Giới thiệu :
Phạm Phú Minh
Trong thế kỷ 19, Việt Nam đã nếm trải bao nỗi
cay đắng trước sự xâm lăng bằng vũ lực mà một triều đình nhà Nguyễn mặc dù đã rất
vững chãi với một lãnh thổ lần đầu tiên rộng lớn nhất trong lịch sử kéo dài từ ải
Nam Quan đến mũi Cà Mau, đã cuối cùng cũng phải mất nước trước kẻ cướp đến từ
phương Tây. Nếu phải chọn một nhân vật Việt Nam điển hình đã trực tiếp đương đầu
với cái kịch bản đấu trí đấu lực suốt cái quá trình đau khổ ấy, thì thiết nghĩ
không ai khác hơn là Phan Thanh Giản. Ông đã phục vụ suốt ba triều Minh Mạng (1820 – 1839), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1847-1883), đặc biệt trong
triều Tự Đức ông đã nổi lên như một rường cột chính phục vụ quốc gia cho đến
hơi thở cuối cùng, để thấy đời ông cũng chính là hình ảnh cái bi kịch của nước
ta khi chống chọi với sự xâm lăng của người Pháp.
Sau
khi quân Pháp đã chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, ông Phan Thanh Giản là người
được vua Tự Đức cử làm chánh sứ, Lâm Duy Hiệp làm phó sứ đi vào Gia Định thương
thuyết với Pháp để nghị hòa. Kết quả là hòa ước Nhâm Tuất 1862 đã được ký kết,
Việt Nam nhượng cho Pháp ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định và Định Tường. Theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, vua
Tự Đức bất đắc dĩ phải chấp nhận hòa ước Nhâm Tuất nhưng trong bụng vẫn muốn cố
hết sức để chuộc lại vì đất Gia Định là đất khai nghiệp của nhà Nguyễn và lại
là đất quê ngoại của nhà vua. Chính vì lý do này mà năm 1863 vua Tự Đức mới cử
một phái đoàn Việt Nam gồm Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản qua tận
Pháp để thương thuyết chuộc lại ba tỉnh ấy. Nhưng đã gọi là thực dân, đã chiếm
được đất của người ta rồi, làm sao có chuyện trả lại! Không trả lại, mà còn lấy
thêm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ và đưa đến cái chết bi tráng của Phan Thanh Giản.
Chúng
ta đều biết bản án mà triều đình Huế dành cho Phan Thanh Giản sau khi Pháp chiếm
nốt ba tỉnh miền Tây và ông đã tuẫn tiết : tước
bỏ hết quan tước và đục xóa tên trong bia tiến sĩ. Một đời làm quan suốt ba
triều nhà Nguyễn, nhiều lần xin rút lui vì tuổi già sức yếu mà vua khăng khăng
không chấp thuận, bắt phục vụ cho đến giây phút cuối cùng, để rồi sau cái chết
đã bị xóa trắng bao công sức mà suốt đời ông đã bỏ ra cho vua, cho dân, cho nước.
Bi kịch ấy của cuộc đời Phan Thanh Giản rất thấm thía trong lịch sử nước ta, mà
các thế hệ về sau đã ra công điều chỉnh để giữ gìn công đạo của một dân tộc có
lương tâm.
Nhưng
ít ai biết ngay trong thời gian xảy ra vụ án này, ngay giữa triều đình Tự Đức,
đã có một tiếng nói cất lên để bênh vực ông. Đó là bài điếu văn của Phạm Phú Thứ
viếng Phan Thanh Giản. Đúng hơn đây là một tài liệu mượn hình thức là điếu văn
để khẳng định bao công lao, mưu lược, tài kinh bang tế thế của vị lão thần Phan
Thanh Giản, dù tuổi già sức yếu đã mấy lần xin về hưu, đã bị nhà vua khư khư
đưa ra tuyến đầu đại diện cho triều đình để đương đầu với một thế lực cướp nước
quá hùng cường. Gọi là điếu văn mà không có một tiếng khóc Ô Hô!, không một từ ngữ đã thành sáo ngữ để tưởng niệm người quá cố.
Trái lại, như một bài chính luận đanh thép nhằm đặt để lại giá trị của vị lão
thần đã đem hết sức tàn lực kiệt để lo cho nước, và đã được “trả ơn” bằng một bản
án có thể gọi là bất nhân, bất cận nhân tình. Với bản án đó, sau khi chết, cụ
Phan Thanh Giản ra đi tay trắng, chẳng còn một sự nghiệp “hợp pháp” nào để lại
cho người đời và con cháu.
Trước
cái án rất nặng nề mà Phan Thanh Giản nhận lãnh từ nhà vua và triều đình, bỗng
dưng có một tiếng nói cất lên bênh vực ông, đi ngược hẳn với những khẳng định từ
tầng lớp tối cao của đất nước. Một sự kiện bất thường trong chế độ phong kiến,
rất đáng để đời sau tìm hiểu lý do.
Sau
đây chúng tôi xin giới thiệu bài “văn tế chính luận” ấy của Phạm Phú Thứ, đầy đủ
nguyên tác bằng Hán văn, đã được nhà biên khảo Nguyễn Duy Chính phiên âm, ghi
chú và dịch sang tiếng Việt.
Phan Lương Khê Công
(寄輓原南圻經畧大臣潘梁谿公 )
***
Nguyễn Duy Chính phiên
dịch
Đây là bản dịch của bài văn tế cụ Phan Thanh Giản do Phạm
Phú Thứ viết sau khi cụ Phan Thanh Giản từ trần.
Phạm Phú Thứ biệt hiệu Giá
Viên chính là giáp phó sứ trong phái đoàn Phan Thanh Giản khi sang Pháp điều
đình việc chuộc lại ba tỉnh miền đông Nam Kỳ bị mất về tay người Pháp.
Bài văn tế này đã xuất hiện ở nhiều nơi nhưng vẫn ít người
biết đến. Trong bản dịch này chúng tôi tham khảo:
1.
Bản chữ Hán (viết tay) trích từ tập 11 trong Giá
Viên Toàn Tập (GVTT) (do Phạm Phú Viết giới thiệu là Tư Liệu Nội Bộ trong gia tộc
Phạm Phú) từ trang 89-99. Bản này do giáo sư Phạm Phú Minh cung cấp.
2.
Bản
chữ Hán trích từ tác phẩm Phan Thanh Giản 1796-1867 et sa famille d’après
quelques documents annamites do Pierre Daudin và Lê Van Phuc soạn. (Saigon:
Imprimerie de l’Union, NG.-V.-CUA, 1941). Ngoài ra có bản dịch bằng tiếng Pháp,
chú giải kỹ lưỡng nhan đề Elégie composée en 1867 par Pham-phu-Thu a la mémoire
de S. E. Phan-thanh-Gian dit Phan-luong- Khê, ex-Vice-Roi de Cochinchine (Điếu
văn để truy niệm ngài Phan Thanh Giản tự Phan Lương Khê, cố tổng đốc Nam Kỳ)
3.
Bản
phiên âm và dịch trích từ quyển 7 trong Kinh Hương thi lục, Phạm Phú Thứ toàn tập
(PPTTT) (nxb Đà Nẵng, 2014) từ trang 749-757. Rất tiếc bản này không có nguyên
văn chữ Hán.
Theo lời đề trong
bản dịch tiếng Pháp (Daudin) thì bản chữ Hán được cung cấp bởi chính gia đình cụ
Phan Thanh Giản (document communiqué par la famille de Phan-thanh-Gian) tuy có
một vài chỗ hơi khác với bản của gia tộc họ Phạm Phú nhưng chúng tôi vẫn coi là
một văn bản có giá trị, nhất là đã được chấm câu kỹ lưỡng, phù hợp với ý nghĩa
của toàn văn, liên hệ với thời cuộc.
Chính bản chép
tay của họ Phạm Phú cũng có một hai chữ có thể đã thay đổi khi sao chép, làm ý
nghĩa câu văn bị khác đi. Ngoài ra, tình hình lúc bấy giờ rất nhiễu nhương, đa
sự nên những chi tiết mà Giá Viên Phạm Phú Thứ đề cập đến thật cũng không dám
chắc là chỉ vào việc gì, chẳng hạn hai chữ nội hồng (內訌) mà Daudin dịch là “đấu đá nội bộ” (querelles intestines) không biết có phải
nhắc đến việc vua Tự Đức tranh chấp với anh ruột là Hồng Bảo gây ra cái “loạn
chày vôi” không?
Có lẽ đây là một
bản “văn tế” rất khác thường, tưởng như là một bản trường thi nói về tình thế ẩn
dấu nhiều bi phẫn, đôi lúc bất toại chí của những đại thần kêu gọi canh tân
nhưng triều đình không đáp ứng. Có lẽ đặt tên cho nó là « văn tế » chỉ
là một cách ngụy trang để cụ Phạm biện minh cho cụ Phan, trong lúc từ vua cho đến
triều thần đã kết tội rất nặng nề.
Bài văn này có ưu
điểm là cụ Phạm Phú Thứ không dùng điển tích Trung Hoa mà dùng toàn việc xảy ra
trong nước mình. Tuy văn tế mà đọc rất bi tráng, nhất là cụ Phạm kể lại những
« đấu tranh ngoại giao »; khi cùng đi với cụ Phan sang Pháp.
Bản dịch này là một
công trình tổng hợp do tài liệu từ giáo sư Phạm Lệ Hương, giáo sư Phạm Phú Minh
và nhất là sự tiếp tay rất chu đáo của nghĩa đệ Nguyễn Vũ.
Nguyễn Duy Chính
11-2020
TEXTE CHINOIS
(NDC) |
PHẠM PHÚ THỨ TOÀN
TẬP |
BẢN DỊCH (NDC) |
寄輓原南圻經畧大臣潘梁谿公 |
Ký Vãn Nguyên Nam Kỳ Kinh Lược Đại Thần Phan Lương Khê Công |
|
佛郎之國雄西方 |
Phật lang chi quốc[1]
hùng Tây phương |
Phật Lang (France) là nước hùng mạnh ở phương
Tây |
與我遠隔九萬里[之]重洋 |
Dữ ngã viễn cách
cửu vạn lý [chi] trùng dương |
Xa cách nước ta trùng dương chín vạn dặm |
何年濟師恃有舊 |
Hà niên tế sư thị
hữu cựu |
Năm nào đã đem quân lấy cớ chuyện cũ |
來請弛禁兼通商 |
Đến xin bỏ lệnh cấm [đạo] và để cho hai bên
buôn bán |
|
再三投書不得志 |
Tái tam[4]
đầu thư bất đắc chí |
Mấy lần gửi thư nhưng không toại nguyện |
狡焉嘯黨站據茶山傍 |
Giảo yên khiếu đảng
trạm cứ Trà Sơn bàng |
Xảo quyệt gọi những kẻ cùng bầy đến đóng chiếm
bên cạnh Trà Sơn |
和榮軍次屢見挫 |
Hòa Vang[5]
quân thứ lũ kiến tỏa |
Quân của ta ở Hoà Vang nhiều lần bị khốn khó |
彼則爭利非爭長 |
Bỉ tắc tranh lợi
phi tranh trường |
[Nhưng] phía bên kia chỉ tranh lợi chứ không
tính chuyện lâu dài |
三年一旦棄之去 |
Tam niên nhất đán
khí chi khứ [6] |
Sau ba năm một sớm bỗng bỏ đi |
他船復闖牛江渚 |
Thuyền của chúng quay lại xông vào Bến Nghé |
|
大屯終始亦三年 |
Đại đồn[9]
chung thủy diệc tam niên |
Đồn lớn [của ta] trước sau được ba năm |
和則不成戰莫禦 |
Hòa tắc bất thành
chiến mạc ngự |
Hoà thì không xong mà đánh thì không giữ nổi |
於是嘉定與邊祥 |
Ư thị Gia Định dữ
Biên, Tường |
Vì thế nên Gia [Định] cùng Biên [Hoà], [Định]
Tường |
遂為封豕長蛇倂呑據 |
Đều bị quân hung dữ tham lam kia lấy mất |
|
屈指軍興五稔申 |
Khuất chỉ quân
hưng ngũ nẫm thân [12] |
Bấm ngón tay việc dùng binh đã kéo dài năm mùa |
殺人糜帑國幾空 |
Sát nhân mi thảng
quốc cơ không |
Chết nhiều người mà kho đụn của quốc gia trống rỗng |
九重憂勞將臣恥 |
Cửu trùng ưu lao
tướng thần sỉ |
Nhà vua thì lo lắng, khó nhọc còn tướng lãnh bầy
tôi thì hổ thẹn |
豈虞小醜生內訌
|
Khởi ngu tiểu xú
sinh nội hồng [13] |
Trong khi đang có chuyện lo thì trong nước lại
có loạn |
北匪乘虛蠢動 |
Bắc phỉ thừa hư
xuẩn nhiên động [14] |
Giặc ở phía bắc nhân kẽ hở mà nổi lên |
海安西北處處如屯蜂 |
Hải Yên Tây Bắc xứ
xứ giai đồn phong |
Các xứ Hải [Dương], [Quảng] Yên, [Sơn] Tây, Bắc
[Ninh] đều ùn ùn như bầy ong |
|
Thị thời tinh bột[16]
kiêm hạn thủy |
Khi đó thì có sao chổi lại thêm hạn hán lũ lụt |
自午至戌無歲止 |
Tự ngọ chí tuất
vô tuế chỉ |
Từ năm [Mậu] Ngọ (1858) đến năm [Nhâm] Tuất
(1862) không năm nào là không có |
運道倂為梗 |
Vận đạo tính vi
ngạnh |
Đường sá đều tắc nghẽn |
洋氛正如燬 |
Dương phân chính
như hủy |
Giặc bể thì lại ầm ầm |
通山改漕更不效 |
Thông sơn cải tào
cánh bất hiệu |
Dùng đường núi hay đổi cách chở thuyền đều
không hiệu quả |
向匱民饑亂未弭 |
Hướng quỹ dân cơ
loạn vị nhị |
Lương hết, dân đói loạn không ngừng |
朝廷服暴非佳兵 |
Triều đình phục bạo
phi giai binh |
Triều đình dẹp giặc nhưng không có lính giỏi |
機苟可乘利傾否 |
Cơ cẩu khả thừa lợi
khuynh phủ |
Thời cơ đưa đến liệu có nghiêng đổ chăng |
忽焉議和自戎始 |
Hốt yên nghị hòa
tự nhung thủy |
Bỗng dưng từ bên địch đưa ra ý bàn chuyện hoà |
我則應之豈獲已 |
Ngã tắc ứng chi
khởi hoạch dĩ |
Ta phải hùa theo để nắm lấy |
公與林公奉旨充全權 |
Công dữ Lâm công
phụng chỉ sung toàn quyền |
Ngài và ông Lâm [Duy Hiệp] nhận lệnh làm toàn quyền |
量辰度力實憂天 |
Lượng thời đạc lực
thực ưu thiên |
Tính thời, đo sức thật lo chuyện trời sập |
河靳既失之三省 |
Hà cận ký thất
chi tam tỉnh[17] |
Gần đây đã mất đi ba tỉnh |
與四百萬之銀元 |
Dữ tứ bách vạn
chi ngân nguyên[18] |
Cùng với bốn trăm vạn đồng tiền |
鷹鸇一飽宜颺去 |
Ưng chiên nhất bão
nghi dương khứ |
Chim ưng tưởng no rồi sẽ bay đi |
蛇龍之蟄方圖存 |
Xà[19]
long chi trập phương đồ tồn |
Rắn lớn náu mình ắt còn ở lại |
強兵猛將轉而北 |
Cường binh mãnh
tướng chuyển nhi bắc |
Binh mạnh, tướng giỏi đưa về bắc |
公私商載從此離燒燔 |
Công tư thương tải
tòng thử ly thiêu phiền |
Buôn bán qua lại công tư từ nay không còn bị đốt
phá |
北征將士遂戳力 |
Bắc chinh tướng
sĩ toại lục[20]
lực |
Tướng sĩ ra đánh ở miền bắc lại cũng phải cố hết
sức |
募勇援剿益軍實 |
Mộ dũng viện[21]
tiễu ích quân thực |
Mộ binh dũng để tiếp tay tiễu trừ cốt giữ sức
cho quân |
拘原截海又五年 |
Câu nguyên tiệt hải
hựu ngũ niên |
Đánh dẹp trên bộ, ngăn cấm dưới biển cũng được
năm năm |
伏莽弄池乃粗熄 |
Phục mãng lộng
trì nãi thô tức |
Náu trong bụi, quậy hồ ao nay cũng đã dập tắt
được |
不教南掃靜鯨波 |
Bất giao nam tảo[22]
tĩnh kình ba |
Còn như ở biển phía nam thì sóng của cá kình
chưa quét sạch |
兩圻受敵無寧日 |
Lưỡng kỳ thụ địch
vô ninh nhật |
Hai kỳ đều gặp địch không ngày nào yên |
是役之議然不然 |
Thị dịch chi nghị
nhiên bất nhiên |
Chiến dịch đó bàn nghị nên hay không nên |
念此令人長太息 |
Niệm thử linh
nhân trường thái tức |
Nghĩ đến khiến cho người ta phải thở dài |
豺狼難厭恐難親 |
Sài lang nan yếm
khủng nan thân |
Lang sói không thể ghét mà cũng không thể thân
cận được |
小海之南方與鄰 |
Tiểu hải[23]
chi Nam phương dữ lân |
Biển nhỏ phía nam không thể không ở tiếp giáp với
chúng |
永隆江河實浮寄 |
Vĩnh Long Giang
Hà thực phù ký |
Ba tỉnh Vĩnh Long, [An] Giang, Hà [Tiên] thật
chênh vênh |
圖囘此責讓誰人 |
Đồ hồi thử trách
nhượng thùy nhân |
Trách nhiệm lấy lại đất này giao cho ai được
bây giờ |
昨奉西浮志益壯 |
Tạc phụng Tây phù
chí ích tráng |
Trước đây đi sứ bên tây chí khí đã vững mạnh |
全權今作正使君 |
Toàn quyền kim
tác chính sứ quân |
Giao cho toàn quyền bây giờ chính là về tay ông |
堅持拜字不屈膝 |
Kiên trì bái tự bất
khuất tất [24] |
Khi từ biệt dặn dò rằng không được uốn gối (quì
lạy theo lễ nước ta) |
寧收故疆多贖銀 |
Ninh thu cố cương
đa thục ngân |
Để lấy lại được đất đai thì phải đền cho họ nhiều
tiền |
金繪歲幣從古事 |
Kim hội tuế tệ[25]
tòng cổ sự |
Vàng bạc vải vóc hàng năm giống như chuyện ngày
xưa |
不致不納我已伸 |
Bất trí bất nạp
ngã dĩ thân |
Không thể không nạp nên ta đành phải chịu |
千載機來却遺恨 |
Thiên tải cơ lai
khước di hận |
Việc này đã để lại cái hận nghìn năm |
分分爭言恐錢盡 |
Phân phân tranh
ngôn khung tiền tận |
Tranh cãi lẫn nhau sợ hết không còn tiền |
契丹邊酋據幽薊 |
Khiết Đan biên tù
cứ U Kế [26] |
Kẻ mọi rợ Khiết Đan ở biên cương chiếm cứ U Kế |
情知宋人勢不振 |
Tình tri Tống
nhân thế bất chấn |
Biết rằng thế của người Tống không thể ngoi lên
được |
要功力駁新約書 |
Yểu công lực bác
tân ước thư |
[Nên họ] ra sức bác bỏ hoà ước mới |
我亦恬熙不復問 |
Ngã diệc điềm hi
bất phục vấn |
Còn bên ta thì cứ điềm nhiên không dám đòi hỏi
ngược trở lại |
南陲從此事更多 |
Nam thùy tòng thử
sự cánh đa |
Biên thuỳ phương nam từ đó rất nhiều việc |
漏師伺釁日紛拏 |
Lậu sư tứ hấn nhật
thân noa |
Ra quân gây hấn mỗi ngày càng nhiều hơn |
毅然一疏請再往 |
Nghị nhiên nhất sớ
thỉnh tái vãng |
Ông lại
dâng sớ xin đi thêm lần nữa |
諸國曲直令平他 |
Chư quốc khúc trực
lệnh bình tha |
[Bày tỏ việc] Ngay hay cong của các nước cho rõ
ràng |
向者紛紛更誰可 |
Hướng giả phân
phân cánh thùy khả |
Phía bên kia cứ khăng khăng nói không chịu |
進退維谷公奈何 |
Tiến thoái duy cốc
công nại hà |
Tiến thoái cùng đường, ông thật chẳng biết phải
làm sao |
軟慈硬首戎集冠 |
Nhuyễn từ ngạnh
thủ nhung tập quán |
Cái thói của kẻ mọi rợ nói thì mềm mà tay thì cứng |
楚於黃蓼費甚麽 |
Sở ư Hoàng liêu[27]
phí thậm ma |
Sở họp ở Hoàng, Liêu thì thật phí công |
昔年和約立 |
Tích niên hòa ước
lập |
Năm trước hoà ước thành lập |
甘作罪人紓緩急 |
Cam tác tội nhân
thư hoãn cấp |
Đành chịu cái tiếng tội nhân để làm dịu tình
hình gấp gáp |
今也隆江河 |
Kim dã Long Giang
Hà |
Nay lại thêm [Vĩnh] Long, [An] Giang, Hà [Tiên] |
風雨飄搖勢岌岌 |
Phong vũ phiêu
diêu thế ngập ngập |
Gió mưa lồng lộng thế nguy ngập |
田廣不虞爲所襲 |
Điền quảng bất
ngu vi sở tập |
Đất đai rộng lớn không lo toan nên đã bị tấn
công |
責當歸己何嗟及 |
Trách đương quy kỷ
hà ta cập |
Trách nhiệm thuộc về ta than thở sao kịp nữa |
封疆之死封疆臣 |
Phong cương[28]
chi tử phong cương thần |
Phong cương đại thần đành lấy cái chết ở nơi đất
mình cai quản |
取義成人諒所執 |
Thủ nghĩa thành
nhân[29]
lượng sở chấp |
Giữ lấy điều nghĩa để thành người nên phải giữ |
一封遺表披衷曲 |
Nhất phong di biểu
phi trung khúc |
Một tờ di biểu tỏ tấm lòng của mình |
憂國深心堪涕泣 |
Ưu quốc thâm tâm
kham thế khấp |
Lo cho nước trong thâm tâm đáng để lên tiếng
khóc |
昔哉雲雷丁辰艱 |
Tích tai vân lôi
đinh thời gian |
Tiếc thay trong giờ phút bão tố này |
公以忠諒當其難 |
Công dĩ trung lượng
đương kỳ nan |
Ông đem tấm lòng trung để đương đầu với khó
khăn |
疆事終須歸洞燭 |
Cương sự chung tu
quy đổng chúc |
Việc đất đai rồi sẽ được soi chiếu đến |
衆人却作誤國看 |
Chúng nhân khước
tác ngộ quốc khan [30] |
Người đời vẫn xem như làm hỏng việc nước |
平生德業聞朝野 |
Bình sinh đức
nghiệp văn triều dã |
Trước nay đức độ của ông trong ngoài triều đình
đều nghe biết |
發為文章絕古雅 |
Phát vi văn
chương tuyệt cổ nhã |
Văn chương viết ra đều cổ kính nhã nhặn |
三朝四紀七袠[31]身 |
Tam triều tứ kỷ
thất trật thân[32] |
Ba đời vua làm quan bốn mươi năm và đã bảy mươi
tuổi |
祗愼一心無夙夜 |
Chi thận nhất tâm
vô túc dạ |
Giữ lòng cẩn thận không kể ngày đêm |
况乎歷閱之所經 |
Huống hồ lịch duyệt
chi sở kinh |
Huống hồ với kinh nghiệm từng trải qua |
信敬可行遍夷夏 |
Tín kính khả hành
biến Di[33]
Hạ |
Được tin tưởng về đức hạnh đối với cả Di [tức
người Pháp] lẫn người Hán [chỉ người Việt] |
世間眞個讀書立品人 |
Thế gian chân cá
độc thư lập phẩm nhân |
Trên đời này quả là người đọc sách mà lại có
nhân phẩm |
臨事應非誤國者 |
Lâm sự ứng phi ngộ
quốc giả |
Gặp việc ắt không làm lỡ việc nước |
嘐嘐得喪場 |
Hao hao đắc táng
trường |
Hiên ngang trong cõi dù được hay mất |
矮人看不破 |
Nụy nhân khan bất
phá |
Lũ người thấp kém làm sao nhìn thấu được |
噏飛囈走生疑詫 |
Ông[34] phi nghệ tẩu sinh nghi sá |
Hoảng hốt run sợ nhưng nghi ngờ hoang tưởng |
即金風會日推移 |
Tức kim phong hội
nhật suy di |
Ngày nay thay đổi hàng ngày hàng giờ |
宇內大勢人幾知 |
Vũ nội đại thế
nhân kỷ tri |
Đại thế trong thiên hạ mấy ai biết được |
本原軍事傷公志 |
Bản nguyên quân sự
thương công chí |
Vốn vì việc quân mà làm tổn thương chí của ông |
寄概秋風爲綴辭。 |
Ký khái thu phong
vị chuyết từ. |
Lời vụng về cảm khái gửi gió thu |
|
||
嗣德二十年八月日 |
Tự Đức nhị thập
niên bát nguyệt … nhật |
Tự Đức 20 (1867), ngày … tháng Tám |
范富庶拜書 |
Phạm Phú Thứ bái
thư |
Phạm Phú Thứ bái thư |
[1]Daudin:佛郎桀驁雄西方Phật lang kiệt ngạo
hùng tây phương.
[2]弛: Di là nới lỏng, nói về việc
cấm đạo của triều đình Huế, nên người Pháp yêu cầu được tự do truyền đạo. Bản Giá Viên: 來請恃禁兼通商 Lai thỉnh thí
(thị) cấm kiêm thông thương. 恃 : Thị là dựa vào. Hai
chữ có ý nghĩa hơi khác nhau.
[3]通商thông
thương: Giao thông và thương mại, xin tự do đi lại, tự do buôn bán.
[4]再三Tái
tam: Đôi ba lần, nghĩa là nhiều lần, không nhất thiết chính xác là ba lần như bản Giá Viên/PPTTT giải thích “thư nộp
đến ba lần”.
[5]Bản Giá Viên: 和榮
‘Hòa Vinh’. Phải đọc
‘Hòa Vang’ theo âm Hán Nôm. Địa danh có chữ Vang,
hán tự ghi榮Vinh, ví dụ: Nam Vang
được ghi là 南榮Nam Vinh.
[6]Tháng 7 Mậu Ngọ (1858) thuỷ sư đề đốc Rigault de
Genouilly đem 14 tàu chiến và 3.000 quân tấn công Đà nẵng. Cuối Kỷ Mùi (1859),
thiếu tướng Joseph Page, người thay đề-đốc Rigault de Genouilly được lệnh đem
quân sang Trung-Hoa trợ lực cho hải quân Pháp ở Hoàng Hải, bèn đốt cả dinh trại
ở Trà Sơn rồi kéo vào Gia Định đặt 1.000 quân đồn trú trước khi sang Trung-Hoa.
Việc quân Pháp rút lui và thay đổi kế hoạch có nhiều nguyên nhân rộng lớn, cả nội
bộ chính phủ Pháp lẫn biến chuyển ngoại giao ở Á Đông nhưng triều đình Huế
không hiểu rõ nên thường chỉ nói đến việc họ đột nhiên bỏ đi mà không nói lý
do.
[7]Daudin:賊船Tặc thuyền.
[8]PPTTT và Bản Giá Viên: 服𨶹 phục quan.
Daudin: 服闖phục sấm. Phục
quan là quay vào chặn ngang, phục sấm là quay về xông vào. Quân Pháp quả có vào
tấn công Gia Định chứ không chỉ đóng chặn cửa biển Cần Giờ. Theo sử thì sau khi
đánh thắng ở Trung Hoa, tháng Giêng Tân Dậu (1861) trung tướng Charner đã đem
70 tàu chiến và 3.500 ngàn quân quay về đánh vào Gia Định, Kỳ Hoà.
[9]Chỉ chiến luỹ Kỳ Hoà
do Nguyễn
Tri Phương đắp năm Canh Thân (1860)
[10]封豕長蛇: Phong thỉ trường xà (heo lớn, rắn dài), Gốc từ Tả Truyện,
nói về kẻ tham lam
tàn bạo.
[11]26-2-1861, Kỳ Hoà thất thủ.
[12]Dauddin: 稔中 nẫm trung. Ngũ
nẫm thân là vươn dài ra năm mùa. Năm mùa là 5 năm, tính từ năm 1856 khi người
Pháp đánh bán đảo Sơn Trà đến 1861 khi Kỳ Hoà thất thù thì chiến tranh Việt
Pháp kéo dài 5 năm. Thân 申 và trung 中 chỉ khác nhau có một nét.
[13]Nội hồng內訌: đấu đá nội bộ (internal conflict). Chữ từ Kinh Thi, Đại Nhã.
Thiên giáng tội cổ, mâu tặc nội hồng (天降罪罟,蟊賊內訌) Trời phạt tội nên sâu rầy cắn phá. Theo mạch văn, tác
giả nhấn mạnh vào những vụ nổi dậy ở miền bắc 5, 6 năm trước nhưng cũng có thể
ám chỉ những việc gần ngay trong triều đình nhưng nói tránh đi để khỏi bị kết tội
nếu lộ ra ngoài. (Nội hồng內訌 theo nghĩa đen nghĩa là anh em trong nhà tranh chấp, chém
giết nhau). Có thể Phạm Phú Thứ ám chỉ cuộc nổi dậy Đoàn Hữu Trưng (1866) để
đưa Đinh Đạo (tức Ưng Đạo, con trai trưởng của Hồng Bảo洪保) lên thay Tự Đức (Hồng Nhậm洪任) sau cuộc nội loạn của Hồng Bảo (1854) và Hồng Tập
(1864) thất bại. Quân nổi dậy dùng chày vôi làm vũ khí, nên sử gọi sự kiện này
là Loạn chày vôi hoặc Giặc chày vôi. Cuộc mưu phản thất bại,hậu duệ Hồng Bảo phải
đổi sang họ mẹ là họ Đinh và bị xoá tên khỏi sổ Tôn Thất.Cả gia đình Hồng Bảo gồm
8 người là: Đinh Đạo 丁導, Đinh Tự 丁寺, Đinh Chuyên 丁傳, Đinh Tương 丁將, Thị Thụy 氏瑞 (vợ Hồng Bảo) và hai đứa
con Đinh Đạo (một trai, một gái) đều
bị xử giảo (treo cổ). Sử liệu chép: "Đứa con trai của Đinh Đạo mới 3 tuổi, bị thắt cổ đến 2 lần mà vẫn chưa chết, khi bỏ
vào quan tài còn khóc oa oa".
[14]Đầu Nhâm Tuất (1862), giặc theo tên Phụng, tên Trường
đánh phá rất ngặt ở Quảng-Yên và Hải-Dương. Nguyễn Văn Thịnh, tục gọi cai-tổng
Vàng, thì phá rối ở Bắc-Ninh.
[15]Chữ thời/thì 時vì kỵ huý tên vua Tự Đức nên viết thành thìn 辰 nhưng đọc thời/thì.
[16]星孛: Tinh bột là sao chổi, theo niềm tin của Đông phương thì
sao chổi xuất hiện là điềm có loạn lạc, binh đao. Sao chổi Donati (多纳蒂彗星Đa nạp đế
tuệ tinh) tháng 6 năm 1858. Sao chổi
Tebbutt (泰布特彗星Thái bố đặc
tuệ tinh) tháng 6 năm 1861.
[17]Ngày 5 tháng 6 năm 1862, PhanThanh Giản-Lâm Duy Hiệp ký
hoà ước với Louis Adolphe Bonard (Pháp) và Carlos Palanca y Gutierrez
(Y-pha-nho) nhường đứt ba tỉnh Biên Hoà, Gia Định, Định Tường cho người Pháp.
[18] Theo hiệp ước Nhâm Tuất (1862) thì nước ta phải trả chiến
phí cho Pháp là 400 vạn nguyên trong 10 năm.
[19]Bản Giá Viên viết là giao 蛟. Giao long là con thuồng luồng.
[20]Daudin viết là trạc戳. Giá Viên viết là lục戮. Lục lực là “đồng tâm hết sức” có lý hơn. Bản sao lại viết
tay có thể nhầm vì mặt chữ gần gống nhau.
[21]Chữ này bản Giá Viên viết tay
là thụ 授, không có nghĩa. Thụ và viện mặt chữ gần giống nhau.
[22]Bản Giá Viên viết là tẩm
浸 (ngấm dần dần)
[23]Daudin chú
thích là“chỉ Cửa
Tiểu của sông Mékong”.
[24] Vua Tự Đức căn dặn sứ bộ:
“… Chư khanh đừng quên rằng mình là sứ-bộ
thay mặt cho một nước muốn thương thuyết một cách xứng đáng, không như những lần
trước đi sứ bên Trung-quốc, chư khanh phải giữ tư-cách xứng đáng của bậc
phương-diện quốc-gia. Nếu phải vào triều-kiến Nã-Phá-Luân đệ-tam thì chư khanh
nên cúi đầu là đủ rồi, chứ đừng lạy”. Khuất tất nghĩa đen là cong đầu gối,
hiện nay nhiều khi hiểu sai là có điều không minh bạch.
[25]Tuế tệ:Thời Bắc
Tống hàng năm phải triều cống cho Khiết Đan vải vóc, tiền
bạc
để cho được yên thân
[26]U Kế: châu U, châu
Kế phía bắc Trung Hoa. Đời
Tống, người Kim chiếm phương bắc, nhà Tống giữ phương
nam nước Tàu nên gọi là Nam
Tống. Đây là ví von người Pháp giống như
rợ Khiết Đan còn triều đình Việt Nam giống như nhà Nam Tống.
[27]Ý nói việc làm
chính đáng nhưng bên kia không
theo thì cũng chẳng ích gì. (Tả truyện: Đông Chu năm 704 TCN, thế lực
thiên tử suy yếu, vua Sở là Hùng Thông muốn xưng vương vị nên hội chư hầu ở Trầm
Lộc, nhưng nước Hoàng và nước Tùy không đến dự).
[28]Phong cương đại thần chỉ tổng đốc, trấn nhậm một vùng.
[29] Lấy chữ trong sách Luận Ngữ,
Vệ Linh Công, ý nói không mong sống mà làm hại điều nhân. Chữ nhân 仁 và 人 đồng âm, nên khi dùng lại câu trong Luận Ngữ thì
“vô cầu sinh dĩ hại nhân” trở thành không mong sống là làm hại nhân mạng, cụ Phạm
Phú Thứ muốn nhấn mạnh đến việc cụ Phan chịu chết để bảo vệ đồng bào.
[30]Quyết định đầu hàng, giao thành không giao tranh của ông
dù để tránh đổ máu quân dân Việt, triều đình vẫn kết tội ông là phản quốc, xử
án chém sau khi chết, tước bỏ mọi phẩm hàm và đục tên khỏi bia tiến sĩ.
[31]Bản Daudin viết là cổn袞,nhầm từ chữ trật袠là “mười năm”. Thất trật là 70 tuổi.
[32]Ông làm quan từ 1826-1867, qua ba triều Minh-Mạng, Thiệu-Trị,Tự-Đức.
[33]Những lời bình phẩm trên báo “Courrier de Saigon” cùng những lời phân ưu của Eliacin Luro, Henri
Rieunier và Paulin Vial cho thấy sự trân trọng của người Pháp đối với phẩm hạnh
và tiết tháo của ông.
[34]Bản Giá Viên chép ngàm啽 nhưng ghi âm yểm.
Có lẽ chép nhầm. Daudin viết chữ hấp 噏, và chú thích đọc là ngàm như ngàm nghệ nghĩa là kêu gào mớ
ngủ. Hấp 噏 cũng chính là dị thể của chữ ông 嗡 nghĩa là
bay túa ra. Ông phi nghệ tẩu nghĩa là
“bỏ chạy tứ tán” ý nói triều thần khi có giặc thì hoảng hốt không dám đánh
nhưng hay đưa ra những kế sách không thực tế.
PHỤ LỤC 1
Daudin, Pierre, Lê Văn Phúc. Phan-Thanh-Gian,
1796-1867, et sa famille d’après quelques documents annamites. Saigon : Imprimerie de l’Union,
1941. (152 tr,)
PHỤ LỤC 2
Phạm Phú Thứ. Giá Viên toàn tập : tài liệu nội
bộ họ tộc Phạm Phú Viết giới thiệu [bản chép tay chữ Hán và dịch sang tiếng Việt
của Phạm Phú Viết. [Kn. xuất bản, Phạm Phú Viết tự xuất bản, 2011. (26
quyển) (Quyển 11: Kinh Hương, có bài điếu văn của Cụ Phạm Phú Thứ gửi viếng
tang cụ Phan Thanh Giản.")
*
Trên đây là một công trình rất đầy đủ : sưu tầm, phiên
âm, chú thích và dịch bài văn tế từ chữ Hán sang tiếng Việt của nhà biên khảo
Nguyễn Duy Chính. Ý tình nơi từng câu từng chữ của tác giả đã được giảng giải rất
rõ ràng, nhờ vậy người đọc bản dịch hiểu được những chỗ súc tích của nguyên bản
Hán văn.
Đôi điều tóm tắt về Phạm
Phú Thứ, tác giả bài văn tế
Ông sinh năm 1821 trong một gia đình làm nông ở
làng Đông Bàn, huyện Diên Phước (sau đổi là phủ Điện Bàn), tỉnh Quảng Nam. Năm
1843 ông đậu Tiến sĩ. Năm 1844 vào đời Thiệu Trị 4, ông bắt đầu làm chức hành tẩu
(tập sự) ở văn phòng của vua. Đây là bước khởi đầu cuộc đời làm quan dài 38 năm
không hoàn toàn phẳng phiu của ông : khi thì bị cách chức đày khổ sai ở trạm Thừa
Nông vì đã lên tiếng can gián vua đừng quá ham mê vui chơi; khi thì lãnh các chức
vụ tại nhiều địa phương khác nhau trong nước, khi thì làm việc với các bộ trong
triều đình, như Thượng thư bộ Hộ, Thị lang, rồi Tả tham trị bộ Lại.
Năm 1863 ông được cử làm Phó sứ trong phái bộ
Phan Thanh Giản sang Pháp để điều đình xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ.
Khi về nước ông dâng vua bản Tây Hành Nhật
Ký và tập Tây Phù Thi Lục, cả hai
tác phẩm đều nhằm thuyết phục vua và triều đình mạnh dạn mở cửa ra thế giới và
học tập khoa học kỹ thuật của phương Tây để canh tân đất nước.
Chức vụ quan trọng sau cùng của ông là vào năm
1874 được cử làm Tổng đốc Hải Yên (gồm tỉnh Hải Dương và tỉnh Quảng Yên) kiêm
chức Tổng lý Thương chính đại thần, có nhiệm vụ đứng mũi chịu sào cho triều
đình nơi đầu sóng ngọn gió, một nơi tiêu điều do dịch họa và thiên tai, mọi việc
hầu như phải làm lại từ đầu. Ông đặt ra những biện pháp rất hữu hiệu, trong một
thời gian ngắn đạt kết quả tích cực, đã làm cho “một vùng sông Cấm thuyền bè tấp
nập, trở lại thành nơi vui vẻ” như Liệt Truyện đã khen.
Nói chung Phạm Phú Thứ là một người có nhiều năng
lực và thiện chí làm việc, không ngại nói lời thẳng thắn dù là với vua hay các
quan lớn đồng triều. Ông lại rất hiểu giá trị một người như Phan Thanh Giản, một
người lớn hơn ông đúng 25 năm, lão luyện và khôn ngoan nhất trong việc đàm phán
với người Pháp. Có lẽ trong thời của mình, hai vị đã là đôi bạn vong niên dù tuổi
tác cách nhau cả một thế hệ, nhờ cùng nhận lãnh trách nhiệm nặng nề trong chuyến
đi Pháp với nhau và cùng có cái nhìn thực tế về vấn đề cải cách đất nước.
Vốn biết tính “nói thẳng” của Phạm Phú Thứ, chúng
ta ngày nay không lấy làm ngạc nhiên khi đọc bài văn tế Phạm Phú Thứ viếng Phan
Thanh Giản, đã gặp những câu nhằm bênh vực và đề cao cụ Phan :
Người đời vẫn xem như
làm hỏng việc nước
Trước nay đức độ của
ông trong ngoài triều đình đều hay biết
Văn chương viết ra đều
cổ kính nhã nhặn
Ba đời vua làm quan bốn
mươi năm và đã bảy mươi tuổi
mà còn, một cách gián tiếp, táo bạo phản đối việc
“lên án” mà triều đình dành cho vị lão thần, đồng thời đánh giá trình độ hiểu
biết đại cuộc rất hạn chế của quan lại trong triều :
Lũ người thấp kém làm sao nhìn thấu được
Hoảng hốt run sợ nhưng nghi ngờ hoang tưởng
Ngày nay thay đổi hàng
ngày hàng giờ
Đại thế trong thiên hạ
mấy ai biết được
Với những câu này, chúng ta thấy Phạm Phú Thứ đã
tỏ ra một tâm trạng bi phẫn đối với sự nhẫn tâm của vua và triều đình qua bản
án dành cho Phan Thanh Giản. Thay vì nhận thức được sự yếu kém của đất nước
mình và cấp tốc lo canh tân cho hùng cường, cả triều đình khư khư giữ lấy nếp
cũ, không hiểu biết gì nhiều về đại cuộc, chỉ biết trừng phạt trước những thất
bại mà không mạnh dạn cứu xét và áp dụng những đề nghị cải cách của những ai đã
có cơ hội hiểu biết về sự tiến bộ văn minh của Tây phương.
Riêng vua Tự Đức thì càng về già càng hiểu tính nết
hay nói thẳng của bầy tôi Phạm Phú Thứ. Hai mươi ba năm sau khi bị vua đày đi
chăn ngựa vì tội nhắc nhở vua bớt ham chơi để lo việc triều chính, Phạm Phú Thứ
đã luống tuổi và có địa vị cao, vẫn phê bình vua : “Phóng túng, tuần du vô độ”,
nhưng lần này nhà vua chỉ chữa thẹn bằng câu : “Đó là lỗi đã thành tật của ta,
không thể khiển trách được.” Vua tôi đã đến lúc hiểu nhau. Sau khi Phạm Phú Thứ
qua đời (vào năm 1882), bạn đồng triều rất thân của ông là Nguyễn Tư Giản đã viết
trên văn bia của ông câu này : “Vua đối với ông, hiểu biết sâu, ân đãi hậu như
vậy. Nếu không, ông khó có thể một ngày yên thân ở triều…” Chính vua Tự Đức đã
nhận xét ông là “cố chấp, nhưng ngựa có cắn, có đá, mới đi ngàn dặm.”
Tất cả những điều vừa nêu ra trên đây có thể giải thích vì sao Phạm Phú Thứ
là người đã dám đứng ra viết một bài “văn tế” để bênh vực cho Phan Thanh Giản
giữa lúc triều đình vừa tuyên một bản án nặng nề cho vị lão thần, mà chúng ta
đã cố gắng tìm hiểu nội dung trong cuộc hội thảo hôm nay.
Tài liệu tham khảo :
-
Phạm Phú Thứ, Quang
Uyển dịch. Nhật Ký Đi Tây. Đà Nẵng: Nxb
Đà Nẵng, 1999.
-
Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược. Saigon: Tân Việt,
1964.