
Năm 1962, tôi
được các GS Guilleminet, Merle d’Aubigné cho biết các ông sẽ về hưu và một kỳ
thi Thạc sĩ sẽ được tổ chức, tuyển Thạc Sĩ cho 2 môn này. Sau khi hỏi rõ về
ngày giờ thi, tôi xin phép ông Khoa Trưởng để đi thi và được phép xuất ngoại.
Đến Paris, tôi
mới biết rằng có 12 người dự thi cho 8 chỗ: Paris 2, Lyon 1, Bordeaux 1 nhưng
không có chỗ nào do Sài Gòn xin và tôi không có tên trong danh sách các thí
sinh dự thi. Tôi là đứa con côi, vô thừa nhận. Còn có 7 ngày thì kỳ thi bắt đầu,
tôi lên Văn phòng Khoa Trưởng Y Khoa thì được trả lời là việc thi cử đó không
phải là việc của Khoa Trưởng. Tôi lên hỏi Bộ Giáo Dục. Bộ Giáo dục trả lời là
quyết định về kỳ thi là do Hội đồng Giáo dục cao cấp, 6 tháng nữa mới họp lại.
Vả lại Sài Gòn không có chỗ trống thì thi rồi sẽ về đâu?
Trước
cái viễn tượng khăn gói trở về, tay trắng lại hoàn tay trắng, tôi quyết định một
quân bài chót, viết một lá thư gửi cho Tổng thống Pháp Charles de Gaulle, xin
được đặc cách đi thi, không phải để lấy chỗ nào cả. Lá thư được gửi bằng ống
hơi / pneumatique đến Điện Élysée. Điều lạ lùng là sáng ngày hôm sau, tôi nhận được một lá
thư bằng pneumatique từ văn phòng của TT gửi ra, cho biết TT sẽ tiếp tôi vào
ngày mai lúc 10 giờ sáng. Cuộc tiếp xúc diễn ra ở phòng đợi và rất ngắn. TT bước
ra với một ông béo, lùn và chỉ nói: “Tôi xin lỗi, tôi không nghe ông được. Ông
nói với Cố vấn Giáo Dục của tôi” rồi đi vào.
Sau khi nghe
tôi trình bày, Ông Cố vấn nói: “Tôi sẽ trình TT, tôi không hứa gì cả. Ông sẽ nhận
được tin vào lúc thuận tiện”. Và tôi ra về.
Hai hôm
sau, tôi nhận được lá thư bằng pneumatique. Giấy của Bộ Giáo dục nói rằng tôi
được phép dự kỳ thi Agrégation des Facultés Françaises de Médecine, Section de
Chirurgie Orthopédique. Tôi chỉ cần có thế, đúng in như thế. Tôi đã đến, đã thi
và đã đỗ. Sau khi thi, GS Guilleminet, đến từ Lyon đã đón tôi. Ông dẫn tôi vào
một restaurant để ăn món ốc bourgogne. Tôi mời ông sang VN. Ông đã nhận lời.
Khoa Giải phẫu trẻ em được thành lập từ đó, trong vinh quang”.
GS Trần Ngọc Ninh
đã xây dựng lên hai chuyên khoa quan trọng của Đại học Y khoa Sài Gòn. Ông điều
hành hai chuyên khoa này, và không ngừng phát triển, tiến bộ không thua bất kỳ
nơi nào trên thế giới. Công trình vun đắp của ông đã bị những người CS miền Bắc
phá vỡ, đưa Y khoa của miền Nam giật lùi hàng ba, bốn chục năm. [Nguyễn Lương
Tuyền, MD, FRCSc]
VỚI BÁO SINH VIÊN Y KHOA TÌNH THƯƠNG
Học Y khoa,
tôi không phải là học trò theo cái nghĩa là đệ tử ruột của Gs Trần Ngọc Ninh: học
trò của Thầy Ninh ở trường Y có thể đếm trên mười đầu ngón tay: rất sớm có Bùi
Duy Tâm, Phạm Văn Biểu, cả hai đều dở dang, rồi Vũ Văn Nguyên mất sớm khi du học
Mỹ, và sau này là Trần Xuân Ninh (Ninh Con, để phân biệt với Ninh Bố là Thầy
Ninh), Võ Thành Phụng, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Lương Tuyền... Khác với Gs Phạm
Biểu Tâm được sinh viên Y khoa yêu mến; với Gs Trần Ngọc Ninh, sinh viên có thể
nể phục tài năng kiến thức và cả cái uy của ông nhưng một số không thích ông vì
quá nghiêm khắc.
Tôi gần gũi với
Gs Trần Ngọc Ninh không phải bên giường bệnh hay trong phòng mổ nơi các bệnh viện, mà chủ yếu qua những hoạt
động sinh viên với tờ báo Tình Thương trong
khoảng thời gian 1963- 1967. Các bài viết của Thầy Ninh trên báo SVYK Tình
Thương đều với một tầm nhìn chiến lược đặt ra những vấn đề lớn của nền Y tế,
Giáo dục và Văn hóa Việt Nam, cho đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự.
TRẦN NGỌC NINH VÀ NUÔI SẸO
Ngay từ số
Tình Thương ra mắt, qua Gs Trần Ngọc Ninh, toà soạn đã nhận được bản thảo truyện
dài Nuôi Sẹo của Triều Sơn và bắt đầu cho đăng từng kỳ trên báo với lời giới
thiệu trang trọng: “Nuôi Sẹo là một tác phẩm mà nhiều nhà văn tìm đọc từ hơn 10
năm nay [thời điểm 1964, ghi chú của người viết]. Cuốn truyện đã không thể xuất
bản được ở miền Bắc, cộng sản. Nó cũng không thể ra đời được ở miền Nam, dưới
chế độ cũ. Tác giả là Triều Sơn, một sinh viên đã rời mái trường để đi làm cách
mạng, đã làm đủ nghề, đã đặt chân tới nhiều nơi trên thế giới. Và Triều Sơn đã
chết ở Paris khi Nuôi Sẹo sửa được gần xong tập đầu, mà chúng tôi hân hạnh giới
thiệu ở đây. Nhưng vài dòng ngắn ngủi này không thể đủ để các bạn, nhất là các
bạn trẻ biết rõ Triều Sơn và Nuôi Sẹo. Bởi vậy chúng tôi xin nhường chỗ cho Trần
Ngọc [bút hiệu của Gs Trần Ngọc Ninh], một người bạn thiết của Triều Sơn viết
“Kỷ niệm về Triều Sơn”. Trần Ngọc đã gặp lại Triều Sơn sau 15 năm xa cách và đã
làm quen với Nuôi Sẹo ở đó. Triều Sơn đã sống những ngày sau cùng với Trần Ngọc.
Cuộc tao ngộ đó là cái nhân cho sự ra mắt của Nuôi Sẹo ở đây. Và chúng tôi xin
ghi đậm một nét chân thành cám ơn Trần Ngọc, người đã cho chúng tôi cái hân hạnh
đón chào Nuôi Sẹo.” [Trích dẫn Tình Thương số 1, 01/1964]
Bài viết
giới thiệu Nuôi Sẹo của GS Trần Ngọc Ninh, một tài liệu hiếm quý tưởng đã bị thất
lạc mà nay tìm lại được. Tuy là viết về Triều Sơn nhưng cũng là tấm gương phản
chiếu một chân dung khác thời trai trẻ của Trần Ngọc Ninh nên chúng tôi chủ ý
cho trích đăng trong bài viết này.
“Mười Lăm Năm Ấy, Kỷ Niệm về
Triều Sơn” của Trần Ngọc
Tôi không biết
làm thế nào để nhìn thấy trong một người trẻ tuổi cái mầm của tài năng. Tôi bắt
đầu quen Triều Sơn khi vào lớp Toán Chuyên khoa năm 1939. Tôi còn nhớ Triều Sơn
nói với tôi, khi hai người vào ngồi cùng một ghế:
-- Có anh em
cũ thì học cả Toán cho vui, nhưng tôi học Triết cũng thích.
“Anh em cũ” là
hai anh bạn khác, cùng học với Triều Sơn những năm về trước ở trường Bưởi;
nhưng ngay từ buổi đầu ấy, tôi cũng đã là "anh em cũ" của Triều Sơn.
Năm ấy Triều Sơn 18 tuổi, người to lớn, má đầy, mặt trắng nổi lốm đốm những mụn
nhỏ của thiếu niên, tóc thưa và chải lật về đằng sau, mình đóng một cái áo the
đen. Cả lớp chỉ có hai chúng tôi mặc ta, nhưng có lẽ đấy là hai điểm độc nhất
giống nhau.
Triều Sơn
thích đọc Triết hơn Toán, và tôi thích học Toán hơn Triết.
Thực ra Triều
Sơn đã tiến sâu vào Triết học từ khá lâu rồi; khi mới học năm thứ ba Trung học
phổ thông, anh đã đọc hết Kant, Fichte và Hegel; ảnh hưởng của Triết học Đức
sau này còn sâu xa hơn nữa vào anh, qua Marx, qua Husserl, nhưng Triều Sơn
không phải là người của một dòng tư tưởng, và anh đã học cả Triết lý cận đại của
Âu châu lẫn triết lý cổ Phật-Lão của Á Đông. Hơn nữa, Triều Sơn ngay từ lúc ấy
đã có một cái công phu suy nghĩ sau này sẽ đưa tư tưởng của anh vượt lên trên
những lý thuyết vụn vặt của các môn phái. Tuy vậy mà trong lớp, không có dấu hiệu
gì tỏ ra rằng Triều Sơn đã hiểu biết nhiều như thế; số điểm của anh chỉ vào hạng
trung bình, kể cả về triết học; có lẽ cái mầm vẫn còn thu hình trong hạt, hoặc
giả những ý nghĩ đã có chút đặc sắc của Triều Sơn không hợp với cách học trọng
hư văn trong các trường chăng?
Sau khi đậu
Trung học, mỗi người chúng tôi theo một ngả đường. Triều Sơn, người không thích
Toán, lại vào lớp Toán học đại cương. Nhưng Triều Sơn không học Toán vì Toán;
suốt ngày tôi gặp anh ở thư viện đọc về triết lý của toán học; những sách của
Whitehead, của Bertrand Russell, của Hamilton được giũ bụi thời gian và ăn sâu
vào óc người sinh viên trẻ tuổi. Hồi ấy anh chỉ nói chuyện về “vô cùng”, về “số
giả”, về cách lý luận trong toán học, về căn bản của sự hiểu biết... Kết quả là
cuối năm, sau khi thi hỏng, Triều Sơn bỏ học nhưng hài lòng vì đã lấp được một
lỗ hổng trong tư tưởng.
Trong ít lâu,
tôi không gặp Triều Sơn nữa. Thời kỳ này mới chính là thời kỳ nảy nở của tài
năng. Cái gì đã làm cho cái mầm nảy lá, đục đất và vươn lên trời xanh? Sau này
khi Triều Sơn viết Con đường văn nghệ mới, anh sẽ nhấn mạnh về điểm phải gần
dân chúng; văn nghệ sĩ nào xa dân chúng sẽ cằn cỗi, hoặc truỵ lạc tinh thần; đi
vào quần chúng, sống với đại chúng, hoà nhịp sống của mình vào đời sống chung,
phải là phương châm của văn nghệ sĩ tiền phong. Đấy là một lời khuyên sống: quần
chúng đã rèn luyện tài năng của Triều Sơn, đã nuôi tinh thần Triều Sơn, đã nung
đúc tư tưởng của Triều Sơn. Anh lăn mình vào cách mạng, làm thợ ở mỏ than Hòn
Gay, làm hành chính ở Hải Dương, dạy học ở Phú Thọ, làm phu ở dưới tàu, lưu lạc
qua Quảng Đông để chung đụng với người dân Trung Hoa mới, ở Hồng Kông, Tích
Lan, đi Phi châu làm thợ nguội, rồi về Pháp, sống với anh em lính thợ ở
Marseille, Bordeaux và Ba Lê.
Và tôi gặp lại Triều Sơn ở Ba
Lê.
Thực ra giữa
quãng, tôi còn gặp Triều Sơn vài ba lần khác, thời gian vội vàng của một cuộc
lên bộ, nhưng cũng không có gì đáng kể. Một bữa thì anh mới ở ngoài Khu vào, và
nói chuyện về những thắc mắc tinh thần mà duy vật lịch sử không giải quyết nổi;
một bữa khác anh bàn luận về quan niệm của Trang Tử về tự do; một bữa nữa, phê
bình văn nghệ, và nói chuyện về sự truỵ lạc của người trí thức bị khoa cử đưa đến
một con đường danh lợi dễ dàng xa cách hẳn với đời sống của người dân cần lao.
Rồi Triều Sơn vào Sài Gòn làm báo, giũa ngòi bút trong những truyện ngắn, trong
những bài thơ tự do (dưới tên là Ninh Huy), hay thơ trào lộng (dưới tên Thang
Thang), hoặc tranh luận về Nghệ thuật, về
Triết lý hay về
những vấn đề xã hội. Trong khoảng này, anh viết bản kịch thơ Triều Sơn đã khéo
phù hợp cách dệt những bi kịch Hy Lạp kể sự thức tỉnh của một tâm hồn thấm nhuần
Phật học trước sự đau khổ hiện tại của cả dân tộc. Giặc Cờ đen có một cấu tạo rất
cổ điển; Triều Sơn đã khéo phù hợp cách dệt những bi kịch Hy Lạp vào xã hội của
Việt Nam và dùng lời thơ cổ phong, khi âm u, khi thâm trầm, khi dồn dập, để tả
tâm tình của các nhân vật. Tuy thế sau này, Triều Sơn có nói rằng về phương diện
thơ thì Giặc Cờ đen chỉ được có vài câu là anh vừa ý; về phương diện kịch thì sự
thành công chắc chắn hơn, nếu anh có thì giờ để thực hiện sự ra mắt của vở kịch
trên sân khấu.
Nhưng lúc ấy
Triều Sơn còn ôm trong người cái mộng lớn về Nuôi Sẹo.
Nuôi Sẹo là
gì? Tôi gặp lại Triều Sơn trong một căn phòng nhỏ hẹp, méo mó, chật sách, than và giấy ở phố Bièvre, quận Năm Ba Lê, và cũng làm quen với Nuôi
Sẹo ở đó.
Nuôi Sẹo là
nhân vật chính của một tiểu thuyết dài về xã hội Việt Nam trong buổi cuối cùng
của thời thuộc Pháp. Làm mõ làng, chuyên nghề đòi nợ thuê và chôn người. Nuôi Sẹo
là một con sâu bọ trong cái xã hội có tôn ti trật tự của một làng Bắc Việt. Triều
Sơn đã muốn nhờ con mắt của Nuôi Sẹo để tả cái xã hội phong kiến ấy, rồi lại nhờ
con người của Nuôi Sẹo để mở hé một cái quan niệm về cuộc đời.
Đây không phải
là một chuyện dễ. Một bức hoạ đồ sộ đòi hỏi công phu và thì giờ rất nhiều: Triều
Sơn để vào đó năm, sáu năm của anh, lúc nào cũng cặp chặt tập bản thảo trong
người, từ Khu ra Hà Nội, và trong tất cả những chặng đường luân lạc của anh;
xúc than nuôi lò cả ngày, buổi chiều tối lại trút bộ áo xanh của người phu tàu
ra để chữa một hai câu văn; hoặc là nằm ở Yễm Yễm thư trang, sửa lại vài đoạn
chưa được vừa ý. Lúc nào trong đầu óc anh cũng có Nuôi Sẹo; Nuôi Sẹo chưa ra đời
mà làng văn Việt Nam đã biết cả hình dáng của gã, các nhà xuất bản đã tranh nhau
đỡ đầu cho gã, đã có nhà văn Pháp hẹn với tác giả để dịch chuyện gã sang tiếng
Pháp, đã có hoạ sĩ đi tìm tài liệu để vẽ lại vài cảnh trong cuộc đời gã. Triều
Sơn cứ đắn đo, sửa chữa, xoá bỏ, thêm thắt, và để vào đây tất cả sức khoẻ của
anh, cho đến ngày không cầm được bút nữa.
Nhưng bức
hoạ xã hội không phải là cái khổ tâm chính của Triều Sơn. Cái khổ tâm chính của
Triều Sơn là Nuôi Sẹo, là con người Nuôi Sẹo, là tâm lý Nuôi Sẹo...
Thỉnh thoảng tôi đi uống nước với
Triều Sơn. Ở khu Saint-Germain-des-Prés, khu văn nghệ của Ba Lê, có một quán
café, cửa sơn màu đỏ hung, nhỏ nhắn và ấm áp, lúc nào cũng đông khách; khi nào
vào đấy thì Triều Sơn ngồi hàng giờ không đứng dậy, với một chén suc-cu-la bốn
mươi lăm quan. Tại sao Triều Sơn thích cái quán ấy, tôi không biết. Ở Ba Lê,
anh có giao thiệp với các văn sĩ Pháp Vercors, Marcel Aymé, Jean- Paul Sartre;
có lẽ vì sự gặp gỡ của anh với những nhà văn ấy thường dùng cái khung cảnh của
quán này. Cũng có lẽ rằng Triều Sơn hay tới họp ở hội Triết học cũng ở khu ấy,
đã có lần anh tới diễn giảng ở hội và khi ra về quen rẽ vào quán đó. Ngồi đấy với
Triều Sơn, tôi đã được nghe anh nói cho nghe về những vấn đề trong Nuôi Sẹo...
Hình 6: Chân
dung Triều Sơn Bùi Văn Sinh 1921-1954 [nguồn: báo Văn 15.05.1965, số Đặc biệt
Truy Niệm Triều Sơn]
Tôi biết Triều
Sơn đã xét lại tất cả văn phạm Việt Nam và có những ý nghĩ rất đặc sắc về văn
phạm. Anh không lùi khi thấy những điểm cần phải bổ khuyết cho nghề được tinh
vi. Khi dùng một chữ không chắc chắn về chính tả, Triều Sơn lại xem lại các tự
điển, và tuy đã cẩn thận, nhưng vẫn lo là bỏ sót nhiều chữ viết sai. Thích triết
học như anh, mà phải nhịn không giở một cuốn triết lý trong hằng tháng, để khỏi
tiêm nhiễm cách viết trừu tượng của các triết gia...
Triều Sơn sửa
đi chữa lại Nuôi Sẹo năm sáu lần, vẫn chưa chịu cho in. Tập đầu, lúc mới viết
xong dài 900 trang, đúc lại còn 400 trang. Triều Sơn vẫn chưa cho là đủ,
"Còn dài quá, 300 trang thôi”, anh nói. Các bạn thì sợ rằng rút quá sẽ
thành khô. Nhưng Triều Sơn chỉ hứa lần này chữa nữa là “lần cuối cùng”, rồi sẽ
đưa cho tất cả các bạn xem lại và phê bình, và rồi chữa theo những lời phê bình
ấy thôi, trước khi in. Anh nói: “Xong đây, tôi sẽ ghi lại những kinh nghiệm học
nghề của tôi thành một quyển Tôi tập viết văn”. Nhưng Nuôi Sẹo cũng chưa xong hẳn,
công việc còn dở dang thì bệnh nặng phát ra và anh phải bỏ dở mãi mãi.
Triều Sơn còn
để lại một tập truyện dài bằng thơ lục bát, vài truyện ngắn, mấy bài thơ, một
cuốn triết học nhập môn viết nửa chừng, và bản thảo của những thư từ bàn luận về
triết học và xã hội học với mấy giáo sư ở Collège de France và Sorbonne (Jean
Wahl, Aron Gurwitsch). Nuôi Sẹo đã sửa gần xong tập đầu, tập thứ hai còn là một
đống bản thảo hỗn độn. Còn tất cả những hẹn hò khác, anh mang đi, chôn sâu dưới
mảnh đất của Ba Lê... [Hết trích dẫn, Tình Thương Số 1,1-1964] (6)
Và để rồi, chẳng
thể ngờ được hơn nửa thế kỷ sau [1963-2018], tôi có dịp gặp lại Thầy Ninh, trao
lại Thầy những trang sách của truyện dài Nuôi Sẹo ngày nào, một Nuôi Sẹo Phục
Sinh, tuy không toàn vẹn nhưng với rất nhiều công lao của nhà văn Trần Hoài Thư
và anh em Thư Quán Bản Thảo.[5]
Và cũng trong
dịp này, tôi được biết thêm Triều Sơn có một người con trai còn sống ở Việt
Nam. Cô Minh Chân con gái của anh ấy gọi Triều Sơn Bùi Văn Sinh là “Ông Nội”,
thì hiện sống ở Nam California, cách đây bốn năm có lần tìm tới thăm Thầy Ninh.
Qua giới thiệu của Thầy Ninh, tôi được nói chuyện với Minh Chân, được biết thêm
tên bố cô là Nguyễn Vân Sơn sinh ngày 7 tháng 10 năm 1951 [bố cô mang họ mẹ, là
nữ sĩ Nguyễn Thị Lan Phương, sinh năm 1921, nay cũng đã mất].
Rất mong rồi ra, khi liên lạc
được với người con trai của Triều Sơn, sẽ có một ấn bản đặc biệt truyện dài
Nuôi Sẹo từ Thư Quán Bản Thảo gửi tới anh, như người thừa kế phần gia tài tinh
thần của thân phụ mà có lẽ chính anh cũng chưa được biết mặt và chỉ được nghe Mẹ kể
lại những năm về sau này. Triều Sơn Bùi Văn Sinh mất ở Paris năm 1954, do bệnh
xơ gan / cirrhosis, lúc đó Triều Sơn chỉ mới 34 tuổi.
VỚI BÁO BÁCH KHOA MỘT CHÂN DUNG
VĂN HÓA
Không chỉ qua
báo SV Tình Thương, tôi gần gũi với Gs Trần Ngọc Ninh hơn qua tờ Bách Khoa của
anh Lê Ngộ Châu, địa chỉ 160 Phan Đình Phùng Sài Gòn. Đó là một chân dung Trần
Ngọc Ninh khác, trong lãnh vực văn hóa.
Được đọc những
bài viết của Gs Trần Ngọc Ninh trên báo Bách Khoa,[7] tiếp cận với con người
văn hóa rất đa dạng của Thầy Ninh qua những bài viết với nhiều thể loại: tôn
giáo như Đức Phật giữa chúng ta, Đức Phật và sự Cải tạo Xã hội, nhân chủng học
với Claude Lévi- Strauss, dân tộc học qua những huyền thoại và huyền thoại lí học
và cả về ngữ học, như bàn luận về cơ cấu và ngôn ngữ, ông đã rất sớm giới thiệu
Noam Chomsky với những phát kiến về Ngữ học Cơ Cấu
/ Structural Linguistics, với
lý thuyết về một Ngữ pháp Hoàn vũ / Universal Grammar và để rồi ông không ngừng
theo đuổi và tìm cách ứng dụng để soạn bộ Ngữ Pháp Việt Nam sau này. (8)
Gs Trần Ngọc
Ninh không chỉ là một giáo sư Y khoa lỗi lạc, ông còn là một nhà văn hóa kiến
thức rộng trải rộng trên nhiều lãnh vực, một mẫu mực đào tạo trí thức theo quan
niệm giáo dục cổ điển Âu châu. Là giáo sư Y khoa, ông còn được mời đảm trách giảng
dạy môn Văn minh Đại cương và Văn Hóa Việt Nam cho Đại học Vạn Hạnh của Thích
Minh Châu, và có bài viết trên Tập san Tư Tưởng.
MỘT TRÍ THỨC THUYỀN NHÂN
Biến cố 1975,
một cuộc đổi đời lần thứ hai kể từ sau ngày phân chia đất nước với Hiệp định
Genève 1954.
Sau 1975, vẫn
các giáo sư gốc di cư từ miền Bắc vào Nam còn ở lại như Gs Phạm Biểu Tâm, Gs Trần
Ngọc Ninh, Gs Hoàng Tiến Bảo, Gs Nguyễn Đình Cát... Các Thầy nay tuổi đã cao, mỗi
ngày phải đi làm bằng xe đạp tới bệnh viện hay xa hơn tới trường Y khoa trên đường
Hồng Bàng, Chợ Lớn. Cũng vẫn các Thầy ngoài việc chăm sóc bệnh nhân và giảng dạy
cho sinh viên, từ nay còn phải làm thêm việc của y công như lau quét các phòng
vệ sinh và cả đổ rác. Không làm sao mà quên được cảnh tượng một Gs Phạm Biểu
Tâm phải lau chùi cầu tiêu bị té ngã bầm dập ở bệnh viện Bình Dân. Thầy Tâm rất
sợ Cô lo, nên dặn dò không báo tin cho Cô biết.
Như từ
bao giờ, trong mọi hoàn cảnh các Thầy vẫn luôn giữ được nhân cách cao trọng của
người trí thức, không phát biểu những lời xưng tụng chế độ mới. Các Thầy cũng
không thể không não lòng khi hàng ngày phải chứng kiến trình độ dốt nát của nền
y tế nhân dân qua những buổi hội chẩn hay giao ban cùng với các ông y sĩ cách mạng
phần đông chưa qua hết bậc trung học “chỉ có hồng mà không chuyên” nhưng rất
huênh hoang từ ngoài Bắc vào hay từ trong rừng ra.
Điển hình là trong một buổi
sáng giao ban tại bệnh viện Bình Dân sau 1975, bác sĩ Lê Quang Dũng một cựu nội
trú bệnh viện lâu năm kể lại, là khi anh Dũng báo cáo về một trường hợp mổ áp xe vú,
thì bị một bác sĩ quân quản Việt cộng vặn hỏi: “Tại sao anh lại cho mổ áp xe
vú?” Bs Dũng đáp: “Tại vì áp xe vú có mủ nên phải mổ dẫn lưu.” Dũng đã bị họ mắng:
“Anh dốt quá, ở chiến khu tôi nhai lá sống đời xong rồi đắp lên vú thì 5 phút
sau áp xe biến mất, không phải mổ gì cả.” Các Giáo sư Phạm Biểu Tâm, Trần Ngọc
Ninh, Hoàng Tiến Bảo cùng có mặt trong buổi giao ban, chỉ biết ngao ngán lắc đầu. (3)
[tư liệu Viễn Phố]
[tư liệu Ngô Thế Vinh]
Phải sống trong nghịch cảnh và chứng kiến những ngày ảm đạm như thế, Gs Trần Ngọc Ninh đã có lần phát biểu với các sinh viên giọng chua chát và khinh mạn: “Hội chẩn với mười con số không cộng lại thì vẫn là zéro.”
Giáo sư Vũ Quí Đài vị khoa trưởng
cuối cùng của Y khoa Sài Gòn, còn nhớ là khi ban Quân quản Việt cộng đến tiếp
thu trường Y khoa, họ triệu tập một buổi họp gồm sinh viên và cả ban Giảng huấn
nơi đại giảng đường gọi là để trấn an nhưng với giọng điệu đầy huênh hoang và cả hăm dọa,
Gs Vũ Quí Đài kể: “Lúc ấy Gs Trần Ngọc Ninh ghé tai tôi nói nhỏ một câu lẩy Kiều:
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu” (3)
Hình 11: Bìa tác phẩm Ước Vọng Duy Tân. Văn Hóa, Huyền Thoại, Văn Học Sử. Tuyển tập Trần Ngọc Ninh; chủ biên Trần Uyên Thi; Viện Việt Học, California Hoa Kỳ 2012.
Hãy nghe giáo sư Trần Ngọc Ninh
tâm sự:
“Trên bình diện khoa học, sau
khi Bắc Việt đã chiến thắng được miền Nam rồi, cuộc đấu tranh mới bắt đầu giữa
Y khoa khoa học của miền Nam và Y khoa nhân dân của miền Bắc. Trong cuộc đấu
tranh này, nhân dân là nạn nhân, nhưng cũng là tòa án, tòa án nhân dân. Giải
thưởng là tương lai sức khỏe của Việt Nam. Sức khỏe cùng nghĩa với sức lao động.
Chủ nghĩa không che lấp được sự thật...
Năm 1977, sau
khi nghe được lệnh của các vị lãnh đạo y học miền Bắc rằng từ nay không được dạy
y lý nào “cao” không thể áp dụng ở Việt Nam như biến hóa của nước và các chất
điện giải hoặc pháp dùng thuốc kháng sinh với những kháng sinh sau đời
penicillin, hoặc những phẫu thuật quá cầu kỳ khó khăn, tôi mạn phép nói ra ở đầu
lớp bệnh lý phẫu khoa của tôi: “Đây là lần cuối cùng và các anh chị em là những
sinh viên cuối cùng mà tôi giảng Y khoa khoa học. Từ sang năm tôi sẽ chỉ giảng
Y khoa nhân dân. Và anh chị em cố gắng mà theo. Đừng quên rằng mình là những
người thừa tự chót của Y khoa khoa học.”
Sinh viên Nguyễn
Chí Công [trước 1975 là sinh viên cộng sản nằm vùng, bị bắt giam ở Chí Hòa, đã
được chính Gs Ninh vào thăm can thiệp và được trả tự do, năm 1976 Công trở lại
trường Y phụ trách cai quản sinh viên], khi nghe được những lời nói ấy, Công dự
định lập “Tòa án Nhân dân” để hạch tội tôi. Không phải vì thế mà tôi rời Việt
Nam”.
Gs Ninh nhận định
tiếp: “Do nhận thức được toàn bộ chính sách của đảng Cộng sản Việt Nam chỉ là sự
mạo danh xã hội chủ nghĩa, đưa nhân dân Việt Nam vào một kiếp đau khổ ngàn đời.
Và điều tệ hại hơn nữa là ‘Đảng và Nhà Nước muốn cưỡng chiếm Y khoa khoa học để
dành riêng cho cán bộ, còn Y khoa nhân dân là để cho nhân dân’.” (6)
Và rồi rất sớm,
chỉ hai năm sau ngày 30/4/1975 vào ngày 6 tháng 6 năm 1977, Gs Trần Ngọc Ninh
đã cùng gia đình xuống thuyền vượt biển tìm tự do, giữa lúc ông được chúc mừng
là một trong số bốn người được Hội Đồng Chính Phủ giữ lại ở chức vụ Giáo sư với
lương bổng cao nhất.
Hình 13: Bìa Một chút lịch sử Y khoa Đại học đường Sài Gòn 1954-1975. Trần Ngọc Ninh, Hội Y Sĩ Việt Nam tại Canada xuất bản 2002. (tr. 38-39, đề cập tới hai nền Y Khoa từ sau 1975: Y Khoa Khoa Học của miền Nam & Y Khoa Nhân Dân của miền Bắc).
[tư liệu Ngô Thế Vinh] (6)
Cuối cùng ông
và gia đình tới được đảo Pulau Besar, Mã Lai, và ông chọn đi định cư tại Hoa Kỳ
để phải bắt đầu lại từ đầu, thay vì đi Pháp là nơi mà ông đã được đào tạo và
thành danh.
Sự bỏ đất nước
ra đi rất sớm của một khuôn mặt trí thức lớn như ông lúc đó đã gây ra một chấn
động nơi giới lãnh đạo Hà Nội và trên toàn trí thức miền Nam thời bấy giờ.
Hình 14: Làm Gì?
một cuốn sách viết về chính trị (1979) mà Gs Trần Ngọc Ninh không muốn được nhắc
tới. Là một giáo y khoa với tiếng tăm quốc tế nhưng khi tới Mỹ như một bác sĩ
ngoại quốc, ông vẫn phải khởi nghiệp từ đầu. Giữa thời gian đèn sách, ông vẫn
có hùng tâm hoàn tất một tập luận đề chính trị trên 300 trang, với ghi chú nơi
cuối sách: “Viết xong lúc giữa trưa ngày 24 tháng 3 năm 1979 tại Trường Sơn của
Mỹ Châu” (Rocky Mountains Ranges Denver, Colorado). [tư liệu Ngô Thế Vinh]
DẬT SỰ BÌNH TRÀ NGUYỄN TUÂN
Tôi tới Mỹ sau
Thầy Ninh hơn 6 năm, nhưng rồi cả hai thầy trò sau một thời gian đèn sách trước
sau cũng trở lại nghề cũ. Từ New York, tôi về làm việc trong một bệnh viện VA ở
vùng nam California, tuy bận rộn nhưng thỉnh thoảng vào mấy ngày cuối tuần tôi
vẫn có dịp được gặp Thầy.
Trong một buổi
gặp ở nhà anh Võ Phiến, cây tùy bút nổi tiếng của miền Nam từ trước 1975, lúc ấy
anh Võ Phiến còn ở trên Los Angeles; anh thú vị đem ra khoe chiếc bình trà của
Nguyễn Tuân. Võ Phiến rất quý Nguyễn Tuân. Đặng Tiến đã được Nguyễn Tuân tặng chiếc bình
trà sau bao năm quen dùng. Sau đó cũng Đặng Tiến tặng lại Võ Phiến trong một
chuyến anh chị sang Pháp năm 1987, cùng năm Nguyễn Tuân mất ở Hà Nội.
Chiếc bình trà
nhỏ giản dị bằng sứ tráng men xanh, nơi mặt đáy có in chữ Tonkin như vậy đã khá
lâu năm, trông rất tầm thường nhưng là của Nguyễn Tuân. Một Nguyễn Tuân với những
trang tùy bút mượt mà của Vang Bóng Một Thời, của Chén trà trong sương sớm với
nhân vật cụ Ấm, có phong cách uống trà gần như một thứ trà đạo.
Giữa hai chén trà nước đầu, cụ Ấm
nói với người con trưởng:
“Cả ạ, thầy
cho nước pha trà không gì thơm lành bằng cái thứ nước đọng trên lá sen. Mỗi lá
chỉ có ít thôi. Phải gạn vét ở nhiều lá mới đủ một ấm. Hồi thầy còn ít tuổi, mỗi
lúc được quan Đốc truyền cho đi thuyền thúng vớt những giọt thủy ngân ấy ở lá
sen mặt đầm, thầy cho là kỳ thú nhất trong đời một người học trò được thầy học
yêu như con...
Rồi cụ Ấm liền
than tiếc đến cái mùa thu đã đi qua mất rồi, để sen hồ rách hết tàn rũ hết lá.”
[hết trích dẫn, Vang Bóng Một Thời]
Đó là
văn phong Nguyễn Tuân thời tiền chiến, của một thời vang bóng.
*
Để rồi
tới kháng chiến, là một Nguyễn Tuân hóa thân; rất biết sợ bạo quyền để tồn tại,
mau chóng xu thời để được vào đảng, rồi leo lên tới chức Tổng thư ký hội Văn
nghệ Việt Nam. Chưa dừng ở đó, trong đợt chỉnh huấn cải cách ruộng đất, Nguyễn
Tuân còn hăng hái viết bài tự kiểm thảo “Nhìn rõ sai lầm” quyết tâm đoạn tuyệt
với quá khứ lãng mạn tiểu tư sản, dứt khoát chối bỏ đứa con tinh thần Vang Bóng
Một Thời, đã làm nên tên tuổi Nguyễn Tuân. Sau đó là một Nguyễn Tuân đã biết vận
dụng văn tài để hết lời ca ngợi thiên đường xã hội chủ nghĩa.
Nếu với Vang
Bóng Một Thời, Nguyễn Tuân được ca ngợi như một bậc thầy của thể văn tuỳ bút
trong văn học Việt Nam, thì sau này với những bút ký hết lòng phục vụ Đảng và
chủ nghĩa xã hội, Nguyễn Tuân cũng chỉ đáng được xếp là một cây bút tuyên huấn
hạng hai. Nguyễn Tuân còn được nhớ và nhắc tới với câu nói: “Tôi còn sống được
đến hôm nay là nhờ biết sợ...”
Người bạn tấm
cám Nghiêu Đề kể lại, sau 1975 khi Nguyễn Tuân vào Sài Gòn, tới Hội Văn Nghệ
Thành Phố, khi thấy Vang Bóng Một Thời được Nxb Cảo Thơm 1962 in tuyệt đẹp với
những tranh minh hoạ của Nghiêu Đề, thì đó là một Nguyễn Tuân hả hê về cuộc hội
ngộ với đứa con tinh thần mà ông ta đã hơn một lần dứt khoát chối từ.
Bình trà nhỏ
mà Gs Trần Ngọc Ninh đang cầm trên tay ngắm nghía kia, không phải của cụ Ấm với
Chén trà trong sương sớm, mà là của một Nguyễn Tuân theo kháng chiến, mỗi ngày
đã rót ra những chén đắng trong suốt hành trình bi kịch của hơn nửa đời người.
MỘT CHÚT RIÊNG TƯ
Năm
2004, khi bản tiếng Anh the Green Belt của cuốn Vòng Đai Xanh do Nxb Ivy House xuất bản,
Gs Trần Ngọc Ninh đã viết:
Hình 16: Hình
trái, bìa The Green Belt, bản tiếng Anh cuốn Vòng Đai Xanh do Ivy House, USA xuất
bản 2004; giữa, bìa Vòng Đai Xanh, Nxb Thái Độ Sài Gòn 1970; phải, bìa sách
song ngữ Vòng Đai Xanh / The Green Belt, Nxb Văn Học Press & Việt Ecology
Press 2020. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Sau khi tốt
nghiệp Y khoa, là bác sĩ Mũ Xanh của một đơn vị Biệt Cách Dù chủ yếu hoạt động
trong vùng núi rừng Cao nguyên Trung phần. Vòng Đai Xanh là bối cảnh về cuộc
chiến tranh Việt Nam trên vùng cao nguyên với cảnh thật, người thật, và “thật
hơn nữa” là nỗi thống khổ của các sắc dân Thượng giữa cuộc chiến tranh và ngay
sau cuộc chiến. Và chúng ta không thể nào quên là hòa bình bi thảm ra sao đối với
phe bại trận tiếp theo sau một cuộc chiến tranh ý thức hệ. Vòng Đai Xanh là một
công trình của lương tâm và dấn thân can đảm. Ngay khi xuất bản lần đầu tiên,
cuốn sách đã được giới trí thức miền Nam đón nhận rộng rãi và tán thưởng nhưng
đồng thời cũng bị chính quyền miền Nam lên án là phá hoại.
Bây giờ đã 30
năm sau cuộc chiến tranh chấm dứt, một ấn bản tiếng Anh rất tuyệt của Nha Trang
và Pensinger chắc chắn sẽ lại được đón nhận rộng rãi, bởi vì vấn đề sống còn của
các sắc dân Thượng trên Cao nguyên Trung phần được đề cập tới trong Vòng Đai
Xanh vẫn còn nguyên tính thời sự của hôm nay.
Đối với người
Việt, thì thảm kịch của thời đại chúng ta là mọi cuộc chiến tranh hôm nay và cả
trong tương lai đều mang mầm mống hủy hoại mà Vòng Đai Xanh như một điển hình
đa diện và ở nhiều mức độ khác nhau. Những sắc dân Thượng ấy đã không có tiếng
nói. Đến bao giờ thì “tiếng nói thầm lặng” của họ mới thực sự được lắng nghe? [Trần Ngọc Ninh, Viện Việt Học, tác giả Tuyết Xưa]
Sau này, khi có một tác phẩm mới sắp ra mắt, tôi đều có gửi biếu
Thầy Ninh và xin một nhận xét, Thầy đã thẳng thắn từ chối với một câu trả lời:
“Vinh bây giờ đã thành danh và không cần thêm lời giới thiệu của tôi nữa.” Tôi
lãnh hội ý Thầy với tất cả sự khiêm cung và biết ơn.
MỘT ĐỊNH MỆNH SINH HỌC
Khác với thời
tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, dấn thân vào chính trị và cả đảng phái, nay sắp bước
vào tuổi bách niên, tôi ngỏ ý viết về Gs Trần Ngọc Ninh và có cảm tưởng với Thầy
Ninh, chính trị nay như một giai đoạn đã vượt qua và Thầy chỉ muốn được nhắc
tới như một “chân dung văn hóa”.
Nói về văn
hóa, Gs Trần Ngọc Ninh đã chọn một trích đoạn trong Tuyết Xưa [tr.100]: “Đối với
các cộng đồng người, văn hóa vừa là một dấu hiệu để nhận nhau và phân biệt ‘kẻ-kia’
vừa là một dụng cụ để giảng giải và hướng dẫn sự sống của đoàn thể trong cái
phong cảnh thiên nhiên mà họ đã làm chủ.” (2)
Viết về
Gs Trần Ngọc Ninh chắc phải cần tới hơn một cuốn sách. Cũng nhân đây gợi ý với
các bạn trẻ trong và ngoài nước, đang chuẩn bị luận án tiến sĩ, thì chân dung
văn hóa của Gs Trần Ngọc Ninh là một đề tài rất phong phú và hấp dẫn để các bạn
khám phá dấn thân vào.
Như một tâm sự
cuối đời, khi trả lời Trần Uyên Thi, một môn sinh rất trẻ sau này ở Viện Việt Học,
Gs Trần Ngọc Ninh phát biểu:
“Đến nay tuổi đã lớn rồi [89 tuổi, ở thời điểm 2012], lại càng thấy rằng sự hiểu biết, sự biết, và cả sự thấy của mình chỉ ở bề mặt nông cạn của các hiện tượng (trong đó có lịch sử, khoa học), và đó là cái thân phận sinh học của con người trên mặt đất này”. (1)
Giáo sư Trần
Ngọc Ninh đã ra đi thanh thản ở tuổi 103 vào ngày 16 tháng 7 năm 2025 tại Bệnh
viện Hoag, thành phố Newport Beach, miền Nam California. Tin tức về sự
qua đời của giáo sư chỉ được gia đình thông báo hai tuần sau đó, theo đúng nguyện
vọng của thầy về một tang lễ Phật giáo vô cùng đơn giản, được tổ chức riêng tư trong phạm vi gia đình. Không có cáo phó,
không có điếu văn, và gia đình đã thực hiện đúng những gì thầy mong muốn. Thầy
được an táng tại nghĩa trang Loma Vista Memorial Park, thành phố
Fullerton, cách Little Saigon khoảng 20 km, bên cạnh phần mộ của người vợ quá
cố, mất vào năm 2020 trong thời kỳ đại dịch Covid-19. Bia mộ của
thầy rất giản dị, không ghi học hàm hay danh hiệu – chỉ khắc tên thầy và pháp danh
“Orgyen Karma, biểu tượng cho hoạt động giác ngộ”.
Hình 17: Bia mộ của Giáo sư Trần Ngọc Ninh. [photo by Dr. Nghiêm Đạo Đại, thứ Hai, ngày 11 tháng 8 năm 2025, tư liệu của Việt Nguyên]
NGÔ THẾ VINH
Hà Nội 1954 - Sài Gòn 1975
California, July 11, 2018
– August 16, 2025
[
CREATIVE WORLD OF SOUTH VIETNAM
&
OVERSEAS TO THE PRESENT VOL.2 ]
Tham Khảo:
1/ Ước
Vọng Duy Tân / A Dream for Vietnam. Tuyển Tập Trần Ngọc Ninh. [chủ biên Trần
Uyên Thi]; Viện Việt Học xuất bản 2012
2/ Tuyết Xưa;
Tuyển tập các Vấn đề Văn hóa Việt Nam, Nxb Khởi Hành California Hoa Kỳ 2000
3/ Giáo
sư Bác sĩ Phạm Biểu Tâm, Biểu tượng của Y đạo Y học Y thuật. Tập San Y Sĩ
Canada 201, tháng 5/2014
4/ Mười lăm năm ấy, Kỷ niệm về
Triều Sơn [Trần Ngọc Ninh, với bút hiệu Trần Ngọc], Nguyệt san Tình Thương, số
1, tháng 1/1964.
. 5/ Nhà Văn Triều
Sơn (1921-1954). Trần Hoài Thư, Thư Quán Bản thảo, số. 77, tháng 11/2017
6/ Một Chút Lịch sử Y khoa Đại
học đường Sài Gòn. Trần Ngọc Ninh, et al. Hội Y Sĩ Việt Nam tại Canada 2002
7/ Tạp
chí Bách Khoa: Thư Viện Người Việt Online
8/ Thư
tịch của GS Trần Ngọc Ninh. Phạm Lệ Hương, Ban Thư viện Viện Việt Học
18/04/2020