Để giới thiệu 12 bài thơ “Đọc lại người xưa” thi sĩ Vũ Hoàng Chương làm trong năm 1976, trong thời gian bị giam ở khám Chí Hòa và ít ngày sau khi từ Chí Hòa về, người viết những dòng này đã trình bày một cách khái quát trên tạp chí điện tử Diễn Đàn Thế Kỷ cuối tháng 10-2016:
Sau đó, chúng tôi có dịp nói rõ
thêm trên trang blog cá nhân đầu tháng 11-2016:
Nhật báo Người Việt ở California tóm tắt lại chuyện ấy giữa tháng 12-2016:
Năm 2012, khi in 12 bài thơ ấy
ra ở trong nước, nhà thơ Hoàng Hương Trang nói rõ: những bài ấy đều có “ngụ ý
kín đáo của thi sĩ Vũ Hoàng Chương” nhưng “phải đọc kỹ mới nhận thấy.”
Chúng tôi đã thử phân tích ý tưởng
của Vũ Hoàng Chương trong bài thơ ông làm nhân cảm hứng từ bài thơ của viên tướng
Trung Hoa Bành Ngọc Lân đời Thanh, phổ biến trên Diễn Đàn Thế Kỷ giữa tháng 1-2013:
và trình bày lại một cách chi
tiết hơn trên trang blog cá nhân giữa tháng 7-2016:
Hôm nay xin được viết tiếp để
thử tìm xem thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã muốn nói gì với chúng ta trong bài thơ
ông làm nhân cảm hứng từ bài thơ của Trần Đào đời Đường.
Trước
hết, xin chép lại nguyên văn bài thơ của Vũ Hoàng Chương cùng hai câu thơ của
Trần Đào, những câu đã khơi nguồn cảm hứng cho ông:
Ý
nghĩa hai câu thơ của Trần Đào:
Đây là hai câu thơ đa số người
Việt Nam đã biết, một phần nhờ hai câu của Nguyễn Du trong Truyện Kiều:
Ngẫm
từ dấy việc binh đao
Đống
xương Vô Định đã cao bằng đầu.
Đó là hai câu cuối trong bài
“Lũng Tây hành” của Trần Đào, một thi nhân cuối đời Đường. Toàn thể bài thơ như
sau:
Diễn
ra văn xuôi, những câu ấy có nghĩa như sau:
Thề quét sạch
giặc Hung Nô không đoái đến thân mình
Năm ngàn binh
sĩ mặc áo bằng da con điêu chôn xác trong bụi đất Hồ
Đáng thương
cho đống xương bên bờ sông Vô Định
Vẫn còn là người
trong giấc mơ của kẻ ở phòng khuê.
Đây
là một bài thơ viết về chiến tranh với ý xót thương. Người ra đi chết đã từ
lâu, chỉ còn là một đống xương bên bờ một dòng sông xa xăm nhưng những người vợ,
người yêu đang chờ đợi ở nhà vẫn không được biết, đêm đêm vẫn ôm ấp bao mộng đẹp
với hình bóng “chàng.”
“Lũng
Tây hành” có thể dịch là “khúc ngâm ở đất Lũng Tây,” một địa danh nay ở tỉnh
Cam Túc, phía Tây Bắc Trung Hoa. “Vô Định hà” là một con sông chảy qua tỉnh Thiểm
Tây, cũng ở Tây Bắc Trung Hoa. Con sông này là nơi bao chiến sĩ Trung Hoa đã bỏ
mình khi đi đánh Hung Nô.
Bài
thơ có thể tạm dịch như sau:
Một nguyện quên thân quét rợ Hồ
Năm ngàn chôn xác đất Hung nô.
Thương ơi, xương trắng bờ Vô Định
Nay vẫn phòng ai giữa giấc mơ.
hay:
Quét Hung nô, mạng chẳng cần
Năm ngàn anh tuấn vùi thân đất
Hồ.
Sông Vô Định, đống xương khô
Đêm đêm vẫn dệt giấc mơ khuê
phòng.
Bài “Đọc
lại người xưa: Trần Đào” của Vũ Hoàng Chương đã được cảm hứng từ hai câu cuối của
bài thơ này. Chúng ta cùng thử tìm ý tưởng trong bài thơ của Vũ Hoàng Chương.
Mười
câu đầu không có gì đặc sắc. Tác giả chỉ khai triển ý của Trần Đào: Đêm đêm
chàng vẫn trở về trong giấc mơ, trẻ trung, đầy cảm xúc. Hàng ngày, hàng tháng,
rồi hàng năm, nàng vẫn chờ đợi, đâu biết rằng chàng đã trở thành một nắm xương
khô trắng ở bờ sông bãi cát bên trời. Vũ Hoàng Chương bày tỏ niềm cảm thương đối
với nàng: những muốn “trăm năm tạc một chữ đồng,” ngờ đâu hiện nay đang “lẻ một
nét sầu” đến tận xương. Ý tưởng then chốt của nhà thơ họ Vũ nằm trong hai câu kết:
Là Nam Bắc, là âm dương
Lệ hay máu rỏ con đường nào đây.
Con
đường nào đã gây nên bao nhiêu thảm cảnh, máu và nước mắt như thế?
Con đường ấy có ý niệm “Nam Bắc,”
nhưng cũng có ý niệm “âm dương” (sống và chết). Chúng ta bàng hoàng nhận ra: Vũ
Hoàng Chương muốn nói, “Con đường khiến bao nhiêu máu và nước mắt chảy xuống là
con đường gắn liền với khẩu hiệu ‘Sinh Bắc, tử Nam’ (sinh ra ở đất Bắc, chết ở
miền Nam). Đó là con đường lôi cuốn và thúc đẩy bao nhiêu thanh niên miền Bắc vượt
gian khổ vào đánh miền Nam, say sưa với khẩu hiệu “tuy sinh ở đất Bắc, sẵn sàng
chết ở miền Nam.” Con đường ấy cũng làm bao nhiêu thanh niên miền Nam chết oan
(vì không muốn bị xâm chiếm). Đó là một con đường mòn sau trở thành xa lộ, mang
tên nhân vật lãnh đạo “thần tượng” của miền Bắc: “Đường mòn Hồ Chí Minh.”
Trước
ngày 30 tháng 4 năm 1975, Vũ Hoàng Chương cũng nhiều lần bày tỏ nỗi đau xót trước
cuộc chiến giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam. Sau biến cố Mậu Thân 1968, bàng
hoàng trước những thương vong khủng khiếp trong dân chúng cũng như trong quân đội
cả hai phía, ông đã viết trong một bài lục bát lấy nhan đề “Chơi xuân”:
Bao nhiêu chàng trai ra đi
Bấy nhiêu cô gái đến thì hỏi xuân
Hết quan, tàn mấy miền dân
Cớ sao còn chửa kéo quân vơ về?
Trong
trò chơi “ô quan” của trẻ con miền Bắc thời trước, hai ô lớn hình bán nguyệt ở
hai đầu bàn ô được gọi là hai nhà “quan.” Trong khi chơi, nếu cả hai ô ấy đều
không còn viên sỏi nào, sẽ gọi là “hết quan.” Khi “quan” đã hết, người chơi ngồi
ở hai phía bàn ô được quyền kéo hết các viên sỏi trong những ô phía gần mình về,
ai được nhiều sỏi hơn là thắng: “Hết quan, tàn dân, thu quân kéo về.” Ông mượn luật chơi ô quan của trẻ con thời
trước để hỏi cả hai phía tham chiến: “Nay đã hết quan, tàn hại bao nhiêu miền
dân chúng rồi, sao vẫn chưa chịu ‘thu quân kéo về’?”
Ông
phác họa cảnh một cô gái mới lớn, chưa biết yêu và còn ham chơi, ngồi một mình
chơi ô quan. Vì không người cùng chơi, cô đã kiêm cả hai phía, tự mình đấu với
mình một cách hăng say:
Riêng ai tóc mới buông thề
Vần
thơ yêu bỏ lạc đề sau lưng
Trò
chơi sỏi đá tưng bừng
Đàn năm ngón ngọc qua từng cửa ô.
Vì
kiêm cả hai phía nên cô vừa thua vừa được. Phía “hình” thua, phía “bóng” được.
Tuy có một phía “được” nhưng cô cũng mệt nhoài. Ông không nói cô gái ham chơi,
hiếu thắng ấy là ai, nhưng cho biết trò chơi này có hai thủ đô là “Nghé” (Bến
Nghé = Sài Gòn) và “Rồng” (Thăng Long = Hà Nội):
Nghé kêu, Rồng quẫy hai đô
Sỏi khan rồi, đá cũng khô tâm tình.
Vậy cô
gái thơ dại ấy chính là cô gái Việt Nam. Rõ ràng là một bài thơ chỉ trích cuộc
chiến huynh đệ tương tàn nhưng Vũ Hoàng Chương không buộc tội riêng phía nào.
Ông chỉ ngỏ ý trách: Sao cả hai phía cùng hăng say đến như thế?:
Sỏi khan rồi, đá cũng khô tâm tình.
Khi
chuyện “được” chỉ là cái bóng (hư danh), nhưng chuyện “thua” chính là hình hài
(thân thể), ông hỏi xem cô bé ham chơi, hiếu thắng ấy “có thấy vui hay không”:
Được thua mình chỉ với mình
Hình thua, bóng được, cô mình buồn, vui?
Bài
thơ này được in trong tập Tân Thi
(Sài Gòn : Nam Chi Tùng Thư, 1970), là bài thơ thứ 4 trong tập thơ.
Đầu năm
Nhâm Tý 1972, ông cho đăng trên báo Xuân bài thơ khai bút như sau:
Trường chinh mộng hậu tức phong yên
Thiên lý long câu, vạn lý thuyền
Hốt ngộ tiền thân: nhất yển thử
Ẩm hà mãn phúc, túy xuân thiên.
(Sau
giấc mộng trường chinh, gió và khói đã tắt
Một con “thiên lý
long câu” [ngựa hay, mỗi ngày đi ngàn dặm] và một chiếc “vạn lý thuyền” [thuyền
tốt, có thể vượt vạn dặm]
Chợt
nhận ra tiền thân của mình: vốn là một con chuột
Uống
nước sông đầy một bụng [ngụ ý uống thỏa thích], say với trời xuân).
Vũ
Hoàng Chương đưa ra một mơ ước: Sau “giấc mộng trường chinh” thì “thiên lý long
câu” và “vạn lý thuyền” sẽ cùng nhận ra rằng dù được gọi bằng những từ hoa mỹ
nhất thì mình cũng chỉ là “ngựa” và “thuyền” cho người ta ngồi lên, điều khiển.
Ham danh tiếng hão (chẳng hạn “đạo quân tiên phong của thế giới vô sản,” hay “tiền
đồn của thế giới tự do” ...) chỉ khiến người ta trở nên dại dột, tự nguyện làm
phương tiện cho kẻ khác cưỡi lên, lao vào một cuộc chiến mà nguyên nhân chính
là quyền lợi của kẻ khác. Hậu quả là thân thể đầy thương tích. Trong năm Nhâm
Tý (năm chuột), ông ước mong khi khói lửa đã tắt, cả “long câu” và “thuyền” sẽ
cùng nhận ra tiền thân của mình, vốn là một con chuột (chắc ông muốn nói tới
chuột đồng) trong hạnh phúc đơn giản, uống nước sông thỏa thích, vui với trời
xuân. Bản tiếng Việt của ông như sau:
Giấc mộng trường chinh lửa ngút mây
Tỉnh ra, ngựa đấy với thuyền đây
nhìn nhau: Chuột nhỏ tung tăng dạo
vừa uống sông xuân một bụng đầy.
Bài
thơ này sau được in lại trong tập Chúng
ta mất hết chỉ còn nhau (Paris : Rừng Trúc, 1974).
Tóm lại,
sinh làm dân Việt sống qua những năm 1945-1975, chứng kiến bao thảm cảnh của cuộc
chiến nồi da nấu thịt, nguồn cảm hứng của Vũ Hoàng Chương trong bài thơ này
không khác nguồn cảm hứng của Giản Chi trong những câu:
Giật mình đợt súng xa đưa
Niềm quê hương chẳng gió mưa cũng buồn.
Hay của
Đông Hồ trong những câu:
Giao thừa đâu nữa trầm phun xạ ?
Nguyên đán về đây gió vẫn tanh !
Tóm lại,
đó là nỗi buồn vì chiến tranh một cách “chung chung.” Tuy ý tưởng và ngôn từ của
Vũ Hoàng Chương có phần mạnh hơn của Giản Chi và Đông Hồ, nhưng trước ngày
30-4-1975, Vũ Hoàng Chương không nêu riêng một phía nào để chỉ trích.
Điều ấy
thay đổi hẳn sau ngày 30-4-1975. Trong bài “Đọc lại người xưa: Bành Ngọc Lân,” chúng
ta thấy Vũ Hoàng Chương đã nói rõ: dân chúng miền Nam dửng dưng, không “hồ hởi”
chút nào trước những huênh hoang “giải phóng” miền Nam của nhà cầm quyền miền Bắc.
Trong bài “Đọc lại người xưa: Trần Đào” này, ông nói thêm: bao nhiêu đau thương
cuộc chiến tranh gây ra là do chủ trương quyết chiếm miền Nam của những người cầm
quyền miền Bắc, do khẩu hiệu “sinh Bắc tử Nam” họ đưa ra để dụ dỗ và thúc đẩy
thanh niên miền Bắc lên đường. Con đường khiến máu và nước mắt đổ xuống là con
đường vừa “Nam Bắc” nhưng cũng vừa “âm dương,” đường mòn Hồ Chí Minh. Nói cách
khác, Vũ Hoàng Chương quy thẳng trách nhiệm cuộc chiến huynh đệ tương tàn trước
năm 1975 lên những người cầm đầu chế độ cộng sản ở Hà Nội.
Tuy “đọc
kỹ mới nhận thấy” nhưng khi thấy thì ý tưởng hiện ra rất rõ. Có lẽ vì thế sau
khi từ nhà giam Chí Hòa về cuối tháng 8-1976, thi sĩ Vũ Hoàng Chương không dám
để bài thơ này (cùng 11 bài thơ khác cùng loạt) ở nhà. Ông bà tin chắc nhà sẽ bị
khám và thơ sẽ bị tịch thu hay thiêu hủy. Vì thế khi nhà thơ Hoàng Hương Trang đến
thăm, ông bà Vũ Hoàng Chương đã giao cho Hoàng Hương Trang đem về cất giữ. Tuy
những bài ấy được gửi ra quốc ngoại cho người viết những dòng này và nhà thơ
Cao Tiêu năm 2007, nhà thơ Hoàng Hương Trang đợi thêm 5 năm nữa, đến 2012 mới cho
in ra ở trong nước. Chúng ta thành thật cám ơn nhà thơ Hoàng Hương Trang đã
không quản nguy hiểm tới bản thân, cố bảo vệ những thi phẩm mang ý nghĩa chứng nhân
trong một giai đoạn lịch sử quan trọng, nhờ thế chúng không bị mai một.
TRẦN TỪ MAI