Thursday, January 6, 2022

Nhất Linh - Đa Mê / Trần Mạnh Toàn

 Người đi biết độ nào về

Nhớ người lòng suối Đa-Mê gợn buồn - Nhất Linh 

Thất-bại hay nỗi ám-ảnh về nó đã bám chặt lấy mọi cảm giác hay suy nghĩ về quá khứ trong hơn một thế hệ đã qua hay chưa qua. Hiểu theo một ý nghĩa, người ta muốn rũ sạch nó trong một chuyến đi, nhân một lựa chọn năm nào - như trong Đêm Giã Từ Hà Nội hay Bếp Lửa chẳng hạn - nhưng vô hiệu. Nỗi thất-bại đã đủ tuổi hóa thạch và con người cũng thêm khôn ngoan khi chấp nhận sống chung thay vì cự tuyệt. Tâm trạng người thất-bại là cõi lòng ảm đạm của người giữ mộ như nhân vật trong Người Đồng Chí Cũ" Hãy cho tôi làm người canh coi cái nghĩa địa đó, làm ông từ giữ cái đền đài khói hương của đoàn thể đó." (33)

Cũng có thể hiểu điều mà thế hệ này làm là không muốn tái tục thất bại nữa. Không thể thay đổi vị trí hay hướng đi, họ không mong trông đợi ngoài cái cách ôm chặt nỗi đắng cay  như hình thức tự trừng phạt.

Mai Thảo vững tin ở thái độ trên trong giả thiết cách giải quyết cho chính mình trước tình thế buộc phải lên tiếng. Lý tưởng, cách mạng, thần tượng, chủ nghĩa... đều là ảo ảnh sẽ sớm tiêu tan do chính hoàn cảnh góp phần gây dựng nên chúng. Tính chất phiêu lưu của những chuyến lên đường, của những lần nhập cuộc đã khiến sự có mặt ngoạn mục và ngay tình của họ có ý nghĩa cuộc hiến tế cho những điều chính họ chống lại. Chuyện Một Người Mà Nhất Linh Là Thần Tượng (34) cho thấy nguyên do từ những non kém, sai lầm dẫn đến sự thất bại có tính chất quyết định và gần như chấm dứt sinh mệnh chính trị không chỉ riêng một tổ chức. Con người từng tận hiến cho sự say mê thần thánh, sau cái chết oan nghiệt của người con trai duy nhất tại Tam-đảo trong cuộc xâu xé đảng phái, đành tự chôn vùi trong nấm mồ im lặng cay đắng. Thái độ ấy tương tự phản ứng của người bị lừa dối ngay cả khi là nạn nhân của chính điều mình tin tưởng. Nó cũng có thể là một hình thức trả nợ của người chỉ còn trong lòng niềm ân hận là của tin duy nhất.

Những tâm-hồn-thất-bại của Mai Thảo dường như không ra khỏi cơn thất vọng kéo dài khi chưa có nỗi niềm nào có thể thay thế. Cái chết mòn (35) chưa đủ để cho phép họ rời khỏi vòng quay lịch sử hay lần lượt châu tuần bên đài tưởng mộ. Sự thất-bại đã loại trừ họ như gạt bỏ những quân bài đã đi. Những người đồng hóa ước mơ với thực tại đã sớm hồn nhiên trả giá cho việc cạn ly rượu ngà say choáng váng của chí lớn bốc lửa trước giao động lịch sử và bùng cháy thời thế (36) bằng việc kết thúc vai trò của một lớp người từng được lịch sử trông đợi phó thác.

Mặc dầu ban đầu có sự khác biệt trong quan niệm về văn học, một phần nghĩ rằng nghệ thuật không thể đứng ngoài cuộc sống sôi nổi trước mắt, Mai Thảo rốt cuộc đã chịu tiến đến gần hơn với Nhất Linh khi nhận ra sự viển vông của chủ nghĩa hay lý tưởng nghĩa là muốn con người cần tránh sự phân hóa, đối đầu mà chủ nghĩa hay lý tưởng là động lực phân ly mạnh mẽ. Văn chương phải là điểm hội tụ mà không là duyên cớ chia lìa nghĩa là phải là phản đề của chính trị và những môi giới của nó. Cái chết của thần tượng mà thế hệ Mai Thảo chứng kiến không chỉ báo hiệu sự mong đợi chấm dứt cơn mê cuồng sát. Thần tượng - sản phẩm của thói quen thiếu tự do - thường tỏ ra không quan tâm đến hoàn cảnh, điều kiện giúp nó ra đời và nuôi dưỡng.

Thực tế, có lẽ người được xem như thần tượng đã muốn tự chấm dứt vai trò trên khi thấy thói quen chiêm nghiệm sùng bái đã xâm nhập tâm hồn người chọn đường dù được hòa nhịp với những rung động về một viễn tượng đồng đẳng với tình yêu được mang danh sự say mê với lý tưởng. Có vẻ như người muốn chối từ vai trò thần tượng của nhân vật trong tiểu thuyết mà thế hệ say mê nó đã chuyển từ sự quyến rũ của một thời lãng mạn. Cũng có thể người không làm được việc này khi những người tin vào thần tượng trong văn chương đã hòa lẫn thực tế tiểu thuyết với thực tế cuộc đời. (37) Hãy xem thái độ thản nhiên của con người tham dự vào cuộc đảng tranh trong Giòng Sông Thanh Thủy, lãnh đạm cả trong việc thanh toán nhau thì mới thấy cõi lòng của người bị đặt vào vị thế thần tượng như Nhất Linh là muốn nhấc mình khỏi cái hào quang hư ảo.

Nắng chiều Đa-mê và loài hoa tìm bạn.

Thần tượng - giấc mơ suy đồi- đã đẩy cả hai, người được tấn phong và những người tín mộ, vào thế bất quân bình với thực tại. Riêng những người tin theo khó có thể tự thoát ra khỏi giấc mơ khi chỉ ở trạng thái này họ mới có cơ hội vùng vẫy. Văn chương thành chốn trú ẩn tuyệt vời vì chẳng những cung cấp cho họ một vai trò mà còn giúp họ nhìn về phía trước dù là ảo giác.

Trong mọi trường hợp, sự thất-bại trong việc nhận lãnh vai trò lịch sử và bỏ lỡ những cơ hội kế tiếp từ năm 1945 dường như đã san bằng mọi cách biệt hoàn cảnh, thân trạng cá nhân để cho thất vọng chán chường bám sát người thay cho chiếc bóng. Sự vùng vẫy của con người càng khiến sợi dây đau khổ thắt chặt thêm và ký ức trở thành bội phản khi thúc đẩy vào việc day dứt vết thương, căn gác Hàng Đàn thuở ấy. (38) Địa điểm của sự kết tập cho hoài bão năm nào đã chế ngự lối ra hay ngã rẽ của những linh hồn trở thành mong manh muốn tìm về bến lặng.

Chỉ có hiếm hoi là trường hợp Ả-Hẩu của Đỗ Tốn (39) là còn nguyên vẹn hương vị nồng nàn của tâm hồn buổi lên đường và sự thất bại mới chỉ để lại vết cau trên trán. Cũng có thể với thành phần này, nỗi thất cơ chưa kịp bén rễ đe dọa lòng người hoặc con người có lúc muốn đánh đổi giấc mộng cánh bằng của tuổi thanh xuân năm xưa bằng một lãnh địa êm ả cho tâm hồn hướng vọng từ tháng ngày hiện tại. Chiều nay giở lại trang tình cũ. (40) Cách trở về của con-người-thất-bại này là nâng niu tâm hồn trong cố gắng níu giữ nét lãng mạn của thời vừa tàn cuộc. Câu chuyện về một nhóm thanh niên bơ vơ lưu lạc ở Quảng Châu vì thất bại sau cuộc đảng tranh, được sự giúp đỡ, bảo bọc đặc biệt khác thường nơi một phụ nữ bản xứ tên Ả-Hẩu, có ý nghĩa như tia nắng ấm áp hiếm hoi xuất hiện giữa thực tại bị bủa vây bởi bạo lực, âm mưu, tham vọng. Những người thất bại trên chưa có ý nghĩ thoát ra khỏi sự thu hút hay kiềm tỏa của guồng máy nhưng không để  bị dính dấp nhiều hơn. Có thể những rung động tiềm ẩn nơi tâm hồn hồi sinh đã khiến họ không đi xa vào thế giới chịu sự can thiệp bằng lý tính. Họ may mắn hơn để không bị vây bọc, quỵ ngã trong thất vọng chán chường như phần lớn những người lỡ vận. Hình ảnh dõi bóng người ở lại khi chia tay, dưới một khía cạnh, còn có ý nghĩa của việc tìm kiếm được cho mình một chốn nương tựa hay ký thác niềm tin nơi một giá trị cần thiết.

Đỗ Tốn và những người đồng hành với ông đã có được nơi tin cậy và niềm tin không rời bỏ họ.

Nét lãng mạn trở nên lạc loài giữa thế giới vây bọc chặt chẽ trong tín điều và lý trí nhưng đưa họ đến bình an trong tâm tưởng. " Tôi vẫn đứng lặng bàng hoàng nhìn bóng dáng nàng bềnh bồng đi vào bóng lá. Tôi mơ, hay tỉnh, tôi thấy đầu như hơi lảo đảo choáng váng, tôi có cảm tưởng như mình hơi say, như mình vừa mục kích một bóng Hồ-ly-tinh thực thực hư hư đi tan biến vào cảnh vật huyền ảo của đêm trường.. Tôi đứng lặng như thế rất lâu !.. mùi dạ hương vẫn sực nức thơm hắc rất gắt làm tôi ngây ngất." (41)

Thất-bại  trùm phủ tâm hồn và lẽo đẽo như chiếc bóng nơi người từng được trông cậy trong một thời kỳ đầy rẫy ngờ vực, ly tán. Sự kín đáo im lặng cũng là một cách bày tỏ riêng nhưng cái dằng co bên trong lòng vượt thoát ra như cách giải thích hoàn cảnh éo le của người  trở thành địa bàn tương tranh giữa ý muốn cá nhân và sự thúc đẩy của hoàn cảnh, thời cuộc. Thân chim mỏi cánh bay về tổ / kiếp ngựa tù chân lại nhớ đường. (42)

Như thế con-người-thất-bại trong Nhất Linh phức hợp hơn và thái độ xem như minh triết của người nhìn về cuộc tranh giành thế lực vừa qua, mà sự thể hiện phần nào trong Giòng Sông Thanh Thủy (Đời Nay,1961) chỉ là một mặt của tâm trạng lưỡng diện, không ngừng khắc  khoải về tình trạng đối lập thường xuyên của nó. Tình trạng đối cực đạt tới mức tương phản cực đoan nhưng sự suy đoán này chỉ dựa vào sự có mặt của một bên được hiện thân bằng cánh lan rừng và mùi hương huyền hoặc. Nó là thứ hạnh phúc của trạng thái không vọng cầu, không ràng buộc dầu hiểu được khó khăn của việc gián cách. Một thoáng mơ tiên thoảng xuống trần.(43)

Chín bóng dáng lan rừng trong trọn bộ mười một giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay là từng ấy hiện thân của tư tưởng vượt thoát mà chuỗi thất-bại đã qua là điều kiện để người thức giác.

Nhưng, hương lan rừng không là cách chỉ điểm nơi ẩn giấu sự thất-bại vì người ta có thể lần theo mùi hương để bắt gặp tâm hồn người.

Lan rừng và hương của nó là chất dẫn xuất vào ước mơ trước khi là môi giới giúp nhận ra một trạng thái tâm hồn. Không là bằng chứng của thoát ly mà là trạng thái trong đó thực tại phải ẩn thân hay lui bước. " Mỗi lần được thấy giò lan Thanh Ngọc nở trong rừng sâu và thoảng đưa hương thơm, tôi cũng tưởng mình gặp tiên thật và vì thế mới có hai câu thơ : sắc trong Thanh Ngọc hương thơm mộng / một thoáng mơ tiên thoảng xuống trần. Có khi cùng đứng ngắm giò Thanh Ngọc ẩn hiện trong cỏ, bên bờ suối, hay rừng rậm, chúng tôi không biết mình đi kiếm hoa thật hay đang nằm mơ, nơm nớp sợ đó chỉ là "một thoáng mơ tiên thoảng xuống trần" rồi lại biến lên tiên mất." (44) Thế giới ấy còn thật mơ hồ như chính tâm trạng người khi đến gần nó. Mâu thuẫn nội tại gia tăng mỗi khi người vươn được đến gần nơi mong muốn. Nên dường như không chỉ người đồng điệu cũng nhận ra nỗi khó khăn của việc đặt chân và cái mong manh của việc xâm nhập được vào cõi hoài vọng. Thái độ chông chênh này của người không liên quan đến việc ý thức được trọn vẹn  câu " lợi danh đà ngán chuyện phù vân" (45) mà chính là người không chấp nhận nó như quan niệm giải thoát dành cho kẻ thất cơ. Mối tương quan với thế giới mới thật hàm hồ khiến cái nhìn mỗi người đem theo tâm sự riêng của họ. Nó được mệnh danh là thứ tình vương giả theo Bùi Khánh Đản ( say sưa chi mấy tình vương giả.) Với Nhất Anh, cõi

vẫn còn là giả định và đượm vẻ vô thường ( mơ tiên một thoáng xuống đời) (46) nghĩa là người ta còn hoài nghi khi cần phải nhận diện nó. Còn người thi hữu T.T.A. mượn thơ xưa gọi nó là thứ hạc mộng trường - giấc mộng tiên dài - nghĩa là nằm ngoài vòng ý thức.(47)

Riêng với Nhất Linh, dường như đóa lan rừng ngát hương mới chỉ là tượng hình nét đan thanh của một thế giới mong manh như chính vật biểu trưng. Càng nâng niu thì càng thấy nỗi khó khăn của tâm hồn chưa tìm được sự an trụ. Sự hòa nhập giữa tiểu ngã với thế giới khách quan vẫn còn là nhận thức, một ước mong hơn là thực tế. Lòng nước lòng người tình bất tận / trôi về hòa lẫn đại trùng dương. (48) Tương tự ý nghĩa của việc tượng hình hạt muối tan trong bát nước trong Giòng Sông Thanh Thủy, một thực tại bao hàm lẽ tự nhiên diễn ra trong êm ả, bình dị.

Cõi Nhất Linh tìm kiếm có người liên tưởng đến một thứ Đạo thoát thai từ hương lan rừng. Nhận xét ấy vẫn là giả định về một ngã rẽ cần thiết đối với người thấy cần ruồng bỏ quá khứ. Quá khứ sẽ biệt tăm nơi chỗ rẽ này và thời gian sẽ không bồi đắp để trở thành thạch hóa. Như đã nói, những người-thất-bại như Nhất Linh không có ý định xem hương lan rừng là phần thưởng cho sự thoái lui trong khi mối dằng co nội tâm chưa ngã ngũ. Ảnh hưởng của sự phân cực vẫn đè nặng trong lòng dù chỉ là vết thương tâm cảm. Ly đình tiếng sáo chiều ai oán / người hướng Tiêu tương kẻ hướng Tần. (49)

Rút cuộc, hương sắc lan rừng trở thành thứ ly gián thực tại với ước mơ mà dường như chỉ một vài tri kỷ quanh mình mới mẫn cảm phát giác khi nêu thành nghi vấn. Cánh mỏi sao mong tìm bến gió ? / màu tươi đành ủ dưới màn sương. (50)

Chưa kể việc khơi lại tro tàn còn có thể nhen nhóm ngọn lửa hồi sinh như Bùi Khánh Đản đã làm khiến cho người ta có thể nghĩ rằng hương rừng bảng lảng bên hoa là phút lưu luyến sau cùng khi cuộc tranh chấp trong lòng chưa kết thúc. Vũ Hán, Tô Châu.. chuyện cũ rồi / ván cờ thành bại, thế nhân ôi / trăng lu biển rộng không lầm hướng / sao sáng trời cao khó định ngôi.(51)

Có thể Bùi không tin nơi khả năng dẫn dắt của loài hoa hoang dã cũng như nghi ngờ sự đề kháng sức thu hút của sự nghiệp, tình nhà vẫn gửi cung Hồi-nhạn / nỗi nước thường chênh khúc Quá-quan (52) cũng như từng xem thường thất bại hay cảnh thất cơ, cười ngất gieo (reo) thơ vào vận lạc / hào quang chợt tỏa giữa u minh. (53)

Loài lan rừng nơi  Đa-mê vẫn ngát một thứ hương cứu rỗi, an ủy linh hồn người vấp ngã nơi những thời điểm quyết định nên vì thế có thể người không xem hoa là mối duyên nợ đơn thuần như Bùi Khánh Đản từng giục giã. Say sưa chi mấy tình vương giả  / mà để lòng quên nợ bốn phương.(54)

Bên những tri âm không trọn vẹn vì có khác biệt, có thể  sự dằng co trong lòng người thêm quyết liệt vì thêm một lần nữa, quá khứ hiển hiện và trở thành thách đố. Người đi chốn ấy chừng sai lối / ta đến nơi đây đã lạc đường, hay cay đắng: khúc bi ca tiếp vận / dở dang: thiên lệ sử thêm chương. (55)

Sự gián cách sau đó với cõi hạnh phúc được đánh dấu trong biến cố 11.11.1960 chỉ là một thử thách cần thiết cho quan niệm sống mà người tạo lập. Người trở về không phải với dư hương của đám lan rừng sau cuộc thí nghiệm thất bại sau cùng mà để hiểu thêm cái giới hạn trong mọi hướng đi. Lý tưởng hay tôn chỉ dẫn đường, trước sau, nguyên vẹn là đường một chiều và càng đi càng thấy xa nhau.

Hương sắc lan rừng người tìm thấy là môi sinh của giao cảm và tương phùng giúp con người đồng điệu hội ngộ như Nhất Linh từng mong đợi. Cảnh tiên còn gặp người tiên / đôi lòng muôn thuở còn nguyên vẹn lòng. (56)

Không xem hương sắc ấy là một cách nhận diện tâm hồn người chìm lắng trong nỗi thua thiệt không tan, người ta sẽ hiểu rằng việc tiếp tục xây dựng ước mơ trong thất bại chính là sự vượt qua chúng.

 Ý nghĩa sâu thẳm của loài hoa được thế thân.

" Dáng hoa như ẩn dáng người " ( Nhất Anh)

Con đường vượt qua thất-bại dường như có lộ trình tương tự con đường dẫn đến thành công khi con người không để hoàn cảnh ép buộc hay dẫn dắt. Họ giữ lấy hướng đi như người lữ khách đường xa dè sẻn từng giọt nước bên mình như Nhất Linh có lần đem theo hương lan vào giấc ngủ như thể không thể xa rời, dù trong khoảng thời gian nhất định, thế giới vừa được ký thác.(57) Thế giới ấy không thu hẹp bên bờ con suối vắng nơi cây số 27 Fin-nôm hay nơi căn nhà gỗ cất dở dang mang tên loài hoa được nâng niu chưa trọn, Thanh-ngọc đình. (58)

Loài hoa lan rừng và hương thơm của nó chỉ kịp mang ký hiệu của một ước vọng kín đáo ngay cả trong giấc mơ của người gửi gắm. Hương lan chưa đi xa hơn bước chân người . Nó lẩn khuất và có thể  ẩn giấu một sứ mệnh khác biệt với vẻ thanh thoát của một thứ môi giới tâm hồn biết rung động.

Hương lan xê dịch trong ước mơ thay thế mọi thứ vọng cầu sau khi đưa người giáp mặt với biểu-tượng không-thực phổ quát nhất : tiên. Dáng hoa như ẩn dáng người / nụ hoa như ẩn nụ cười trong mơ. (59)

Dầu được ký danh là Thanh Ngọc, Bạch Ngọc, Thanh Hạc, Thanh Ngà, Cẩm Báo, Văn Báo, Nhất Điểm hồng, Hạc Đính, Bạch Hạc, Huyết Nhung.. chúng đều là sứ giả của một cõi tìm về mà vẻ mơ hồ lại chính là bản chất.

Dường như những người thường lai vãng nơi cõi thanh u với lan và sau đó bên dòng Đa-mê thường bị chính bầy lan huyễn hoặc và ngăn chặn lối vào. Bùi Khánh Đản, Nhất Anh (Lê đình Gioãn), T.T.A...đều nghĩ mối tình ràng buộc với lan đã hình thành một hình thức đoạn tuyệt tương quan giữa người với thực tại khách quan. Say sưa chi mấy tình vương giả / mà để lòng quên nợ bốn phương. (60) Họ hài lòng với nghi dung của loài hoa chúa tể cõi vong ưu nghĩa là chấp nhận tiền đề của con đường giải thoát hoặc phần nào mang ý nghĩa tương tự.

Nhưng, tìm quên không phải là cuộc chia tay dễ dàng với thực tại khi thất bại không phải là kết quả duy nhất trong cuộc phấn đấu nhằm ghi dấu sự có mặt có ý nghĩa với cuộc thế. Chỉ khi nào quên là điều tình cờ, người mới thiết tha trong tình tri ngộ, mới xem hương lan mở lối vào một cõi mơ mà bản chất không xa sự ly gián với thực tại khiến Nhất Anh không xem như giấc mộng bình thường. Chàng biết non Tiên dài Mộng HẠC / khách buồn chí lớn lụy Tình VƯƠNG / bướm ong ai dệt nên lời thế ? / vân vũ VU SƠN uổng đoạn trường!!! (61)

Hương lan rừng chưa phải là chốn tìm về mặc dầu có đủ sức quyến rũ của thăng hoa. Căn gác trọ trên lầu 2 nhà hàng Poinsard &Veyret  Đà-lạt đủ giữ một tầm mắt chơi vơi giữa nơi thị tứ. Ngôi nhà đá lạnh lẽo trên dốc đèo Prenn mù sương sớm huyền-hoặc như trang sách liêu-trai mở ngỏ, hay ngôi nhà gỗ dở dang như mộng ước của người chỉ lấy tri âm là tiếng suối Đa-mê, tất cả đều nhầm lẫn khi được đặt vào vị trí để hương lan rừng có thể thênh thang về lại với trăng ngàn. Khi ấy tâm hồn người đã đạt tới cảnh giới mong chờ và loài hoa sứ giả phải trở về nơi trích xuất. Có thể nào trong một nỗi nhớ se lòng, Nhất Anh  trực giác được cảnh cũ đã xa rời giấc mộng chìm đắm  bấy lâu. Tỉnh ra này cảnh Đa-mê / hương thơm còn đượm nước khe, hồn người ! (62)

Con suối nhỏ chở nặng tâm hồn người đứng chờ nó bên dòng. Nhớ người lòng suối Đa-mê gợn buồn. (63) Ở một thời điểm, có thể nghĩ rằng, đây không còn là lúc Nhất Linh nhớ người xa, mà là người nhớ về chặng đường tâm tư đã qua khi còn mượn cánh lan rừng và hương ngây ngất làm môi giới. Đa-mê sẽ là chặng chuyển tiếp sau cùng, trong giả thiết người đi hết con đường đã mong ước. Người ta tìm thấy nơi đây những thứ người xếp đặt như hành trang và những thứ cần bỏ lại và cả lược đồ của chốn dừng chân như là điểm đến. Ánh lửa bập bùng soi bóng quây quần trong đêm giao thừa duy nhất bên bờ suối năm 1959. Nhịp võng hững hờ như ngọn gió vô tình lật từng trang bản thảo viết lại nhiều lần Xóm Cầu Mới. Và cả chân dung những sứ giả của một cõi tiên - từ Thanh Ngọc đến  Cẩm Báo - được ghi lại từ nhan sắc của rừng sâu. Tiếng hắc tiêu não nùng như nhan đề dành cho một ước hẹn - Hẹn Một Ngày Về - nhưng tan tác như muốn chôn vùi một quá khứ. (64) Tiếng hắc tiêu không chỉ gợi ra việc lặp lại một giai đoạn giả trang, đối phó với những ngờ vực vây quanh mà còn như muốn đáp lại lời mời gọi một cảnh giới êm đềm như vọng tưởng. Âm thanh trong nhịp 3/4 Andante, từ non cao vời người rồi dắt người hội ngộ với nhan sắc của một cõi trữ tình có ái ân, luyến nhớ. Về đây trong hoa lá hỡi cánh chim giang hồ / về đây trong hương sắc thắm tươi say mơ... ...Tình xưa không vỡ bao giờ / mùa xưa còn thơm ngàn gió / chiều hè về trong sương khói mong manh / chờ người về trong hương thu trong xanh.(65)

Tất cả không phải là thứ mang theo. Chúng không dính líu trực tiếp đến chuỗi ngày xuôi ngược trầm luân trong toan tính của nước cờ nhưng là bóng dáng bước đi của nhận thức mới. Cả hương lan cũng cần ở lại. Cuộc lên đường lần này không cần những thứ trên đưa tiễn.

Những trang chép truyện Cô Mùi in trong số báo đầu Văn Hóa Ngày Nay 17.6.1958 (66) có ý nghĩa những tờ giấy bỏ trắng về mặt gửi gắm ký thác. Chẳng những truyện không nhằm cống hiến  một luận đề xã hội hay quan điểm gia đình mà những nhân vật chỉ là hiện thân của mối tương quan không giềng mối, không hẹn định, chẳng cưỡng cầu, giữa sự có mặt tình cờ như lạc loài vào một nơi chẳng còn gì vướng mắc. Như anh chàng phu xe tên Nhỡ trong đêm ngủ lại hàng cơm người góa phụ trẻ tên Hòa hay thằng Tý  nhà bác Lê với cái đắc ý lừa được chú heo về chuồng là những nét chấm phá đậm ý nghĩa của một cõi nhân sinh thanh khiết có sự ngự trị của bản năng mà không nhuốm tục lụy.

Người chẳng cần gì đem theo ngoại trừ tâm hồn luôn mở rộng cho ý niệm tuyệt đối.

Như đã trình bầy, tâm hồn người bên suối Đa-mê là nơi dàn trải những hướng về siêu nhiên và phi ngã. Cõi tiên hay người tiên chỉ là biểu tượng của một cách hình dung quen thuộc từng khiến ta lầm với cõi mộng giải thoát.

Vũ Hoàng Chương đã hình dung tương quan giữa Nhất Linh và thế giới tự tạo bên mình nhân khi người ra đi như một sự gãy đổ. Bướm trắng bay đi... Bầy lan run rẩy mộng / gai rừng khuya xé rách cánh bơ vơ. (67) Người ra đi biền biệt và cảnh giới người an định cũng phải thiệt thòi. Một cõi mộng đã không còn và con người bị xô ra ngoài thực tại nghiệt ngã.

Cũng có thể nghĩ rằng những thất bại năm nào làm nền móng cho thế giới này xuất hiện và vươn cao cũng là nguyên nhân xa gần khiến con người trở về với giới hạn thông thường của ý thức về hiện hữu. Con người không thể lần lượt đạt tới hai đối cực luôn luôn phủ định lẫn nhau như những giá trị đối lập. Lý tưởng cho đất nước mà Nhất Linh hoài bão nghịch hướng với thế giới cho cá nhân mà ông vọng cầu và tìm được an ủy. Thế giới ấy mới được hình dung mà chưa được đặt chân khiến cho Đa-mê chỉ có ý nghĩa của khoảng cách xa nhất tính từ nơi lưu dấu chuỗi ngày lưu lạc. Đa-mê không còn là bậc thềm của thế giới trông chờ khi vị trí của nó hôm nay được tính từ tọa độ của quá khứ.

Cõi mà Nhất Linh hướng về  - không phải chỉ từ bối cảnh triệt thoái nơi suối rừng Đa-mê mà có dáng nhiều hơn của một trạng thái tâm hồn nghĩa là thuộc về ý thức và tâm cảm.

Dường như có lúc Nhất Linh cũng cảm thấy tự hoài nghi về việc đạt tới cõi mà ông hướng vọng, một cõi lòng mở rộng cho hòa hợp, giao cảm và tuyệt không có sự đề kháng chối từ. Những dao động mạnh mẽ trong tâm hồn Nhất Linh mà đến người thân cũng không nhận thấy rõ nguyên nhân có thể là những lúc người bị thôi thúc quyết liệt phải đối diện với thực tại.(68) Hiểu như thế, Đa-mê là cố gắng biểu kiến sau cùng dứt khoát với quá khứ để tiến tới cõi vọng cầu trước khi cũng là thất bại cuối cùng trong mong ước đó.

Từ đấy, ta mới thấy những tâm hồn đồng điệu với người ít nhiều đã sớm nhận ra tính chất tạm bợ của một chốn dừng chân như Đa-mê với hương lan rừng vây quanh như cầm giữ vô vọng một tâm hồn bồn chồn vì dang dở. Thơ không viết cho lan mà vì người nên âm thầm đa nghĩa. Trăng trùm núi thẳm duyên xưa đượm / sắc ẩn rừng già nợ cũ vương. (69)

Thơ đôi lúc là sự chất vấn lòng về sự chung thủy dành cho một cõi thăng hoa mà không nhân danh quá khứ phiêu bồng. Ai về bến cũ sông Xuân ấy / ngắm hộ bông lan có đổi màu ? (70) Lan có thay màu hay tình người bên nó đã phai. Hay Nhất Anh - một người bạn lan -  đã có linh tính việc thời gian giục giã.

Mặc dầu Bùi Khánh Đản, sau này, tự nhận về trách nhiệm đã nhắc nhở bạn về một quá khứ chưa kịp thanh thỏa, mà để lòng quên nợ bốn phương, hoặc gián tiếp nhắc đến cái ngang tàng trong một giai đoạn cần có giữa lúc đi tìm cái đẹp ẩn náu trong cõi tịch mịch. Nhớ phen ném bút chôn tin tưởng / lửa đốt rừng hoang, tôi với anh. (71) Không ít người linh cảm khung trời Đa-mê không chứa đựng hết tâm sự của người trở về bên bầy lan rừng lặng tiếng. Nhưng chẳng ai có thể biết được tiếng thở dài dấu mình trong âm thanh chiếc hắc tiêu chiều chiều giao hưởng với suối buồn. Người bạn cùng thú chơi lan cũng không thể gạn hỏi hoa rừng giai điệu bất chợt như nghẹn lời chùng xuống. (72)

Trong tâm trạng có thể bắt gặp như thế, chỉ có gốc thông già cỗi bên đường trước cửa ngôi nhà đá đầu dốc đèo Đặng Thái Thân mang dáng vẻ người bạn đồng hành cùng sương gió năm nào là có thể gửi gió thay người tiếng reo bất tận của một thân phận dãi dầu. (73)

Trong trường hợp này, Nhất Linh đã chọn đối thoại với thiên nhiên, hay nói đúng hơn, cậy hoa rừng, lan rừng, thông rừng, suối rừng, trăng rừng...lên tiếng. Những trang dịch dở dang Đỉnh Gió Hú ( Wuthering Heights) dường như ngoài mục đích dẫn chứng cho sự bênh vực tính chất bền vững lâu dài của tác phẩm theo một quan niệm văn chương mà có thể còn được xem như hợp âm với tiếng gió rì rào không dứt quanh ngôi nhà bằng đá trong lũng sâu hoang tưởng. Khuôn cửa kính màu đêm mang ảo giác hoang đường của tuổi thơ lại có ý nghĩa của cái nhìn về vẻ hiu quạnh vây bọc từ một nỗi nghi ngờ. Nỗi cô đơn của người trên đường đời dường như được soi tỏ dưới ánh sáng thêm vàng vọt bên bóng đêm lộng gió. Nỗi cô đơn ấy đã giành lấy cây bút trong tay và đẩy người đi xa hơn vào vùng tìm kiếm.

Lũng sâu đầu đèo Prenn tuy khuất nẻo vẫn là nơi pha trộn giữa ước mơ với thực tại, giữa cách ly tự nguyện với thoái lui miễn cưỡng. Cô đơn là ý thức về thực tại. Người chưa thoát ra khỏi việc ám ảnh vây bọc này nên hình bóng và hương lan rừng chỉ làm trọn điều giải muộn và được đền đáp bằng những âm thanh chắt lọc từ hơi thở. (74) Như hoa Mặc Lan không thể khiến hương của nó giấu mình trong đêm, người cần đi xa thêm trước khi nỗi hoài nghi lớn dần và dấu chân thực tại theo bén gót. (75)

Sáng sáng đánh thức bầy lan bằng âm thanh. Chiều chiều vỗ về chúng bằng hơi thở giai điệu. Cõi huyền ảo ấy vẫn là một thế giới cách điệu của ngậm ngùi đổ vỡ. Trong hương lan mộc mạc lại phảng phất hương trầm của tưởng tiếc. Mỗi sớm, người đón nắng mai về với lan như thể gieo mình vào ánh sáng. Thung lũng cao nguyên Prenn hiến cho mọi người, cho người cháu Thế Uyên, một mẫu đất thánh bình an trong quên lãng. Với người, khung cảnh ấy lại khiến người hoài nghi chính mình về năng lực đón nhận, được phỏng ước trong câu thơ tình cờ. Người đi chốn ấy chừng sai lối / ta đến nơi đây đã lạc đường. (76)

Những người bạn tâm giao qua hương lan rừng, chỉ có thể thoáng ngờ vực về cõi mà họ giao tiếp dầu còn ẩn khuất như trong đám sương mù dầy đặc của tình cờ. Người ta không khỏi ngạc nhiên trước sự kiện mà họ tưởng là một kết thúc trong bước lùi xuất thế. Ai đưa tôi đến chốn này / rừng sâu thấy cánh lan gầy mà thương. (77)

Những người của thế hệ thất-bại đã qua thường tự đánh đắm mình trong ngọn triều vô vọng. Phút chiêu hồn bạn cũng là lúc tự vỗ về chiếc bóng bảng lảng của quá khứ lây lứt với tháng ngày còn lại của người chiến sĩ cũ  Bùi Xuân Uyên. Muốn say ta uống đến giờ chưa say / gọi hồn bình nhật / đồng chí nào đây / không hương ta đốt lòng này tạ nhau. (78) Hoặc là lấp đầy ngày tháng bằng sự trống rỗng hoàn toàn của tâm hồn và tư tưởng như một nhân vật tiêu trầm trong Ung Thư của Thanh Tâm Tuyền. (79)

Nhưng, những đóa lan rừng đã tạo nên ảo giác đối với những người chung quanh về một cõi mà chính ban đầu Nhất Linh có thể cũng không hoài nghi về khả năng mời mọc. Văn hữu mơ lan để lạc đường. (80)

" Tòa nhà của ông Hy lấy tên là Đỉnh Gió Hú: sở dĩ gọi "gió hú" vì những khi trời bão, gió lồng lộng hú lên trong tòa nhà đó. Trên mỏm cao ấy chắc quanh năm không khí trong lành, Người ta biết ngay gió bấc trên đó thổi rất mạnh vì những cây thông cằn mọc ở đầu nhà nghiêng hẳn về một phía và một dẫy cây gai chĩa cành về một bên như muốn rướn ra đớp lấy ánh sáng mặt trời. Cũng may tòa nhà xây cất chắc chắn, cửa sổ hẹp thụt sâu vào tường và có viền đá nhô ra để chắn gió." (81)

--------------------------------

Đỉnh Gió Hú trên trang sách dịch đã có hiện thân bằng chính ngôi nhà bên dốc đèo hằng đêm kể lể thân phận bằng tiếng gió. Qua khúc quanh cuối của một chuỗi bẩy-mươi-chín khúc quanh trên đường đèo Prenn, rồi men theo con đường nhỏ bên tay phải không kém quanh co, lổn nhổn cuội và đá thì bắt gặp một trong những kiểu thức mẫu mực kiến trúc phương Tây chơ vơ với hai cội thông khắc khổ bên đường.  Ngôi nhà như cố bám lấy triền cao thung lũng để cho tầng trên được ngang vai với mặt đường. Hai cặp mái chen nhau ngang dọc dốc ngược như muốn trút cạn ánh trăng rừng xuống lớp lá rụng. Sau nhà, giàn su chĩu trái xanh ngọc thạch bên những ngọn non tuôn ra mơn mởn, vừa là dấu hiệu không phải căn nhà hoang vừa tương phản với một vùng cỏ áy, xen lẫn bụi ngũ sắc cằn và hàng rào gỗ rời rạc chắp vá. Nhưng chốn u tịch không phải là nơi thực sự bình yên khi người còn bị đánh thức vì những liên tưởng với ngoại giới. Đêm đêm gió vặn mình dọc theo vách tường đá hoa cương trước khi gieo xuống thung lũng ngàn thông. Âm vọng lại chỉ là tiếng hú tựa như ngậm đắng. Nhất Linh dưới ánh đèn cúi xuống trang sách hiu quạnh như chính lòng mình đang khép lại. Chốn người mơ về trống vắng như khoảng không nhưng không quạnh quẽ bơ vơ như thế. Bầy lan rừng trốn tránh nơi đây bỗng chốc thành những vật che chở cho người. Người nhanh chóng nhập bọn sống chung với lan rừng thay vì chỉ xem là những người dẫn lối. Họ - người và bầy lan - cảm hóa lẫn nhau và đôi lúc ngỡ rằng lan rừng thắng thế. Say sưa chi mấy tình vương giả. Người ở lại bên lan trong ý nghĩa không bước xa hơn vào cõi đang tìm kiếm, chốn mà người đã phác họa bằng ước mơ và trực giác chứ không bằng rung động của cảm giác của tâm hồn trong trinh như đối với bầy lan hoang dã.

Thung lũng ướt sương đêm dưới kia sẽ được ban mai trút đầy ánh sáng nhưng giờ đây chìm trong tối đen ngờ vực. Thung lũng hồng mà người đời ký danh cho nó chỉ phản chiếu cái nhìn trong trẻo nơi những người trẻ tuổi ngoài cuộc. Gọi gió lên thung lũng hồng mây trôi bềnh bồng  / hạt nắng lung linh tím dần mong manh thu vàng. (82)

Ngôi nhà số 19 mang đến huyễn tưởng của tuổi trẻ nhưng với người trải qua sương gió lại là thách thức với quá khứ mang theo và chưa dễ gì rũ sạch.(83) Bầy lan hoang dại giúp gì người trong những nửa đêm thức giấc. Ban ngày người có gốc thông già trước cửa làm bạn cùng một nỗi cô đơn trong thân thế dãi dầu - vẻ đẹp khắc khổ nhưng tiêu sái của tâm hồn - mà dường như chỉ có người cháu Thế Uyên nhận thấy. (84)

Nơi cư trú đầu đèo dường như lại khiến người thêm đăm chiêu trong cô quạnh vơi đầy. Thực tại mà người cố tình đẩy lui trong bản thảo cuốn sách viết từ 17 năm trước - 1940 tại Hà-nội - giữa lúc còn là điều mời mọc, nay không là sự thực dễ dàng ruồng rẫy như mối cô quạnh vây quanh ngôi nhà số 19. Người sống trong sự tin tưởng nhiều năm về một chủ kiến văn chương nhưng thực tại vẫn tiếp tục diễn ra trong những giới hạn sẵn có.

Cõi riêng của người được hương lan rừng vây quanh nhưng thực tại không ngừng chất vấn sự có mặt của nó. Việc người đoạn tình với chặng đường lưu lạc rốt cuộc cũng tương tự  thái độ cực đoan của một nhà văn khi muốn ly khai một hướng sáng tác.

Ngôi nhà đầu dốc thực tế không còn là nơi ẩn cư khi người còn cảm thấy cần một nơi cách biệt, quên lãng. Mộng đã qua rồi, hoa còn đây. (85)

Nơi sống và cõi riêng được người chăm chút - hiểu theo trọn nghĩa - lại là nơi khó thêm nấn ná. Bầy lan được kiều dưỡng bên mình nhưng chỗ đứng vẫn là nơi dành cho hàng tân khách.(86) Không gian huyền-hoặc làm se lòng người ngoài cuộc như cảm thông hơn là làm hài lòng họ về bầu khí thoát ly nơi "giang sơn" của chủ nhân. Gió đêm len lỏi qua tầng gác xép đem cái hoài nghi của thế giới bên ngoài đến với cả bầy lan được phép nhập cư. Rồi bóng đêm tiếp tục đồng lõa với cô đơn vây bọc người có khiến lan rừng thổn thức trong mơ. Từ đây xa sông bến / thuyền lướt theo trăng ngà / trời đầy sương lạnh lẽo / có ai bơ vơ.(87)

Tiếng hắc tiêu dành cho bầy lan bấy giờ thực ra là tiếng tự nhủ lòng về một quá khứ chưa nguôi, về một mạch sầu chưa dứt.(88) Ngày về đã hẹn, bên đường đã thấy lan rừng chào đón.

Hai năm trước, khi vượt 8 cây số rưỡi đường đèo để vào lòng Đà-lạt, gặp mặt gần như hàng ngày chiếc hồ chở một mùi hương - Xuân Hương, người đã thêm một lần thử thách lòng mình với quá khứ. (89) Với người, chốn cao nguyên này còn giữ chiếc gương dấu kín hình bóng những ngày đương đầu quyết liệt với thực tại của tháng tư, tháng 5 năm 1946.  Ngọn tháp trường Yersin nhô lên từ xa giữa cận cảnh không gian xanh của hồ và rặng thông mà từ  khách sạn dành cho người trưởng đoàn phó hội năm xưa có thể thấy được trong bồn chồn, nay lại được nối liền bằng tầm mắt và bước chân của người muốn tìm quên. " Đôi mắt to nhưng ra vẻ mệt nhọc hay chán chường "  trong hội nghị năm nào dường như vẫn là dáng vẻ hôm nay của người muốn đóng vai kẻ hành hương dĩ vãng.(90)

Không chỉ căn phòng trọ số 17 đường Yersin chỉ cách Hotel du Parc của người trưởng đoàn có mấy lòng đường mà từ ngôi nhà đá Đặng Thái Thân qua lữ quán chẳng-ưu-phiền ( Hotel sans souci) rẽ trái là đến nơi trú của những ngày phó hội.

Người về Đa-mê vào tháng 10-1957 như bút tự đánh dấu ngày viết lại Xóm Cầu Mới bên dòng suối (13.10.1957) hay ngày ghi lại nhan sắc loài thổ lan ông yêu quý nhất, lan Thanh Ngọc ( 28.10.1957.) Tất cả đều ghi lấy dòng Đa-mê như làm chốn luân lưu cho hoài vọng mới của tâm hồn. Đến Đa-mê, có thể người muốn đi xa hơn hay chỉ là để dứt khỏi nơi ám ảnh của cô đơn ít ra là những đêm tiếng gió vi vu khi đối bóng. Ở đây, thiên nhiên hòa nhập hơn và hơn thế, thay lòng người tạ khách. Nhớ người lòng suối Đa-mê gợn buồn. Đa-mê vượt khỏi nơi trú chân và tưởng như là chỗ đặt những bước sau cùng trước khi đến một nơi tương tự hòa điệu với cái không.

Nhưng người ta không thể xác tín về mức độ tín hiệu của loài hoa nơi Đa-mê như họ thường không mấy khó khăn gửi lòng vào tiếng suối hay mây ngàn những nơi đặt chân đến.

Lan Thanh-Ngọc, loài sứ giả được người gửi gắm hơn cả, là loại thổ lan từng lạc loài bên suối vắng, từng được hiện thân trên nét vẽ và thơ đề, phải là ước vọng của tâm hồn vô nhiễm ngay cả khi bị cuốn hút vào guồng máy của âm mưu và quyền lực. Hiện ra trên giấy,  loại lan mảnh mai, lá như mũi kiếm, hoa óng ả nhàn nhạt sắc vàng chanh, cánh xếp quanh như ngôi sao lạ. Nét trong trinh tâm hồn được hiện thân sau này trong hai nhân vật Thanh và Ngọc trong Giòng Sông Thanh Thủy (28.11.1960 - 8.01.1961) là cách biện bạch cho một lớp người trước sự lựa chọn ngang trái với bản chất.

Lan được mệnh danh là tiên. Mơ tiên một thoáng xuống đời. Người cũng tự ghép mình vào cõi này như một cách liên kết ước mơ với thực tại.

Như đã nói, lan chỉ là sứ giả dẫn đường, không phải con đường hay là đạo như những người lầm lẫn trong cách nhận diện không gian bị chúng huyễn hoặc.

Dường như phần nào Đa-mê đã dứt người ra khỏi cô đơn hay nói đúng hơn, nhận ra cái vô nghĩa của tác động khách quan khi ta dửng dưng trước hết thảy. Ngoại vật không còn ám ảnh hay đe dọa người khi tương quan giữa chúng và người chỉ là ảo giác của người trong cuộc. " Tâm hồn luôn luôn phiêu phiêu trong một niềm vui, mình cảm thấy niềm vui ấy như không bao giờ  hết nữa và hơi rờn rợn sợ có cảm tưởng rằng cái gì cũng không thật, đời sống chỉ là mơ, niềm vui ấy  chỉ là mơ.(...) Và cả vũ trụ này nữa khi đến ngày tận thế chắc cũng vậy, cũng biến thành một niềm vui để rồi cứ thế mà hòa loãng và tan dần đi trong cái mênh mông của hư vô. Không có sự chết và không có sự sống. Mà cả đến cái hư vô nữa, cũng không có." (91).

Có thể khi nghiêng mình bên bờ suối vốc bụm nước trong, người nhận ra lẽ dịch biến, tuần hoàn của vạn vật. Như hương lan, tiếng tiêu, dòng suối đều hòa nhập, thấm nhuần hay tan loãng vào không gian, chẳng đọng lại, chẳng đóng băng như tâm trạng người luân lạc.

Giây phút ngắn ngủi tao ngộ với điều vừa tìm kiếm được lại long lanh hiện về khi người có dịp đặt bút như thể chiêm nghiệm lại cảm giác mới của lần dấn thân sau cùng. " Thế là hoa đã biến vào vực thẳm. Lúc nãy tôi muốn nhẩy xuống là để biết vực thẳm, hư vô ra sao, chắc cũng có thú của một hạt muối tan trong nước..." (92)

Giòng Sông Thanh-Thủy, như thế, là lời cuối cho cuộc đi tìm chân lý của một bên mà Nhất Linh thường cáo giác vẻ hoang đường của nó. (93) Cạnh đó, có thể nào, cuộc trở về  mang màu sắc chính trị ấy lại có ý nghĩa của cuộc trắc nghiệm ý thức tìm lại thực tại trong tự nguyện mà không là bị cuốn hút.

Tiếng suối, hương lan, nhịp võng không làm người nguôi được bồn chồn, thấp thỏm như mong ngóng. (94)

Như thế, dòng suối Đa-mê ít nhiều đã dẫn dắt khơi nguồn cho giòng sông thanh-thủy về một ý thức về cuộc đời, điều mà Nhất Linh luôn nhắc đến trong nỗi quan hoài của người chờ đợi. Nhớ người lòng suối Đa-mê gợn buồn.

Rốt lại, Đa-mê đã phụ rẫy bầy lan rừng. Người luân lưu giữa hai đối cực như để khỏi phụ lòng mình trong lúc vẫn không hoài nghi về một cõi trong trinh dành cho tâm hồn vừa để dành cho loài hoa tỏa hương bên suối.


Chú thích :

 (33) Mai Thảo, Người Đồng Chí Cũ, Văn, số 7, 1.4.1964, tr. 77.

(34) in trong Văn, số 37, 1.7.1965 dưới tên Nguyễn Đăng, một bút hiệu của Mai Thảo dùng trong các bài điểm phim trên tuần báo Điện Ảnh.

(35) " ...cuộc đời thoi thóp ấy chỉ còn là cái lạnh tanh rùng rợn của một cái chết dần mòn." ( Nguyễn Đăng, Chuyện Một Người Mà Nhất Linh Là Thần Tượng, Văn, số 37, 1.7.1965, tr. 87.)

(36) Nguyễn Đăng, sđd, tr. 91.

(37)  Nguyễn Đăng, Chuyện Một Người Mà Nhất Linh Là Thần Tượng, Văn, số 37, 1.7.1965, tr. 93.

(38) Căn gác Hàng Đàn là nơi một số phần tử trong nhóm Hưng Việt gồm Đỗ Đình Đạo, Bùi Tất Cường, Nguyễn Gia Trí... tụ tập làm báo Việt Nam chống lại tổ chức Việt Minh trong giai đoạn có cuộc đảng tranh năm 1945 ( Bùi Xuân Uyên,  Khóc Hưng Việt Và Các Đồng Chí Cũ, Bách Khoa, số 359, 15.12.1971, tr. 74.

(39) nhan đề một truyện ngắn của Đỗ Tốn khởi đăng trên giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay, tập 9 ( giấy phép ngày 23.01.1959 tại Sài gòn) và kế tiếp trong tập 10 ( gp 18.3.1959) và tập 11 ( gp 16.5.1959.) Trong tập 9, nhan đề truyện và trong truyện ghi là " Ả-Hầu."

Đỗ Tốn (1921-1973) tên thật Đỗ Đình Tốn, sinh quán tại Vĩnh Yên, là em ruột Đỗ Đình Đạo, và là tác giả tập truyện Hoa Vông Vang ( Đời Nay,1945 ) do Nhất Linh đề tựa. Ông còn là một thành phần hoạt động mật thiết trong tổ chức  Đại Việt Dân Chính của Nguyễn Tường Tam từ khi lẩn  trốn sang Trung Hoa lần đầu.

Theo GS Trần Huy Bích, thì  " thực ra hai ông ( Đỗ Tốn và Đỗ Đình Đạo ) là anh em con chú con bác (cùng là cháu nội cụ Đô thống Đỗ Đình Thuật). Ông Tốn nhỏ tuổi hơn, nhưng lại là vai anh của ông Đạo (1911-1954)."

(40) một trong hai câu thơ đặt trên đầu truyện: chiều nay giở lại trang tình cũ / ta viết ra  đây một quãng đời.

(41) Đỗ Tốn, Ả-Hẩu, Văn Hóa Ngày Nay, tập 11, gp 16.5.1959, tr. 67.

(42) Theo T.T.A. trong phụ chú bài thơ Lời Hoa Lan Gửi in trên  Văn Hóa Ngày Nay, tập Xuân ( gp 5.01.1959), trang 188, đây là 2 câu tức cảnh của Nhất Linh về cuộc đời phiêu lưu khi đi khi về của mình.

(43) thơ Nhất Linh vịnh lan Thanh-Ngọc ( Văn Hóa Ngày Nay, tập 2, gp 29.5.1958, tr.195.)

(44)  Nhất Linh, Mấy Lời Về Lan Thanh Ngọc, Văn Hóa Ngày Nay, sđd, tr. 195.

(45)  T.T.A., Tặng Nhất Linh Trở Lại Làng Văn, Văn Hóa Ngày Nay, tập 7, gp ngày 8.11.1958 và 4.12.1958, tr. 80.

(46) Nhất Anh, Hoa Lan Rừng Đa-Mê, Văn Hóa Ngày Nay, giai phẩm Xuân, gp 5.01.1959, tr. 194.

(47) " Thơ xưa gửi tặng người hoa hữu / "trần mộng na tri hạc mộng trần" trong bài Lời Hoa Lan Gửi của T.T.A. in trong Văn Hóa Ngày Nay, giai phẩm Xuân, 5.01.1959, tr. 188.

(48) Nhất Linh, Bên Suối Vàng, Văn Hóa Ngày Nay, sđd, tr. 9.

(49) Nhất Linh dịch bài thơ Hoài Thủy Biệt Hữu của Trịnh Cốc, Văn Hóa Ngày Nay, giai phẩm Xuân, sđd, tr. 7.

(50) T.T.A., Lời Hoa Lan Gửi, Văn Hóa Ngày Nay, giai phẩm Xuân, sđd, tr. 188. Theo lời chú, hai câu trên để  đáp lại 2 câu thơ tức cảnh về cuộc đời mình của Nhất Linh, " Thân chim mỏi cánh mong về tổ  / kiếp ngựa tù chân lại nhớ đường."

(51) Bùi Khánh Đản, Thành Ý, Văn Hóa Ngày Nay, tập 11, gp ngày 16.5.1959, tr. 83.

(52) Bùi Khánh Đản, Nghe Đàn, Văn Hóa Ngày Nay, tập 7, gp ngày 8.11.1958 và 4.12.1958, tr. 69.

(53) Bùi Khánh Đản, Bài Thơ Đập Chén, Văn Hóa Ngày Nay, tập 7, tr. 32.

(54) Bùi Khánh Đản, Đề Hoa Phong Lan, Văn Hóa Ngày Nay, giai phẩm Xuân, gp 5.01.1959, tr. 191.

(55) Bùi Khánh Đản, Thu Dĩ Vãng, bài 2, Văn Hóa Ngày Nay, giai phẩm Xuân, tr. 70.

(56) Thơ Nhất Linh đề bức tranh ngoại bản Cúc Xưa, tranh bìa giai phẩm Xuân Văn Hóa Ngày Nay 1959.

Tranh Nhất Linh vẽ chậu cúc do Hoàng Đạo mua về bày Tết trong thời gian lưu lạc ở Quảng Đông năm 1940 ( sđd, tr. 188.)

(57) " có lần được cụm Thanh Ngọc nở hoa đẹp, tôi đã bưng cả chậu lan vào màn và nằm ngủ với lan suốt một đêm... " ( Nhất Linh, Lan Thanh Ngọc, Văn Hóa Ngày Nay, tập 2, tr.195)

(58) Suối Đa-mê, nơi Nhất Linh họa kiểu và dựng ngôi nhà gỗ mái tranh  ở cây số 27 thuộc quốc lộ 20 trên đường Sài gòn-Đalat, đi sâu vào trong khoảng 1 km. Ngôi nhà - mới chỉ có mái và bộ sườn - sụp đổ trong một trận giông vào một đêm sau tết  Kỷ Hợi 1959. ( Nguyễn Tường Thiết, Thanh Ngọc Đình Tết Xưa, in trong Nhất Linh Cha Tôi, Văn Mới, California, 2006)

(59) Nhất Linh, Lan Thanh Ngọc, Văn Hóa Ngày Nay, tập 2, tr. 195.

(60) Bùi Khánh Đản, Đề Hoa Phong Lan, Văn Hóa Ngày Nay, giai phẩm Xuân, 5.01.1959, tr. 191.

(61) Lê-Đình, Tặng Nhất Linh, Văn Hóa Ngày Nay, giai phẩm Xuân, 5.01.1959, tr. 201.

(62) Nhất Anh, Hoa Lan Rừng Đa-Mê, Văn Hóa Ngày Nay, giai phẩm Xuân, 5.01.1959, tr. 194.

(63)  Câu thơ trên ( ghi thêm ngày 19.1.1959) cũng được Nhất Linh đề dưới bức tranh suối Đa-mê do ông vẽ và treo trong căn nhà ở tạm trong khu vực suối Đa-mê ( Nguyễn Tường Thiết, Thanh Ngọc đình - Tết xưa, in trong  Nhất Linh Cha Tôi, Văn Mới,  California, 2006, tr.275.

(64) Bản nhạc Hẹn Môt Ngày Về của Lê Hữu Mục, Tinh Hoa, Huế, 1955. Thời gian Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn gia Trí bị an trí tại Vụ Bản, Nhất Linh gia nhập Orchestre Amateur của Lê ngọc Huỳnh để che mắt mật thám theo dõi. Trong ban nhạc này Lê Hữu Mục ( tác giả Hẹn Một Ngày Về),Thẩm Oánh chơi saxophone, còn Nhất Linh chơi hắc tiêu ( clairinette) ( Nhật Thịnh, Chân Dung Nhất Linh, bản in lại của Đại Nam, tr. 134-135)

(65) ca từ Hẹn Môt Ngày Về của Lê Hữu Mục, Tinh Hoa, Huế, 1955. Nhất Linh rất thích bản nhạc này và thường chơi.

(66)  tập 1 Văn Hóa Ngày Nay là tập duy nhất ghi ngày xuất bản trên trang bìa, những số kế tiếp không ghi như trên.

(67) Vũ Hoàng Chương, Nhịp Cầu, Văn, số 14, 15.7.1964, .82.

(68) Theo lời kể của Nguyễn Tường Thiết, Nhất Linh nhiều khi khóc vào ban đêm nhưng " không ai có thể đoán biết ông khóc cái gì, ngay cả mẹ tôi cũng không thể nào biết được. Nhưng sự khám phá này đã gieo vào tuổi thơ của tôi ấn tượng mạnh mẽ, rằng cha tôi là một người cô đơn và đau khổ." ( Võ Phiến, Đọc Bản Thảo Của Nhất Linh, Thế Kỷ 21, số 159, tháng 7.2002, tr. 16.)

(69) Nhất Anh, Đề Hoa Phong Lan, Văn Hóa Ngày Nay, giai phẩm Xuân, 5.01.1959, tr. 191.

(70) Nhất Anh, Xuân Đã Về Rồi, Văn Hóa Ngày Nay, giai phẩm Xuân, tr. 117.

(71) Bùi Khánh Đản, Lâng Lâng, Văn Hóa Ngày Nay, tập 11, gp 16.5.1959, tr. 81. Câu trên ghi lại kỷ niệm một đêm Nhất Linh rủ ông vào rừng đốt lửa tìm loài lan quý ( Khóc Bạn, Văn, số 14, 7.7.1964, tr. 85.)

(72) " Chúng tôi tôn trọng cái không khí thanh bạch, cao quí, thần tiên của cuộc chơi kỳ thú của khung cảnh núi rừng hùng vĩ, của những đóa hoa sơn dã, của giòng suối trong xanh và niềm vui hồn hậu của những tâm hồn bạn. Tuy nhiên những lúc ngồi bên bờ suối, nghe anh Tam thổi hắc tiêu, tôi không khỏi xót đau, thắc mắc. Anh Tam quên sứ mạng của anh rồi ư ?" ( Tô Kiều Ngân, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam Thổi Kèn Giữa Rừng Lan, dẫn trong Chân Dung Nhất Linh, Nhật Thịnh, bản in lại của Đại Nam, tr. 158.)

Tô Kiều Ngân, Đỗ Tốn.. là mấy người thường cùng Nhất Linh đi tìm lan ở vùng rừng suối Đa-mê và vùng lân cận Đàlạt vào dịp cuối tuần.

(73) Theo Thế Uyên, Nhất Linh rất thích cây thông trước nhà này, " ngồi ngắm hàng giờ. Bảo nó có một vẻ đẹp tuyệt hảo." ( Thế Uyên, Người Bác, Văn, số 14, 15.7.1064, tr. 59.)

(74) " Buổi chiều, ngồi trên thành cửa sổ trên lầu ngắm sương mù bốc từ thung lũng lên, tôi nghe thấy tiếng hắc tiêu từ phòng khách phía dưới âm điệu buồn điệp khúc bản  Je vais à ton marriage. " Cậu tôi thổi cho lan nghe đấy.." (Thế Uyên, Người Bác, Văn, số 14, 15.7.1964, tr. 62.)

(75)  Mặc lan hoa đen như mực nhưng " mùi hoa ban đêm tỏa xa vô cùng" ( Thế Uyên, Người Bác, Văn, số 14, 15.7.1964, tr. 62.)

(76) thơ Bùi Khánh Đản họa vận, Thu Dĩ Vãng ( bài 2), Văn Hóa Ngày Nay, giai phẩm Xuân, 1959, tr. 69.

(77) Nhất Anh, Hoa Lan Rừng Đa-mê, Văn Hóa Ngày Nay, giai phẩm Xuân, 1959, tr. 194.

(78) Bùi Xuân Uyên, Khóc Hưng Việt Và Các Đồng Chí Cũ, Bách Khoa, số  359, 15.12.1971, tr.74.

(79) Thanh Tâm Tuyền, Ung Thư, Văn, số 41, 01.9.1965, tr. 95.

(80) Lê Đình, Tặng Nhất Linh, Văn Hóa Ngày Nay, giai phẩm Xuân, 1959, tr. 201.

(81) Nhất Linh, Đỉnh Gió Hú, Văn Mới, California, 2007, tr. 22.

Theo Nguyễn Tường Thiết, bản dịch khởi sự vào ngày 19.12.1950, tiếp tục vào những mốc thời gian 27.6.1960 và 18.1.1962 và chưa hoàn tất. Sơ bản do nhà Phượng Giang in năm 1974 với phần dịch tiếp của Trương Bảo Sơn. Ấn bản 2007 do Nguyễn Tường Thiết dịch tiếp phần còn lại và đánh máy lại bản thảo cũ.

( Nguyễn Tường Thiết, Dịch Giả Nhất Linh 1906-1963 Và Đỉnh Gió Hú, Đỉnh Gió Hú, phần đầu sách.)

(82) Thung Lũng Hồng, nhạc và lời ca của Phạm Mạnh Cương.

(83) Theo Nguyễn Tường Thiết và người chị, ngôi nhà trên có ma." Nó hiện ra sau cái cửa sổ kính kia vào môt đêm mưa bão. Đêm ấy nơi cửa sổ kính lóe lên một lằn chớp. Tôi thấy sau những giọt nước mưa chạy ngoằn ngoèo trên mặt kính là khuôn mặt tái nhợt ướt át của một cô con gái ở ngoài nhìn trừng trừng vào trong." ( Nguyễn Tường Thiết, Dẫn Vào Gió Hú, lời đầu tập Đỉnh Gió Hú, Văn Mới, California, 2007, tr.15.)

(84) Thế Uyên, Người Bác, Văn, số 14, 15.7.1964, tr. 60.

(85) Nguyệt Kiều Khanh, Văn Hóa Ngày Nay, tập 7, tháng 11&12.1958, tr. 87.

(86)  Phòng khách ngôi nhà là " giang sơn " của Nhất Linh, ông bầy lan đầy phòng và  giữ gìn thật sạch sẽ. " Mỗi tháng một lần tôi thấy ông cụ bò trên sàn nhà lấy giẻ bôi xi-ra đánh bóng từng phiến gỗ một" ( Nguyễn Tường Thiết, Dẫn Vào Gió Hú, lời đầu tập Đỉnh Gió Hú, Văn Mới, California, 2007, tr. 14.)

(87) Hẹn Một Ngày Về, nhạc và lời ca của Lê Hữu Mục, Tinh Hoa, Huế, 1955.

(88) Theo Nguyễn Tường Thiết, vào một ngày cuối tuần ở Đàlạt đang chơi hắc tiêu bài Hẹn Một Ngày Về thì tác giả bản nhạc ( Lê Hữu Mục) từ Huế vào. Ông đã đưa ông Mục đến suối Đa-mê gặp Nhất Linh. Ông Mục lưu lại đây trò chuyện và lấy tài liệu để viết cuốn Thân Thế và Sự Nghiệp Nhất Linh ( Nhận Thức, Huế, 1958) ( Nhất Linh Cha Tôi in trong tập truyện cùng tên, Văn Mới, California, 2006, tr. 28.) 

(88) Ở Đa-mê, Nhất Linh trú trong một ngôi nhà nhỏ trên khoảng đất mới mua bên bờ suối, không điện nước. Trước sau, ngôi nhà ông tự tay vẽ kiểu và dựng lên gọi là Thanh-Ngọc đình bị giông gió làm sụp đổ vào đầu năm 1959 và chẳng bao giờ hoàn thành. ( Nguyễn Tường Thiết, Thanh Ngọc đình - Tết Xưa, in trong Nhất Linh Cha Tôi, Văn Mới, California, 2006.)

(89) Cũng theo Nguyễn Tường Thiết, Nhất Linh thích đi bộ, ngày cả chục cây số. Mỗi sáng từ nhà trọ ở 12 Yersin ( nhà hàng Poinsard & Veyret), ông xuống khu chợ Hòa Bình ăn điểm tâm, rồi đi vòng đến bờ hồ Xuân Hương, vượt qua mấy ngọn đồi đến tận hồ Than Thở. ( Nhất Linh Cha Tôi, Văn Mới, 2006, tr. 20.)

(90)  Câu mô tả Trưởng đoàn Việt Nam Nguyễn Tường Tam tham dự hội nghị sơ bộ Việt-Pháp tại Đà lạt trong hồi ký của Hoàng Xuân Hãn, Một Vài Ký Vãng Về Hội Nghị Đà-Lạt, tập san Sử Địa, số đặc khảo Dalat,  xuân Nhâm Tý,1971, tr.221.

(91) Nhất Linh, Lòng Tiên Khi Đắc Đạo, Văn Hóa Ngày Nay, tập 4, gp 16.8.1958 và 9.9.1958.

(92) Nhất Linh, Giòng Sông Thanh Thủy - Chi Bộ Hai Người, Văn Mới, California, 2003, tr. 225

(93) Nhất Linh ghi ở trang đầu sách câu của Pascal, " Vérité en décà des Pyrénées, erreur au delà " ( Bên này dẫy núi Pyrénées là sự thực, bên kia là sai lầm)

(94) Trong dịp đón Tết năm 1959 ở vùng suối Đa-mê, Nhất Linh có nói với bác sĩ Nguyễn hữu Phiếm việc ông mắc chứng " hồi hộp không duyên cớ, lúc nào cũng ở tâm trạng y như người sắp sửa đi thi." ( Nguyễn Tường Thiết, Thanh Ngọc Đình Tết Xưa, trong Nhất Linh Cha Tôi, Văn Mới, 2006, tr. 276.)

TRẦN MẠNH TOÀN