Theo nhà biên khảo Phan Huy Chú
trong thiên “Văn tịch chí” của bộ Lịch triều Hiến chương Loại chí, thì bên
cạnh bài “Thất trảm sớ” danh tiếng, nhà giáo dục Chu Văn An còn để lại nhiều
tác phẩm giá trị khác:
--Một
bộ sách biên khảo : Tứ thư
thuyết ước (gồm 10 quyển)
--Một
tập thơ chữ Hán : Tiều ẩn thi tập
Sau 20 năm dân tộc ta bị nhà Minh đô
hộ (1407-1427), cùng với “Thất trảm sớ,” tất cả các tác phẩm ấy đều đã bị thất
truyền. Nguyên nhân trực tiếp là việc tịch thu sách nhằm xóa hết dấu tích văn
hóa Đại Việt theo chỉ thị của Thành tổ nhà Minh. Hiện chỉ còn 12 bài thơ chữ
Hán do Phan Phu Tiên và Chu Xa sưu tầm được đưa vào Việt âm thi tập, và
về sau Lê Quý Đôn gom góp lại trong Toàn Việt thi lục.
Bài viết này nhằm mục đích giới
thiệu bài thơ “Miết trì” (Ao ba-ba), một tác phẩm quan trọng trong số 12 bài
thơ ấy. “Miết trì” vẫn được coi là một bài thơ nhà giáo dục họ Chu gửi nhiều
tâm sự, và đã được Đình nguyên Đinh Văn Chấp dịch cùng giới thiệu lần đầu trên Nam
phong tạp chí số 115 năm 1927. Trở lại với bài thơ này gần một thế kỷ sau,
chúng tôi xin chú giải rõ thêm. Đồng thời, tiếp theo bản dịch của vị Đình
nguyên triều Nguyễn (Đệ Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, khoa Quý Sửu 1913), cũng
xin giới thiệu một bản dịch nữa của một cựu học sinh trường Trung học Chu Văn
An trước năm 1975 ở Sàigòn.
NGHĨA:
Ánh trăng được phản chiếu trên mặt
nước bên cầu, đùa giỡn với ánh chiều tà
Hoa sen, lá sen yên lặng tựa vào
nhau
Cá bơi nổi trên ao cũ, rồng ở chốn
nào ?
Mây đầy núi vắng, hạc không về !
Quế già theo làn gió, mùi hương thơm
ngát đường đá
Đám rêu non được ngấm nước, che lấp
cánh cửa bằng gỗ thông.
Tấc lòng này chưa hẳn [nguội lạnh]
như tro, đất
[Mỗi khi] nghe nhắc tới vua trước, kín
đáo gạt nước mắt.
PHÂN TÍCH NỘI DUNG:
Theo Chu Tiên sinh hành trạng
thảo, “Miết trì” là tên một chiếc ao trong dãy núi Phượng Hoàng (nơi cụ Chu
về ẩn dật), nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. “Miết” có nghĩa là “con
ba-ba” và “Miết trì” là “ao ba-ba.” Tuy nhiên, bài thơ này không phải chỉ
tả cảnh. Từ cảnh tượng quanh ao, tác giả đã liên tưởng đến thời thế, và nhân
đó, bộc lộ tâm sự. Cũng có thể nói nhà giáo dục họ Chu đã mượn chuyện tả cảnh quanh
chiếc ao để đưa ra những nhận xét về tình trạng đất nước lúc đó và gửi gấm tâm
sự của mình.
Dựa vào sự kiện Miết trì ở trong núi
Phượng Hoàng, nhất là căn cứ vào hai câu cuối, chúng ta có thể phỏng đoán nhà
giáo dục họ Chu đã làm bài thơ này sau khi cụ dâng “Thất trảm sớ” nhưng không
được nghe theo, và đã cáo quan về hưu. Theo nhiều người đương thời, đối với
công danh, tấm lòng cụ lúc ấy đã “lạnh như tro đất.” Trong một bài thơ viết
tặng cụ, một tôn thất nhà Trần là Băng Hồ tướng công Trần Nguyên Đán (ông ngoại
của anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi sau này) đã có câu:
Phủ miện hoàn khuê tâm dĩ hôi
(Đối với những thứ mũ, áo của triều đình, với ngọc cầm tay [phẩm phục của vua
chư hầu và đại thần khi vào chầu thiên tử], lòng đã [nguội lạnh] như tro).
Qua hai câu cuối của bài “Miết trì,”
cụ cho biết: đối với công danh, chức tước, lòng cụ có thể lạnh như tro. Nhưng
với đất nước, nhất là mỗi khi nghĩ đến “tiên hoàng” (vị vua trước), cụ vẫn thầm
gạt nước mắt:
Văn thuyết tiên hoàng lệ ám huy.
Để có thể hiểu rõ hơn tâm sự của Chu
Văn An trong bài thơ, chúng ta hãy ôn lại đời cụ cùng tình trạng đất nước trước
khi cụ về ẩn dật.
Theo thần tích ở làng, cụ sinh năm
Nhâm Thìn 1292, cuối đời vua Trần Nhân tông. Theo sử, vị vua cử cụ làm Quốc tử
Tư nghiệp và trao cho nhiệm vụ dạy Thái tử là Trần Minh tông. Vị Thái tử học
trò của cụ là Thái tử Vượng, lên nối ngôi là vua Hiến tông. Nhưng Hiến tông mất
quá sớm khi mới được 23 tuổi khiến ngôi vua và đất nước về tay người em là Dụ
tông. Trong 16 năm đầu triều Dụ tông, chính sự chưa suy kém lắm vì Thượng hoàng
Minh tông còn sống, vẫn phần nào giám sát mọi việc. Nhưng từ 1358 trở đi, sau
khi Thượng hoàng Minh tông đã mất và một số đại thần đủ uy tín để có thể can
vua như các ông Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn ... qua đời, triều chính trở
nên suy tệ. Dụ tông ham chơi, mê cờ bạc, không lo việc triều chính, lại gần gũi
và nghe lời bọn tiểu nhân xu nịnh, xây cung điện tốn kém khiến dân oán và Chu Văn
An phải dâng “Thất trảm sớ.” Lời can không được nghe theo, cụ cáo quan về
hưu. Bài “Miết trì” đã được làm ra trong khung cảnh ấy.
Mở đầu bài thơ, tác giả phác họa
cảnh một buổi chiều tối đầu tháng với trăng mọc sớm:
Thủy
nguyệt kiều biên lộng tịch huy
Hà hoa
hà diệp tĩnh tương y.
Ánh trăng được phản chiếu trên mặt
nước cạnh cây cầu, đang lung linh nhảy múa như muốn đùa giỡn với ánh mặt trời
yếu nhạt của một ngày sắp tàn. Hoa sen, lá sen yên lặng dựa vào nhau. Mặt trời tượng trưng
cho vua. Mặt trăng tượng trưng bày tôi. Ánh mặt trời yếu nhạt lúc tà dương bị
ánh trăng đùa giỡn ngụ ý: ngôi vua đã thiếu vẻ tôn nghiêm, đang bị bề tôi (bọn
tiểu nhân rủ Dụ tông ham mê bài bạc) coi thường. Những người còn chút tư cách
(hoa sen, lá sen) chỉ còn biết lo lắng dựa vào nhau.
Ngư phù
cổ chiểu long hà tại
Vân mãn
không sơn hạc bất quy.
Cá đua nhau bơi nổi trên mặt ao,
không thấy rồng ở đâu. Núi vắng đầy mây phủ, hạc không trở về. “Rồng” chỉ vua,
hoặc tính cách thiêng liêng của ngôi vua. “Cá bơi nổi trên mặt ao” ngụ ý bọn
tiểu nhân đang đắc thế. Câu thơ có thể là lời than thở: vì ham chơi, thua cờ
bạc, phải vay tiền bọn tiểu nhân, Dụ tông không còn giữ được vẻ tôn nghiêm của
ngôi vua, khiến thể thống của triều đình, của quốc gia không còn. “Hạc” thường
được dùng trong văn chương để chỉ người quân tử. “Hạc không trở về” cho thấy
triều đình đã vắng những người quân tử có tư cách. “Rồng ở chốn nào” có thể cũng
hàm ngụ lòng nhớ tiếc của cụ đối với Thượng hoàng Minh tông, vị vua cử cụ làm
Quốc tử Tư nghiệp cùng trao cho cụ nhiệm vụ dạy Thái tử trước kia. Cũng có thể
chỉ vua Hiến tông, vị Thái tử học trò của cụ, nhưng mất sớm ở tuổi 23, khiến
ngôi vua và đất nước rơi vào tay Dụ
tông.
Lão quế
tùy phong hương thạch lộ
Nộn đài
trước thủy một tùng phi.
Mùi hương của cây quế già bay theo
chiều gió khiến con đường bằng đá thơm ngát. Đám rêu được ngấm nước lan rộng,
che kín cánh cửa bằng gỗ thông. “Cây quế già có hương thơm” có thể chỉ những
người có tư cách thanh cao, vẫn cố nêu gương tốt chốn dân gian. “Đám rêu đẫm
nước” để chỉ bọn tiểu nhân, trong khi “cánh cửa bằng gỗ thông” để chỉ người
quân tử. (Trong văn chương thời trước, các cây tùng, trúc, mai, thường được ví
với người quân tử, biết trọng và giữ tư cách). Được nước làm cho ướt đẫm, đám
rêu lan mạnh, che lấp hết cánh cửa bằng gỗ thông. Câu này có thể ngụ ý: sự
hoành hành của bọn tiểu nhân đã che lấp hết tiếng nói của những người ngay
thẳng.
Thốn tâm
thù vị như hôi thổ
Văn thuyết
tiên hoàng lệ ám huy.
Trong hoàn cảnh ấy, nhà giáo dục họ
Chu không phải chỉ có lòng nguội lạnh: mỗi khi nghe ai nhắc đến hai tiếng “vua
trước,” cụ lại thầm gạt lệ. Chúng ta không biết đích xác qua hai tiếng “tiên
hoàng,” cụ muốn nhắc tới vị vua nào. Có thể cụ muốn nói tới Hiến tông, vị vua
trẻ, mất sớm, từng là học trò của cụ. Nhưng cũng có thể là Minh tông, thân phụ
của Hiến tông và Dụ tông, vị vua trao cho cụ nhiệm vụ dạy Hiến tông trước kia.
Căn cứ vào sự kiện Hiến tông mất quá sớm (làm vua từ năm lên 10 tới năm 23,
suốt 13 năm trên ngôi dưới sự hướng dẫn của Thượng hoàng Minh tông, chưa có
hoàn cảnh tự quyết định những chuyện quan trọng), người viết những dòng này
đồng ý với đa số các nhà nghiên cứu lớp trước và cho rằng hai tiếng “tiên
hoàng” ở đây nhiều phần để chỉ vua Minh tông.
BẢN DỊCH CỦA ĐÌNH NGUYÊN ĐINH VĂN CHẤP:
Bên cầu trăng nước bóng chiều lồng
Chồng chất sen tươi lá lẫn bông.
Ao cũ cá bơi rồng khó thấy,
Non không mây tỏa hạc khôn trông!
Quế già theo gió thơm đường đá
Rêu biếc đầm mưa lấp cửa thông.
Tấc riêng chưa dễ thành tro bụi
Nghe nói vua xưa lệ ngập tròng.
(Nam
phong tạp chí số 115, năm 1927)
BẢN DỊCH CỦA TRẦN TỪ MAI:
Bên cầu
trăng nước giỡn chiều tà
Sen
lặng nương nhau lá đỡ hoa.
Ao cũ
cá đua, rồng khuất vắng
Non
không mây tỏa, hạc mờ xa.
Cửa
thông đẫm nước rêu loang kín
Lối đá
bay hương quế ngát đưa.
Chưa dễ
lòng này tro nguội hẳn
“Tiên
hoàng” nghe nhắc lệ thầm sa.
TRẦN TỪ MAI