Trong
rất nhiều năm trước 1975, một phần do lòng mến mộ của độc giả, mỗi dịp Xuân đến,
nhiều báo Xuân ở Sàigòn vẫn thường đăng một bài thơ của
thi sĩ Vũ Hoàng Chương với thủ bút của chính tác giả. Nét chữ tung hoành như được
phóng bút một cách cẩu thả nhưng vẫn duyên dáng với chữ ký đặc biệt “nghệ sĩ” của thi hào họ Vũ được
nhiều người mến chuộng. Đã có lúc Vũ Hoàng Chương nhắc tới chuyện ấy một cách vui đùa:
Báo chương mấy độ vẽ
bùa
“Báo chương mấy độ vẽ bùa”
Bài thơ thủ bút của thi sĩ Vũ Hoàng Chương
nhân dịp Tết năm Nhâm Tý 1972
Do
một cơ duyên hiếm có, trước ngày giỗ thứ 40 của thi sĩ Vũ Hoàng Chương năm nay
(1976-2016), người viết những dòng này được may mắn trông thấy một trang thủ
bút thuộc loại đặc biệt của cố thi sĩ từ trước chưa nghe ai nói tới. Trái với
thông lệ, thi nhân họ Vũ viết trang thủ bút này một cách cẩn trọng, nghiêm túc, có chỗ nắn nót
nữa, và dùng những từ trang trọng như “Vũ Hoàng Chương bái bút.” Đó là cặp câu
đối nhà thơ viết để kính điếu khi chí sĩ ái quốc Nguyễn Thế Truyền tạ thế trong dịp Trung Thu năm 1969.
TÓM
LƯỢC CUỘC ĐỜI CỤ NGUYỄN THẾ TRUYỀN
Thi
sĩ Vũ Hoàng Chương có nhiều lý do để bày tỏ niềm tôn kính đặc biệt đối với chí
sĩ ái quốc Nguyễn Thế Truyền (1898-1969). Cụ Nguyễn sinh từ cuối thế kỷ 19
trong một gia đình khoa bảng danh tiếng ở làng Hành Thiện, tỉnh Nam Định. Ông nội
là Tuần phủ Thái Bình Nguyễn Duy Hàn (bị sát hại năm 1913 trong một vụ ném tạc
đạn do Việt Nam Quang Phục Hội tổ chức). Thân phụ là một vị Tri phủ, Nguyễn Duy
Nhạc. Năm 1910, khi 12 tuổi, cậu Truyền được Phó Công sứ Thái Bình là Charles Marie-Gaston
Dupuy đưa sang Pháp du học. Là học sinh xuất sắc, luôn luôn đứng đầu lớp, Nguyễn
Thế Truyền được chính phủ Đông Dương cấp học bổng. Năm 1915, ông đậu Brevet
supérieur, về quê hương thăm nhà. Ông dùng một năm ở quê để học Hán văn, rồi trở
lại Pháp năm 1916 học trường Kỹ sư và trường Đại học Khoa học ở Toulouse. Ông
cũng tự học để thi bằng Tú Tài, mong sau này có thể ghi danh học Đại học Văn
khoa. Sau khi tốt nghiệp với văn bằng Kỹ sư Hoá học và Cử nhân Lý Hóa năm 1920,
ông về nước một năm nữa, học thêm Hán văn. Trở lại Pháp tháng 8/1921 ông ghi
tên theo học ban Tiến sĩ Khoa học tại Đại học Sorbonne (Paris), chuẩn bị một luận
án về khoa học vật lý nhưng chưa bảo vệ luận án. Ông cũng ghi danh học Cử nhân
Văn khoa, ban Triết, tại trường này, và đậu Cử nhân Triết năm 1922. Khi đưa
sang Pháp từ ít tuổi, chính quyền Pháp hẳn có ý muốn đào tạo ông thành một
“công dân tốt,” trung thành với mẫu quốc. Ngược lại trong những năm ở Pháp, cậu
“nghĩa tử” đã làm cho nhà cầm quyền thuộc địa lắm lúc phải điên đầu.
Theo
nhà biên khảo Thụy Khuê, tóm lược cuốn biên khảo công phu Thân thế và sự nghiệp nhà
cách mạng Nguyễn Thế Truyền của Đặng Hữu Thụ (Vitry-sur-Seine, France :
Trùng Dương, 1993), thì từ 1912 trở đi, một mặt trận chống chính sách đàn áp và
bóc lột, đòi thực hiện dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam được hình thành ở
Pháp và tiếp tục ở Nam kỳ, do các nhà cách mạng theo tân học lãnh đạo. Đây là
những trí thức trẻ, học vấn xuất sắc, am hiểu văn hóa Tây phương, viết và nói
tiếng Pháp một cách thành thạo, không có mặc cảm trước người da trắng, tạo cho
cuộc tranh đấu một sinh lực mới vượt phạm vi quốc nội mà các nho sĩ lớp trước
chưa thực hiện được.
Người
đầu tiên phát động phong trào này là luật sư Phan Văn Trường (1878-1933), người
làng Đông Ngạc, ngoại thành Hà Nội. Phong trào mạnh thêm khi có sự tham gia của
nhà ái quốc Phan Châu Trinh (1872-1926), kỹ sư Nguyễn Thế Truyền (1898-1969),
và nhà văn, nhà báo Nguyễn An Ninh (1900-1943). Cụ Phan Châu Trinh giới thiệu
con một người bạn đậu cùng khoa Tân Sửu 1901 với cụ vào hoạt động trong nhóm. Người bạn ấy là Phó bảng Nguyễn
Sinh Huy (cũng có tên Nguyễn Sinh Sắc) và người con là Nguyễn Tất Thành. Năm người
này được đồng hương người Việt ở Paris lúc đó gọi chung là nhóm “Ngũ Long.” Hội
“Người An Nam yêu nước” được thành lập khoảng 1916. Một bút
hiệu mới, “Nguyễn Ái Quấc/Quốc,”
xuất hiện. Đây là bút hiệu chung của cả nhóm Ngũ Long, nhưng những cây viết
chính (vì Pháp văn vững hơn cả) là Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn
An Ninh. Bút hiệu này thường xuất hiện trên các báo ở Paris,
đặc biệt trên tờ Le Paria, từ giữa
năm 1919 đến năm 1925. Le Paria có thêm
tên chữ Hán là “Lao động báo,” nhưng thường được dịch sang tiếng Việt là Người cùng khổ, Kẻ khốn cùng …
(Năm 1945, sau khi nắm được chính quyền ở Việt Nam, Nguyễn Tất Thành khoe với những
người ủng hộ rằng bút hiệu Nguyễn Ái Quốc, tác giả những bài trên Le Paria và một số tài liệu khác nhằm mục đích tranh đấu cho đất
nước xuất hiện trong cùng khoảng thời gian ấy là của riêng
ông ta. Theo tác giả Lê Minh Quốc và nhà biên khảo Thụy Khuê thì trong giai đoạn
ở Paris từ 1919 đến 1923, Nguyễn Tất
Thành mới đến Pháp chưa bao lâu, vẫn học thêm tiếng Pháp với Phan Văn Trường, Nguyễn
An Ninh và Nguyễn Thế Truyền ¹).
Mùa
thu năm 1922, Nguyễn An Ninh rời Paris về nước. Cuối năm 1923, ông xuất bản tờ La Clôche Fêlée (Chuông rè) để tranh đấu
ở Sàigòn.
Tháng
6 năm 1923, Nguyễn Tất Thành đi Nga không trở lại.
Năm
1925, Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh về nước. Nguyễn Thế Truyền ở lại Paris
tiếp tục công việc chung, làm Chủ bút tờ Le
Paria, bành trướng phong trào yêu nước giữa những người Việt Nam ở Pháp, và
vận động sự ủng hộ trong giới trí thức dân chủ, tiến bộ bên Pháp.
Năm
1926, Nguyễn Thế Truyền cho xuất bản ở Paris tờ Việt Nam Hồn. Báo ra mỗi tháng một kỳ, chủ yếu bằng tiếng Việt, thỉnh
thoảng có bài bằng tiếng tiếng
Pháp hay chữ Hán. Báo lấy danh
nghĩa:
“Tự do diễn đàn của học sinh và lao động Việt Nam” (Tribune libre des étudiants
et des travailleurs annamites).
Việt Nam
Hồn in
mỗi số
khoảng 2000 bản, lưu hành trong giới người Việt sống ở Pháp. Một số người kín
đáo gửi về nước. Báo ra công khai được 8 số (1/1926 -
8/1926) thì bị cấm. Từ tháng
9/1926 báo xuất hiện dưới tên Phục Quốc
nhưng được hai số lại bị cấm. Qua đầu năm 1927, báo được tiếp tục xuất bản bằng
tiếng Pháp với tên là L’Âme annamite
(Hồn nước Nam). Tới tháng 6/1927, báo đổi tên là La Nation annamite (Nước Nam). Tờ Le Paria và những ấn bản kế tiếp của Việt
Nam Hồn mà Nguyễn Thế Truyền thành lập và điều
động
đã ảnh hưởng một cách đáng kể tới
phong trào cách mạng Việt Nam. Theo nhận xét của Thụy Khuê, Nguyễn Thế Truyền
là khuôn mặt thứ hai, một con rồng lớn của nhóm “Ngũ Long,” chỉ sau người khởi
xướng là Phan Văn Trường ².
Nửa trang đầu của Việt Nam Hồn,
số tháng 1 năm 1926
Nguyễn Thế Truyền vào đảng Xã hội, rồi
đảng Cộng sản Pháp khoảng năm 1922 khi viết cho Le Paria. Năm 1925, ông làm Phó Tổng thư ký hội Liên hiệp Thuộc địa
(Union intercoloniale) và Chủ bút của Le
Paria. Năm 1926, ông rời Le Paria để chuyên
tâm vào Việt Nam Hồn. Tháng 5 năm 1927,
ông tách khỏi bộ phận thuộc địa của đảng Cộng sản Pháp và lập đảng An Nam Độc Lập
(Parti Annamite de l’Indépendance, hay PAI). Các tờ L’ Âme annamite và La Nation annamite trở thành
cơ quan liên lạc của đảng này.
Nguyễn Thế Truyền hồi hoạt động, tranh đấu
ở Pháp
Cuối năm 1927, Nguyễn
Thế Truyền và gia đình về nước, trao ngọn đuốc tranh đấu bên Pháp lại cho nhóm Tạ Thu Thâu (1906-1945), Phan Văn Hùm
(1902-1946), Hồ Hữu Tường (1910-1980), những trí thức tân học trẻ hơn ông ít tuổi
và có liên hệ mật thiết với Nguyễn An Ninh, chí hữu của ông trong nhóm Ngũ Long. Tạ Thu Thâu thay Nguyễn Thế Truyền
lãnh đạo đảng An Nam Độc Lập. Năm 1934 Nguyễn Thế Truyền sang Pháp trở lại, hoạt
động đến hết năm 1938. Khi tình hình thế giới căng thẳng, thế chiến thứ 2 sắp bùng nổ, ông lại về nước. Năm 1941, ông bị
Pháp bắt cùng với em trai là Nguyễn Thế Song, bị
đầy đi Madagascar, mãi đến tháng 6/1946 mới được phóng thích. Khi
ông về tới Việt Nam năm 1947 thì một người “chí hữu” khác
(ít nhất trên danh nghĩa) trong nhóm Ngũ Long trước là Nguyễn Tất Thành đã cướp
được chính quyền, trở nên Hồ Chí Minh, và đã thủ tiêu
xong những người từng hoạt động bên Pháp với Nguyễn Thế
Truyền như các ông Bùi Quang Chiêu (1872-1945), Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm… Nguyễn
Thế Truyền tuyên bố “không hoạt động chính trị” nữa. Ông viết báo, trình bày những khó khăn trước thời cuộc, và đề nghị với
những người nắm chính quyền những cải cách cần thiết để
độc lập
của quốc
gia và tự do dân chủ được vững
bền.
Khi đất
nước chia đôi năm 1954 ông đang ở Hà Nội.
Theo bài viết của một tác giả cùng quê làng Hành Thiện là Nguyễn Duy Tiễu, đăng
trên báo Thanh Niên số ra ngày
19/3/2004, được đăng lại trên Việt Báo (quốc nội) Online cùng ngày, thì ông Hồ Chí Minh cử một người đưa thư tới ông, nhắc đến
“tình bạn trên 30 năm trước” để khuyên ông đừng di cư vào Nam, và mời ông ở lại
để “góp sức xây dựng lại đất nước”³.
Nhưng ông vẫn ra đi. Khi vào Nam ông tiếp
tục viết báo,
rồi ra tranh cử
trong cuộc bầu Tổng thống năm 1961, liên danh với một
nhân sĩ miền Nam là Hồ Nhựt Tân nhưng bị thua trước vị Tổng thống đương nhiệm
Ngô Đình Diệm.
Bích chương tranh cử trong cuộc bầu Tổng thống tại Nam Việt Nam năm 1961
Liên danh 1: Ngô Đình Diệm & Nguyễn Ngọc Thơ
Liên danh 2: Nguyễn Đình Quát & Nguyễn Thành Phương
Liên danh 3: Hồ Nhựt Tân & Nguyễn Thế Truyền
Ông
mất ngày 19 tháng 9 năm 1969 (tức ngày 8 tháng 8 năm Kỷ Dậu) ở Sàigòn trong hoàn
cảnh vô cùng thanh bạch, hưởng thọ 71 tuổi.
Vũ
Hoàng Chương ít khi làm câu đối, nhất là viết câu đối thủ bút, để “kính điếu”
ai. Sáu năm trước, tháng 7/1963, mới thấy ông làm một đôi câu đối để ai điếu Nhất
Linh Nguyễn Tường Tam sau khi nhà văn sáng lập Tự Lực Văn Đoàn uống thuốc độc
tự tử đúng vào ngày Song Thất:
Sổ
thập niên bút mặc thành danh, nhất
khả đoạn, nhị khả tuyệt, nhi tam bất hủ
Song
thất dạ vân tiêu lạc phượng, tiên
Phong Hóa, hậu Văn Hóa, ư trung lập ngôn.
Đứng
về phương diện văn học cũng như phương diện lịch sử, cặp câu đối thi sĩ Vũ Hoàng Chương
“kính điếu chí sĩ Nguyễn Thế Truyền” tháng 9 năm 1969 nên được coi là một tài
liệu hiếm quý.
THỬ TÌM HIỂU Ý NGHĨA CẶP CÂU ĐỐI CỦA VŨ HOÀNG CHƯƠNG
“Cách
mạng sử còn ghi”:
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương xác định: cặp
câu đối của ông không phải để viếng một người bình thường nhưng một nhân vật của
lịch sử, có những hành động được lịch sử cách mạng ghi chép.
“Mấy
độ xông pha”:
Vũ Hoàng Chương nhắc lại quãng đời đầy
hoạt động của Nguyễn Thế Truyền: là một nhân vật quan trọng trong nhóm Ngũ Long
(cùng với những người như Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh,
Nguyễn Tất Thành), một người dùng tiếng Pháp để tranh đấu, vạch ra những sai
trái và vô nhân đạo của chủ nghĩa thực dân Pháp ngay trên đất Pháp, từng đứng
làm Chủ bút của tờ Le Paria, từng sáng
lập và làm Chủ bút tờ Việt Nam Hồn. Trên
tờ
Le Paria, ông từng viết bài bênh vực cụ Phan Bội Châu, đả kích Toàn
quyền Albert Sarraut đầu độc dân tộc Việt Nam bằng rượu và thuốc phiện… Các học
giả ngoại quốc như William J. Duiker và Sophie Quinn-Judge, khi nghiên cứu cuộc
đời của Hồ Chí Minh, cũng nhắc tới những hoạt động của Nguyễn Thế Truyền, nhất
là những giúp đỡ ông đã dành cho Hồ lúc còn là Nguyễn Tất Thành ⁴. Theo học giả Hoàng Văn Chí trong cuốn Từ Thực Dân đến
Cộng
Sản, Nguyễn Thế Truyền còn là người đưa
Nguyễn Tất Thành, mới tới Pháp sau 5 năm làm phụ bếp (1914-1919) tại khách sạn
Carlton ở London, tới gặp những chính khách Pháp ở Paris lúc ấy như các ông
Léon Blum, Marcel Cachin, Marius Moutet ⁵… Trở lại Pháp trong những năm 1934-1938, ông vận động các tổ chức nhân
quyền, các ủy ban đòi ân xá chính trị phạm, bênh vực Nguyễn An Ninh, Tạ Thu
Thâu … đang bị gìam ở Sàigòn.
Vũ Hoàng Chương có thể cũng
muốn nhắc tới những hi sinh đáng kính phục của Nguyễn Thế Truyền: sau khi đậu Kỹ
sư, thêm hai bằng Cử nhân Lý Hóa và Cử nhân Triết, rất giỏi Pháp văn, về nước được
chính quyền thuộc địa dành cho nhiều ưu đãi nhưng ông từ chối mọi đề nghị cộng
tác. Theo nhiều tài liệu, người Pháp đề nghị dành cho Nguyễn Thế Truyền một chức
quan, hoặc chức Giám đốc một nhà máy, hoặc một ngạch trật cao nếu muốn đi dạy học,
hoặc 1,000 hectares đồn điền nếu muốn
khai khẩn, nhưng ông đều khước từ. Ông về làng, sau lên thành phố Nam Định sống
một cách giản dị với chút lợi tức nhỏ từ phần ruộng của gia đình. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương có thể cũng muốn nhắc tới quãng đời làm báo của Nguyễn
Thế Truyền sau khi được phóng thích từ Madagascar về: trình
bày những khó khăn của đất nước
trong thế giới mới, đưa ra những đề nghị về những cải cách cần được thực hiện để độc
lập của quốc
gia và tự do, dân chủ được vững
bền.
“Không bại dẫu không thành”:
Thi nhân họ Vũ nhìn nhận rằng chí sĩ họ
Nguyễn đã không thành công. Tuy lập chí từ rất sớm và rất thông minh, học một
lúc hai trường, đậu một lúc hai, ba bằng cấp Đại học, lúc trẻ tuổi được nhiều người kỳ vọng, lại yêu nước một cách
thành thật và bôn ba, phấn đấu nhiều, chí sĩ họ Nguyễn đã không thành công, nếu
ta hiểu “thành công” là đem lại được độc lập cho đất nước hay nắm được chính
quyền. Phải bỏ quê hương chạy vào Nam năm 1954 để tránh người “chí hữu” cũ
trong nhóm Ngũ Long, người từng được mình giúp đỡ và dạy kèm tiếng Pháp trong thời gian ở Paris. Ở miền Nam không làm được chuyện
gì đáng kể, ra ứng cử Tổng thống cũng thất bại. Cuộc đời Nguyễn Thế Truyền đúng
là một chuỗi những việc “không thành.” Nhưng Vũ Hoàng Chương an ủi rằng Nguyễn
Thế Truyền đã không thất bại. Những cố gắng ấy (chẳng hạn việc kêu gọi lòng yêu
nước của người Việt sống ở Pháp) cũng đã gây được một số tiếng
vang, sự từ khước những đặc quyền đặc lợi người Pháp dành cho đã khiến chí sĩ họ
Nguyễn được nhiều người kính trọng, trong đó có thi nhân họ Vũ.
“Chỉ
chịu bó thân về với đất”
Theo người thư ký riêng thân tín của cụ
Nguyễn là ông Nguyễn Hữu Đĩnh thì khi cụ đau nặng, gia cảnh thanh bạch đến độ sau
khi được biết giá một cỗ áo quan, cụ đã nói, “Thôi, để bó chiếu!” Câu “chỉ chịu
bó thân về với đất” của Vũ Hoàng Chương còn ngụ ý: chẳng thà chịu bó chiếu chôn
xuống đất chứ cụ Nguyễn không chịu “bó thân” về với một thứ khác. “Thứ khác” ở đây có thể hiểu là “triều đình” như trong câu “Bó thân về với triều đình” Nguyễn Du dùng để mô tả thái độ của Từ Hải không muốn về hàng Hồ Tôn Hiến. Trước 1945, từng được học ở Pháp, hấp thụ lý tưởng Tự Do –
Bình Đẳng – Bác Ái do cuộc Cách mạng Pháp năm 1789 nêu ra, Nguyễn Thế Truyền
không chịu “bó thân” phục vụ chính quyền thuộc địa đang đàn áp những người yêu nước ở Việt
Nam. Trong giai đoạn đất nước chia đôi, tuy có tình nghĩa cũ, cụ không chịu “về
với triều đình” ở miền Bắc (chưa chắc toàn tính mạng), nhưng cũng không muốn “về
với triều đình” ở miền Nam (bằng cách ra tranh cử với vị Tổng thống đang nắm
quyền).
Chúng ta không có đủ tài liệu để có thể
biết rõ nếu liên danh của Nguyễn Thế
Truyền đắc cử Tổng thống và Phó Tổng thống năm 1961, cụ có sẽ hành động khác với vị Tổng thống đương nhiệm ở miền
Nam lúc ấy hay không. Nhưng qua sự kiện cụ ra ứng cử chung với một nhân sĩ miền
Nam là Hồ Nhựt Tân (quê ở Sa Đéc), qua tình thân của cụ với hai trí thức miền
Nam là Nguyễn An Ninh và Tạ Thu Thâu như trên đã nói, qua sự kiện tang lễ của cụ
được một nhân sĩ uy tín của miền Nam là cụ Phan Khắc Sửu đứng ra tổ chức, qua sự
kiện cụ được an táng tại nghĩa trang của Hội Gò Công Tương Tế, ta có thể phỏng
đoán: tuy sinh ra ở miền Bắc, một chính quyền Nam Việt Nam do Nguyễn Thế Truyền
thiết lập nhiều phần sẽ gần gũi với chính giới, nhân sĩ của miền Nam, và do đó
có thể sẽ ít bị cô lập hơn.
“Việt
Nam Hồn chợt lắng, một trời hiu hắt”:
Vũ Hoàng Chương muốn nói: đây là một tang lễ khiến linh hồn của đất
nước phải lắng xuống vì nỗi u buồn. Một người xuất sắc, đa tài, và yêu nước
như Nguyễn Thế Truyền đã phải chịu một cuộc sống quá gian nan. Sau khi đưa gia
đình về nước năm 1927, do từ khước cộng tác với chế độ cai trị, Nguyễn Thế Truyền
gặp rất nhiều khó khăn, thân quyến
bị trù giập. Hai người con gái, Nguyễn Trưng Trắc
và Nguyễn Trưng Nhị, tuy học rất giỏi, bị bác hồ sơ xin học bổng vì bị coi là
“những con rắn nhỏ,” lớn lên sẽ đánh Pháp như hai bà Trưng từng đánh Tàu trước
kia. Bà Nguyễn Thế Truyền là một người Pháp (tên thật Madeleine Marie-Clarisse Latour), theo chồng về Việt Nam, nhưng bà và các con bị nhóm thực dân Pháp ở Nam Định kỳ thị, đối xử tệ bạc.
Tháng 3 năm 1937, bà nhận làm y tá (nghề cũ từ khi ở bên Pháp) cho trường
Yersin ở Đà Lạt và đem các con vào đó. Khi bà mất giữa năm 1940, Nguyễn Thế
Truyền không được biết: các con viết báo tin nhưng nhà cầm quyền chặn thư. Sau
khi biết tin, Nguyễn Thế Truyền xin vào Đà Lạt thăm mộ vợ và thăm các con còn
nhỏ nhưng người Pháp lấy cớ “đang ở tình trạng bị quản thúc,” không cho.
Các con ông sau được các linh mục tại trường Yersin giúp, đưa ra ngoại quốc, người
ở Pháp, người ở Đức, người ở Anh. Từ khi ở Pháp về nước năm 1938, Nguyễn Thế
Truyền không được gặp vợ con. Sau khi bị quản thúc từ Madagascar về nước lần cuối
năm 1947, Nguyễn Thế Truyền không còn gia đình. Trong những năm cuối của cuộc đời,
nhà chí sĩ ái quốc sống cô đơn và chết trong cảnh rất nghèo.
“Nửa
mê chiều nửa tỉnh, kìa ai trút tiếng gọi vào đêm”:
Lời ngậm ngùi, than thở của Vũ Hoàng
Chương. Trong niềm xúc động mãnh liệt, nửa như
mê, nửa như tỉnh, dù có trút hết tiếng để gọi cũng chỉ là gọi vào bóng đêm,
không có hồi thanh. Với Nguyễn
Thế Truyền, Vũ Hoàng Chương vừa có lòng kính ngưỡng, vừa có niềm thương cảm xót
xa. Lòng thương cảm thi nhân họ Vũ dành cho
nhà ái quốc họ Nguyễn vô cùng sâu đậm.
Chí sĩ Nguyễn Thế Truyền năm 1967, hai
năm trước khi tạ thế
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương có nhiều bài thơ
bày tỏ niềm kính ngưỡng đối với các nhân vật lịch sử như Hai Bà Trưng, Trần Hưng
Đạo, Quang Trung, Phạm Hồng Thái …, có nhiều bài thơ về Nguyễn Du, một bài thơ
ca ngợi hòa thượng Thích Quảng Đức, một cặp câu đối và một bài văn tế dành cho
văn hào Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Nhưng hình như ông không làm bài nào cho
các nhân vật lịch sử trong khoảng 100 năm trở lại đây, kể cả những nhân vật được
nhiều người tung hô. Lòng kính trọng và thương tiếc ông dành cho chí sĩ Nguyễn
Thế Truyền là một tình cảm sâu đậm hiếm thấy.
Người viết những dòng này xin thành thật
cám ơn ông bạn Nguyễn Hữu Đĩnh đã chia sẻ một tài liệu hiếm quý, một trang thủ
bút có giá trị văn học và lịch sử được trân trọng gìn giữ suốt gần 50 năm qua,
kể cả trong chuyến vượt biên gian nan khỏi Việt Nam năm 1993. Cũng xin cám ơn
người bạn trẻ Nguyễn Vũ đã bỏ nhiều công phu chụp lại một trang giấy khổ lớn, bị
nhàu nát vì quá nhiều nếp gấp, thành một trang thủ bút đẹp, phẳng, và ngay ngắn,
được đưa ra phía trên. Xin được phổ biến trang thủ bút với nhiều điểm đặc biệt,
ít ai biết tới này nhân dịp Trung Thu năm 2016, để kỷ niệm kỳ giỗ năm thứ 47 của
chí sĩ ái quốc Nguyễn Thế Truyền, và năm thứ 40 của thi sĩ Vũ Hoàng Chương.
GHI CHÚ:
1.
“Nguyễn
An Ninh” theo Wikipedia, dẫn tài liệu
từ Lê Minh Quốc, Nguyễn An Ninh : dấu ấn để lại (Hà Nội : Văn Học,
1997). Hồng Hà, Thời thanh niên của Bác
Hồ (Hà Nội : Thanh Niên, 1976), trang
38; được trích dẫn trong: Thụy Khuê, Nhân
Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc (Falls Church, VA : Tiếng Quê Hương, 2012), trang
472.
2.
Thụy
Khuê, sách đã dẫn, trang 443.
3.
Nguyễn Duy Tiễu, “Cuộc đời bất đắc chí của Nguyễn Thế
Truyền và mối quan hệ của ông với lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc,” Thanh Niên (nhật báo, ngày 19/3/2004), đăng lại trên Việt Báo Online (quốc nội), cùng ngày:
4.
William
J. Duiker, Ho Chi Minh (New York :
Hyperion, 2000), trang 78, 85, 157.
Sophie
Quinn-Judge, Ho Chi Minh : The Missing
Years (Berkeley : Univ. of California Press, 2002), trang 39, 40, 41, 42,
118, 151, 190, 322, 329.
5.
Hoàng
Văn Chí, Từ Thực Dân đến Cộng Sản (S.l. : Chân Trời Mới, 1985), trang 63-64.
Trần Từ Mai