Tuesday, July 29, 2025

Nguyễn Duy Chính dịch: NGƯỜI MINH HƯƠNG Ở ĐÔNG NAM Á Nguyên tác: Ming Loyalists in Southeast Asia Claudine Salmon

 

 

NGƯỜI MINH HƯƠNG

ĐÔNG NAM Á

Nguyên tác: Ming Loyalists in Southeast Asia

Claudine Salmon

Nguyễn Duy Chính dịch

 


 


LỜI NÓI ĐẦU

Khi tìm hiểu về những làn sóng di cư xuống vùng Đông Nam Á, chúng ta thường tập trung vào những người được gọi là Minh hương đi thuyền xuống phía nam định cư ở rải rác nhiều khu vực mà chủ yếu là Hội An ở miền trung và Biên Hoà, Mỹ Tho ở phía nam. Ngay trong biên khảo khá công phu của Claudine Salmon, tác giả cũng chỉ hạn chế vào một số khu vực mà người di cư đến nguyên thuỷ là những người dân Trung Hoa chạy trốn không muốn sống dưới sự cai trị của người Mãn Châu nên đã dùng thuyền chạy xuống phía nam, một số sang nước ta, một số khác kết hợp thành những cộng đồng ở Batavia, Malacca, Banteng, Hà Tiên …

Thực ra, việc những người Trung Hoa di cư ra bên ngoài có rất nhiều nguyên nhân – sau khi cái khởi nguyên là yếu tố chính trị thì tiếp theo lại có những lý do khác phức tạp hơn nhiều. Họ xuống phía nam khi mà vùng đất rộng lớn này vẫn trong hoàn cảnh sứ quân cát cứ, mỗi lãnh chúa làm chủ một phương khiến cho tình hình có những sức bật mới, đóng góp không nhỏ và việc tạo ra những nhân vật lịch sử mà vai trò của cộng đồng di cư sách vở không mấy khi đề cập đến. Việc tường thuật lịch sử như một dòng sông có sẵn thực ra chưa hẳn như vậy. Những dòng nước tuỳ theo địa hình mà biến chuyển và trên con đường của nó lại được tiếp sức bởi những dòng suối, những trận mưa nhưng ít khi được ghi nhận.

Đầu thế kỷ XVIII, Mạc Cửu khai khẩn trấn Hà Tiên đồng thời người nước ta cũng vào vùng Đồng Nai khai khẩn. Tuy trên danh nghĩa, họ Mạc thần phục nước ta nhưng vẫn sinh hoạt như một tiểu quốc tự trị. Họ cũng liên lạc với nhà Thanh qua các văn thư của Tông Đức Hầu Mạc Sĩ Lân (tức Mạc Thiên Tứ) nhưng nhà Thanh cũng vẫn công nhận đất Hà Tiên thuộc về An Nam.

Sử nước ta chép rằng năm 1769 tàn quân họ Trịnh ở Đài Loan (Long Môn chi chúng) đã tới khu vực chạy sang nước ta xin tá túc. Chúa Nguyễn sai họ vào Gia Định khai khẩn chia nhau ở Biên Hoà và Mỹ Tho. Ấy là nói thế nhưng thực ra khi họ Trịnh ở Đài Loan núng thế và biết rằng sớm muộn nhà Thanh cũng sẽ chiếm hòn đảo nên đã tìm cách chạy xuống phương nam, tự lập một phương. Những hoàn cảnh tương tự đã hình thành ở Bangkok, Hà Tiên nên việc họ mưu tính chiếm khu vực Đồng Nai làm căn cứ địa không phải chuyện bất thường. Chúa Nguyễn có lẽ cũng biết âm mưu của họ nên một mặt đưa họ xuống phương nam khai khẩn nhưng đồng thời cũng sử dụng binh lực của họ để đối phó với những thế lực không thân thiện với nước ta trong đó có cả một số thế lực Âu châu đang tìm cách thống trị vùng Đông Nam Á.

Cái hoạ tiêu tường đó tác động đến tình hình chung của toàn vùng chứ không riêng một quốc gia nào và ảnh hưởng lẫn nhau như một mô hình mở nước. Từ khuôn mẫu truyền thống là nổi dậy theo kiểu diệt bạo quyền cứu nhân dân theo lối Trung Hoa, tại các tiểu quốc nay xuất hiện một hình thức nổi dậy từ bên trong, len lỏi vào chính quyền qua hôn nhân, qua liên kết rồi đảo chính một cách tương đối ít đẫm máu hơn, có chăng là họ này tiêu diệt họ khác và thay thế chỉ huy từng phần.

Luận văn này không đề cập đến biến chuyển chính trị nhưng tập trung vào những đợt di cư và hội nhập của người Trung Hoa, thoạt đầu là lánh nạn Mãn Thanh nhưng càng về sau cái yếu tố “phản Thanh” càng mờ nhạt, còn cái chủ trương ban đầu “phục Minh” thì hầu như mất hẳn. Những tập tục, y phục, tín ngưỡng được duy trì do thói quen hơn là có mục đích sâu xa, lại càng không phải là một mục tiêu tối thượng.

Riêng với người dịch, qua nghiên cứu về lịch sử Việt Nam thế kỷ XVIII, việc đánh giá lại ảnh hưởng của những đợt di cư và tác động lên những biến động vẫn tưởng như độc lập với bên ngoài là một góc nhìn quan trọng. Người Trung Hoa như đám cướp biển Long Môn “cởi trần, đeo giấy vàng bạc, uống rượu say” giúp Tây Sơn khi họ khởi nghiệp, hay những đám quân thảo khấu của các lãnh tụ gốc Hoa như Đỗ Thanh Nhơn, Châu Văn Tiếp giúp Nguyễn Ánh cho ta thấy đâu đâu cũng có những thế lực người Minh hương ôm mộng tranh bá đồ vương với người bản xứ. Tuy nhiên họ đi xa được đến đâu thì còn tuỳ.

Tới ngày nay, hiện tượng di cư ra bên ngoài rồi biến thái và thay đổi theo thời gian không phải là chuyện lạ với những người Việt ở nước ngoài  từ năm 1975 cho đến nay. Xét về bản chất, những cuộc di cư chính trị càng về sau càng nhuốm màu di cư kinh tế, văn hoá hay đơn giản hơn, đi tìm một nơi “đất lành chim đậu” được dùng để giải thích cho những đợt di cư mới trong thế kỷ XXI này.

 

 

MỞ ĐẦU

Triều đại nhà Thanh mở đầu từ năm 1644, kế tiếp là những thời kỳ rối loạn – sự suy tàn của những triều đình Nam Minh năm 1662, việc đánh dẹp họ Trịnh, và sự nổi dậy của Tam Phiên (Three Feudatories) ở miền nam nước Tàu từ năm 1674 đến 1683, và sau cùng chinh phục được Đài Loan năm 1683[1] – khiến cho xã hội Trung Hoa rúng động và nhiều người trung thành với Minh triều – hay Minh hương - trong hậu bán thế kỷ XVII đã quyết định chạy ra bên ngoài sinh sống.[2] Cái tên “Minh hương” (Ming loyalist) theo Lynn A. Struve thì là “một từ ngữ có thể áp dụng cho bất cứ ai không chịu thay đổi nếp sống và mục tiêu để chứng tỏ rằng họ sẽ duy trì một nhân cách bất biến khi trật tự xã hội đã thay đổi. Từ ngữ này không chỉ hạn chế vào những nam nhân hoạt động tích cực phục Minh hay giữ những ý định chống lại tân triều …”[3]

Chúng ta có thể biết được khá rõ ràng khi nhìn vào số phận của những nhà sư Phật giáo và thành phần nho sĩ từ các tỉnh vùng đông nam đã quyết định chạy sang định cư ở Nhật Bản là nơi họ được đón tiếp nồng nhiệt, chẳng hạn như Ẩn Nguyên (隐元) (Japanese: Ingen) (1572 1673) là người Phúc Thanh, tỉnh Phúc Kiến, đã khai nguyên ra tông phái Ôbaku (黄檗宗) đến Nagasaki (長崎) năm 1654, hay người thuộc phái Tân Nho (Neo-Confucianist) là Chu Chi Du (朱之瑜) (tức Thuấn Thuỷ 舜水, 1600—1682) là người Dư Diêu (余姚), Chiết Giang, đến nước này vào năm 1645 và định cư tại đây năm 1659 sau khi đã qua lại Quảng Nam (Guangnan) sáu lần.[4] Còn gia đình họ Trịnh đã tập hợp thành một tổ chức cướp biển và dần dần phát triển nên một quốc gia, họ đã là đối tượng của nhiều nghiên cứu bằng tiếng Trung Hoa cũng như ngôn ngữ Tây phương không thể kể hết được.

Chúng ta không biết nhiều về các thương nhân, thợ thuyền, cướp biển, kể cả những nho sinh và tu sĩ đã quyết định di cư đến các cửa biển vùng Nam Dương chẳng hạn như Phố Hiến, Hội An, Udong (tên cũ của kinh đô nước Cambodia), Malacca, Banda Aceh, Banten và Batavia (nay là Jakarta) là những nơi có nhiều cộng đồng Minh hương.[5] Một số còn khai khẩn những vùng đất mới, chẳng hạn như Banteay Meas (Hà Tiên), Biên Hoà và Mỹ Tho. Nếu không tính đến những gia tộc họ Trần và Mạc[6] mà thế phổ của họ đã được cố giáo sư Trần Kinh Hoà (Chen Chingho)[7] tìm hiểu và ấn hành thì hầu hết lịch sử của các đại gia tộc khác trong số Minh hương đã bị quên lãng từ lâu.

Cũng tác giả, dựa trên nhiều nguồn lịch sử khác nhau, cũng đã đóng góp một nghiên cứu đầy đủ nhất về cuộc di cư sau cùng của đồng đảng họ Trịnh (được gọi tên là Long Môn chi chúng 龍門之衆 trong Đại Nam Thực Lục Tiền Biên 大南實錄前編)[8] năm 1682 và 1683, dựa trên những hoạt động của họ trong một thời gian khoảng chừng nửa thế kỷ.[9]

Vài năm trước, chúng tôi (tức Claudine Salmon) đã nghiên cứu một số văn bia nhằm mục đích thu thập một góc nhìn về những người Minh hương tại nhiều cửa biển khác nhau nay ở tại Việt Nam và thế giới người Malay. Những chiến lược khác biệt để định cư tại một quốc gia chủ được xem xét tương đối kỹ lưỡng về trường hợp của ba cộng đồng, tại Hội An trong vương quốc của chúa Nguyễn, tại Phố Hiến, một cửa sông thuộc vương quốc nhà Lê và ở Malacca, khi đó mới bị người Hà Lan cướp được từ người Bồ Đào Nha.[10] Một mặt, người ta có thể nhận ra những khác biệt đáng kể phản ảnh những hệ thống chính trị của nước chủ nhà.

Mặt khác, cũng thấy rõ là tại ba cửa biển này những người tị nạn đã rất năng động và là thiểu số có phẩm chất tốt đóng một vai trò quan trọng trong thương mại đường biển cũng như trong kinh doanh địa phương và quản lý thuế quan. Chúng tôi cũng nghiên cứu sự lưu truyền lâu dài của một thứ bản sắc người nhà Minh thông qua sự tồn tại của một số thời kỳ chính trị của những di thần (ngoại trừ vương quốc nhà Lê là nơi dùng lịch của người Việt) là loại lịch dựa trên hệ thống giáp tí 甲子theo chu kỳ kết hợp tạo thành một vòng 60 năm. Như thế ít nhất trong tâm khảm họ cũng thấy rằng mình đang sống trong thời nhà Minh và chối bỏ việc công nhận tính chất hợp pháp của triều đại nhà Thanh.

Nghiên cứu này cũng mở rộng phạm vi bằng cách dùng nhiều nguồn của Tây phương và Á châu (nhật ký du hành, ghi chép thương mại, phổ hệ, khắc bản, bản đồ cũ, hình vẽ và các khám phá khảo cổ …) cũng như tìm hiểu tại chỗ một số người Trung Hoa nổi bật trong cộng đồng thế giới người Mã Lai,[11] để có được cái nhìn rộng rãi về hoạt động của người Minh hương ở biển phía Nam.

Trong chương đầu, sau khi phân tích một số quan sát của người Âu châu đã nhìn người nhà Minh di cư như thế nào, chúng tôi cố gắng cung cấp một góc nhìn về các làn sóng di cư và việc phân bố địa lý của họ.

Trong chương thứ hai, chúng tôi tập trung vào một số cộng đồng có tài liệu phong phú hơn cả để điều tra về những chiến lược mà người tị nạn tự hội nhập vào khung cảnh địa phương. Việc này gồm cả các lãnh tụ của họ đóng vai trò gì tại xứ sở mới, việc đóng góp để đô thị hoá địa phương, nỗ lực giải quyết các vấn đề chính trị tại chỗ, hoạt động của họ trong việc phát triển nông nghiệp cũng như thương mại đường biển với các khu vực Á châu nhờ vào những liên quan mật thiết với họ Trịnh (ở Đài Loan), và những liên hệ với các công ty Âu châu. Chúng tôi bỏ riêng ra không đề cập đến các nước khác như Thái Lan, Miến Điện và Phi Luật Tân vì những nơi đó không có đủ tài liệu mặc dù nhưng hoạt động di cư xẩy ra rất cùng thời với triều đình họ Trịnh và sự thoái trào của họ vào năm 1683.[12]

Trong chương ba và cũng là chương sau cùng chúng tôi sẽ xem xét tiếng tăm của một số khuôn mặt Minh hương trong vùng Đông Nam Á và cả bên ngoài sau khi qua đời, nhất là tại Âu châu trong thế kỷ XVIII và sau nữa, gần đây hơn tại bán đảo Mã Lai và tại Singapore cũng như vùng biển phía nam là nơi một số anh hùng được ghi trong sử sách tại địa phương và trong tiểu thuyết lịch sử.

 

CHƯƠNG I: SỰ BÀNH TRƯỚNG CỦA NGƯỜI MINH HƯƠNG TẠI ĐÔNG NAM Á

 

Ngoài biển có rất nhiều đảo hoang, anh em ta đã quen với biển cả rồi, vậy chi bằng ra hải ngoại và xây dựng một nơi để sống còn hơn là ở lại đây tranh đua với bọn người đê tiện này.

那海中多有荒島,兄弟門都服水性的,不如出海再作區處,不要在這裡與那班小人計較了。

陳忱,水滸後傳(1664) [13]

 

Trước khi đề cập đến những dòng chảy di cư đã được đăng ký vào sổ ở Công Ty Đông Ấn Hoà Lan (VOC hay Vereenigde Oost-lndische Companie) lưu trữ tại Batavia và một số nguồn Á châu khác, chúng tôi xin trình bày quan điểm của Johan Peter Cortemünde và một số khách du hành Âu châu vào cùng thời đó. Ông là người đầu tiên cung cấp một lối nhìn tổng quan về hiện tượng này trong khi những người khác lại đưa ra những hình ảnh khác nhau về người tị nạn nhà Minh trong khu vực Đông Nam Á.

Cũng cần ghi nhận là người Hoà Lan, không như những người Âu châu khác, lại không có một thuật ngữ đặc biệt nào để chỉ những người còn trung với nhà Minh; họ chỉ gọi họ là những người ủng hộ họ Trịnh, gọi chung là Koxinders [nhóm Quốc Tính] (còn gọi là Cokchinders, Coxinse Chinesen, Coksins, Kokchinse…) là những cái tên gắn liền với Quốc Tính Gia (國姓家) Koxinga [nghĩa đen là Vị lãnh tụ được ban cho họ của nhà Vua] và hậu duệ, để đối nghịch với những người Trung Hoa đang sống dưới sự cai trị của nhà Thanh. Về thành phần thứ hai, những người chấp nhận để tóc theo kiểu Mãn Châu, người Hoà Lan gọi họ là “người Hoa cạo đầu” [geschoren], cái tên cũng còn dùng để gọi người Trung Hoa đã đổi sang đạo Islam sống dưới quyền các tiểu vương Hồi giáo.

Người Minh hương Dưới Mắt Người Âu Châu

Chúng tôi sẽ xem xét sự quan sát do một y sĩ, ba người lính và một hoạ sĩ.

Cái nhìn của Johan Peter Cortemünde

Johan Peter Cortemünde (sinh khoảng 1618), là một y sĩ giải phẫu (gọi chung các y sĩ làm việc trên các tàu Âu châu) được biệt phái cho Công ty Đông Ấn Đan Mạch (Ostindiske Kompani) tại Banten năm 1673, cung cấp một hình ảnh tổng quát rất đặc biệt về những người Minh hương tại Đông Nam Á qua một số thương nhân Trung Hoa đang cư ngụ tại tiểu vương quốc. Ông nói:

Đây là những người tị nạn (flygtninge) từ chính quê hương của họ là Trung Hoa, phải trốn tránh ở đây cũng như các nơi khác vì sợ cham[14] vĩ đại, hoàng đế của người Thát Đát trắng, lấy được đế quốc Trung Hoa khổng lồ sau một cuộc chiến lâu dài và tàn khốc, nên ông ta muốn người Trung Hoa bắt buộc phải theo tôn giáo của họ hay là chết. Đó là lý do tại sao họ chạy tứ tán khắp vùng Đông Á.

Một số năm trước, vài nghìn người trong bọn họ đã chọn một lãnh tụ và chiếm lấy hòn đảo Formosa xinh đẹp từ tay người Hoà Lan và đã định cư ở đó. Phần lớn đã quay lại một nơi thoải mái hơn tại Trung Hoa, nơi đó họ đã giữ vững và chọn ra một ông vua. Vì quân đội của hoàng đế (cham) không đánh đuổi được họ nên ông ta đã giảng hoà và đòi hỏi một mức triều cống có thể chịu đựng được.[15]

Phát biểu này cho thấy người Trung Hoa ở Banten rất thông hiểu về việc đồng bào của họ đang phân tán khắp vùng Nam Dương (South Seas) và họ cũng theo dõi các phát triển chính trị trong thế giới người Hoa. Việc đó cũng hiểu ngầm rằng Cortemünde đã có thể giao tiếp với một số trong đám người đó, có lẽ qua sự giúp dỡ của một thông dịch viên. Đây cũng là một ám chỉ đầu tiên về việc Trịnh Thành Công 鄭成功(1624-1662, tức Koxinga theo người Âu châu) chiếm Formosa (tức Taiwan) năm 1662, việc này đưa tới thành lập một quốc gia độc lập trên hòn đảo nơi các người còn trung thành với nhà Minh vẫn tiếp tục dùng niên hiệu của vị vua Minh cuối cùng, người đã bị hành quyết tại Vân Nam năm 1662; cũng như về những nỗ lực thảo luận về việc công nhận quyền bá chủ của nhà Thanh để thành một nước triều cống (các cuộc đàm phán vẫn tiếp tục cho tới tận năm 1669).[16]

Cũng còn những ám chỉ thứ hai về việc hiện hữu của Tam Phiên (Three Feudatory Principalities) với Ngô Tam Quế 吳三桂 ở Tứ Xuyên – Quí Châu, người đã từng được phong tước Bình Tây Đại Tướng Quân 平西大將軍, Thượng Khả Hỉ 尚可喜 ở Quảng Đông, và Cảnh Tinh Trung 耿精忠 ở Phúc Kiến là những người đã giao thiệp gần như bình đẳng với Thanh triều trước khi nhà Thanh quyết định bãi bỏ phiên trấn năm 1673. Quyết định đó đã đưa đến việc nổi loạn được khởi động bởi Ngô Tam Quế và ông ta cũng là người đã tiến hành tiếp xúc với họ Trịnh.

Miêu tả từ những quân nhân Âu châu phục vụ trong VOC

Một số quan sát viên người Âu châu đương đại cũng cung cấp cho chúng ta những ghi chú hấp dẫn và những hình vẽ về người Minh hương mà họ gặp tại các khu vực Ấn Độ thuộc Hoà Lan (Dutch Indies).

Caspar Schmalkalden (1616—1673), một người lính Đức, đã ở tại vùng Ấn thuộc Hoà Lan từ 1646 đến 1652, cung cấp một trong những hình ảnh chi tiết nhất. Ông ta rất tán thưởng y phục của người Hoa, nói rằng đây là quần áo đẹp nhất trong tất cả những dân tộc sống tại Ấn Độ (Unter allen Nationen in India haben die Sinesen die ehrbarste und beste Tracht). Về tóc của họ ông ta đưa ra những nhận xét chính xác sau đây:[17]

Đàn ông cũng như đàn bà đều để tóc dài. Nam nhân chải tóc thành một cái búi hơi ngả ra sau đỉnh đầu một chút, được giữ chặt bằng một cái lược làm bằng đồi mồi hay bằng ngà, trong đó họ cài trâm làm bằng vàng, bạc hay mã não.

Người Âu châu rất thích thú những đôi giày của người Minh hương mà dưới mắt họ thì cũng giống như giày mà đàn bà mang ở Âu châu. Schmalkalden đã nói thế này:

Những đôi giày đó được làm rất đẹp bằng lụa màu xanh, đỏ hay vàng hoặc bằng len được buộc với một sợi dây trắng. Đế giày làm bằng vải dày khíu với nhau.[18]

 Schmalkalden vẽ hình một thương nhân cũng như một người đàn bà Trung Hoa (Hình 1-2), người phụ nữ trông khá đẹp so sánh với người đàn bà mà Georg Franz Müller vẽ như sẽ thấy ở sau (Hình 4).

Ông ta cũng chỉ ra rằng những người Trung Hoa mới từ lục địa sang gần đây thì tóc đã cạo theo cách của người Tartar (Mãn Châu) nhưng khi họ đến Batavia rồi thì họ lại để tóc, và cũng thêm rằng những người có tóc dài được gọi là Thaywing (大明) hay Đại Minh, còn những người mới đến thì gọi là Po thaywing (無大明) hay là Vô Đại Minh.[19]

Hoạ sĩ người Hoà Lan là Andries Beeckman (chết năm 1664) du hành đến Java vào thập niên 1650s trong vai trò một quân nhân của VOC, là người từ lâu nổi tiếng về bức tranh sơn dầu vẽ lâu đài Batavia (Castle of Batavia) nhìn từ Kali Besar (tức Sông Đào Lớn) vào khoảng 1656 đã miêu tả một cái chợ rất sống động được giữ trong viện bảo tàng Rijks, Amsterdam. Khoảng 15 năm trước, Marie Odette Scalliet đã phát hiện ra một bộ sưu tập bao gồm 55 bức vẽ màu bột (gouache) trong thư viện Arsenal, Paris (Bibliothéque de l' Arsenal, Paris) khiến cho những tác phẩm của Beeckman mà người ta biết đến tăng lên gấp bội. [20]

Trong số những bức vẽ này, mô tả nhiều hạng người khi đó đang sống ở Batavia, bao gồm tranh vẽ một người Nhật và vài người Minh hương: một thương gia tay cầm một cái ô và một chiếc quạt gấp, một người thợ, một người bán hàng trẻ tuổi cùng với hàng hoá của anh ta,[21] và rất bất ngờ là một nho sinh đại diện cho giới trí thức trung với nhà Minh cũng ở tại khu vực Ấn Độ thuộc Hoà Lan (Dutch Indies). Người nho sinh này mặc một áo bào màu đỏ, tay áo rộng, có đai bằng vải xanh thắt quanh ngang hông; ông ta đội một chiếc mũ lễ có hai cánh chuồn màu đen – mà tiếng Trung Hoa gọi là ô sa mạo (烏紗帽) – và mang theo một cái quạt hình lá nơi tay phải (Hình 3).

Georg Franz Müller (1646—1723), một người gốc Alsace (France), là quân nhân của VOC từ năm 1670 đến 1682 đã để lại một nhật ký du hành bằng tiếng Đức (chưa xuất bản) kèm theo một bộ tranh vẽ. Những tranh vẽ tay này cung cấp nhiều chân dung của những giống người khác nhau, một truyền thống bắt đầu bằng các dân tộc Âu châu và sau đó mở rộng ra các dân tộc Á châu. Mỗi bức tranh được phê bình ở trang kế tiếp bằng một bài thơ mà người ta cho rằng do chính người hoạ sĩ đã sáng tác.[22]

Người Trung Hoa ở Batavia được đại diện bởi một cặp người Minh hương, một người đàn bà mà hình vẽ có vẻ không được thực tế, một người lính đã gia nhập quân đội VOC (hình 4). Georg Müller thậm chí còn mang về Âu châu một đôi giày và một cái túi [hà bao] (cùng với một số món đồ Trung Hoa) mà hiện nay còn lưu trữ tại Stiftsbibliothek St.Gallen, Swiss (hình 5).

Dưới đây là chép lại bài thơ cho rằng người lính đã đọc để giải thích tại sao anh ta lại rời bỏ đất nước của mình.[23]

Ein Chinesischer Kriegsmann

Ein Orang Sina werd ich genannt

weils Künigreich China mein Vatterland

Die Tartaren mich daraus verdriben

dass ich nicht länger künte bliben.

Mich zwingen wollten die Haar

abschneider

nur einen Zopfsy wollen leider.

Nun währ ich auf der Insul Java

In der schönen Stat Badavia,

Allda ich mich verbürgeret han

Bin Euch Holändischen underthan.

Den* steh ich bey in Kriegesnoth,

So lang ich leb, bis in den Toth.

Dann zieh ich meinen Harnisch an,

und streit vor** sy als wie ein Mann.

Ich geb mich auch, das sag ich hier,

In allen Künsten erfahren schier...

[ *denen, ** fur]

A Chinese Warrior

I am called an "Orang Sina”,[24]                        

Because from the kingdom of China my native land

The Tartars expelled me.

So that I could not stay any longer,

I would have been compelled to shave my hair

Only a plait they wanted.

Now I am in the island of Java In the beautiful city of Batavia

There I have become a citizen

I'm a subject of the Dutch

Of whom I endure the vicissitudes of war.

As long as I am alive and until my death

I dress in cuirass

And fight for them as a brave man

Moreover as I say here

I am talented in almost every profession...

 

Một chiến sĩ Trung Hoa

Người ta gọi tôi là Orang Sina

Bởi vì tôi từ quê cha đất tổ là vương quốc China

Người Thát Đát đuổi tôi đi

Nên tôi không còn ở được nữa

Tôi bị bắt buộc phải cạo đầu

Và để tóc thắt đuôi sam

Nay tôi đang ở trên hòn đảo Java nơi thành phố Batavia xinh đẹp

Ở đây tôi thành một công dân

Tôi trở thành thần dân của nước Hoà Lan

Của những người cùng tôi chiến đấu

Miễn là tôi còn sống và đến khi tôi chết

Tôi mặc áo giáp

Chiến đấu cho họ như một nam nhân dũng cảm

Tôi thông thạo mọi kỹ năng …

           

Có vẻ như ở Batavia những người Trung Hoa không được gia nhập quân ngũ nhưng chúng ta cũng thấy một số trong bọn họ là những quan chức cấp thấp. Chẳng hạn như năm 1679 [Gaan] Tenqua, con trai của Kapitan [Gaan] Siqua []二官(đã ở trong binh ngũ từ 1663-1666) là người thông thạo tiếng Hoà Lan, được đề bạt làm trung sĩ và là thư ký trong VOC. Müller, cũng như những người Âu châu phiêu lưu khác, thường khẳng định việc để tóc đuôi sam là tâm điểm của biểu tượng có chấp nhận thiên mệnh cai trị của nhà Thanh hay không. Quả thực như vậy, Trịnh Kinh 鄭經 (chết năm 1681), con trai và là người kế vị của Trịnh Thành Công ở Đài Loan, trong khi đàm phán với nhà Thanh như đã kể ở trên, đã nêu rõ điều kiện giảng hoà của ông ta phải là “không cắt tóc và cũng không về đại lục”.[25]

Khuôn mặt của những người Minh hương mà những người Âu châu phiêu lưu đã mô tả khá tương đồng. Tất cả đều khẳng định rằng quần áo của họ rộng thùng thình và mang theo một cái quạt, một cái túi nhỏ (hà bao) thường là buộc vào thắt lưng và búi tóc thành một cục phía sau đỉnh đầu. Chẳng hạn như Cortemünde đã viết:

Y phục của họ giống đàn bà hơn là đàn ông. Họ thường mặc áo khoác trắng bằng vải bông hay lụa có tay áo dài giống như các tu sĩ đạo Thiên Chúa khi cử hành thánh lễ, cùng với một cái thắt lưng thêu buộc chung quanh hông. Từ thắt lưng họ buộc một cái túi bằng nhung đỏ ở bên cạnh để đựng tiền[26] (Hình 6).

Còn Giovani Battista Ghirardini, người hoạ sĩ Ý Đại Lợi tháp tùng phái đoàn đầu tiên của người Pháp sang Trung Hoa năm 1698 và đã gặp những người Minh hương đầu tiên ở Aceh đã viết:[27]

Người Trung Hoa thì sạch sẽ và ăn mặc giống như đàn bà. Họ cài tóc bằng trâm và mang theo một cái quạt.

Theo ghi nhận của người viễn hành Trung Hoa là Đại Sán (Dashan 大汕) tới vương quốc của chúa Nguyễn năm 1695 nói đến trang phục những người Minh hương này ”họ vẫn ăn mặc theo phong cách của triều đại trước仍先朝服飾[28]

Cũng nên biết là trang phục kiểu nhà Minh đã dần dần biến mất trong các xứ thuộc Nam Dương trong khoảng hai thập niên đầu của thế kỷ XVIII khi một thế hệ người di cư mới một mặt vốn là người sinh ra ở Trung Hoa mặt khác sự gia tăng người di cư gốc nhà Thanh. Tuy nhiên tình trạng ở Batavia tình hình đó có thể khác trong một giai đoạn nào đó bởi vì năm 1690 thì VOC đã ra lệnh cho cư dân người Trung Hoa được giữ kiểu tóc truyền thống là búi tóc trên đỉnh đầu nếu đến đây trước năm 1683. Theo Leonard Blussé thì “qui định này không còn ngờ gì nữa là để phân biệt giữa những cư dân người Minh hương và người 'orang baru' tức là người Trung Hoa mới từ lục địa sang.”[29]

Làn sóng di cư

Vào cuối triều Minh, rất đông người tị nạn Trung Hoa và di thần nhà Minh đã ồ ạt kéo xuống Nam Dương để chạy trốn chiến tranh và loạn lạc tại chính quốc, và xu hướng đó vẫn còn tiếp tục trong thập niên 1670s và đầu thập niên 1680s khi những đợt di cư sau cùng chạy sang Cambodia và Việt Nam. Ở một số đô thị như Thăng Long (nay là Hà Nội), Hội An, Batavia và Banten những đợt gia tăng dân số bất thình lình đã gây ra nhiều vấn đề về hội nhập. Thật rất khó để theo dõi các làn sóng di cư này theo thời gian. Tuy nhiên chúng ta có thể ước đoán dựa trên phần nào những sổ hộ tịch hàng ngày (Dagh-Register) được lưu trữ tại Batavia[30] trong đó thỉnh thoảng có ghi chép việc người di cư Trung Hoa đến Java và cả những nguồn khác của người Âu châu và Á châu.

Những đợt ly hương đầu tiên

Vào năm 1644, Dagh-Register cho biết có năm chiếc thuyền Trung Hoa (junks) đến đây mang theo tổng số là 2550 người: chiếc thuyền đầu tiên đến Batavia vào ngày 13 tháng February mang theo 450 người, hai chiếc kế tiếp vào ngày 24 February, tương ứng một chiếc 506 người, một chiếc 400 người, chiếc thứ tư vào ngày 9 tháng March gồm 650 người di cư và chiếc thứ năm vào ngày 4 tháng April là 550 người.[31]

Vào các năm 1647 và 1648 thì Dagh-Register ghi nhận có hai chiếc thuyền đến đây: một chiếc từ Hạ Môn 廈門 và một chiếc từ Đài Loan mang theo tương ứng là 150 và 160 người di cư.[32]

Vào thập niên 1659s, thuyền mành từ Hạ Môn tiếp tục mang di dân xuống Batavia, chẳng hạn hai chiếc đã đến Batavia vào năm 1656 với con số tương ứng là 250 và 220 người.[33]

Tại Hội An, việc thành lập ngôi làng đầu tiên của người Minh hương (明香社) tại hạt Trà Nhiêu 茶繞 có niên đại vào đầu thập niên 1650s hay sớm hơn, dựa theo bi văn.[34] Nếu như lời phát biểu của kỹ sư François Froger (1676—17..) có thể tin được[35] thì cũng vào cuối thập niên 1640s cũng đã có một nhóm người tị nạn đến Banda Aceh:

Những người Trung Hoa định cư ở đây [tức Banda Aceh] là những người đã rời khỏi quê hương 50 năm trước để chạy trốn sự cai trị của người Tartar và được giữ mái tóc dài của họ.

Nếu chúng ta xem xét những ngày tháng khi một số nhân vật ưu tú rời Trung Hoa vào thời kỳ loạn lạc cuối đời Minh và đầu đời Thanh, chúng ta có thể nhận ra rằng thương nhân, nho sĩ trung thành với nhà Minh là Lý Vi Kinh 李為經 (1614-1688) đã rời Hạ Môn vào năm 1644 và định cư tại Malacca là nơi ông ta có thân nhân, rồi trở thành kapitan 甲必丹 của cộng đồng người Hoa tại đây.[36]

Về vương triều Lê (nay ở Bắc Việt Nam) thì ba anh em họ Lý từ Long Khê 龍溪 thuộc Chương Châu 漳州, Phúc Kiến trong đó ít nhất hai người từng phục vụ triều Minh, đã quyết định rời quê hương vào thời gian này, có tên là Lý Khắc Liêm 李克廉 là người từng giữ chức vụ Binh Bộ Thị Lang 兵部侍郞 rồi lên làm Thái Thú 太守 Quảng Tây, rồi tổng đốc 總督 Vân Nam; và Lý Khắc Quí 李克貴 đã làm Phó Đô Đại Nguyên Soái 副都大元帥 châu Đại Da 大耶州[37] (hình 6b), và Lý Ngã Bích 李我璧 mà chức vụ không nhắc đến.[38] Họ chạy trốn trên một chiếc thuyền và trú ngụ tại làng Hồ Khẩu, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức ở ngoại ô Thăng Long (tức phía bắc của Hà Nội ngày nay).[39]

Họ di chuyển đến Trích Sài 摘柴 (tức Bưởi Lĩnh) cùng ở huyện Vĩnh Thuận, nơi đây họ dạy người dân cách dệt những hàng thêu trang trí hình rồng, mây và hoa – tiếng địa phương gọi là bàng hoa 縍花, các loại lụa có phẩm chất khác nhau. Sau khi họ qua đời, Lý Khắc Quí và em ông là Lý Ngã Bích “được dân chúng thờ làm ông tổ của ngành thêu ở phương nam本國祀為南錦市祖師.[40]

Về Hội An thì chúng ta đã biết Chu Thuấn Thuỷ 朱舜水 đến đây năm 1646 với ý định sẽ định cư ở Đàng Trong.[41] Nguỵ Cửu Sứ 魏九使 (1618-1689), một thương nhân và là người phủ Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến trước hết đến Nagasaki nhưng năm sau (1654) ông ta lại đi sang Hội An và sống ở đây cho đến cuối đời.[42] Theo dõi hành trình của những người Trung Hoa này ta thấy cuộc di cư của họ xảy ra trong khoảng 10 năm sau năm 1644.

Về Biên Hoà thì ta biết tổ tiên của một bầy tôi nhà Nguyễn là Trịnh Hoài Đức 鄭懷德 (1765—1825) đã rời Trung Hoa vào cùng thời gian trên và định cư ở Trấn Biên 鎮邊 (nay là Biên Hoà). Họ là những nho sinh ở Trường Lạc 長樂, phủ Phúc Châu và thuộc về một gia đình quan lại.[43]

Di cư trong khoảng 1660s

Ở Java thì việc theo dõi các cuộc di cư trong thập niên kế tiếp khó khăn hơn. Sau khi họ Trịnh đánh đuổi người Hoà Lan ra khỏi Đài Loan năm 1662 thì liên hệ giữa hai bên tiếp tục căng thẳng. Thêm nữa, vua Khang Hi (trị vì 1662-1722) đã thi hành chính sách cấm hải, hạn chế thông thương gây ảnh hưởng tiêu cực cho việc buôn bán giữa Trung Hoa và vùng Đông Nam Á, mặc dầu thuyền buôn của Trung Hoa vẫn đến Batavia nhưng số lượng suy giảm đáng kể.

Việc di chuyển trên qui mô lớn do vua Khang Hi ban hành từ năm 1662 bắt buộc dân chúng sống ở ven biển phải dời vào trong đất liền (biên giới lệnh 邊界令) đã khuyến khích việc buôn bán trái phép với họ Trịnh và một đợt di cư sang phía đông củng cố cho mãi dịch trên biển với Nhật Bản, Quảng Nam, Cambodia, Ayuthya và bờ biển phía bắc của Java.

Từ các nguồn Cambodia chúng ta biết rằng để đáp ứng việc các thương nhân của những người Minh hương gia tăng, chính quyền Udong đã điều chỉnh lại các luật lệ cũ về việc quản trị các thuyền buôn Trung Hoa trong vương quốc của họ.[44] Ngoài ra chúng ta cũng biết được rằng năm 1667 thì nhóm đầu tiên 50 người Tàu Đài Loan (Tayoeansche Chineezen) dưới sự chỉ huy của tướng cướp biển "Piauwja" từ Quảng Đông đã đặt chân lên đất Cambodia.[45]

Với sự tiếp tay của khoảng 600 binh sĩ lên thuyền ở Đài Loan họ đã phá huỷ được công xưởng của VOC,[46] giết được các đại diện của Hoà Lan (trừ một người chạy thoát được) và cũng đã tiêu diệt thêm 1000 người dân Đàng Trong đang định cư tại đây.[47] Nhóm cướp biển này được cho rằng sẽ có một nhóm thứ hai khoảng 2000 người theo sau. Chiến dịch trừng phạt của họ được vua Cambodia ủng hộ và là sự đáp trả lại những nỗ lực của người Hoà Lan muốn ép ông vua nọ giao cho họ độc quyền buôn bán da trâu, da bò vốn nằm trong tay người Trung Hoa.[48]

Cũng có thể trong thập niên này một số người còn trung thành với nhà Minh bao gồm thương nhân kiêm cướp biển từ Quảng Đông, Hải Nam và Phúc Kiến trước đây sống lênh đênh trên mặt biển, đã định cư tại Phố Hiến (Bắc Việt Nam) và ở nơi đây họ tái lập các thương vụ đường biển dưới quyền bảo trợ của những võ quan.[49]

Những làn sóng kế tiếp trong thập niên 1670s

Trong thập niên 1670s và 1680s một số biến đổi chính trị tại Trung Hoa và các quốc gia vùng Đông Nam Á khiến cho làn sóng di dân trở nên rõ rệt hơn theo tài liệu của người Hoà Lan. Cuộc nổi dậy của Tam Phiên 三藩之亂 (1674—1683), việc thành lập những tiểu vương quốc ở Banten trong thời gian Sultan Ageng (1651—1682) trị vì, cuộc nổi dậy của Trunajaya (1676—1677) khiến cho các hoạt động thương mại của họ Trịnh và những đồng minh của họ ở phía bắc bờ biển Trung Bộ Java bị tê liệt khiến cho Hoa kiều ở đây phải di chuyển sang hướng tây và dần dần làm suy yếu triều đình họ Trịnh, sau cùng đến năm 1683 tạo ra những làn sóng di cư liên tục.

Xem ra những làn sóng di cư này không bao giờ bị gián đoạn vì vào năm 1671 ta thấy vương quốc Banten đã mở rộng khu vực người Hoa sinh sống bằng cách tạo thêm ba con đường mới và xây dựng thêm 120 căn nhà với các cửa hàng.[50] Cũng có thể vào năm đó[51] là năm Mạc Cửu 鄚玖(1655—1735), một thương nhân thuộc về một đại gia tộc buôn bán và địa chủ từ xã Đông Lăng 東陵村, Bạch Sa Trấn 白沙鎮, nẳm ở phía tây thành phố Lôi Châu 雷州市, bán đảo Lôi Châu 雷州 thuộc tỉnh Quảng Đông, và tuỳ tùng đã rời khỏi Trung Hoa trên chiếc thuyền mành, cuối cùng định cư tại Cambodia nơi đó ông được phong làm okna (tên gọi một quan binh cao cấp).[52]

Vào năm 1673, hộ tịch Dagh-Register ghi nhận có hai chiếc thuyền chở người di cư từ Macao đến. Chiếc thuyền mành thứ nhất là của người Tàu theo đạo Hồi Ba Tư (syahbandar) ở Banten, Kaytsu, đã đổ bộ lên Batavia khoảng 200 người Trung Hoa cạo đầu (geschoren Chineezen) mang theo một số lượng tài sản đáng kể.[53] Một ít tháng sau, một chiếc thuyền Bồ Đào Nha, chở theo một số dân di cư không xác định nhưng không thể lên bờ vì không đủ chỗ ở.[54]

Đến năm 1674 và 1675, một số thuyền đến Batavia mang tổng cộng chừng 300 người Hoa.[55] Trong năm 1676, hai chiếc thuyền từ Trung Hoa đến, một chiếc từ Macao với một số lượng di dân không rõ rệt, một chiếc khác từ Hạ Môn với 350 người; trong khi một số lớn người di cư rời đông bộ và trung bộ Java để đi sang Banten. Theo sổ hộ tịch Dagh-Register thì số người đến Banten là 140 nam nhân đến từ Hạ Môn năm 1677, và năm 1678 thì ít hơn 500 một chút từ Hạ Môn và Quảng Đông đi đến Batavia còn năm 1679 thì có 240 người đến từ Chương Châu (Phúc Kiến).[56]

Trong hai năm sau đó có thêm một số người di cư[57] mặc dầu tình trạng ở Java tương đối khó khăn. Nhà Thanh đã gửi một phái đoàn đến Batavia năm 1679 nhằm đạt được hỗ trợ quân sự của VOC trong trận chiến chống lại họ Trịnh, trong khi ở Banten, xung đột nội bộ trong hoàng gia đã bùng nổ và chấm dứt vào năm 1682 khi các tiểu vương quốc hoàn toàn thần phục VOC đưa đến việc dỡ bỏ các hoạt động thương mại với nước ngoài và một số đông trong các cộng đồng thương nhân người Hoa phải di cư sang Batavia.

Quân cướp biển họ Trịnh tan hàng đầu thập niên 1680

Trong thế giới người Hoa khi lực lượng họ Trịnh và Tam Phiên bắt đầu đi xuống thì một số thành phần của họ, nhất là những toán binh lính – cướp biển ở phía tây tỉnh Quảng Đông là những người đứng ra bảo kê cho thuyền buôn của họ Trịnh dọc theo duyên hải Quảng Đông và phía bắc Việt Nam; trong khi họ cũng đóng một vai trò tích cực trong việc nổi loạn Tam Phiên 三藩之亂 – nay quyết định chạy sang nương náu nơi khu vực chúa Nguyễn. Theo Trần Kinh Hoà là người đã phân tích rất kỹ lưỡng dựa trên các nguồn tài liệu Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Tây phương[58] thì rất có thể nhóm đầu tiên đã đến Đà Nẵng, Quảng Nam và Cambodia vào khoảng December 1682 và nhóm thứ hai vào khoảng May 1683.[59]

Họ dưới quyền chỉ huy của Dương Ngạn Địch 楊彥廸 (chết năm 1685) và Trần Thượng Xuyên 陳上川 (1626-1715)[60]. Dương Ngạn Địch theo những nguồn Trung Hoa khác còn có tên là Dương Nhị 楊二, vốn là một tên cướp biển quê quán ở thôn Đông Pha 東坡, trấn Đông Sơn 東山 nằm trên đảo Đông Hải[61] 東海 (trong vịnh Trạm Giang 湛江, bán đảo Lôi Châu 雷州) từng hùng cứ vùng biển đông Quảng Đông và bờ biển Việt Nam từ thập niên 1650s.[62] Người thứ hai gốc ở thôn Điền Đầu 田頭 trên đảo Nam Tam 南三 (tại phía bắc đảo Đông Hải 東海). Ông ta gốc gia đình buôn bán[63] tổ tiên có thể truy ra tận đời Tống, khi người đầu tiên là Trần Văn Long 陳文龍 (1236—1283) là người ở Hưng Hoá 興化, tỉnh Phúc Kiến đã sang định cư trên hòn đảo này.[64] Trần Thượng Xuyên vốn là một binh sĩ dưới đời Minh nay trở thành một nhân vật tích cực trong phong trào phản Thanh và sau đã gia nhập nhóm của Dương Ngạn Địch.

Sau một trận đánh ác liệt với quân Thanh năm 1681, căn cứ của Dương Ngạn Địch ở trên đảo Long Môn 龍門 (một hòn đảo nhỏ ngoài khơi Khâm Châu 欽州, tỉnh Quảng Tây là một vị trí chiến lược quan trọng)[65] bị thất thủ nên y đã quyết định chạy trốn xuống vùng biển phía nam. Theo các nguồn Trung Hoa và Tây phương, đoàn thuyền của Dương Ngạn Địch vào khoảng 200 chiếc nhưng khi đến Quảng Nam thì số lượng theo báo cáo của Việt Nam thì chỉ còn 57 chiếc[66] hoặc 70 chiếc theo Tösen fusetsu-gaki mang theo khoảng 3000 người.[67]

Sự khác biệt giữa số lượng thuyền khi còn ở biển Quảng Đông và sau khi họ đã đến Quảng Nam có thể giải thích là do một số thuyền bị đắm hay bọn hải phỉ đã quyết định bỏ đi đến các nơi khác, mà điểm đến là Ayuthya ở Xiêm La.[68]

Từ Đà Nẵng, Quảng Nam, họ đi vào vùng mà ngày nay là Nam Việt Nam. Sau khi đã đến vùng châu thổ sông Mekong thì đoàn thuyền tách ra. Một nhóm dưới sự lãnh đạo của Dương Ngạn Địch đi tới Mỹ Tho (tiếng Cambodia: Peam Mésår), trong khi nhóm thứ hai dưới quyền Trần Thượng Xuyên đi theo sông Đồng Nai (tiếng Cambodia: Daung Nay) về hướng Cù Lao Phố (Biên Hoà)[69] nơi đó họ bắt đầu một đời sống mới như chúng ta sẽ thấy trong chương tiếp theo.

Có vẻ như phải mất một số năm thì lúc đó tất cả các nhóm trung thành với nhà Minh kiêm cướp biển khi đó lang thang trên đại dương mới kiếm được một nơi thích hợp để định cư bởi vì cho đến 5 năm sau (sau 1683) Thanh triều đã điều động một số lực lượng chinh phạt xuống vùng Nam Dương dưới sự chỉ huy của thương gia đường biển Trần Ngang 陳昂,[70] nhằm mục đích tìm kiếm những vùng biển xa xôi và các vương quốc đảo để truy tìm thuỷ quân của các nhóm phản Thanh.[71]         

Hơn nữa, việc chấm dứt triều đình họ Trịnh và việc bãi bỏ chính sách cấm hải của nhà Thanh năm 1684 dẫn tới sự hồi sinh các hoạt động thương mại của Trung Hoa và hậu quả là một làn sóng bí mật của người Hoa không có kế sinh nhai di cư mới đến các vùng Ấn Độ thuộc Hoà Lan (valsche verband schriften in de Chineese taele vasche attestatien) mang hợp đồng và chứng minh thư giả viết bằng tiếng Tàu đến nỗi nhà cầm quyền ở Batavia phải cố gắng hạn chế họ bằng cách ban bố nhiều qui tắc được ghi lại trong Nederlandsch-lndisch Plakaatboek.[72]

Tổng quan này – trong giới hạn cần thiết – dẫu sao cũng cho chúng ta có được cái nhìn về sự đa dạng của các nhóm phản Thanh phục Minh sau khoảng 40 năm di cư ra bên ngoài. Họ trải rộng từ những người buôn bán lẻ, thợ thuyền, các viên chức dân sự và quân sự, trí thức và tu sĩ cho chí những thương gia lớn triều Minh trước đây đã từng tham gia các thương vụ quốc tế, những thành phần cướp biển giới đấu có liên hệ mật thiết với hải quốc của họ Trịnh. Những tài liệu ghi chép ở trên không cung cấp cho chúng ta một tin tức chính xác nào về những người đàn bà di cư, nhưng chúng ta sẽ thấy dưới đây những người phản Thanh thỉnh thoảng cũng mang theo vợ con của họ.

Bây giờ chúng ta sẽ xem xét những chiến lược khác nhau được những người Minh hương này sử dụng để hội nhập vào khung cảnh địa phương như thế nào.





Khu vực Đông Nam Á và những nơi có người Minh hương sinh sống




Quân Trịnh Thành Công bỏ xuống phương Nam




Quân Long Môn xuống phương Nam



Sông Nhĩ Hà và nơi thuyền buôn nước ngoài đậu

 

  

        

                 


Người Minh hương ở Batavia

Đàn ông – Nho sĩ – Đàn bà




Vật dụng thường ngày của người Minh hương

 

 


Người Minh hương Batavia



Đình Tân Lân (Biên Hoà)

 


Tổ đình họ Mạc ở Lôi Châu (Quảng Đông)

 

 

         

                                    

Lý Vi Kinh - Mạc Cửu

 

  

                            

Mạc Công Miếu - Bài vị Trần Thượng Xuyên



CHƯƠNG II: SỰ HỘI NHẬP VÀO CÁC NƯỚC CHỦ NHÀ

吾儕船海南[]從事計然之暇間,亦歷覽此都之佳山水以博大關,而見其文人秀出,武士趙群,國體金甌帶礪,未嘗不私為讚也。

陳帝陶 (1723)

Chúng tôi theo lệnh đi thuyền xuống phương nam nhân lúc nhàn rỗi ngắm phong cảnh tuyệt vời làm giàu cho kiến thức, thấy rằng văn nhân thì tài hoa, quân đội thì phi thường, đất nước vững chãi và nhiều điều đáng ca ngợi

Trần Đế Đào (1723)

 

Hệ thống chính trị đa dạng của các nước chủ nhà đã ảnh hưởng sâu sắc đến các cách thức mà người tị nạn dùng để hội nhập vào xã hội địa phương, mặc dầu ở thế kỷ XVII thì quản lý hải cảng hay "shahbandarate", cũng đã hiện hữu tại hầu hết các cửa biển khắp vùng biển nam khi những người Minh hương đặt chân đến. Tại một số nơi như chúng ta sẽ thấy thì các shahbandar đã điều phối việc buôn bán cho người cầm quyền và cai quản luôn cả cộng đồng Hoa kiều ở đây.[73]

Việc này cũng áp dụng trong vương quốc của chúa Nguyễn mà người đứng đầu các cửa biển gọi là cai phủ tàu 該府艚 cũng đảm trách luôn cả những con buôn người Hoa. Tuy nhiên, tại các cửa biển mà vốn đã dưới sự quản trị của VOC thì nhiệm vụ của người đứng đầu cộng đồng Hoa kiều, thường được gọi là kapitan (dịch qua tiếng Hoa là jia-bidan 甲必丹) thì tách rời ra khỏi nhiệm vụ của shahbandar, mà người này thường phải là người Hoà Lan, Mardijkers (từ tiếng Mã Lai merdeka tức toàn quyền hay tự do), hoặc là hậu duệ của những người nô lệ cũ của người Bồ Đào Nha.

Về những nguồn của chúng tôi thì cũng không hoàn toàn đồng nhất. Với các khu vực như vương quốc nhà Lê và khu vực của chúa Nguyễn thì tài liệu chúng tôi có được, chủ yếu là bằng chữ Hán, nguyên thuỷ hoặc từ nhóm phản Thanh hay từ nước chủ nhà, được phụ thêm bằng các ghi chép của người Âu châu. Về Cambodia chúng tôi có được những ghi chép bằng tiếng Cam Bốt, Nhật, Hoa và Tây phương. Khi chúng tôi đi sâu xuống miền nam về khu vực Insulindian (Mã Lai - Ấn Độ) thì một mặt chúng tôi có rất nhiều tài liệu viết bằng tiếng Trung Hoa về Malacca nhưng về các quần đảo thì chủ yếu là tài liệu của các công ty Âu châu, nhất là của VOC và những du ký, ngoài ra còn có một số bi ký trên mộ người Trung Hoa. Những tài liệu trên bia đá đã được khai quật tại hai nghĩa địa đã bỏ đi gần Banten, mộ cũ nhất niên đại là thập niên sau cùng của thế kỷ XVII chứng tỏ những cộng đồng người Hoa ở nông thôn đã tồn tại có liên quan đến việc trồng mía trước và sau khi Banten bị thất thủ năm 1682.[74]

Hội An: Người Minh hương phục vụ chúa Nguyễn

Lãnh địa của chúa Nguyễn là khu vực mà các tài liệu quan phương của người Trung Hoa vẫn gọi là Quảng Nam Quốc 廣南國 nhưng dưới mắt các hoàng đế Mãn Châu thì những người cai trị vùng đất này được coi như những quân phiến loạn và họ không có liên hệ ngoại giao với Bắc Kinh, cũng vì thế họ được hành động tự do hơn nhiều.[75] Các chúa Nguyễn không ngần ngại dựa vào những người phục Minh trên các vấn đề kinh tế và hành chánh cũng như trong việc thương lượng với các nhà cầm quyền Lê – Trịnh là những người mà họ thường xuyên có chiến tranh cho đến tận 1673, khi cả hai đều quyết định ngưng chiến kéo dài đến tận 1774.

Cửa biển Hội An xem ra dần dần phát triển kể từ khi chúa Nguyễn đã chiếm khu vực này từ năm 1570. Vào đầu thế kỷ XVII thì nơi đây chủ yếu chỉ có các thuyền buôn Trung Hoa và Nhật Bản. Năm 1642, một tín đồ Thiên Chúa giáo từ Nagasaki tên là Francisco Groeamon đã ước lượng dân số Hội An từ 4 đến 5000 người.[76]

Ở trên chúng ta đã thấy Chu Thuấn Thuỷ đến Hội An vào năm 1646; và có lẽ sau đó chẳng bao lâu thì một số người đào tẩu khác cũng đi theo nên đã có một cái làng Minh hương được nhanh chóng thành lập. Ngôi đình cổ nhất toạ lạc tại khu vực Trà Nhiêu 茶饒, ở phía bắc con sông, thì đã được xây dựng từ khoảng 1650, nơi đây vẫn còn một số bia đá ghi chép một số tin tức về việc khởi đầu của cộng đồng này (Hình 10).

Ngôi đình này bao gồm hai phần: kiến trúc phía trước được dùng để thờ Quan Đế 關帝, cũng là hội quán của các nhà buôn gốc Phúc Kiến, còn toà nhà phía sau thì để thờ Quan Âm 關音. Biển ngạch lâu đời nhất nay vẫn còn, đề niên đại vào mùa đông năm 1653-1654, được cung tiến bởi “toàn thể các quan viên xã Minh hương 明香員官各[]全社[77] để vinh danh Quan Đế, người được gọi dưới danh hiệu Tam Giới Phục Ma Đại Đế 三界伏魔大帝 lần đầu được dùng để gọi ông trong triều Minh năm 1614[78] (Hình 11).

Tấm hoành phi này cho thấy một làng người tị nạn đã hiện diện và do chính những người lãnh đạo của họ quản lý. Cái tên Minh hương về nghĩa cũng như cách viết đã thay đổi theo thời gian và từng được bàn cãi rất nhiều.[79] Lúc đầu họ được chỉ về triều đại nhà Minh, nhưng chẳng mấy chốc đã được dùng để chỉ những người chạy trốn và con cháu họ, dù có lai hay không, nhưng sống trong những làng tách biệt ra khỏi các cộng đồng địa phương và cả với chính những người Trung Hoa đến sau năm 1682 là những người được đối xử như người Thanh đến tạm trú. Trong số những người tị nạn này cũng có một số phụ nữ thuộc các gia đình thượng lưu như thấy trên những bia mộ còn tồn tại đến ngày nay. Một trong số đó là Trịnh Ngô thị 鄭吳氏 (chết năm 1685), một quả phụ sau đi tu, nay vẫn còn được thờ cúng trong một ngôi từ đường.[80]

Việc xây dựng ngôi làng này cho đến nay vẫn còn nhiều bí ẩn vì các nguồn của người Việt Nam không đưa ra một tin tức nào. Một biển ngạch khác có niên đại là năm 1695, cũng do các thân hào trong làng cung tiến cho thấy hệ thống hành chánh của ngôi làng Minh hương vẫn giữ nguyên như cũ.

Nhà sư Thích Đại Xán là người đến Hội An năm 1695 cung cấp một miêu tả sống động về thành phố và các cư dân người Minh như sau:[81]

Hội An là một giao điểm qua lại của các thương nhân và hàng hoá được tập trung từ nhiều quốc gia. Một đường lộ thẳng dọc theo bên sông dài ba bốn dặm có hai hàng tiệm buôn liền nhau gọi là Đại Đường Nhai 大唐街 mà cư dân đều là người Mân (tức người Phúc Kiến). Họ vẫn còn mặc y phục của tiền triều (tức triều Minh). Vì thương vụ do đàn bà trông nom theo như tục lệ của địa phương, những người Trung Hoa sinh sống tại đây đều lấy một người đàn bà bản xứ để có thể thực hiện những giao dịch. Cuối con đường là cầu Nhật Bản 日本橋 (Bản đồ 6: Rue du Pont japonais], qua khỏi cầu là làng Cẩm Phô 錦庯, bên kia sông thì là làng Trà Nhiêu 茶饒 là nơi những thuyền đi biển neo tại đó. Thành phố này đông dân cư, rất nhiều hải sản, rau cỏ và các trái cây tươi khiến cho đường sá lúc nào náo nhiệt.

Còn thuỷ thủ người Anh là Dampier (1651—1715), đã đến thăm thành phố này mấy năm trước đã phát biểu như sau:[82]

Thành phố Quảng Nam[83] nằm trên bờ con sông này, và người ta bảo rằng đây là thành phố chính của vương quốc Đàng Trong […] Tôi được thuyền trưởng Titler và những người khác cho biết rằng họ thích buôn bán […] Việc ham thích buôn bán này, dường như họ học hỏi từ một số người Hoa chạy trốn, những người chạy khỏi người Tartars khi họ chinh phục đất nước này. Họ được người Đàng Trong đón nhận tử tế và trong số bọn họ có nhiều thợ lành nghề, họ đã dạy cho những người bảo hộ tốt bụng kia rất nhiều kỹ thuật hữu dụng mà trước đây họ không hề biết. Có lẽ vì thế thói quen bắt giữ những thuỷ thủ các tàu bị đắm sẽ sớm chấm dứt vì thương mại đang phát triển và một số thương nhân Trung Hoa đang thúc đẩy một số buôn bán với những người này, mua một số lượng nhỏ hồ tiêu, Lignum Aloes, và trầm hương (Aguala Wood) là loại được quan tâm vì hương thơm hiếm có và rất có giá trị ở nhiều nơi thuộc Ấn Độ. Họ cũng mua trầu vì ở đây trồng rất nhiều.

Một số lớn những người tị nạn nhà Minh được làm quan trong triều đình chúa Nguyễn, hoặc vì họ tình nguyện xin làm chức vụ ấy, hoặc vì họ có lệnh phải làm như trường hợp của Chu Thuấn Thuỷ.[84]

Trong hệ thống quan lại họ thường được giao cho chức Cai Phủ 該府 (prefectural officer). Cũng có nhiều người làm Cai Phủ Tàu 該府艚 tức viên chức trông coi việc tàu bè nước ngoài nằm trong Tàu bộ 艚部 hay Tàu ti 艚司 tương đương như một viên chức hải quan. Nơi đây đứng đầu là một Cai Tàu 該艚 là người có nhiệm vụ bao gồm việc giám sát thuế quan, trông coi việc thương mại với nước ngoài và người di cư. Chức vụ cao cấp này thường được người Âu châu gọi là Ông Cai Tàu. Các viên chức cao cấp ở đây gồm có Tri Tàu 知艚, Cai Bạ Tàu 該簿艚 và Ký Lục Tàu 記錄艚 tức thư ký và các viên chức thấp hơn là Thủ Tàu 守艚.[85]

Về những chữ khắc trên bia mộ - chỉ được ghi nhận theo hệ thống can chi đã ghi nhận ít nhất ba người trong số những quan chức này, có tên là Ngô Dựng Minh 吳孕明, chết năm 1691, Chu Chi Sơn 周枝山, mộ do con là Thủ Nương 首娘 lập, đề năm 1694 và Khổng Thiên Như 孔天如 chết năm 1695. Chúng tôi không tìm thấy mộ của Ngô Dựng Minh, được lập bởi con trai và toạ lạc ở xã Thanh Hà 青霞社 hay của Chu Chi Sơn nhưng các bi chí thì đã được giáo sư Trần Kinh Hoà ghi chép lại.[86] Ngô là người Long Ấp 龍邑 (Long Khê 龍溪), Chương Châu 漳州, Phúc Kiến, trước đây là Cai phủ, làm việc trong Bản đường quan 本堂官, được trực tiếp tuyển mộ bởi triều đình chúa Nguyễn mà nhiệm vụ chính yếu là thu thuế,[87] được phong tước Minh Đức Hầu 明德侯.

Hai người sau là cựu quan chức của Tàu bộ,[88] chức vụ được ban cho vì nhiều loại công trạng. Chu Chi Sơn, nguyên quá không ghi, nhận được tước Ân Tứ Hầu 恩賜侯 và Nội viện 內院,[89] mộ ông do con lập và được sửa sang năm 1941 theo sự đề nghị của bang hội người Hoa nay không còn tìm thấy nữa. Nay chỉ còn lăng mộ của Khổng Thiên Như đề năm 1695 (hình 12-13). Ngôi mộ này tọa lạc tại mảnh đất nguyên thủy do chúa Nguyễn Phúc Chu 阮福淍 (trị vì 1691-1725) nhưng đền thờ ông được xây cất theo lệnh của chúa thì đã không còn nữa. Mặc dầu lăng được tu bổ hai lần năm 1849 và năm 1942 nhưng bia đá đã mòn và những hàng chữ khắc hầu như không còn đọc được. Tấm bia này do em trai Khổng Toàn Đức 孔全德[90] và con trai ông là Khổng Mẫn Quản 孔敏管 dựng lên nhưng nội dung văn bản là do chính chúa Nguyễn viết thể hiện sự kính trọng dành cho người quá cố khi đó là Cai phủ tàu 該府艚. Tấm bia viết:[91]

詔諭

欽賜該府艚忠良侯,糾率諸國各艚,兼管舊新客商等員人,故賜加封文慧侯孔天如之神。

Chiếu dụ:

Khâm tứ Cai phủ tàu Trung Lương hầu trông nom tàu bè các nước kiêm quản lý nhân viên các khách thương cũ và mới nên ban thêm phong làm Văn Huệ Hầu cho thần vị của Khổng Thiên Như.

詔曰,

爾生報國,[...]遠商悅慕至止,今爾逝世,給四畝地、旌扁立祠,以彰名義。

歲次乙亥年九月初九日寧厝。

Chiếu viết:

Ông bình sinh báo quốc […] nên khách thương từ xa đến rất là quí trọng. Nay ông qua đời nên cấp cho bốn mẫu ruộng để lập đền thờ để làm sáng tỏ danh nghĩa.[92]

Năm Ất Hợi (1695) tháng Chín ngày mồng 9 mai táng.

Ngoài ra tấm bia này cũng không đề năm theo lịch nhà Lê mà dùng can chi. Từ những chi tiết trên chúng ta có thể lượng giá được sự đóng góp của những trí thức người Minh hương tại khu vực của chúa Nguyễn và đóng góp của họ trong sinh mệnh chính trị và hành chánh, không nói đến vai trò trong việc mở rộng lãnh thổ về phía nam. Cũng cần đáng ghi nhận là có nhiều nguồn xác định rằng tổ tiên của chúa Nguyễn có gốc tích từ Trung Hoa.[93]

Phố Hiến: Hải thương được Lê Đỉnh Kiến bảo vệ

Hiện nay Phố Hiến là một thành phố nhỏ nằm ở phía bắc sông Hồng, không xa thành phố Hưng Yên 興安. Việc thành phố này khởi đầu như thế nào vẫn còn mơ hồ. Người ta cho rằng ngay từ đầu thế kỷ XVI thì đã có tàu buôn ngoại quốc đến đây rồi nhưng tài liệu địa phương chỉ cho chúng ta biết từ đầu thế kỷ XVII. Tài liệu đầu tiên đề cập đến nơi này gọi là Hiến Nam 憲南 xuất hiện vào năm thứ 7 đời Vĩnh Tộ 永祚 (1625) trên một tấm bia ghi nhớ về việc tu sửa một ngôi chùa, Thiên Ứng tự 天應寺.[94] Thế nhưng khi đó thì địa phương này đã là một giao lộ thương mại quan trọng nhưng ghi chép sau đây:

而憲南名市,又四方都會,小長安也。

Hiến Nam là một chợ nổi tiếng, một thành phố quốc tế, một tiểu Tràng An.[95]

Thực tế, người Trung Hoa, người Mã Lai, người Xiêm La và người Nhật Bản đã quen thuộc với hải cảng này và nhà cầm quyền cũng đặt một số thương nhân Âu châu, quyết định đó đóng góp rất nhiều vào việc phát triển thương mại của Phố Hiến trong tam cá nguyệt sau cùng của thế kỷ XVII. Giovani Filippo de Marini (1608—1682), người đảm trách phái bộ truyền giáo Dòng Tên ở Bắc Kỳ từ 1647 đến 1658 có nói rằng những nhà buôn người Hoa tham gia vào việc đem lụa bán sang Nhật Bản.[96]

Phan Đỉnh Khuê 潘鼎桂 một nho sinh/thương gia từ Quảng Đông sang đã du hành bằng đường biển xuống vương quốc họ Lê năm 1688 đã cung cấp những miêu tả sau đây về hải cảng này mà ông gọi là Hiên Nội 軒内:[97]

又數日,達軒內·軒內者,去其國都只百十里·凡四方洋船販其國 悉泊焉。設官分鎮其地。有街市數十,曰天朝街。尊我中夏曰天朝 稱我中夏人曰天朝人,沿舊制也。

Vài ngày sau chúng tôi đến Hiên Nội, cách kinh đô khoảng 110 dặm. Đây là cửa biển nơi các tàu buôn ngoại quốc muốn buôn bán với nước này từ bốn phương kéo đến bỏ neo. Thiết lập quan chức phân chia các trấn canh giữ. Có vài chục đường phố được gọi là “Thiên Triều Nhai”. Họ tôn trọng gọi Trung Hoa là thiên triều còn người Trung Hoa thì là thiên triều nhân, ấy là thói quen từ lâu.

Phan Đỉnh Khuê rất thận trọng đối với những người tị nạn nhà Minh hiện đang ở trong những vị thế khó khăn vì nhà cầm quyền Việt Nam đã sử dụng nhiều biện pháp để kiểm soát những ai muốn sinh sống ở Việt Nam. Năm 1661, người Mãn Châu đã gửi sang một phái đoàn yêu cầu triều đình nhà Lê tiếp tay đối phó với bọn “giặc cướp”[98] này, và cũng trong cùng năm đó thì thương nhân Trung Hoa không được phép sống tại kinh đô.[99] Nhiều luật lệ khác nữa cũng nhắm tới việc kiểm soát họ bằng cách ra lệnh cho các viên chức địa phương đưa tên họ vào danh sách và yêu cầu những người tị nạn tuân thủ luật lệ bản xứ.[100]

Dampier, người đã đến đây trong cùng năm đã miêu tả hải cảng này như sau:[101]

Hiến vào khoảng 60 dặm cách nơi chúng tôi neo tàu và cách biển vào khoảng 80 dặm cùng theo hướng đó nhưng nằm dọc theo con sông hay dòng sông Rokbo, nơi đất xuôi xuống phía nam nên có vẻ như xa biển hơn. Đây là một thị trấn đáng kể, có khoảng 2000 ngôi nhà nhưng dân chúng phần đông là người nghèo khổ và lính tráng, họ có một trại đóng quân ở đây mặc dầu không có tường, pháo đài hay súng lớn […] Người Xiêm La và người Trung Hoa đưa thuyền của họ lên sông Rokbo, gần đến Hiến, và thả neo ngay phía trước và chúng tôi cũng thấy nơi đó có vài chiếc thuyền mành Trung Hoa. Họ thả nổi ở giữa sông vì thuỷ triều lên xuống không nhiều ở nơi đây. […] Viên trấn thủ hay phụ tá của ông ta đóng dấu hay thông hành tất cả mọi thuyền bè dù lên hay xuống; không một chiếc thuyền nào có thể đi qua mà không có. Vì thế chúng tôi cũng phải dừng lại.

Về những thương nhân người Hoa, ông ta cung cấp một cái nhìn thú vị về tình trạng của họ ở Phố Hiến và tại kinh đô Thăng Long 昇龍 (ở đây người ta gọi là Kẻ Chợ có nghĩa là nơi buôn bán).[102]

Ở nơi đây (tức Phố Hiến) có một con đường thuộc về các con buôn người Trung Hoa. Vài năm trước có rất đông sống tại Cachao (Kẻ Chợ) cho đến khi họ trở nên rất đông khiến cho chính người dân bản xứ cũng bị họ nuốt chửng. Nhà vua nhận ra tình hình đó nên ra lệnh cho họ phải rời khỏi nơi đây và cho phép họ sống ở đâu cũng được ngoại trừ ở thành phố. Thế nhưng một số lớn nay đã bỏ nước này vì họ thấy không nơi nào thuận tiện ngoại trừ ở Kẻ Chợ [Cachao]; vì đây là nơi duy nhất trong cả nước là nơi Buôn Bán, mà thương mại là lẽ sống của người Trung Hoa. Tuy nhiên, một số trong số họ bằng lòng sống ở phố Hiến, và họ đã ở đây từ hồi đó. Và những thương nhân này, bất chấp lệnh cấm vẫn thường đến Kẻ Chợ để mua và bán hàng nhưng không thể sống thường trực ở đây mà thôi. Có hai trong số thương nhân người Hoa này buôn bán hàng năm với Nhật Bản tơ sống và lụa và phần lớn đem tiền về.[103] Những người này đều để tóc dài…

Chi tiết sau cùng Dampier đề cập cho chúng ta biết về người Thanh cũng như nhóm người Minh hương đều có buôn bán ở Bắc Hà vào hậu bán thế kỷ XVII. Thật vậy, theo Dagh-Register vào khoảng 1664 thì “người Hoa cạo đầu” cũng đã buôn bán ở Đàng Ngoài.[104]

Tác giả cũng ghi nhận về những văn khắc công tước Lê Đình Kiên 黎庭堅 là người đã bảo vệ nhóm Minh hương, những thương nhân đến Phố Hiến “với sung sướng và tập trung lại với nhau không phân biệt xa gần 悅來,無遠無近皆群[105] cho thấy được hiểu ngầm là những người Minh hương đã coi kinh doanh trọng hơn yếu tố chính trị.

Theo lời truyền thì ngôi đền khi thành lập là để thờ Thiên Hậu 天后, nữ thần Trung Hoa bảo hộ cho người đi biển, do người di cư Phúc Kiến từ giữa thế kỷ XVII, việc này rất có thể xảy ra. (hình 14). Năm 1993 người ta vẫn còn thấy trong sân đền một tấm bia đã bị mòn (không còn nguyên vẹn) nhưng trên đó còn đọc được Long Phi Giáp Ngọ 龍飛甲午 mà chúng ta có thể coi là năm 1654. Diễn tả Long Phi hay rồng bay được dùng thay thế cho hoàng đế đang tại vị và do những người Minh hương. Hơn nữa cũng vẫn còn một hiệp hội các nhà buôn tên là Đông Đô Quảng Hội 東都廣會 tức là Hiệp hội Quảng Đông ở Đông đô[106] mà người ta bảo rằng có từ thế kỷ XVII. (Hình 15)[107]

Tuy nhiên cho đến những thập niên đầu thế kỷ XVIII, ở Phố Hiến 舖憲 (người Hoa gọi là Hiến Nội 憲内) thì những con buôn người Trung Hoa vẫn còn coi mình là người nhà Minh và điều đó được chứng minh trên nhiều bản khắc. Ở đây chúng tôi chỉ nêu ra ba trường hợp.

Thứ nhất, văn khắc đề năm Vĩnh Thịnh 永盛 5 (1709) để ghi nhớ việc tu bổ chùa Thiên Ứng như đã đề cập ở trên, trên đó ghi không dưới 54 người cung hiến từ các tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến đều cho mình là thần dân của nước Đại Minh 大明國. Trong nhóm này còn có thêm một người tị nạn, tên Hồng Chương Quan 洪漳官 là người gốc Tấn Giang 晉江, Phúc Kiến là người chịu trách nhiệm bảo vệ những làng Minh hương liền kề nhau tại quận Hải Dương và vợ ông.

Thứ hai, văn khắc đề năm Vĩnh Thịnh 7 (1711) của chùa Kim Chung 金鍾寺 ghi nhớ việc xây dựng ngôi đền trong đó nói rằng một số thương nhân và thuỷ thủ của nhà Đại Minh (trong số đó có một nhóm Hải Nam) đã góp tiền, và tên họ được liệt kê đằng sau những người Việt Nam cung hiến.

Thứ ba, chữ khắc năm 1723 của thương nhân người Minh hương để xây dựng một đền ghi nhớ công ơn quận công Lê Đỉnh Kiến 黎鼎建 (chết năm 1704), là đề đốc 提督 Sơn Nam 山南. Tấm bia này cung cấp những tin tức thú vị về người chỉ huy và những bộ hạ người Trung Hoa của ông.[108] Xem ra những thương nhân trên biển này, ngoài một số chủ thuyền hay tào chủ 艚主 thì phần nhiều là người tị nạn nhà Minh. Trong số khoảng 94 người cung tiến có độ hơn một chục người đã có tên trên những tấm bia dựng từ trước nhưng lần này họ không nêu tư cách chính trị, có lẽ muốn tránh việc có thể gây chú ý. Tuy nhiên những hàng chữ cũng cho thấy một thực tế là họ qua đây bằng đường biển, có liên quan đến hải thương và những chiếc thuyền mành này đã bỏ neo ở Lai Triều Vạn 來朝澫,[109] có lẽ là nơi mà Dampier gọi là “sông Rokbo” mà ông miêu tả là “nơi những thuyền của người Trung Hoa đã đậu” (lieu òu se tiennent les jonques) trên một bản đồ của người Anh mà Abbé Prévost (1697—1763) đã sao lại (Bản đồ 8). Theo những nguồn của người Việt Nam thì Lai Triều Vạn là nơi quận công Lê vào khoảng 1650s hay 1660s đã định cư cho nhóm Minh hương – hải phỉ đang lang thang trên biển Việt Nam này.[110]

Tác giả Trần Đế Đào 陳帝陶, người Phúc Kiến, trước đây đã từng là tào trưởng đội thuyền Hải Nam (原海南艚艚長) cho biết là ở Phố Hiến cũng như ở Cambodia thì các thương nhân đi biển và các chủ tàu được quản lý theo nơi xuất phát của họ.[111] Tác giả cũng tỏ lòng biết ơn đối với Lê quận công đã mất rất nhiều công lao để đón tiếp những người Minh hương đang lang thang và thấy rằng Phố Hiến là một địa điểm quốc tế mà họ có thể buôn bán một cách yên bình.

Những hàng chữ khắc rất mượt mà đủ cho chúng ta biết Trần Đế Đào quả là một người có học (literatus); và ông muốn tỏ ra mình là một nho sinh 儒生 của cửa Khổng sân Trình. Mặc dù rất thận trọng trong việc bày tỏ tâm tư, chúng ta có thể thấy được qua những gì ông miêu tả về sự ưu việt của quốc gia ở phía nam, đạo đức của những viên chức văn cũng như võ, sự hài hoà của thiên nhiên và xã hội loài người và qua đó cũng gián tiếp lên án trật tự chính trị của đế quốc Mãn Châu. Người ta cũng tự hỏi khi thổ lộ sự thương tiếc về cái chết của Lê quận công phát tiết trong bài thơ kết thúc của bi ký có phải là ông cũng muốn nói đến nỗi đau lòng về sự sụp đổ của triều Minh hay không? (Xem phụ lục II).

Mặc dầu chính sử Việt Nam không đề cập gì đến việc những người Minh hương đến sinh sống ở Phố Hiến và sự hội nhập của họ vào quốc gia này, người ta có thể cho rằng những trường hợp được ghi nhận nêu trên (kể cả việc di cư của dòng họ Lý ở chương đầu) không phải là những trường hợp duy nhất ở Đàng Ngoài.

Banteay Meas/Hà Tiên: Họ Mạc tổng trấn khu tự trị

Hai địa danh này nhiều khi bị nhầm lẫn.[112] Trấn Banteay Meas[113] (tức Sài Mạt 柴末 theo ân Hán – Việt; Mang Kam, Mong Kam theo tiếng Xiêm, được hoán chuyển với Muong Kham có nghĩa là “thành phố vàng”, Mang Khảm 茫坎 theo âm Hán – Việt) , ngày nay chỉ còn là một thành phố nhỏ trên vùng đất phía tây của con sông Banteay Meas trong lãnh thổ Cambodia, trong khi thành phố cảng Hà Tiên (trước đây gọi là Peam tiếng Cambodia, Fang hay tiếng Hoa và Phương tiếng Hán - Việt) thì nằm gần cửa sông, ở phía tây của con sông (tiếng Hoa gọi là Thanh Giang 清江) hiện nay nằm trong lãnh thổ Việt Nam.[114]

Một trong những bản đồ Âu châu cổ - nếu không nói rằng cổ nhất – đã chỉ ra hai vị trí và tên khác nhau tương ứng là "Pontiamo"' và "Aihéne", có tên là Bản đồ của một phần Trung Hoa, quần đảo Philippine, quần đảo Sunda, Molucca và Papouan (tên gốc Carte d'une partie de la Chine, les isles Philippines, de la Sonde, Moluques, de Papoesi được in tại Amsterdam bởi Covens et Mortier khoảng năm 1760).[115] Chúng tôi chụp lại ở đây chi tiết của một bản đồ của Pháp năm 1829 có tên là Carte de I 'Inde endeca et au dela du Gange xuất bản năm 1829 ghi rõ tên và vị trí của hai cái tên đó.[116] Trong mùa mưa con sông này thông với đồng bằng sông Cửu Long như ta thấy tại bản đồ được in lại ở đây. Xem chừng Mạc Cửu 鄚玖 đầu tiên đã định cư tại thị trấn Banteay Meas, đến khi nơi đây bị quân Xiêm tàn phá thì mới di chuyển sang Hà Tiên.

Các tài liệu bằng tiếng Hoa và của Âu châu tương đối phong phú khi viết về lịch sử định cư của họ Mạc nhưng lại có nhiều chỗ không ăn khớp với nhau khi nói đến thời điểm và sự kiện, cũng đôi khi bổ túc cho nhau. Như đã đề cập bên trên, những tài liệu này đã nẩy sinh ra rất nhiều bộ phận văn học tiếng Âu, tiếng Hoa, tiếng Nhật nhằm làm sáng tỏ sự chân thực của các tài liệu này và xác định lãnh địa của họ Mạc trong khung cảnh chính trị thời kỳ đó.[117]

Tại đây chúng tôi chỉ có ý định cung cấp một tóm tắt tổng quát về lịch sử định cư và chỉ ra một số điểm không ăn khớp về ngày tháng và sự kiện. Văn bản Trung Hoa cũ nhất, một bộ sử hành chánh do triều đình biên soạn, được tập hợp giữa khoảng 1747 và 1784,[118] cung cấp tài liệu được ghi chép về Hà Tiên trong đây gọi là Cảng Khẩu quốc 港口國 thuộc về một ông vua có họ Trịnh thay vì họ Mạc .

Sách viết, có lẽ có chủ đích, nói rằng lịch sử của vương quốc này không biết được, nhưng cung cấp nhiều miêu tả rõ ràng về thương mại, nói rằng đã phát triển kể từ năm 1729,[119] và đời sống văn hoá Trung Hoa ở Hà Tiên dưới quyền cai trị của Mạc Thiên Tứ 鄚天賜 (chính là con của Mạc Cửu),[120] và ca tụng sự cai trị của ông vì đã nói rằng “ấy là đạo to lớn của thánh nhân và giáo hoá thần kỳ của thánh triều 是則聖人之道大與聖朝之化之神也)

Quả thực dưới triều đại vua Càn Long, nhất là sau những cuộc viễn chinh Miến Điện (không thành công) năm 1767, Mạc Thiên Tứ đã không ngần ngại mở ra những liên hệ tốt với nhà Thanh. Có những phái đoàn qua lại giữa triều đình Bắc Kinh và chính quyền Hà Tiên (được ghi lại trong Thanh Thực Lục 清實錄) với mục đích nhà Thanh muốn có những tin tức về tình trạng thực giữa Xiêm La và Miến Điện như thế nào.[121]

Để củng cố thêm cho những tài liệu của Trung Hoa, hai ghi chép của người Âu châu vào thế kỷ XVIII cung cấp tin tức về vương quốc của Mạc Cửu và lần đầu tiên khu vực này bị Xiêm La tàn phá. Pierre Poivre (1719—1786)[122], một thực vật gia, nhà thám hiểm và viên chức hành chánh thuộc địa người Pháp, đã thu thập được tin tức từ hai người từng đến thăm Hà Tiên.[123] Trong một bài nói chuyện năm 1768, ông trình bày về người đã tạo lập của vùng đất này, ông gọi là Ponthiamas, một thương nhân có tên "Kiang-tse", đã đến đây trên một chiếc thuyền mành và sau khi thấy vùng đất bao la hoang vắng này đã quyết định phát triển nói với sự đồng ý của các quan lại địa phương. Vì mục tiêu đó, ông tập hợp những người Trung Hoa và những nông dân ở khu vực này và chia đất đai cho họ.

Chỉ trong một thời gian ngắn, những người chăm chỉ đều muốn định cư tại giang sơn của ông ta. Ông thành công trong kinh doanh đến nỗi những người dân địa phương đã tôn ông lên làm vương nhưng ông không nhận.[124] Nếu Hoàng Triều Văn Hiến Thông Khảo 皇朝文獻通考miêu tả Cảng Khẩu quốc như một vương quốc thần tiên theo kiểu Trung Hoa thì Poivre lại vẽ ra một Ponthiamas như một xứ sở an bình, người cai trị như một hiền triết hiểu biết về tầm quan trọng của canh nông.

Thuyền trưởng người Anh Hamilton, người buôn bán ở Hà Tiên (mà ông ta gọi là Ponteamass) vào năm 1720 là quan sát viên duy nhất đã nhắc đến những tàn phá Banteay Meas mới đây của người Xiêm:

Nơi kế tiếp là Ponteamass, một địa điểm buôn bán rất tốt trong nhiều năm qua, có thuận tiện của một con sông hẹp nhưng khá sâu, vào mùa mưa khi gió mùa thổi theo hướng tây nam thì có thể thông lên Bansack [Bassac], hay sông Cambodia, và con sông này tiện lợi thu hút thương mại nước ngoài lên đến thành phố Cambodia [Udong]; vì thành phố nằm ngược dòng sông gần 100 hải lý và hầu hết liên tục chảy xuôi xuống khiến cho việc đi thuyền lên thành phố Cambodia rất dài và khó khăn nên ít người đám mạo hiểm buôn bán, thành thử việc buôn bán với nước ngoài chỉ đến Ponteamass, nên nơi này phát triển rất nhanh cho đến năm 1717 khi đoàn chiến thuyền của người Xiêm phá huỷ nó […]

Năm 1720, tôi còn thấy một số thuyền đắm, và tàn tích của thành phố Ponteamass.[125]

Những tài liệu của người Việt Nam viết bằng Hán văn từ thế kỷ XIX, theo truyền thống địa phương, cho nhiều chi tiết chẳng hạn như sau:

Mạc Cửu lúc đầu thần phục vua Cao Miên trước khi tập hợp những người Trung Hoa tị nạn và dân những nước khác dưới quyền kiểm soát của ông ta để mở mang Mang Khảm (Banteay Meas) mà ông ta trở thành người chỉ huy.[126]

Ông lập ra một sòng bạc.[127] Vua Cao Miên trả lương cho ông và một người lính hầu.

Năm 1708 hay 1711 ông thần phục chúa Nguyễn tại Huế và nhận được chiếc ấn.[128]

Theo gia phả, Mạc Cửu được đoàn tụ với Sái thị 蔡氏 mẹ ông, cho thấy ông vẫn liên lạc với gia đình ở bán đảo Lôi Châu (玖母蔡氏思子日切,自雷州航海而來)[129]

Ngoài ra cũng còn liên hệ hôn nhân giữa gia đình họ Mạc và họ Trần ở Biên Hoà, chứng thực bởi em gái của Mạc Thiên Tứ là Mạc Kim Định 鄚金定 lấy con trai của Trần Thượng Xuyên 陳上川 là Trần Đại Định 陳大定 (chết năm 1732).[130]

Sau cùng Hà Tiên bị phá huỷ năm 1715 thay vì 1717.[131]

Sau khi cha ông qua đời, Mạc Thiên Tứ vẫn duy trì và xây dựng truyền thống văn hoá Trung Hoa ở Hà Tiên,[132] coi trọng văn chương và tôn sùng Khổng Tử, tạo thành một phong vị đô thị.[133] Tuy nhiên, một yếu tố quan trọng không kém là vai trò chính trị của họ Mạc trong việc phát triển khu vực này. Sự liên minh với họ Nguyễn đã làm gia tăng tiến trình Hoa – Việt hoá một khu vực vốn là của người Khmers.

Thế nhưng trong thời gian vua Taksin (1767—1782) trị vì, người Xiêm là kẻ đối đầu của người Việt và Mạc Thiên Tứ, một chư hầu của chúa Nguyễn, phải tham gia vào những vấn đề chính trị và quân sự. Hậu quả là năm 1771, trong một chiến dịch trừng phạt do vua Taksin gửi sang để tiêu diệt Hà Tiên. Sau khi Hà Tiên thất thủ, Mạc Thiên Tứ bị bắt đưa sang Xiêm và ép phải tự tử vào ngày mồng 1 tháng November năm 1780.[134]

Tình hình chính trị bất ổn chung quanh khu vực Hà Tiên trong hầu hết thế kỷ XVIII, nhất là sự tranh chấp giữa Xiêm La, Cambodia và vương quốc chúa Nguyễn, sau cùng đã khiến cho kế hoạch của họ Mạc muốn xây dựng một tiểu quốc theo mẫu Trung Hoa phải cáo chung và vương quốc tự trị không tồn tại được.

Châu thổ sông Cửu Long: Quân Long Môn và những đích kế tiếp

Những người tị nạn – hải phỉ nhà Minh có liên hệ chặt chẽ với họ Trịnh và nhiều nhóm khác nhua định cư dọc theo sông Cửu Long, ở Phnom Penh và Udong được biết từ khoảng thập niên 1650s. Họ dần dần nắm quyền kiểm soát mạng lưới thương mại giữa Udong và đại dương xuyên qua vùng châu thổ sông Cửu Long như đã được chứng thực bằng sự biến mất của thuyền bè người Chăm và người Java trong luật lệ của người Cambodia và việc ban hành một luật lệ mới cho các thuyền mành Trung Hoa (Law on Chinese junks) nhằm thu hút các lợi tức thương mại cho triều đình.

Bộ luật mới này bao gồm một danh sách chi tiết của các món quà cáp mà những viên thuyền trưởng của các thuyền buôn phải dâng cho nhà vua, cho các ông hoàng và cho quan lại trong triều đình tương xứng với số lượng hàng hoá chở tới, đó là chứng cớ cho thấy sự liên hệ mật thiết của hoàng gia trong mạng lưới của người Trung Hoa. Bộ luật thứ hai tiếp theo bộ luật đầu tiên tên là Luật về người Trung Hoa (Law concerning the Chinese) trong đó các nghi lễ mà thuyền trưởng các thuyền mành Trung Hoa phải tuân theo khi dâng lễ vật được qui định rất chi tiết.[135]

Quyền lực của các con buôn này được chứng thực bởi sự kiện họ đã giết đại diện của VOC tại Udong năm 1667 như chúng ta đã thấy ở trên. Ngoài ra luât lệ áp dụng cho những bang hội Trung Hoa nay cũng được cải tổ (giữa năm 1673 và 1677?) để ưu tiên cho các hiệp hội thương gia người Quảng Đông và okna người Hoa được chỉ định làm shahbandar (tức quản lý hải cảng) mà người đó không ai khác ngoài Mạc Cửu.[136] Một thời gian ngắn sau, một shahbandar thứ hai dành cho người Phúc Kiến được thêm vào, và rồi một người thứ ba cho người Trung Hoa từ Tam Phiên và người từ nước “Lien Phan” chưa xác định được, có thể là đại diện của Đài Loan. [137]

Theo Takeo Itasawa[138] thì một thời gian ngắn trước khi họ Trịnh qui thuận nhà cầm quyền Mãn Châu có tin đồn trong các viên chức của xưởng VOC tại Nagasaki rằng vị vương cuối cùng của họ Trịnh, Trịnh khắc Sảng 鄭克塽 (con trai thứ hai của Trịnh Kinh) và bộ hạ đã có dự tính sẽ xin tị nạn tại Cambodia một khi Đài Loan rơi vào tay nhà Thanh. Kế hoạch này không được thực hiện vì Trịnh Khắc Sảng đã hàng nhà Thanh năm 1683 nhưng một hành vi có thể liên quan trực tiếp đến kế hoạch của họ Trịnh định chạy sang Cambodia là việc có khoảng 70 chiếc thuyền của nhà Trịnh đem theo khoảng 3000 người và gia đình họ, dưới quyền chỉ huy của Dương Ngạn Địch 楊彥迪 và Trần Thượng Xuyên 陳上川 như trên đã đề cập. Họ có thể là những toán tiên phong của Trịnh Khắc Sảng với nhiệm vụ đi tìm một nơi an toàn để cho Trịnh vương tị nạn, việc đó có thể giải thích được thái độ hống hách của họ với các viên chức cai trị ở Cambodia.[139]

Họ tiến xuống châu thổ sông Cửu Long; Dương Ngạn Địch và đồng bọn định cư ở Mỹ Tho 美湫nơi ông ta kiểm soát đường vận chuyển sông Mekong và Trần Thượng Xuyên ở Bàn Lân 盤轔 (Biên Hoà 邊和) nơi ông ta độc quyền mạng lưới buôn bán trên sông Đồng Nai. Vua Cambodia, theo nguồn của Cambodia và báo cáo của một chủ tàu Trung Hoa, nghĩ rằng Dương Ngạn Địch muốn tấn công vương quốc của mình nên đã chạy trốn vào trong núi và không chịu ra ngoài cho tới tận năm 1684.[140]

Đoàn quân của Dương đóng lại Cambodia, theo các tài liệu của Cambodia, thì ngay từ 1682 họ đã chặn tất cả các cửa sông Mekong, khiến cho các thuyền buôn phải chuyển sang Banteay Meas; mà hậu quả là nhà vua phải ra lệnh cho những shahbandars nào có liên quan hãy di chuyển xuống nơi đây để quản lý các thương thuyền theo dòng sông đào ở Banteay Meas.[141] Còn tài liệu của Trung Hoa và Việt Nam cũng đề cập đến việc phong toả tiếp tục sau khi Dương Ngạn Địch bị phó tướng của y là Hoàng Tiến 黄進 ám sát vào đầu năm 1685 và Hoàng Tiến đã lên nắm quyền chỉ huy quân Long Môn và tiếp tục gây rối loạn trong khu vực này với ý định sẽ chinh phục cả nước cho đến khi y bị xử tử. Nói một cách cụ thể thì y đã chiếm đóng một hòn đảo (có lẽ là Cù Lao Giêng) nơi lưu vực sông Bassac để ngăn không cho tàu lên thượng nguồn.[142]

Phải đến năm 1687 thì Hoàng Tiến và bộ hạ mới bị người Xiêm đánh đuổi trong một chiến dịch có sự tham dự của hai viên thuyền trưởng người Anh mà hành động của họ được Dampier kể lại,[143] trong tài liệu của Việt Nam và theo lời của một chủ tàu người Hoa. Những báo cáo này theo Trần Kinh Hoà và Mak Phœun có nhiều điều không ăn khớp nhau. Theo Mak thì các lời khai của người Pháp và nguồn của người Cambodia không phù hợp với các tài liệu Hán Việt về ngày giờ chiến dịch của người Xiêm và những gì xảy ra ở Cambodia.[144]Theo tài liệu của Việt Nam, vào giữa năm 1689, triều đình Huế, có lẽ do sự yêu cầu của tổng đốc nhà Thanh ở Quảng Đông, đã gửi một chiến dịch chinh phạt đến Cambodia và đã thành công trong việc loại trừ Hoàng Tiến và gia đình.[145]

Sau khi Hoàng Tiến chết, Trần Thượng Xuyên trở thành chỉ huy của đội quân Long Môn và là lãnh tụ của người Hoa tại Cambodia. Ông ta cộng tác chặt chẽ với triều đình chúa Nguyễn và những năm kế tiếp được đánh dấu bằng một loạt những trận đánh giữa quân Cambodia và quân Nguyễn trong đó ông ta đóng một vai trò tích cực, và đến năm 1700 khi thành lập phủ Gia Định 嘉定 (Saigon 西貢 sau này và là đơn vị hành chánh đầu tiên trên vùng đất thuộc về Cambodia) thì Trần Thượng Xuyên trở thành chỉ huy Biên Hoà năm 1700, và được thăng lên làm trấn thủ Gia Định năm 1714.

Ông bất ngờ qua đời năm sau (1715), con là Trần Đại Định 陳大定 lên kế nghiệp và tiếp tục phục vụ chúa Nguyễn cho đến khi bị kết án oan và chết vì bệnh ở trong ngục năm 1732 trước khi được thân oan. Thảm kịch này khiến cho con trai ông ta là Trần Đại Lực 陳大力 phải chạy sang Hà Tiên nơi ông ta được ông dượng là Mạc Thiên Tứ đón nhận. Cái chết của Trần Đại Định cũng chấm dứt việc cộng tác giữa quân Long Môn với triều đình chúa Nguyễn và tàn quân của họ cũng bị giải tán.[146] Người ta vẫn cho rằng chính nhờ Trần Thượng Xuyên mà người Việt Nam đã sang sinh sống ở Cambodia.

Malacca: Một cộng đồng kín đáo dưới sự che chở của VOC

Thành phố Malacca, sau khi bị người Hoà Lan chinh phục năm 1641 đã bị tàn phá, buôn bán bị huỷ diệt và dân chúng phần lớn nay đã phân tán đi khắp nơi. Sau các biến cố này, cộng đồng người Trung Hoa chỉ còn độ vài trăm và dưới sự cầm đầu bởi Kapitan Notchin (hay Nootsian trong các nguồn của Hoà Lan) là một thương nhân ở đó. Trong báo cáo về dự tính tổ chức của Uỷ viên tương lai Malacca là Justus Schouten đã viết:

Khoảng 300 đến 400 các chủ tiệm, thợ thuyền và nông dân người Hoa cũng được phép định cư nơi đây theo sở thích của họ, miễn là họ tự trồng cấy vườn tược của mình năm trong lãnh thổ này. Họ có thể thuê mướn hay chiếm đóng những căn nhà bỏ hoang chưa sụp đổ hay phá huỷ. Cộng đồng này cũng có thêm 33 người Trung Hoa đến từ Batavia trong vai trò khách thương của VOC.

Ý định của người Hoà Lan là thu hút càng nhiều người Trung Hoa càng tốt để nhằm tái kiến trúc thành phố như đã ghi trong báo cáo của Schouten:

Theo kế hoạch này thì nếu có chừng 800 đến 1000 người Hoa thì sẽ rất hữu dụng.

Chính sách độc quyền của VOC không cho phép các thương nhân người Hoa ở Malacca được tự do buôn bán. Việc đi sang Trung Hoa, tuy nhiên, mặc dầu không được xa hơn Quảng Đông hay Chương Châu (Phúc Kiến) vẫn được phép. Họ chỉ không được quyền đi thuyền hàng năm sang Nhật Bản như khi còn ở Batavia.[147] Vào thời kỳ 1647-1720 Kai hentai 華夷變態 hay là “Điều kiện để thay đổi từ Hoa (Minh) sang Di (Thanh)” đã báo cáo về việc họ đến Nagasaky tổng số chín chiếc thuyền Malacca (1 cho các năm 1668, 1669, 1685, 1686, 1687, 1691, 1693, và 2 năm 1688).[148] Froger nói rằng những chiếc thuyền buồm Trung Hoa này cũng như các tàu của Bồ Đào Nha có cơ sở ở Malacca đã phải treo cờ Hoà Lan.[149] Ngay từ năm 1668, Balthasar Bort, khi đó đang là Thống đốc Malacca, đã ra lệnh đuổi các thuyền mành nào thuộc về những người phe họ Trịnh đi và cho phép tấn công các thuyền Trung Hoa khác.

Những thuyền mành và con tàu điều khiển bởi người Hoa thuộc phe Quốc Tính Gia ở Đài Loan, ở duyên hải Trung Hoa, đảo Hải Nam, Bắc Hà, Quảng Nam, Cambodia, Xiêm La, Pattani, Manila và những nơi khác nếu không có giấy thông hành và giấy phép từ các sĩ quan của chúng tôi, nếu gặp phải thì sẽ bị coi như kẻ thù và sẽ bị đàn áp bằng vũ khí hay các phương tiện cần thiết khác […] Nếu họ chống cự, họ sẽ bị tàn sát và không một ai được tha mạng vì chúng tôi mạnh hơn những gì các ông có nhiều […]

Thế nhưng tất cả thuyền mành và tàu bè nếu không phải thuộc về phe Quốc Tính Gia Trung Hoa (Cokchinders) mà là của những người bạn Tartars (tức nhà Thanh) thì khi gặp họ, dù có thông hành hay không, cũng phải được thuyết phục một cách thân hữu và thân mật mời họ tới đây, nếu bằng lòng, ông phải đi theo hộ tống để thấy họ vui vẻ ra khỏi bờ biển Nhiệt Hà (Johor).[150]

Sau đó Bort tiếp tục giải thích trên lý thuyết làm thế nào có thể phân biệt được đâu là người Hoa phản Thanh phục Minh với những người sống trong sự cai trị của người Mãn Châu bằng cách quan sát lối ăn mặc và đầu tóc của họ.

Tuy nhiên người Hoa phản Thanh vẫn có thể nguỵ trang để tránh tàu của Hoà Lan săn đuổi. Để không thể nhận ra, đôi khi họ ăn mặc theo kiểu Mãn Châu nhưng chỉ làm vậy mỗi khi họ nhìn thấy tàu của chúng ta.[151]

Cũng chính vì thế mà những người trung thành với nhà Minh đã quyết định di cư xuống Malacca. Nếu chúng ta cho rằng họ Lý từ Hạ Môn, không kể Lý Vi Kinh 李為經 (1614—1688), một số thân nhân của ông ta cũng đến Malacca vào khoảng cuối thập niên 1640s hay đầu 1650s: anh trai là Lý Vi Kỷ 李為紀, chết trên biển năm 1653 khi trở về Trung Hoa trên một chiếc tàu ngoại quốc và bị hải phỉ tấn công; em họ ông là Lý Cẩm 李錦 (sinh năm 1625) chết tại Malacca năm 1685; một người cháu (nephew) tên là Lý Hàm Huy 李含徽 đến Malacca năm 1677 và chết tại đây năm 1684 khi 36 tuổi.[152]

Về vợ của Lý Vi Kinh thì Lý Thị Tộc Phả 李氏族譜 chép rằng bà ta họ Từ , tên là Tích Nương 惜娘, là mẹ của hai người con trai (tên lúc nhỏ là Liên Công 連公 và Phương Công 芳公, tức là Chính Khôn 正坤 chết năm 1681 và Chính Hào 正壕 (1662-1708), và hai người con gái Thuỵ Kim 瑞金 và Thành Kim 成金[153] khiến người ta cho rằng Từ Tích Nương đã theo chồng đến Malacca. Tuy nhiên không có bài vị hay bia mộ nào đã tìm thấy. Ngoài ra chữ khắc trên bia của hai vợ chồng ở Malacca (nay không còn bia nguyên thuỷ) đã ghi nhận rằng vợ của Lý có tên là Tống thị 宋氏[154] trong khi bài vị do con trai của bà là Chính Hào dựng và giữ trong đình Thanh Vân thì không nhắc gì đến tên tuổi bà ta mà chỉ nói là chết năm 1697[155] thành thử vấn đề cũng chưa rõ ràng.

Một trường hợp khác là Trịnh Phương Dương 鄭芳揚 (1632—1677) từ Chương Châu, với tấm bia dòng họ ghi rằng ông trở thành bang trưởng của của cộng đồng người Hoa ở Malacca,[156] nhưng không rõ ông ta giữ nhiệm vụ đó vào năm nào. Rõ ràng ông ta kế vị người bang trưởng cũ có tên theo nguồn của Hoà Lan là Si Sia, là một người thuộc VOC, và có lẽ không ai khác hơn là Lý Vi Kinh[157] theo gia phả họ Lý thì có liên hệ tốt đẹp với viên thống đốc Malacca[158] (與王相善). Năm 1677, bang trưởng Si Sia được báo cáo là đã gửi một chiếc thuyền buồm đến Hạ Môn theo lệnh của VOC chở đầy hồ tiêu.[159]

Rất có thể sự kiện đó được ghi trong Lý Thị Tộc Phả rằng cùng năm con trai lớn của Lý Vi Kinh là Lý Chính Khôn[160] đã trở về Phúc Kiến trên một chiếc thuyền buồm, thăm gia đình và có nói đến việc cha ông sẽ trở về Trung Hoa (擬為歸計). Kế hoạch đó chưa thực hiện được[161] và Lý Vi Kinh phải ở Malacca vì nơi đó ông là một lãnh tụ công chính, phục vụ và bảo vệ cộng đồng với uy tín to lớn (領袖澄清,保障著勳). [162] và đã lấy Tam Bảo Sơn, được biết dưới cái tên Bukit China Hill, hiến cho cộng đồng người Hoa dùng làm một nghĩa địa chung[163] (Hình 17). Ông cũng hiến tặng một món tiền tại quê hương xây dựng một ngôi từ đường cho dòng tộc chính có tên là Quang Dụ Đường (光裕堂).[164]

Lý Chính Hào, em trai của Lý Chính Khôn (chết 1681), kế thừa cha làm bang trưởng của người Trung Hoa tại Malacca cho đến khi người em rể của ông ta là Tăng Kỳ Lộc 曾其祿 (1643—1718) lên thay thế. Người này cũng là một “anh hùng tại đào” từ Hoà Phố 禾浦 (nay là Tăng Thố Am 曾厝垵 gần Hạng Khẩu, Hạ Môn) như trên bi chí (先考避難義士伯中曾公神主) và điếu văn (1706—1707) đã ca tụng tài quản trị và năng lực của ông.[165] Văn chương của ông được chứng thực bởi thư pháp (khắc lên một biển gỗ) ông viết năm 1705, đọc là Thanh Vân Cổ Tích (青雲古蹟) nhắc đến những bang trưởng cũ đã có văn phòng trong ngôi đền này.[166] Người ta cũng muốn biết liệu thương gia – nho sĩ của Malacca này có thành lập một hội văn chương văn xã 文社 như những người chống đối thời Minh[167] ở lục địa Trung Hoa hay ở Đài Loan hay không nhưng câu hỏi đó vẫn chưa trả lời được.

Mặc dù các điều kiện ở Malacca không mấy hấp dẫn để người Hoa đến định cư nhưng dân số vẫn tiếp tục gia tăng, một phần nhờ vào vị trí của Malacca trong giao thương với Aceh, Perak, Palembang, Johor, và Batavia, phần khác là vai trò của những người tị nạn khác định cư ở Nam Dương (South Seas) vì họ cũng được phép buôn bán, miễn là họ có giấy thông hành. Năm 1678, theo báo cáo của Balthazar Bort, dân số Hoa kiều lên đến 852 người bao gồm 127 đàn ông, 140 đàn bà, 159 trẻ em và nô tì trong cả thành phố, còn ở thôn quê thì có 426 người; đến năm 1750, dân số đã gia tăng lên đến 2161 người.[168]

Những người phản Thanh phục Minh đã thành công trong việc duy trì một sinh mệnh văn hoá mà trung tâm là Thanh Vân Đình, có lẽ được kiến tạo vào khoảng 1673 (chữ P trên bản đồ 10 và chữ Q cho nơi ở của bang trưởng)[169] bao gồm cả tổng hành dinh của các thương nhân và một nơi để thờ cúng những người đã chết và thần thánh.[170] Khi Froger đến Malacca vào tháng September 1698, ông rất thích thú với ngôi đền của người tị nạn và nghi lễ của các nhà sư nên đã viết những hàng chữ sau đây và đến nay vẫn là cổ nhất, đồng thời vẽ phác về ngôi đền này (Bản đồ 11).[171]

Ngôi đền Trung Hoa khiến tôi rất tò mò và tôi sẽ miêu tả những gì tôi nhìn thấy nơi đây. Bởi vì chưa một ai đã từng miêu tả cho chúng tôi về ngôi đền này hay tôn giáo của người Trung Hoa tị nạn thì nó là một kiến trúc nhỏ và sơ sài nhìn bên ngoài thì không lấy gì làm đẹp. Tôi ở đó ngay lúc các tu sĩ đang hành lễ, và vì thế được quan sát rất kỹ lưỡng. Khi đi vào tôi thấy một gian chánh điện nhỏ, hai bên mỗi bên có một dãy năm chiếc bàn lớn, tất cả đều làm bằng gỗ tốt bên trên để trái cây và bánh trái xếp thành hình kim tự tháp. Từ đây tôi đi vào một nơi cao hơn chánh điện chừng 60 phân, ở đó có một số người Trung Hoa đang bận rộn xếp giấy vàng mã để đốt trước các ngẫu tượng của họ. Chúng tôi được mời trà và bánh trái. Cùng hàng với nơi đây, ở phía cuối, là nơi làm tế lễ, chia cắt với toàn thể ngôi đền bởi một tấm bình phong.

Nơi đây hoàn toàn tối om và được chiếu sáng bởi một số lượng lớn nến bằng sáp. Ngay chính giữa, ở hai bên, mỗi bên có ba bàn thờ phủ lụa ở đằng trước như những nhà thờ của chúng ta. Nơi đây, có vài lư hương cắm que nhang thơm đang cháy, giữa những pho tượng nhỏ, tôi thấy có một chiếc mâm đồng lớn khắc hoạ mặt trăng, có hình giống như chúng tôi vẽ.

Trong đại điện này có ba tu sĩ di chuyển giữa các bàn thờ trong khoảng hơn hai giờ, từ nơi này đến nơi khác, đứng trước đó hai lần và thỉnh thoảng lại hành lễ mặt cúi sát tận đất. Người đầu tiên gõ nhẹ vào một cái trống dẹt nhỏ bằng một cái dùi có bọc da để cho tiếng nhỏ lại. Người thứ hai từng lúc từng lúc lại rung một chiếc chuông nhỏ mà ông ta cầm ở tay phải, còn người thứ ba mang một quyển kinh Luật viết bằng tiếng Trung Hoa đặt trên một cái bát lớn bằng đồng. Họ bước đi chậm rãi và cả ba tụng kinh bằng một giọng buồn thảm. Âm nhạc đệm theo gồm có trống lớn và một loại nhạc cụ giống như kèn của ta, mọi thứ đều rất trang nghiêm vừa kính cẩn vừa u buồn.

Gần nơi chính điện này thì cũng có một cái chùa riêng cho phụ nữ nơi đó đàn ông không được vào (chữ M trong hoạ đồ).[172]

Nhóm Minh hương nhỏ này và những bang trưởng đạo đức đã khai sinh trong những thế kỷ kế tiếp việc hình thành một cộng đồng Baba mà vẫn duy trì cả hai nền văn hoá nhưng không biết được bao lâu?

Aceh: Một cộng đồng nhỏ hoạt động thương mại địa phương

Đến giữa thế kỷ XVII thành phố Aceh – nếu có thể gọi như thế - rất rộng rãi nằm giữa một khu rừng. Người Trung Hoa đã bị cấm đến ở nơi đây từ năm 1638 bởi Sultan Hồi giáo nghiêm khắc Iskandar Thani với lý do là họ cố gắng đưa lợn của họ vào. Họ không được nhắc đến nữa trong các nguồn của Âu châu cho đến năm 1642 khi chế độ cởi mở hơn của vị nữ hoàng đầu tiên, Taj al-Alam (chết năm 1675), dường như đã chấp nhận họ.[173] Quả thực bản đồ Hoà Lan về Aceh (khoảng 1645) đã vẽ rõ ràng một khu vực người Hoa (Chinees quarteer) nằm ở phía bắc thành phố, đông ngạn con sông (bản đồ 12, chữ V).

Theo Reid và Ito thì người Trung Hoa “sống ở đó dưới quyền kiểm soát chặt chẽ của các viên chức Acenese, có lẽ vì thế mà họ phải cư ngụ gần bên toà nhà quan thuế và khu vực của Syabandar (chữ Z) chứ không ở gần cửa biển như những người ngoại quốc khác.[174] Người ta cũng cho rằng lý do là họ ở gần thành phố là nơi họ có thể hoạt động thương mại giữa các khách thương địa phương và những nhà buôn Trung Hoa. Theo Froger, người Âu châu duy nhất đề cập đến sự hiện hữu của các nhà buôn người Minh hương, họ có hai ngôi đền nhưng nay không còn dấu vết gì.[175] Dampier là người đã thăm viếng Aceh năm 1688, bốn năm sau khi bãi bỏ luật cấm người Hoa buôn bán ở hải ngoại, cung cấp một miêu tả sống động về cộng đồng và những hoạt động khác nhau gắn bó với những thuyền mành đến đây hàng năm.[176]

Thế nhưng những nhà buôn giao dịch với thành phố này thì người Trung Hoa là đáng kể nhất. Một số của họ sống ở đây suốt năm nhưng những người khác thì chỉ đi từ Trung Hoa xuống theo từng chuyến. Những người này thường đến vào tháng June, từ mười đến mười hai thuyền, mang theo rất nhiều gạo và các mặt hàng nhu dụng khác. Họ ở các nhà liền kề nhau ở phía cuối thành phố kế ngay cạnh biển và khu vực đó người ta gọi là khu Trung Hoa vì đây là chỗ mà họ luôn luôn sinh sống và mang hàng hoá đến để bán.

Đoàn thuyền này gồm có thợ máy, thợ mộc, thợ đóng mộng, thợ sơn …Họ đến là làm việc ngay, làm rương, ô kéo, tủ và đủ các loại đồ chơi và ngay khi hoàn tất liền được bày trong các cửa hàng hay ngay ngoài cửa để bán. Vì thế trong khoảng hai tháng hay mười tuần thì nơi này như một hội chợ, đầy các cửa tiệm với đủ các mặt hàng và các loại hàng hoá có thể bán được và dân chúng cũng kéo đến mua. Ngay khi hàng hoá đã bán hết thì họ cũng thu hẹp hoạt động lại, ở ít nhà hơn và khi buôn bán giảm xuống thì các trò cờ bạc lại tăng lên […]

Nếu như hàng hoá không bán hết mà có người muốn mua cả thuyền thì họ cũng vui lòng bán, hay ít ra cũng một phần nếu có con buôn nào muốn mua vì người Tàu bán bất cứ cái gì và họ cũng rất vui khi có người mua thuyền của họ rồi sau đó họ sẽ đi thuyền như khách hàng với những người khác trong bọn […] Họ thường ra đi vào cuối tháng September và không bao giờ quay trở lại trong mùa đó …

Dampier cũng thêm rằng vào thời kỳ ông ta đến nơi đây thì ông bang trưởng Hoa kiều đã đổi sang đạo Hồi và được vinh dự chở đi “qua các đường phố trên lưng voi có một người đi trước rao lên là ông đã thành một kẻ tin đạo”. Ông nhận định như sau:

Người đàn ông này được gọi là bang trưởng của người Hoa tại khu vực này, và như tôi được biết, ông ta được ngồi ở vị trí này là do các đồng hương đưa lên để làm chủ tịch hay đại diện để thương thảo với dân chúng của quốc gia này. Không biết vì ông ta đã thương lượng sai trái hay chỉ vì bị người ta ghen tị tôi không biết nhưng đồng hương của ông ta đã lấy luật pháp để ràng buộc khiến ông ta bị thất thế và nếu ông không làm cách này để dùng tôn giáo bảo vệ thì họ sẽ không thể can thiệp được.

Vào thời kỳ đó có khoảng 10 đến 12 thuyền buồm đến Aceh hàng năm. Dampier khẳng định rằng sự quan trọng của thương nghiệp mà các nhà buôn Trung Hoa mang lại không phân biệt các thuyền từ Trung Hoa hay từ các hải cảng Đông Nam Á đến.[177]

Khi họ ở đây thì người ta kéo đến rất đông khiến cho kinh doanh của thương gia các nước khác cũng có đôi chút xáo trộn vì mọi việc đổ dồn xuống Phố Tàu. Đến ngay cả người Âu châu cũng xuống đó để vui chơi …

Từ nguồn của người Hoà Lan chúng tôi được biết một số con buôn người Hoa từ Banten, Batavia, và Malacca thường gửi thuyền của họ xuống Aceh[178] và cả những thuyền từ Xiêm La.

Đến thế kỷ XVIII vì tình trạng suy giảm liên tục của các tiểu vương quốc, mậu dịch quốc tế chuyển sang Perak nên thuyền buôn không còn đến Aceh và khu phố người Trung Hoa hầu như biến mất.

Banten: Những thương nhân quyền lực dưới sự bảo trợ của Sultan Ageng

Ngay từ 1520, Tome Pires đã đề cập đến sự hiện hữu của các thuyền mành Trung Hoa mua bán tại các cửa biển Java và Sunda. Ông cũng ghi nhận tiền xu (văn) của Tàu được dùng làm tiền lẻ nhưng bài viết của ông tiếc rằng quá ngắn.[179] Khi đoàn thuyền đầu tiên của Hoà Lan đến Banten năm 1596, khu người Hoa nằm ở tây bắc của thành phố (ở một nơi được biết trong tiếng Malay/Indonesia là Pecinan hay Phố Tàu) như chúng ta nhìn thấy trên bản đồ đính kèm theo nhật ký du lịch.[180]

Theo tài liệu đời Minh, nhất là trong Đông Tây Dương Khảo 東西洋考 (1618) thì Banten được gọi tên là Hạ Cảng 下港 hay Cửa Biển Dưới hay Sunda 順塔. Trương Nhiếp 張燮 cung cấp một số chi tiết chính xác về thành phố hải cảng là trung tâm của những giao lưu và hai thị trường dọc theo con sông phía đông và phía tây bao quanh tường thành. Ông ta cũng nói rằng người tiểu vương có bốn người Trung Hoa và hai người thư ký 書記 bản địa giữ việc ghi chép sổ sách còn người Hoa biết tiếng ngoại quốc thì làm thông ngôn 通事, mỗi người tại một chiếc tàu.[181]

Viên thuyền trưởng người Anh tên là Saris, sống tại Banten năm 1612, khẳng định vai trò của người Trung Hoa đóng vai thông dịch viên. [182] Thương gia người Anh John Jourdain nói rằng năm 1614 thống đốc Pangeran (Pangeran Aria Ranamenggala) có hai hay ba người Trung Hoa dưới quyền ông. Những người này đã cải sang đạo Hồi và đóng vai những cố vấn chính yếu hay phụ tá.[183] Xem ra việc cải đạo sang Hồi giáo là một điều kiện đòi hỏi cho những người ngoại quốc muốn phục vụ trong cơ cấu hành chánh của các tiểu vương. Tuy nhiên đại đa số dân chúng người Hoa vẫn giữ đức tin nguyên thuỷ của họ và một ngôi đền đã được xây dựng để họ thờ cúng thần linh của mình.[184]

Ảnh hưởng của những Hoa kiều định cư lâu dài tại các vương quốc này lan rộng ra mọi ngành kinh tế. Họ tích cực trong trồng trọt, canh nông, thủ công, làm muối và làm đường, đúc gạch, bán hàng rong, làm kế toán và trong cả thương mại quốc tế qui mô lớn nhất là trong việc buôn bán hồ tiêu và từ thập niên 1620 thì cả buôn bán đường.[185] Người Trung Hoa được chính quyền Bantan giúp đỡ vì vai trò của họ rất quan trọng trong việc phát triển vương quốc này. Sau năm 1620, khi phần vụ của Klings hay Coromandel Ấn Độ suy giảm, người Trung Hoa đã thay vào trong mọi cấp chính quyền dành cho người ngoại quốc, nhất là của shahbandar.

When the first refugees began to leave China they found in Banten a place where they could settle among Ming residents, although the relations between Banten and the VOC were still very difficult. In 1656, Abdul Wakil, the Chinese Muslim shahbandar, took the initiative of dispatching emissaries among whom Kaytsu, another Chinese Muslim who was the head of the Chinese community 1 17 — to Batavia where they met the Chinese captain of the

Khi những người tị nạn đầu tiên rời Trung Hoa họ thấy Banten là một nơi mà họ có thể định cư cùng với người Minh hương mặc dầu liên hệ giữa Banten và VOC vẫn còn rất khó khăn. Năm 1656, Abdul Wakil, shahbandar Hồi giáo người Hoa, đã mở đầu bằng cách gửi phái đoàn trong đó có Kaytsu, một người Hoa đạo Hồi khác là bang trưởng cộng đồng Hoa kiều[186] đến Batavia nơi đây ông ta gặp người thủ lãnh Hoa kiều là Bingam 潘明巖 (tại chức 1645—1665) để thảo luận về một thoả thuận hoà bình giữa hai khu vực.[187]

Năm sau, Kaytsu, cùng lúc đó đã giữ cùng một lúc hai nhiệm vụ bang trưởng và shahbandar và nhờ thế đã được phong tước Kiyai Ngabehi của Java nên trở thành một trong những người đóng vai trò chủ chốt trong đàm phán, sau cùng đưa đến thoả ước hoà bình năm 1659 giữa Banten và VOC.[188] Năm 1661 ông xây một căn nhà nhiều tầng bằng gạch ngay tại khu phố người Hoa, gần bên nhà máy của người Anh (ở phía tây thành phố có tường bao quanh) và gần bên dòng sông, nơi đó là bản doanh của cả shahbandar lẫn nơi tiếp các khách ngoại quốc và phái đoàn, ngồi trên ghế chung quanh bàn và khi Sultan Ageng đến thăm thì đi chúng với một đoàn tuỳ tùng cực kỳ đông đảo.[189]

Vào những năm sau đó, cho đến khi ông ta từ trần năm 1674, Kaytsu vẫn là một nhân vật nổi bật và là thân hữu của Sultan Ageng trong thời kỳ Banten lên đến cao đỉnh. Vì các thuyền của người Trung Hoa không còn đến Banten nữa,[190] Kaytsu kiến tạo một đoàn thuyền buôn mua của Âu châu hay theo chế tạo theo khuôn mẫu Tây phương nhưng đóng tại Rembang (Trung Java). Thuỷ thủ đoàn bao gồm người Trung Hoa, người Anh, người Ấn Độ và thỉnh thoảng có ngường Javanese, thuyền trưởng thì thường là người Anh.[191] Ông thường liên lạc với VOC để có giấy thông hành (zeebrieven) cho đoàn thuyền thuộc vương quốc. Giấy xin phép đầu tiên dùng cho một chiếc thuyền ở Manila có thời điểm là 1663.[192]

Cùng lúc đó ông cũng thực hiện việc buôn bán đường biển riêng của mình. Vào năm 1663 Kaytsu xin phép cho hai chiếc thuyền riêng của ông được đến Silebar và Priaman (Sumatra).[193] Trong những năm sau ông gửi những chiếc thuyền mành lớn của ông đến Macao và Nagasaki, còn những chiếc nhỏ hơn thì đến các hải cảng khác nhau trong quần đảo [Indonesia] và xây những nhà kho bằng gạch ngay tại kế bên nhà máy của người Anh.[194]

Mặc dầu liên hệ giữa Kaytsu và họ Trịnh [Đài Loan] không được ghi chép đầy đủ nhưng cũng thấy rõ là Kaytsu đã quan tâm rất nhiều đến hoạt động của họ và có giao tiếp mật thiết với họ Trịnh. Năm 1671 và 1672, thuyền của họ Trịnh qua lại khắp vùng biển phía nam và cũng thường neo lại tại các hải cảng của Pasisir (vùng bờ biên phía bắc Java)[195]. Họ cũng tu sửa hay đóng thuyền ở Rembang (Trung bộ Java) nơi đó người shahbandar và cũng là người cung cấp gỗ (hout-leverancier) tên là Bilau (chết năm 1674) cũng là một người Hoa như ghi nhận trong Dagh-Register.[196]

Kaytsu còn đi xa hơn tới việc mua một chiếc thuyền của họ mà ông cũng xin giấy thông hành.[197] Ngoài ra đến ngày 13 tháng March, 1671 một chiếc thuyền của họ Trịnh đến vịnh Banten (trên đường đi Rembang) trên đó chất đầy những hàng họ cướp được, mang theo một lá thư của Trịnh Kinh 鄭經 gửi cho tiểu vương.[198] Chúng ta cũng biết thêm là mục đích của lá thư này là để nhờ vị sultan thông báo với VOC rằng họ Trịnh sẵn lòng nối lại quan hệ với công ty.[199] VOC trả lời là trước khi hai bên đàm phán thì họ Trịnh phải trả lại tất cả các tù binh người Hoà Lan và hàng hoá cho Công ty.[200]

Kaytsu qua đời năm 1674 và ông được mai táng tại Đại Thánh Đường Hồi giáo, một biểu tượng ông được đánh giá rất cao bởi Sultan Ageng đối với người quá cố ( . . . met seer groote eere door den Koning selfs ende in 's Konings tempel was ter aerden bestelt).[201] Kaytsu sau cùng được kế vị bởi một người Trung Hoa Hồi giáo có khả năng tên là Kiyai Ngabéhi Cakradana, chính thức bổ nhiệm ngày 23 tháng Fubruary năm 1677.[202] Tên Trung Hoa của y là Tantseko 陳口哥 và người ta nói rằng năm 1680 thì ông ta đã già nên có lẽ đã sinh ra từ trước năm 1620. Theo người giám đốc của xưởng máy Pháp ở Banten thì ông gốc là một người thợ rèn, một nghề mà thường ở trong tay người Trung Hoa tại Java. Thế nhưng theo như hồ sơ của người Hoà Lan năm 1667 (muộn nhất) thì ông ta đã xử lý vai trò đứng đầu (ở đây gọi là shahbandar) của cộng đồng người Hoa,[203] một nhiệm vụ trước đây trong tay Kaytsu, cũng như từng là người trông coi thuế hải quan (tollenaer).

Việc này được chứng thực bởi hai là thư bằng tiếng Mã Lai vào năm 1671/72 do ông viết cho quốc vương Đan Mạch, hiện còn lưu trữ tại Copenhagen.[204] Một trong những lá thư này có mang một con dấu chữ Hoa, đóng ngược từ trên xuống, với hai chữ hạ phong 葭封 nghĩa là gắn dấu để bảo vệ (bản 20). Loại dấu đó (còn gọi là hộ phong 護封)[205] xem ra khá thông dụng trong thương mại hay trong giao thiệp tư nhân thời kỳ đó. Ở đằng sau lá thư là một ghi chú cùng thời bằng tiếng Đan Mạch viết “"Cinabj sabandorz hos Sultanen til Bandtam.. . .", cho thấy lá thư này được viết bởi viên bang trưởng shahbandar, người tự gọi mình là Ki Ngabéhi Cakradana[206]. Ngay từ khoảng 1667 thì Cakradana đã tham gia các công việc mậu dịch đường biển.

Dagh-Register cũng nói rằng ngay năm đó một trong những thuyền buôn của ông ta đã từ Quảng Nam quay về.[207] Năm 1670, chẳng hạn, ông gửi một chiếc thuyền đến Tonquin (Đàng Ngoài).[208] Về sau ông ta buôn bán với người Âu châu có căn cứ ở Banten (hồ tiêu với người Đan Mạch, benzoin với người Anh) và kể từ năm 1680 ông bắt đầu gửi thuyền buôn đến Nhật Bản, Macao và Quảng Đông.[209]

Trong vài năm Cakradana đã làm việc chặt chẽ với Kaytsu, một mặt họ giúp Sultan Ageng điều hành hoạt động thương mại của ông, mặt khác họ đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển thành phố, củng cố việc phòng bị và định cư thành phần tị nạn nhà Minh bằng cách kiến tạo một khu vực ở phía tây của thành phố có tường bao quanh (trong khu vực người Hoa) như ta thấy trong báo cáo của xưởng máy của Anh:[210]

 Trong năm này (1671) tại đây [Banten] họ đã thiết lập ba con phố khoảng chừng 20 căn nhà gạch mỗi bên được xây do nhà vua có cửa hàng để phục vụ họ [tức người Trung Hoa] (hình 19).[211] Dưới con mắt của người Pháp những đường sá và nhà này làm theo kiểu Tàu (à la mode de Chine).[212] Khu phố Tàu lâu đời nhất (Pecina theo tiếng Mã Lai/Indonesian) nằm ở phía tây của thành phố có tường bao quanh, cách hành doanh của các thương gia Âu châu không xa. Cũng có thêm một khu phố Tàu nhỏ hơn ở phía đông. Theo Glanius là người đã ở Banten khoảng chừng năm 1669 thì có ba chợ lớn là nơi các con buôn tụ tập mỗi ngày; Ông ta nói rằng ở phía đông thành phố là khu Bazaar Exchange và là nơi các con buôn người nước ngoài gặp nhau chẳng hạn như người Bồ Đào Nha, người Ả Rập, người Thổ Nhĩ Kỳ, người Trung Hoa, người Malabar và những người Ấn Độ có mặt tại đây từ sáng sớm đến khoảng 9 giờ rồi giải tán.[213]

Cortemünde nói rằng một số người Hoa khác cũng định cư ở bên ngoài thành phố nơi một ngôi làng lớn và thoải mái tên là "Clappadoa" (Kelapadua) nơi đó họ có một xưởng làm đường mía đáng kể cũng như một số xưởng nấu rượu arak. Kelapadua có thể đến bằng xuồng.[214] Thật ra Kelapadua, nằm ở phía nam kinh đô chừng 9km (và là phía bắc của thành phố Serang ngày nay) chính là một trung tâm người Hoa nhỏ nằm trong tiểu vương quốc nơi mà dân số tham gia vào các đồn điền trồng mía, kỹ thuật biến chế đường và cất rượu arak. Những khai quật hồi năm 1988 đã tìm thấy 5 địa điểm (Sukalila, Kelapadua, Malangnengah,[215] Beberan and Cantilan) có sự hiện diện của mộ người Trung Hoa ở rải rác có niên đại vào hậu bán thấ kỷ XVII (1660s và 1670s).[216] cũng như tàn tích của bốn bức tường gạch, có lẽ cũng cùng thời kỳ này, rõ ràng là tường vây quanh của những nhà người Trung Hoa trước đây. Cũng cần ghi nhận rằng những di tích này, cũng như những dấu mốc trong phong cảnh, đến nay vẫn còn được dân chúng nơi đây gọi là Kramat Gedung (Đền Linh Thiêng).[217] Cũng còn có một cộng đồng người Hoa nhỏ gần bên trung tâm Hồi giáo Kasunyatan (nơi đây một pesantren hay trường đạo được thành lập dưới thời trị vì của Sultan Maulana Yusuf (chết năm 1580) như chứng minh bởi một nghĩa địa mới được tìm thấy trong các khai quật khoảng giữa năm 1988 và 1992 (bản đồ 13).[218]

Liên hệ giữa Cakradana và họ Trịnh thì rất khó để lượng định. Cũng như Kaytsu, Cakradana đàm phán về việc thông hành cho các thuyền buồm của họ mà ông ta giả vờ là đã mua. Đó là trường hợp năm 1672 khi ông ta thương thảo về thông hành qua Macao và Quảng Nam cho hai chiếc thuyền Quốc Tính đã tới Đông Java.[219] Vào tháng March 1679, Trịnh Kinh gửi một phái đoàn mới đến Banten nhằm mục tiêu mở rộng quan hệ thương mại với tiểu vương quốc Hồi giáo này.[220] Thế nhưng đã quá trễ: tình hình Banten khi đó đã rất bất ổn vì tranh chấp giữa Sultan Ageng và con trai ông ta là Sultan Haji. Năm 1680, Haji bãi chức Cakradana. Hai năm sau vương quốc Banten bị người Hoà Lan xâm lấn nên phải thu hẹp lại, dù rằng Sultan Ageng cố gắng kiểm soát tình hình và sự kháng cự của con rể ông Cakradana là Natamangala, khi đó là shahbandar tại Tirtayasa[221] tổ chức. Vị sultan bị bắt giam lúc đầu ở Banten, sau ở Batavia rồi chết ở đó năm 1692. Cakradana từ bỏ Banten và người bạn sultan già của ông, nhưng sau cùng do lệnh của VOC ông ta đã được bổ nhiệm làm shahbandar tại tiểu vương quốc Cirebon (Tây Java) là nơi đã thành một thuộc quốc của Hoà Lan và chúng ta không còn có thể theo dõi thêm được nữa.[222]

Một số đông người Minh hương chạy sang Batavia, trong khi đó những thương nhân Âu châu (người Anh, Đan Mạch và Pháp) bị trục xuất theo lệnh của VOC. Việc này khiến cho các nỗ lực xây dựng một vương quốc Insul-Indian quốc tế của Sultan Ageng phải chấm dứt. Vương quốc Banten tồn tại nhưng chỉ còn là một bóng mờ của những huy hoàng trước đây.

Batavia: Trung gian dưới quyền kiểm soát trực tiếp của VOC

Không giống như Manila nơi đó người Tây Ban Nha trục xuất cộng đồng người Trung Hoa ra khỏi Intramuros và giới hạn nơi sinh sống của họ vào một khu vực biệt lập có tên là Parian, người Hoà Lan ở Batavia chọn cách sống chung với người Trung Hoa trong cùng một thành phố, theo Blussé thì chỉ “giản dị là có quá ít người Hoà Lan ở ngoài và cũng cần phải bảo vệ người Hoa khỏi bị bên ngoài tấn công”. Họ cũng muốn bảo đảm rằng mọi giao thiệp thương mại của người Trung Hoa phải đi qua các cổng thu phí của Công ty (Bản đồ 14).[223]

Khai Ba Lịch Đại Sử Ký 開吧歷代史記, một tài liệu biên niên vô danh ở địa phương về người Trung Hoa ở Batavia trong thời cai trị của VOC, khoảng từ 1619 đến những ngày cuối của thế kỷ XVIII, có ghi chép ngắn gọn về những hỗn loạn ở Trung Hoa cuối đời Minh nhưng lại bỏ qua những vấn đề của người Minh đi tị nạn và những người phản Thanh phục Minh.[224] Còn về nguồn từ Hoà Lan, như đã nói ở trên, họ chỉ nói tới những người ủng hộ họ Trịnh nên không thể nào hiểu được những người tị nạn hội nhập vào cộng đồng ngưới Hoa ở địa phương như thế nào.

Liên hệ giữa họ Trịnh và cộng đồng người Minh hương ở Batavia xem ra cũng rất mật thiết nhưng chỉ được phản ảnh trong tài liệu Hoà Lan chỉ trong những liên hệ với các quan hệ phức tạp giữa họ Trịnh và VOC. Ngay từ năm 1646 thì đã có những tin đồn về việc Trung Hoa nhắm vào Đài Loan và từ 1652 thì lại có những tin đồn cụ thể hơn rằng Trịnh Thành Công có ý định chinh phục Đài Loan để làm nơi tránh nạn người Mãn Châu. Cùng năm đó, VOC đã dẹp được một cuộc nổi loạn do một người xã trưởng lãnh đạo, một người tên là Quách Hoài Nhất 郭懷一[225] và cũng lại có tin đồn là Trịnh Thành Công đã tham gia trong kế hoạch này.[226] Kể từ năm 1653, Trịnh Thành Công thỉnh thoảng lại ngưng việc buôn bán giữa Đài Loan và những khu vực do ông ta kiểm soát (ngoại trừ hải lộ tới Nhật Bản vì nhà cầm quyền Nhật phản đối mãnh liệt) và hải thuyền của ông ta cũng không ngần ngại tấn công các tàu của Hoà Lan, và người Hoà Lan cũng tấn công trả đũa các đội thuyền của Đài Loan khi có cơ hội.

Kết quả là VOC nhận thấy lợi nhuận ở Đài Loan giảm sút rõ rệt nên bắt đầu nghiên cứu việc có thể mở những thương vụ cho Hoà Lan ở các cửa biển Trung Hoa. Một phái đoàn dò đường được gửi sang Bắc Kinh qua ngả Quảng Đông năm 1655 nhưng không mang lại kết quả mong đợi vì Công ty không được phép buôn bán hàng năm cho tới tận 1664.[227] Về phần Trịnh Thành Công, ông rất bất bình về thái độ của VOC với dân chúng Trung Hoa tại Đài Loan. Đầu năm 1656, họ Trịnh viết thư gửi cho bang trưởng Trung Hoa 潘明巖 Phan Minh Nham tại Batavia (tại chức từ 1645 – 1663) và Nhan Nhị Quan 顏二官, cả hai đều là người sống lâu năm tại thành phố này.[228] Bức thư được một chiếc thuyền buôn khởi hành từ Hạ Môn, chỉ được biết dưới cái tên dịch sang tiếng Hoà Lan và được đăng tải trên Dagh-Register.[229] Thực ra Trịnh Thành Công chỉ muốn hai người Trung Hoa này chuyển lá thư trách cứ của ông lên Thống Đốc và chuyển lại cho ông lá thư đối phương trả lời.

Trước hết Trịnh Thành Công than phiền về thái độ tàn nhẫn của các quan chức Hoà Lan, trong mấy năm qua đã ngược đãi các “thần dân của ông ở Đài Loan” (mijn onderdanen in Taijoan); sau đó ông thông báo cho viên Thống Đốc biết rằng ông đã cấm các thuyền buôn đến Manila nhưng các thuyền của Đài Loan vẫn tiếp tục thường xuyên đến đó mặc dầu ông đã yêu cầu chính quyền địa phương Hoà Lan hợp tác tuân thủ lệnh cấm này.[230] Chính vì thế, ông đã quyết định ra lệnh cấm các thuyền mành Trung Hoa đến Đài Loan và qua lá thư này ông thông tri nhà cầm quyền ở Batavia về tình trạng của hòn đảo.

Ông kết luận bằng cách bày tỏ hi vọng trong một tương lai gần thì lệnh lạc sẽ được ban ra để bảo đảm rằng thần dân của ông ở Đài Loan sẽ được đối xử tốt hơn (die oock naer Taijoan ordre willen stellen dat mij volck aldaer beter als voorhenen mogen getracteert werden, dan sal ick derwaerts weder joncken zenden) để ông có thể đưa thương thuyền quay trở lại. Rõ ràng là viên Thống Đốc không quan tâm đến lá thư này nhưng năm 1657, Công ty ở Đài Loan đã quyết định gửi một phái đoàn cùng với một số thư và quà cáp đến Trịnh Thành Công để đàm phán về việc mở lại việc thương mại giữa Trung Hoa và Formosa, và việc đó đã được thực hiện khiến cho hòn đảo được bình yên một thời gian.[231]

Lá thư của Trịnh Thành Công nói rõ rằng ông tự cho mình là chúa tể của đế quốc hải dương. Dân chúng Đài Loan thuộc về ông như trong câu “thần dân của ông ở Đài Loan” và giọng điệu lá thư gửi cho các thương nhân Trung Hoa ở Batavia cho thấy họ có nhiệm vụ thi hành các lệnh chỉ này. Thế nhưng bang trưởng Bingam cũng còn có liên hệ chặt chẽ với người Hoà Lan, trước hết là một nhà thầu trong nhiều công việc của thành phố (chẳng hạn việc đào con kênh ở Molenvliet), và sau đó bởi vì ông ta đã mượn một món tiền lớn từ VOC mà ông dùng để đầu tư vào các đồn điền trồng mía, thành thử ông phải làm cách nào cho cả hai bên đều vừa lòng.[232]

Sau khi họ Trịnh đã đánh bại lực lượng Hoà Lan năm 1662,[233] giao tình với người Hoa ở Java trở nên căng thẳng vì thuyền bè họ Trịnh cần đến họ để tránh sự giám sát của VOC ở các hải cảng tại Java và trên biển trong khi đó các thương nhân hàng hải từ Batavia thì phải dựa vào họ Trịnh để có thể đem hàng hoá ra bán ở nước ngoài. Ví dụ sau đây là một minh chứng được ghi lại trong Dagh-Register năm 1673. Tenqua, con trai của bang trưởng Gan Siqua (tại nhiệm từ 1665-1678) đã thương lượng để thả 8 người trong nhóm của Quốc Tính Gia, mà ông ta biết rõ, đã bị người Hoà Lan trên một chiếc tàu Anh bắt giữ. VOC bằng lòng thả họ với điều kiện là họ phải đổi cho Công ty cứ một người là một nô lệ. [234] Tương tự như thế VOC ở Batavia cũng rất cần sự giúp đỡ của người Trung Hoa đang sống ở đây trong mọi ngành nghề buôn bán. Họ cũng đóng vai trò thông ngôn và trung gian, đóng một bộ phận quan trọng trong việc đàm phán giữa VOC và người của Quốc Tính Gia, cả với người Mãn Châu thành thử họ có chân trong cả hai bên.

Cũng chính Gan Tenqua, ông ta thông thạo tiếng Hoà Lan, vai trò chính thức là thông ngôn cho VOC. Chúng ta cũng biết năm 1676 ông này đã đi cùng phái đoàn Hoà Lan sang Phúc Châu.[235] Vào ngày 29 tháng December, 1679, khi VOC chính thức đón tiếp phái đoàn nhà Thanh ở Batavia, trong đó có rất nhiều viên chức Trung Hoa hiện diện, trong đó có bang trưởng Sái Hoán Ngọc (Tsoa Wanjock 蔡煥玉) [tại nhiệm 1678-1684] và Gan Tenqua.[236] Cùng với ba người Trung Hoa khác, ông thông dịch ra tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Malay (ngôn ngự chính thức của Batavia) văn thư của hoàng đế Khang Hi gửi cho viên Thống Đốc.[237]

Trong khi phái đoàn lưu lại Batavia (kéo đài đến 7 tháng), các sứ thần được người Hoa tại đây tháp tùng và tiếp đãi, những người cầm đầu phái đoàn là khách của một quả phụ người Trung Hoa, một bà tên là Njai Sotia. Uỷ nhiệm thư của họ được dịch bởi sĩ quan Tenglauw (hay Tengelouw), cùng với đại uý Tsoa Wanjock, trung sĩ Thenqua [Gan Tenqua] và một người tên là Bonsiqua.[238] Những người Trung Hoa này cũng được chỉ định để thông dịch trong các cuộc đàm phán và thư trả lời của Thống Đốc. Theo Wills thì “có nhiều trường hợp hiểu lầm được phóng đại và cũng có một số sai lầm mà những người Hoa ở Batavia đã cố tình dịch sai đi để có lợi cho chính họ”.[239]

Cùng lúc đó những thương nhân người Trung Hoa ở Batavia cũng như các bạn hàng của họ ở Banten bắt đầu tham gia vào mậu dịch của Nhật Bản dưới sự bảo trợ của Công Ty Đông Ấn (East India Company) và VOC cũng sẵn lòng chấp nhận việc các con buôn người Hoa ở Batavia buôn bán với Nhật Bản, nhất là vì họ lại khiến cho việc họ Trịnh làm ăn ở Nagasaki thêm khó khăn.

Người ta có thể thấy là họ dễ dàng thông báo cho họ Trịnh việc gì đang xảy ra ở Batavia và cũng chắc chắn rằng họ Trịnh biết VOC không đứng về phía nhà Thanh. Người ta cũng muốn biết những người Trung Hoa tại địa phương nhìn liên hệ ngoại giao này như thế nào và đằng sau nó ra sao nhưng tiếc thay những việc đó lại không phải là mối quan tâm của người biên chép trong Dagh-Register.

Qua những phát triển của người Minh hương lánh nạn ở Đông Nam Á , theo nhiều cách khác nhau, đã ảnh hưởng lớn đến quốc gia tiếp nhận họ, có hậu quả kéo dài ít nhiều tuỳ thuộc vào tình hình chính trị của những xứ này. Chúng ta thấy rõ là ở tại khu vực chúa Nguyễn ở Đàng Trong là nơi họ thành công hơn cả theo nghĩa chính trị, kinh tế cũng như đóng góp về văn hoá.

Mặc dầu nhiều người di cư vẫn trung thành với triều Minh, ta cũng thấy rõ họ không thể làm được việc gì cụ thể và điều đó cũng giải thích tại sao đời sống lưu vong đều chỉ tập trung vào việc tranh đấu để mưu sinh và nỗ lực hội nhập vào nơi đã đón nhận họ.

Không như những người cùng cảnh ngộ tiếp tục trốn lánh ở quê hương hay di cư sang Đài Loan, Nhật Bản và thổ lộ tâm tư qua những vần thơ,[240] vở kịch hay tiểu thuyết,[241] tranh vẽ[242], những người định cư ở vùng biển phía nam có vẻ như không nói nhiều về hoàn cảnh của họ, ngoại trừ một số nho sinh trong số nhà buôn sinh sống ở Phố Hiến. Chúng ta thấy ở đây những bi văn do Trần Đế Đào 陳帝陶 vinh danh công tước Lê Đỉnh Kiến 黎鼎建 mà ông muốn ca ngợi vương quốc nhà Lê nhưng không phải để miêu tả một xứ sở huyền ảo mà để nhắc đến nỗi nhớ quê hương như ta thấy ở đoạn cuối của văn bản này. (Xem Phụ Lục II).

Đến đây vấn đề cần đặt ra là những tiếng tăm của những người tị nạn này sau khi họ qua đời thì còn lại những gì.



CHƯƠNG III: TIẾNG TĂM CỦA NGƯỜI MINH HƯƠNG Ở Á VÀ ÂU CHÂU

Rất nhiều người biết rằng những người Trung Hoa định cư ở Đài Loan đã coi Trịnh Thành Công như một sáng tổ nửa thần linh. Vào ngày 15 tháng June, 2013 một đại lễ vinh danh được tổ chức ở Đài Nam kỷ niệm 350 năm Trịnh Thành Công Tổ Miếu 鄭成功祖廟 mà chính các hoàng đế nhà Thanh đã ban tặng và đến nay ông vẫn được coi như một anh hùng ở Đài Loan. Tại nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (tức Hoa Lục) ông có một đài kỷ niệm ở Hạ Môn và các sử gia thường tập họp tại đây để thảo luận về đóng góp của ông trong việc đem Đài Loan trở thành một phần lãnh thổ Trung Hoa.[243] Hình tượng Trịnh Thành Công (mà mẹ ông là người Nhật) cũng được đưa lên sân khấu trong một màn con rối Nhật Bản có tên là Quốc Tính Gia Hợp Chiến 國姓家合戰 (Kokusenya kassen) hay Những Trận Đánh của Quốc Tính Gia do Chikamatsu Monzaemon 近松門左衛門(1653—1724) soạn.[244]

Vở kịch này được trình diễn lần đầu ở Osaka năm 1715 và được coi là vở kịch nổi tiếng nhất của Chikamatsu. Những tác phẩm hư cấu xoay quanh Trịnh Thành Công cũng xuất hiện trong thế giới người Trung Hoa, chẳng hạn như văn chương truyền thống diễn nghĩa lịch sử tiểu thuyết (演義歷史小說) viết bởi Kim Vũ Chương 金宇璋 nhan đề Trịnh Thành Công, Dân Tộc Anh Hùng Cố Sự (鄭成功,民族英雄故事). Cuốn tiểu thuyết này không có lời đề tựa chỉ được biết qua một ấn bản năm 1958.[245] Cũng đáng nhắc tới là một vở kịch do Quách Mạt Nhược 郭沫若[246] biên soạn và năm 2012 một cuốn tiểu thuyết nhan đề Quốc Tính Gia Đích Bảo Tàng 國姓家的寳藏 do Tô Thượng Hào 蘇上豪 soạn cũng đã xuất bản tại Đài Bắc.[247]

Để so sánh, chúng tôi muốn xem xét những tiếng tăm của một số lãnh đạo của người Minh hương tại khu vực Đông Nam Á sau khi họ qua đời ở những nơi họ di cư, ở Âu châu và gần đây hơn ở ngay tại Trung Hoa.

Tưởng nhớ tổ tiên trong khu vực chúa Nguyễn

Không khác gì những nhân vật lịch sử Trung Hoa được vinh danh ở Trung Hoa, những người tị nạn Minh hương cũng được thờ cúng tại nhiều thành phố trong vùng của chúa Nguyễn, hoặc do người Trung Hoa địa phương khởi xướng như tại Hội An, Gia Định, Biên Hoà hay do chính các chúa Nguyễn như ở Hội An và Hà Tiên. Chúng tôi sẽ trình bày các tục lệ thờ cúng khác nhau theo thứ tự thời gian.

Đền Trần Thượng Xuyên ở Nam Kỳ

Ít nhất cũng phải có năm ngôi đền ghi nhớ và vinh danh Trần Thượng Xuyên được dựng lên sau khi ông qua đời năm 1715,[248] hai ngôi đền ở Gia Định tương ứng tại trấn Vĩnh Thanh 永清 và trấn Phiên An 藩安, một ở Biên Hoà nguyên thuỷ gọi là Trần Thượng Xuyên Từ 陳上川祠, ngôi thứ tư ở tại tỉnh Bình Dương có tên là Trần Tướng Quân Từ 陳將軍祠 và ngôi đền thứ năm ở tại Thiết Luỹ 鐵壘.[249] Trịnh Hoài Đức 鄭懷德 (1765-1825), trong tập thơ của ông Cấn Trai Thi Tập 艮齋詩集 có nhắc đến căn cứ Thiết Luỹ mà ông từng đến thăm năm 1783, và có kể lại hành trạng của vị anh hùng này trong chú thích cho bài thơ.[250] Thiết Luỹ là tên một chiến luỹ đâu đó tại châu thổ sông Bassac, khi đó còn là lãnh thổ của Cambodia, là nơi Trần Thượng Xuyên đã chặt đứt dây xích sắt chặn ngang sông để ngăn ngừa các chiến thuyền lên thượng lưu (真臘時以鐵索裁江拒戰船,陳破降之,後于其地建祠,地名鐵壘).[251]

Người ta cho rằng nơi đó ở gần Mỹ Tho là nơi Hoàng Tiến 黄進 sau khi ám sát Dương Ngạn Địch năm 1688, ông đã dựng lên một chiến luỹ chặn ngang sông bằng một dãy chiến thuyền gắn chặt vào nhau bằng xích sắt nhưng sau đó đã bị Trần Thượng Xuyên tấn công.[252] Dưới triều vua Minh Mạng (1820-1840) và người kế tiếp là vua Thiệu Trị (1841-1847) thì ông đã được phong tặng nhiều danh hiệu trong đó có thượng đẳng thần đã được ban cho Trần Thượng Xuyên.

Chúng tôi chỉ có thể lần được dấu vết ngôi đền ở Biên Hoá. Ngôi đền này đã di chuyển hai lần, một lần năm 1861 sau khi thành phố bị người Pháp chiếm và một lần năm 1906. Ngôi đền này hiện tại ở trên đường Nguyễn Văn Trị, thuộc khu Hoà Bình, tên tiếng Việt gọi là đình Tân Lân (tên cũ của cái làng nơi ngôi đình này toạ lạc). Ngôi đền ngó ra sông Đồng Nai và được bao quanh bởi một cái sân có diện tích vào khoảng 3000 m2. Ngôi đình này bao gồm ba toà nhà liền nhau (bảng 21). Trong chính điện là mộ chiếc bàn thờ lộng lẫy có tượng của Trần Thượng Xuyên. Dân địa phương vẫn tế vị anh hùng mỗi năm hai lần vào mùa xuân và mùa thu, lễ hội có múa lân bởi các thanh niên và đông người tham dự theo các báo cáo và video đăng trên on-line.

Trần Thượng Xuyên nghe nói cũng còn được thờ chung với một số nhân vật Minh hương ở Minh hương Gia Thạnh Hội Quán 明鄉嘉盛會館, một hiệp hội của con cháu người Hoa ở Chợ Lớn, thành phố HCM. Người ta nói rằng hội quán này được thành lập từ năm 1789 nhưng những chữ khắc cũ nhất còn có được lại chỉ ghi năm 1839.[253] Ngoài ra thời điểm Trần Thượng Xuyên được đưa vào thờ ở đây cũng không rõ ràng.

Đền họ Mạc ở Hà Tiên

Ở Hà Tiên, một ngôi đền thờ gọi tên là Trung Nghĩa Từ 忠義祠 để vinh danh Mạc Cửu, ở đây gọi là Võ Nghị Công 武毅公 và con trai ông Mạc Thiên Tứ, gọi là Quốc Công 國公 được xây năm 1819 ngay sau khi vua Gia Long (1802-1820) băng hà và nhiều danh hiệu được dùng để gọi hai người anh hùng này.[254] Ngôi đền lúc đầu đặt trên một ngọn núi nhỏ gọi là Bình San 屛山, gần Đông Hồ sau được dời sang phía tây của thành phố vào năm 1846 (gần đường Mạc Cửu hiện nay) và một tấm bia được dựng lên (nay vẫn còn) trên đó ghi chép vắn tắt công nghiệp của Mạc Cửu.[255]

Ngôi đền hiện nay, gọi là Mạc Công Miếu 鄚公廟 (hay Mạc Công Từ tức đền thờ họ Mạc) và hai ngôi mộ của hai vị anh hùng, được tu sửa khoảng 1980s theo sự đề nghị của chính quyền Việt Nam (bản 22) trong khi một pho tượng Mạc Cửu lớn làm “trấn thủ Hà Tiên” (bản 23) được dựng lên ngay tại lối vào thành phố nhắc tới những tượng của Trịnh Thành Công ở Cổ Lãng Dữ 鼓浪嶼 (Hạ Môn) và Tuyền Châu. Cổng vào của Mạc Công Từ được trang trí bằng đôi câu đối ca tụng công đức của họ Mạc và nhắc cho du khách vai trò của họ trong việc hình thành đất Đàng Trong. Triều đại họ Mạc chấm dứt vào năm 1867.

一門忠義家聲重

七葉藩翰國寵榮

Nhất môn trung nghĩa gia thanh trọng

Thất diệp phiên hàn quốc sủng vinh

Một nhà trung nghĩa tiếng tăm lớn

Bảy đời phên dậu nước sủng vinh

Đền thờ lưu giữa bài vị của tổ tiên (bài vị 牌位) gồm hai người anh hùng và một số con cháu và nhiều biển ngạch khắc những câu ca tụng hai vị anh hùng chẳng hạn như Khai Trấn Công 開鎮公, Khai Trấn Trụ Quốc 開鎮柱國, tất cả đều ghi niên đại theo can chi.[256]

Thờ cúng các anh hùng nhà Minh ở Hội An

Còn như ở Hội An, lịch sử thờ cúng những người Minh hương tại địa phương này dường như đã bị uốn nắn lại vào năm 1820 khi ngôi đền thờ tổ tiên tập thể (đã đổ nát khi chúng tôi đến thăm vào cuối thập niên 1990s), Tuỵ Tiên Đường 萃先堂 được xây dựng như chứng minh trong hàng chữ khắc sau này (1908) nay vẫn còn ở trong đền. (bản 24-25). Các tiên hiền thuộc về 6 gia tộc (Nguỵ , Trang , Ngô , Thiệu , Hứa và Ngũ ) được thờ ở đây có vẻ như là các quan chức nhà Minh mà tên thật và phẩm vị đã bị giữ bí mật, ngoài việc để kính trọng họ, còn là những người có một vai trò trong ngôi làng Minh hương đầu tiên mà nguyên thuỷ (như đã đề cập ở trên) quay trờ về khoảng đầu thập niên 1650s. Văn bản cũng thêm rằng một số làng xã tương tự đã được thành lập ở nơi khác nhưng ngôi làng ở Quảng Nam là ngôi làng đầu tiên.

Tuy nhiên có vẻ như có một số điều không phù hợp về những người được liệt kê ở trên và những người có tên trên những bài vị tập thể cũng đang được cất giữ trong đền. Những người này, tiên hiền gồm có Thập Đại Lão 十大老mà tên viết ở hàng thứ ba thì tên đầu tiên là Khổng theo sau là vị thế Đại Lão Gia 大老家 tên chắc chắn là Khổng Thiên Như 孔天如 (chết năm 1695) đã nhắc đến ở trên, còn Lục Tính 六姓 (sáu họ) theo sau Khổng trong các nhân vật hành chánh trong làng và Tam Gia 三家. Tên của những người sau có vẻ như đã mượn của một bản khắc năm 1753 để trong đền nhằm vinh danh Quan Đế trong đó họ được nhắc đến như những người thiện nguyện đã đóng góp vào việc trùng tu ngôi miếu Quan Đế này. Việc những tên của những người Minh hương nguyên lão không được nêu ra có thể giải thích rằng có sự nhầm lẫn trong danh sách những người Minh hương được thu thập vào đầu thế kỷ XIX.

Uốn nắn lại việc thờ cúng các anh hùng nhà Minh ở Malacca

Trong Thanh Vân Đình 青雲亭có một bức tranh truyền thần của bang trưởng Lý Vi Kinh 李為經không đề ngày và tác giả, vẽ tổ tiên theo kiểu truyền thống (bản 26). Những loại tranh này thường được dùng cho những nghi lễ cúng tế tổ tiên. Tuy nhiên, việc bức truyền thần được lưu trữ trong một ngôi đền, có nghĩa là để dùng cho công chúng đã khiến cho chúng tôi nghĩ rằng đây chỉ là một biểu tượng nhằm miêu tả giá trị của nhân của vị bang trưởng và sức mạnh tinh thần trong khung cảnh chính trị lúc bấy giờ.

Bức hoạ vẽ trên giấy, tượng trưng cho Lý Vi Kinh và khoảng lúc cuối đời, mặc một bộ quan phục màu xanh rất trang nhã: ông ngồi trên ghế, hai tay khoanh lại và bàn tay dấu trong tay áo rộng. Ông đội một chiếc mũ màu đen trang trí với một huy hiệu màu trắng. Phong cách hội hoạ cho thấy đây là một bức truyền thần vào cuối đời Minh. Trong tình hình hiện tại, bức tranh đã được bồi trên một cuộn giấy đã hư hỏng nặng, có ghi một hàng chữ không đề ngày do bang trưởng Tăng Hữu Lượng 曾有亮 (1771—1821) viết cho thấy tấm hình này bất ngờ được tìm ra (幸而得之逅邂之間) và cảm tưởng của vị bang trưởng vào thời điểm đó.[257]

Thoạt nhìn người ta chú mục bởi dáng vẻ uy nghiêm nhưng khi nhìn kỹ hơn thì lại bị thu hút bởi tư cách cao thượng của ông. Khuôn mặt thu hút qua cách truyền thần và quan mạo màu sẫm và cái áo bào đơn giản, chứng tỏ ông không chú trọng vẻ trau chuốt bề ngoài và ông chỉ quan tâm đến những vấn đề cơ bản soi sáng nội tâm. Tôi từng nghe việc ông làm được người đời rất kính trọng …

即而觀之,有威可畏。趨而就之,有儀可象。容貌莊嚴,雖善繪事乎圖中,然其玄冕素服,輕文尚質,已爥見其肺腑。則余所聞:其行已恭其事上敬[…]

Ta thấy tác giả của câu viết trên bức tranh truyền thần này đã miêu tả phẩm hạnh của Lý Vi Kinh xứng đáng là một quan chức hoàn hảo. Có vẻ như bức tranh được vẽ khi viên bang trưởng còn sống và có liên quan đến lời điếu văn (được viết năm 1685), hay sau khi ông qua đời vì cả hai việc đều tồn tại. Cũng đáng ghi nhận là cũng còn một bức vẽ Trịnh Thành Công đang đánh cờ với Vương Trung Hiếu 王忠孝 (1593-1666) do Hoàng Tử 黄梓 (thế kỷ XVII) vẽ mà phía trên có viết Bách Tự Tán 百字讚 bởi Vương Trung Hiếu, một nho sinh ủng hộ chính quyền họ Trịnh (hiện nay đang tàng trữ trong Viện Bảo Tàng Trung Hoa tại Bắc Kinh).

Việc bức truyền thần của Lý Vi Kinh đã được tìm thấy đầu thế kỷ XIX không phải là chuyện ngẫu nhiên. Với thời gian đi qua, cũng như ở Hội An, con cháu những người tị nạn này cần thiết phải tái định đình và nhìn lại quá khứ. Những hàng chữ viết trong Thanh Vân Đình, với ngày tháng khoảng cuối năm 1846 hay đầu năm 1847, đã nhìn lại lịch sử của ngôi đền và của người tị nạn, bắt đầu bằng bang trưởng Trịnh Phương Dương 鄭芳揚 và Lý Vi Kinh là người được coi như đã neo thuyền tại bờ biển Malacca mà không hề có ý niệm gì về một cộng đồng người Minh hương trước đó. Hai văn bản sau đây cho thấy họ đã thờ cúng chung hai vị bang trưởng này và bài vị thần chủ đã được thực hiện và đặt vào trong Thanh Vân Đình.

Trong trường hợp này, có thêm hai bi ký: bi ký thứ nhất được viết bởi người hội trưởng của ngôi đền (đình chủ)[258] Tiết Văn Chu 薛文舟(1793—1847), đặc biệt đề cập đến công lao của cố bang trưởng Trịnh Phương Dương đã đến đây và tạo ra một Malacca khai phóng với một cơ chế hành chánh. Tấm bia cũng nói rằng một số tiền được cúng cho đền và tiền lời sẽ được dùng để làm giỗ cho vị tiền bang trưởng một năm hai lần. Một tấm bia thứ hai viết về Lý Vi Kinh là người thừa kế họ Trịnh, ca ngợi công lao và nói rằng với sự đồng ý của gia đình ông nên bài vị tổ tiên được đặt trong đền để thờ cúng chung và một món tiền cũng cúng cho đình.

Một bi ký thứ ba cũng do đình chủ Tiết Văn Chu soạn. Tiết Văn Chu kể lại ông đã nằm mơ và gặp người con thứ hai của Lý Vi Kinh, ông này nói rằng ông hài lòng khi chứng kiến việc thờ cúng chung để vinh danh cha ông.[259]

Có vẻ như đến giữa thế kỷ XIX, thời điểm mà bang trưởng Lý Vi Kinh ở Malacca được coi như thời đại hoàng kim ở Trung Hoa, là lúc các nhà nho được sống thoải mái không phải chịu sự áp bức của người Mãn Châu. Tình hình đó được biểu lộ trong đôi câu đối vinh danh họ Lý cũng do Tiết Văn Chu soạn như sau:

萬里外治民,到底無虧善政,

百年前著續,至今猶仰高峰。[260]

Trị dân ngoài vạn dặm, không để thiện chính phải lỗi lầm.

Trăm năm sau vẫn tiếp tục, mãi mãi người ta vẫn ngưỡng mộ ông.

Họ Mạc ở Hà Tiên và phái vụ nông

Độc giả sẽ ngạc nhiên khi khám phá ra rằng vương quốc nhỏ bé Ponthiamas đã có ảnh hưởng rất lớn, trước là với Pierre Poivre, sau là một số triết gia Pháp.

Ponthiamas là một vương quốc không có vua hay bầy tôi

Khi viết “Những chuyến du hành của một triết gia” (Voyage d'un philosophe), Pierre Poivre có một chủ đích là cốt để cho độc giả “hiểu rằng mọi quốc gia, mọi góc cạnh của thế giới, canh nông hoàn toàn lệ thuộc vào sự thiết lập của luật lệ, và hậu quả là thái độ, thói quen và định kiến được tạo ra từ những định lệ được thiết lập.”[261] Tác phẩm của Poivre có tên “Sức Mạnh của Canh Nông - nguyên thuỷ của Ponthiamas” đã trình bày một mô hình đối nghịch, được đặt tên là xã hội không tưởng vụ nông đặt cơ sở trên một nền canh nông tái tạo phê phán thẳng vào định chế quân chủ Âu châu.

Phù hợp với lý tưởng của các triết-lập pháp gia, một hội đồng gồm ba nhà thông thái, những quyết định của họ dựa trên lý luận mà thôi, đã quản trị đất nước này.

Người khai sinh ra Ponthiamas ở đây được gọi là Kiang Tze mà người ta nói rằng ông là một người có mức thông minh siêu phàm, đã đau lòng nhận ra rằng đất nước ông bao la và màu mỡ nhưng bị bỏ hoang. Ông đưa ra một kế hoạch để cải thiện và thuê mướn nhân công, một số người Trung Hoa, một số từ các quốc gia lân cận và phân chia ruộng đất cùng các nông cụ cho những công nhân này mà không đòi hỏi gì cả. Poivre thêm:[262]

Dể xây dựng một dân tôc chăm chỉ và thích buôn bán, ông cho rằng không nên có luật lệ ràng buộc họ mà hãy để tuỳ theo thời tiết thiên nhiên đã tạo ra cho loải người và ông tạo dựng các luật lệ mà chính ông tuân theo, sống một cuộc đời đơn giản, có đức tin để làm mẫu cho mọi người. Như thế ông không xây dựng một hệ thống luật pháp mà thiết lập luân lý để tuân theo.

Cuốn “Những chuyến du hành của một triết gia” được đón nhận nồng nhiệt tại Pháp và chẳng bao lâu đã được xuất bản dưới nhiều ngôn ngữ Tây phương khác nhau.[263] Về nội dung của Ponthiamas, tác phẩm gây cảm hứng cho một số tác giả Pháp khác, chẳng hạn như nhà báo và triết gia Jean Castilhon (1720—1799) và hầu tước de Saint-Lambert (1717-1803).

Những Ponthiamas không tưởng khác

Jean Castilhon, một người từng đóng góp để soạn bộ Encyclopédie, trong tác phẩm giai thoại Trung Hoa, Nhật Bản, Xiêm La, Đàng Ngoài … đã cung cấp một phác hoạ về Ponthiamas không tưởng ngay từ năm 1774[264] và mới được tìm thấy gần đây bởi Luc Mogenet.[265] Bản văn dịch ra như sau:

Một thương gia người Trung Hoa tên là Kiant-Se [Kiang-Tze], đã nhận ra rằng người Trung Hoa, người Cam Bốt hay người Mã Lai đều không biết khai thác lợi điểm của thiên nhiên, đã tới Cảng Khẩu [Cancar] vào đầu thế kỷ và khai khẩn một khu vực gọi là Vương quốc Ponthiamas. Ông ta cai trị vùng thuộc địa này chỉ bằng luật của thiên nhiên. Ông ta đã khai thác đất nước của mình thịnh vượng đến nỗi các dân tộc ở chung quanh tìm ra rất nhiều tài nguyên to lớn ở đây. Kiant-Se không bao giờ muốn tuyên bố ông là người chủ tể và con ông cũng vậy, đều là những người thợ đầu tiên của nhân dân.

Người ngoại quốc, vốn chỉ biết sống dưới quyền những người chủ nên gọi ông ta là quốc vương và đất nước của ông là vương quốc nhưng chính ông thì chỉ coi họ là anh em và con cái và những ai không tuân theo luật trời đất là kẻ thù, là luật mà ông ta là người đầu tiên phải tuân theo. Chính quyền của ông ta giống như người cha của một gia đình. Trong nhiều đường lối Penn và Kiant-Se phải là khuôn mẫu cho các vì vua khác, nhưng Philadelphia[266] và Ponthiamas đều xa Âu châu.

Còn Saint-Lambert, một quân nhân nhưng cũng là một thi sĩ và triết gia vốn là bạn của Voltaire, và có thể cụng đã từng gặp Jean Castilhon, ông kiến tạo một xã hội không tưởng còn cao hơn một bực đặt tên là De la Raison hay Ponthiamas. “Nghệ thuật vun trồng lý trí, hay Ponthiamas”.[267] Ông ta cũng hoàn thành một tác phẩm triết học nhiều tập năm 1797-1798, gọi là Principe des mæurs chez toutes les nations ou Catéchisme universel (Nguyên tắc luân lý giữa các quốc gia, hay giáo lý phổ quát). Saint-Lambert cũng nói rằng ông đã viết được phần về Xiêm La và hầu hết các phần khác của ấn bản đầu tiên của bộ Lịch sử triết học và chính trị của việc thành lập và thương mại của người Âu châu trong hai khu vực Ấn Độ [Guillaume Thomas François Raynals, L 'Histoire philosophique et politique des établissements et du commerce des Européens dans les deux Indes] (Amsterdam, 4 vol., 1770)[268]. Thực ra chương 14 của Raynals trong bộ L’Histoire philosophique có nhan đề là Xã hội và Lịch sử Đàng Trong (The Society and History of Cochinchina) và phần lớn dựa vào bộ Những chuyến du hành của một triết gia miêu tả về Ponthiamas, có chỗ chép theo nhật ký du hành không sai một mảy.[269]

Saint-Lambert mở đầu sự không tưởng của ông qua sự vinh danh Pierre Poivre:[270]

Ở vĩ tuyến số 7 bắc xích đạo, gần bên bờ biển của những người nô lệ Xiêm La, và vùng đất buông thả của người Đông Kinh, có một quốc gia nhỏ tên là Ponthiamas mới được ông Poivre tìm thấy. Ông là một triết gia đã du hành khắp châu Phi, châu Á và để lại miêu tả tuyệt vời về góc nhỏ trên trái đất này.

Sau đó ông tường thuật và còn nhấn mạnh hơn cả Poivre về sự huy hoàng của vương quốc nhỏ bé này và khẳng định rằng dân chúng ở đây không có luật pháp: viên quan Kiang-Tse, người đã thành lập Ponthiamas, chỉ vay mượn từ Trung Hoa đạo đức và sự cần cù của họ và lấy của một số người Âu châu nghệ thuật phòng thủ để tự vệ mà thôi. Phần còn lại, ông vay mượn sự khôn ngoan của tiền hiền. Ông Poivre không cho chúng ta biết làm cách nào vị hiền triết kia [Kiang-Tse] có thể làm thế nào để “thúc đẩy các đồng chí của ông thuyết phục người ta dùng những bí quyết đó thực hiện nơi một quốc gia khác và dần dà sẽ lan truyền được trên khắp trái đất”. Saint-Lambert quyết tâm dựa vào những ghi chép không tưởng của hiền nhân Kiang-Tse và các cố vấn của ông để giới thiệu thế giới mà ông xây dựng.

Ở nơi thuộc địa này, Hội Đồng nhân dân đại diện cho ý nguyện chung, vì thế không cần một cấu trúc xã hội ràng buộc họ. Về kinh tế, vì không có thuế và quyền sở hữu nên đoàn kết và bình đẳng là luật lệ. Ngoài ra, xã hội này không khép kín, có thể có tiến hoá nếu cần, việc đối kháng với các qui tắc lý tưởng truyền thống vốn hoàn hảo trở thành đông cứng. Thế giới bình ổn này có vẻ như là tiền thân của các xã hội không tưởng sau này nhưng mô hình xã hội vụ nông dựa trên việc tái tạo nông nghiệp và phù hợp với các lý tưởng của những triết gia lập pháp (philosophes législateurs) vì hội đồng của ba nhà thông thái sẽ đảm nhiệm việc lý luận. Giáo dục được quan tâm vì đó là chất kết nối những người trí thức. Áp lực luân lý về một đời sống giản dị khiến cho công việc và nhân văn, tuy rằng điều hoà nhưng mang dấu ấn của sự Khải Thị và thực dụng, chống lại tuyệt đối nhưng không vì thế mà thành vô chính phủ.

Cũng đáng ghi nhớ là bộ sách De la raison ou Ponthiamas cũng được đọc bên ngoài nước Pháp vì người ta đã chứng thực được gần đây qua việc tìm thấy một bản dịch bằng tiếng Tây Ban Nha. Bản thảo mang tên El arte de cultivar la razón o descriptión del establecimiento de la colonia de Ponthiamas đã bằm trong Thư Viện Quốc Gia Madrid (Biblioteca Nacional in Madrid)[271]. Bản thảo này không đề tên tác giả và cũng không đề ngày. Pilar Nieva de la Paz,[272] không quan tâm về xã hội không tưởng của Saint-Lambert, nghiên cứu bản thảo liên quan đến sự trình bày về Ponthiamas như ghi chép trong Những Cuộc Du Hành của một Triết Gia của Poivre nhưng không đứng vào vị thế quyết định xem bản thảo này có thực là một câu chuyện có nguồn gốc hay không. Ông ta kết luận rằng văn bản chắc chắn đại diện cho phong trào không tưởng hồi thế kỷ XVIII, mặc dầu theo cái nhìn của ông thì đây không phải là một trong những bộ tiểu thuyết hay của Pháp trong giai đoạn này (En conjunto, obra monótona y gris que se aparta radicalmente de las ricas tramas de ficción que alumbró el ingenio francés durante este siglo, p. 94).

Sau cùng, Rainer Klump gần đây cũng đã đánh giá lại Vương quốc Ponthiamas như một quốc gia tiêu biểu cho chủ nghĩa vụ nông ở Đông Dương, khẳng định rằng do sự ảnh hưởng của hệ thống chính trị và triết học Trung Hoa - xuyên qua một dòng chảy các ấn bản của các nhà truyền giáo và người du hành vào cuối đời Minh, đầu đời Thanh đã xây dựng nên triết học vụ nôn của Pháp và Pierre Poivre chỉ là một đệ tử của François Quesnay.[273]

Lý Giáp là khuôn mẫu của người Minh hương và các anh hùng địa phương trong thế giới Mã Lai

Hồi ký của Lý Giáp 李甲 hay Bang trưởng Lý Vi Kinh đã được lưu truyền rất phi thường sống động trong cộng đồng người Trung Hoa tại bán đảo Mã Lai nhờ vào những nghiên cứu khác nhau của các học giả tại địa phương.[274] Cuốn tiểu thuyết lịch sử đầu tiên xuất hiện ở vùng này năm 1987 xoay quanh câu chuyện Lý Giáp do Trịnh Lương Thụ 鄭良樹 viết (khi đó ông là Phó Giáo Sư về văn chương Trung Hoa và là trưởng khoa Trung Hoa Học tại đại học Malaya, Kuala Lumpur) và ông cũng thực hiện nhiều nghiên cứu về lịch sử địa phương.[275] Nơi lời nói đầu của bộ tiểu thuyết Thanh Vân Truyền Kỳ 青雲傳奇, Trịnh Lương Thụ đã nhắc đến các Bang trưởng đặt văn phòng tại Thanh Vân Đình và giải thích tại sao sau khi viết một số truyện ngắn ông đã quyết định viết một câu truyện dài hơn (104 trang).

Mục tiêu của ông là trình bày lịch sử người Trung Hoa tại Malacca nhất là những người lãnh đạo cho độc giả địa phương có nhu cầu tìm hiểu về nguồn gốc của họ. Cuốn tiểu thuyết này ban đầu được đăng tải từng kỳ trên báo liên tục tại Nam Dương Thương Báo 南洋商報 (Kuala Lumpur) và Liên Hợp Tảo Báo 聯合早報 (Singapore) được độc giả rất tán thưởng và không ngần ngại viết thư cho tác giả góp ý nên những bài đánh giá cũng xuất hiện tại địa phương. Năm 2000 cuốn tiểu thuyết được xuất bản tại bán đảo Mã Lai như một phần của cuốn sách nhan đề Thanh Vân Dữ Thạch Lặc 青雲與石叻.[276]

Câu chuyện bắt đầu vào năm 1683 sau khi Đài Loan bị sụp đổ. Vào đêm tối một phái đoàn bí mật đến Hà Lan Nhai 荷蘭街 (Heeren Street) ở đó có tư thất của bang trưởng Lý Vi Kinh (lá thư Q, bản đồ 10). Ông ta mang theo một con dao kris Mã Lai mà Sultan Ibrahim Syah, người sống lưu vong ở quần đảo Riau, giao cho ông bang trưởng để yêu cầu ông cam kết hỗ trợ. Chẳng bao lâu, một phái đoàn khác từ Hạ Môn đến đây cũng muốn gặp Lý Giáp. Sau này chúng tôi biết được rằng ông được thông báo rằng sắp sửa có năm chiếc thuyền buồm chở người tị nạn đang tới đây. Một tuần sau, sau khi người Hoà Lan nghi ngờ rằng đang có âm mưu nổi dậy nên đã bố ráp khu vực người Trung Hoa ở đây. Một thời gian sau, Lý Giáp được thông báo và thảo luận vấn đề này với viên phụ tá của ông ta là Lâm Phương Khai 林芳開 cùng hai người con của ông là Triệu Vực 肇域 và Chính Hào 正壕.

Sau đó một sĩ quan đã đến nhà của Lý Giáp nói rằng người Hoà Lan sẽ bỏ qua không lý đến liên hệ giữa những người tị nạn và họ Trịnh nhưng sẽ không chấp nhận nếu người Trung Hoa ra tay giúp đỡ vị Sultan hiện vẫn còn có ý định khôi phục Malacca. Một sứ giả Trung Hoa sau đó nói cho họ biết rằng hiện vẫn còn năm chiếc thuyền bị người Mã Lai giữ tại đảo Riau. Người con trai cả của Lý Giáp được sai đến để giải quyết vấn đề. Hai tuần sau, hai trong số năm chiếc thuyền kia đã đến gần Malacca – ba chiếc còn lại trong thời gian đó nhân lúc người Mã Lai không chú ý đã bỏ sang Java và những người tị nạn đã thay đổi thuyền để tránh sự nghi ngờ của người Hoà Lan. Tăng Kỳ Lộc 曾其祿 là đầu sỏ bọn họ. Triệu Vực, người con trai lớn của Lý Giáp đã bị giữ lại ở Riau làm con tin, vị Sultan muốn làm áp lực với người Hoa ở Malacca để họ không được cộng tác với VOC. Cùng lúc đó, một tên gián điệp của người Mãn Châu đã tới Malacca – nhiệm vụ của hắn là thủ tiêu Lý Giáp nhưng không thành công. Hai năm sau (1686) “Tiểu vương Ibrahim Shah” qua đời và Triệu Vực nắm lấy cơ hội đó để chạy trốn vào công ty của con gái vị tiểu vương là Fatimah.

Họ kết hôn tại Malacca đầu năm 1687 nhưng chẳng bao lâu thì hai vợ chồng bị người Hoà Lan bắt và xử tử, Triệu Vực bị kết án là đã cộng tác với người Mã Lai. Câu chuyện kết thúc bằng chuyện ông già Lý Giáp bệnh tật và từ trần.

Người ta có thể rút ra từ tóm tắt nêu trên rằng cái âm mưu, một mặt đã theo sát thời gian của các sự kiện tại Malacca cũng như tại Trung Hoa và Đài Loan, nhưng ở một mặt khác, tác giả trong một số trường hợp đã đưa ra một số dữ kiện bị tiểu thuyết hoá. Trước hết, ông ta có ý cho ta thấy Lý Giáp là một người tích cực ủng hộ nhóm phản Thanh và sau đó về những người tị nạn với mục đích giũ cho họ có liên hệ mật thiết với Tumasik (nay là Singapore) được miêu tả như cốt lõi của những người Minh hương. Điểm thứ hai, Trịnh Lương Thụ rất quan tâm đến việc miêu tả liên hệ giữa những người Mã Lai và người tị nạn và nhấn mạnh rằng kẻ thù chung của họ chính là VOC cũng như không để lỡ cơ hội nào khi kể lại những sự kiện cũ cho thấy sự tàn ác của người Bồ Đào Nha và sau đó là người Hoà Lan. Ông ta cũng nhấn mạnh vào sự kiện người Minh hương đã quyết định ở lại Malacca và sẵn sáng được sống dưới sự cai trị của các tiểu vương Mã Lai. Những thông điệp này cũng cần được hiểu trong tương quan với hiện tại.

Các tài liệu lịch sử cũng không nói gì về hành vi của anh hùng Minh hương Tăng Kỳ Lộc[277]. Ông ta rời Hạ Môn để chạy trốn khỏi sự truy đuổi của nhà cần quyền vì gia đình ông có tham gia vào những hoạt động phản Thanh, trên bài vị của ông có viết: “Tị nạn nghĩa sĩ” như đã nói ở trên. Trong cuốn tiểu thuyết này, Tăng Kỳ Lộc được nói là đã rời Hạ Môn sau khi Đài Loan bị thất thủ, đến Malacca cùng với một đoàn hàng trăm người tị nạn. Tường thuật đó dường như nhắc đến cuộc di cư của quân Long Môn trong khoảng 1862-1863. Tăng Kỳ Lộc cũng dựa trên sự tưởng tượng của mình để viết về sự tham dự của hai người con Lý Giáp. Nếu đúng là Chính Hào kế nghiệp cha làm kapitan thì người con trưởng là Triệu Vực, người được biết đến trong sử liệu dưới tên khác,[278] thì thực tế đã qua đời trên biển từ năm 1681, một sự kiện ở Malacca không ai biết nhưng đã ghi rất rõ trong gia phả nhà họ Lý như chúng ta đã thấy ở bên trên.

Người ta biết rất ít về quan hệ mật thiết giữa người Hoà Lan và nhóm phản Thanh phục Minh, ngoại trừ một sự kiện là một người con của Lý Giáp đã được báo cáo là ông này đặt vẽ một bức chân dung cha ông từ một hoạ sĩ người Hoà Lan. Sự việc này có thể đã gợi ý cho tác giả vì ngoài bức tranh gốc để trong đền, lại còn một bức tranh khác hiện đại hơn vẽ Lý Giáp nay để trong văn phòng của Thanh Vân Đình. Tuy nhiên, bức chân dung bán thân này cũng được hoạ sĩ danh tiếng người Trung Hoa là Từ Bi Hồng 徐悲鴻 (1895—1953) công nhận khi ông đến thăm Malacca trước thế chiến thứ II. Vì là khách của viên thủ từ Thanh Vân Đình, họ Từ đã rất cảm xúc với bức chân dung nguyên thuỷ và ông đã quyết định sao chép lại.[279] đoạn cuối của câu chuyện này là tác giả đã miêu tả Lý Giáp vào nhà thờ Saint Paul như có vẻ lúc cuối đời viên thuyền trưởng đã tìm đến một số nương tựa tinh thần trong đạo Thiên Chúa … Hình ảnh đó cho thấy những ảnh hưởng của văn hoá Âu Châu đối với người Minh hương này và cần hiểu trong bối cảnh chính trị hiện tại như một hình thức làm cân bằng những ấn tượng không tốt đẹp về miêu tả những viên chức cai trị thuộc địa.

Nói tóm lại, cuốn tiểu thuyết này, trước hết để phản ảnh cuộc đời và lịch sử Lý Giáp nhưng cũng kèm theo một thông điệp chính trị mạnh mẽ.

Tái khám phá Mạc Cửu và Trần Thượng Xuyên tại bán đảo Lôi Châu

Mạc Thị Tông Từ 鄚氏宗祠 tức đền thờ tổ tiên của họ Mạc ở thôn Đông Lăng 東陵村 là nơi mà tổ tiên được thờ cúng nhưng cũng đồng thời là nơi bảo tồn lịch sử của dòng họ Mạc (Bảng 27). Hiện tại thì ngôi đền có niên đại từ năm Quang Tự 光緒 25 (1899) như được ghi nhận trên xà nhà của chính điện. Thế nhưng đền cũng còn một loạt những bia đá, bia cũ nhất trở về tận đời Vạn Lịch 萬曆(1573-1615). Năm 2004, tổ đình của họ Mạc tại Đông Lăng đã được xếp hạng vào những di tích văn hoá cấp tỉnh.[280] Hơn nữa, một thủ bản chép gia phả cũng được giữ trong đền (như đã đề cập trước đây), trong đó ghi tên Mạc Cửu (tại đây ghi theo tên tự là Thiệu Nguyên 紹原 và của con ông nhưng không ghi ngày sinh và ngày mất.

Kể từ thập niên 1980s, những liên hệ với người Trung Hoa đi ra ngoài được hồi phục ở Hoa Lục, cái tên Mạc Cửu được nhắc đến trong nhiều cuốn sách, tiểu sử của ông được ghi trong một số từ điển.[281] Người ta cho rằng liên hệ với việc tái lượng giá của người di cư lên mức quốc gia cùng với một tiểu sử mới của người anh hùng nay được trưng bày trong ngôi đền.[282]

Về phần Trần Thượng Xuyên thì ông được nhắc đến trong một tuyển tập do Chen Jihua biên tập và xuất bản tại Hongkong nhan đề 陳上川安南王, xem ra trong dân chúng vùng Trạm Giang 湛江 và vùng chung quanh (bán đảo Lôi Châu) thì tiếng tăm của ông vẫn còn nên các tác giả đã sưu tầm các câu chuyện và huyền thoại về ông.[283] Hơn nữa, ngày nay ở thôn Điền Đầu 田頭村 (đảo Nam Tam 南三島) vẫn còn một ngôi từ đường có tên là Trần Thị Tiểu Tông Từ 陳氏小宗祠 và ngôi tiểu từ đường này đã được trùng tu vào năm 1999 theo đề nghị của Uỷ Ban Bảo Vệ Di Tích Văn Hoá Trạm Giang. Ngôi đền này có lưu giữ một bản sao bài vị của những người đã qua đời thuộc chi nhánh trong đó có tên Trần Thượng Xuyên (Bản 28). Ngôi đền cũng còn giữ phổ hệ của giòng thứ trong gia tộc 陳氏小宗 nhưng chúng tôi không được xem trong lần viếng tha7m tháng December năm 2012. Cũng đáng nói là một pho tượng tạc ông ngồi trên ghế trong y phục của một văn quan đã được đặt trong đền và một tấm bia có năm 2012 liên quan đến công lao của ông nhất là vào thời kỳ ở Việt Nam.

Việc tìm hiểu về danh tiếng của những người Minh hương cầm đầu này đã gián tiếp đưa chúng ta đến những hồi ức tập thể hay lịch sử về quan lại hay nhân vật chính trị mà người Trung Hoa gọi là dã sử 野史và những liên hệ của họ thường là luôn luôn đổi thay.


KẾT LUẬN

Cuộc khảo sát này khiến chúng ta có thể đánh giá rõ ràng hơn về sự quan trọng của những làn sóng di cư xuống Nam Dương (South Seas) kéo dài trong khoảng 40 năm và vai trò của cộng đồng Minh hương nơi các quốc gia chủ nhà, mặc dầu đóng góp đáng kể nhưng ít khi nào được nhắc tới trong chính sử (ngoại trừ tại miền nam Việt Nam). Những nguồn tài liệu được nêu ra đã giúp cho chúng ta đi sâu vào nhiều chiến lược khác nhau trong việc định cư mà những người Minh hương đã áp dụng và cho phép chúng ta quan sát những khác biệt tuỳ theo tình hình chính trị của từng địa phương.

Chúng ta cũng thấy rõ rằng ở Hội An thì tình hình hội nhập thành công hơn cả. Những người tị nạn đến đây khi Chúa Nguyễn vui vẻ đón nhận những người có khả năng mà ông có thể sử dụng cho lợi ích của vương quốc ông đang cai trị, trước là cho hệ thống hành chánh tại kinh đô, sau là việc bành trướng xuống vùng đất Nam Kỳ. Tại vương quốc họ Lê thì việc này khó khăn hơn vì gần với Trung Hoa nhưng cũng có thể là vì tầm vóc của những cuộc di cư này đã đến một mức độ không thể kiểm soát được. Tuy nhiên, Phố Hiến cũng là một mô hình thành công mặc dầu chúng ta không thấy được quá trình hội nhâp rõ ràng như tại Hội An, có lẽ vì số người tị nạn tương đối ít hơn và đã bị tan biến vào cộng đồng địa phương tại đây theo thời gian.

Ở Cambodia, tình hình còn phức tạp hơn vì sự bất ổn chính trị nội tại nhưng cũng bởi vì tham vọng của người Xiêm và người Đàng Trong ở hai bên. Nếu như một mặt các toán quân Long Môn có một hậu quả thiếu thiện cảm vì họ liên kết chặt chẽ với chúa Nguyễn thì một mặt khác họ Mạc lại có một ảnh hưởng tích cực ở Hà Tiên đến mức người Xiêm La phải ghen tức với sự thành công của họ và đem quân tiêu diệt.

Tại vùng Đông Nam Á thì vì sự không phân biệt của những quốc gia vẫn còn độc lập tại đây như Aceh và Banten, và những quốc gia dưới quyền kiểm soát của VOC, như Malacca và Batavia. Vương quốc Aceh thì bị ảnh hưởng rộng rãi bởi các thương nhân Muslim từ phương tây, còn người Minh hương thì con số tương đối ít nên không có cơ hội phát triển tài năng như họ đã làm tại Banten, nơi đó sau năm 1620, người Trung Hoa Minh hương đã thay thế người Kling hay người Ấn Coromandel trong tất cả các vị trí công quyền dành riêng cho người ngoại quốc. Vai trò của hai shahbandars sau cùng người Trung Hoa theo đạo Hồi là Kaytsu và Kiyayi Ngabéhi Cakradana lớn mạnh đến nỗi vương quốc khi đó đang ở trên đỉnh cao đã tạo ra một mối đe doạ cho người Hoà Lan và họ không để yên cho đến khi thành công tiêu diệt họ vào năm 1682.

Ở Malacca, những người Minh hương được người Hoà Lan chào đón bởi vì họ cần người tái thiết lại thành phố này thế nhưng đồng thời họ cũng ngăn cấm triệt để và chỉ cho phép hoạt động thương mại trong một khu vực nhất định. Tại Batavia, người Minh hương chịu dưới quyền kiểm soát trực tiếp của ngư使ời Hoà Lan nhưng vì người Hoà Lan cũng lệ thuộc vào người Hoa về nhiều buôn bán và dịch vụ nên người Minh hương cũng khá thoải mái và tự do hoạt động. Họ được hưởng lợi từ mạng lưới của họ Trịnh và mậu dịch vươn dài ra tới tận Nhật Bản. Họ cũng dễ dàng đối thoại với nhà Thanh cũng như với các sứ đoàn của họ Trịnh, chưa kể tư thế trung gian giữa tiểu quốc Banten và VOC.

Từ một nhãn quan kinh tế, chúng ta thấy những người di cư này là những nhóm thiểu số đầy khả năng và linh động. Họ được các nhà cầm quyền địa phương sử dụng một cách khôn ngoan để biết rằng họ có lợi trong việc phát triển mậu dịch đường biển, hải hành nhưng cũng còn cà thương mại nội địa, quản lý quan thuế, kiến tạo tàu bè, nông nghiệp và cả việc đô thị hoá. Tại những thành phố như Hội An và Malacca, vai trò của các bang trưởng và quản lý bến cảng (sau thay bằng đình chủ) thì vẫn còn nằm trong tay của con cháu những người Minh hương cho mãi đến đầu thế kỷ XIX và có thể còn sau nữa.

Liên hệ giữa những người Minh hương và các nhà cai trị địa phương tương đối tốt, phản ảnh trong trường hợp Phố Hiến, Hội An, Hà Tiên và Banten. Tại Phố Hiến ta thấy các thủ lãnh của người tị nạn đã được một võ quan địa phương giúp đỡ và tạo điều kiện hội nhập nên đã tỏ lòng biết ơn bằng cách lập đền thờ vinh danh ông này, trong khi đó hai thành phố hải cảng khác thì chính các thủ lãnh địa phương lại tỏ lòng biết ơn họ. Tại Hội An, chúa Nguyễn đã dựng đền thờ cho người cố vấn Khổng Thiên Như, còn ở Hà Tiên thì một ngôi miếu do quan nhà Nguyễn xây ghi nhận công lao được xây để thờ Mạc Cửu và con ông, còn ở Banten thì Sultan Ageng đã mai táng người cố vấn và bằng hữu là Kaytsu trong Đại Thánh Đường.

Hành trạng của những người Minh hương và con cháu họ còn tương đối lẩn khuất, không như những người chống đối ở lục địa, có vẻ như họ không muốn thổ lộ nhiều về số phận của họ, hay nếu có, thì những ghi chép này chưa được khai thác. Một chi tiết về tâm thức của họ có thể nhận ra là là việc họ vẫn dùng một loại lịch khác kéo dài đến tận thập niên 1720s và họ vẫn mặc y phục đời Minh và khi tìm hiểu vế quá khứ thì họ vẫn cố gắng vẽ lại lịch sử của họ theo một hướng khác như ở Hội An, Malacca và gần hơn là ở Hà Tiên.

Cũng thật thú vị khi thấy những người lãnh tụ Minh hương được thờ cúng tại Đông Nam Á và việc đó cũng liên mật thiết đến việc lan truyền văn hoá Trung Hoa trong lâu dài. Tiếng tăm của họ tồn tại tại những quốc gia mà sự Hán hoá vốn sâu rộng, vai trò của người tị nạn đối với quốc gia đón nhận họ đã được khắc sâu trong ký ức chung, nếu không nói là cả ở trong chính sử, trong đền miếu ghi nhận công đức họ, dù do tư nhân hay công chúng xây dựng thì cũng là những nơi đã cắm mốc cho quá khứ. Tại Âu châu thế kỷ XVIII, nhất là tại Pháp, danh tiếng của họ Mạc từ Ponthiamas được gắn liền với phái trọng nông và những triết gia thuộc phái Khai Sáng (Enlightment) là những người có ý định phê phán định chế quân chủ. Vì lý do này, họ đi tìm một kiểu mẫu ngược lại mà Pierre Poivre nghĩ rằng ông ta đã tìm thấy tại Ponthiamas và hệ thống chính trị Trung Hoa như một mô hình lý tưởng.

Trong những thập niên sau cùng của thế kỷ XX, người ta đã quan tâm đến những nhân vật nổi tiếng trong quá khứ đã được tái khởi động cùng một lúc ở cả thế giới Mã Lai lẫn ở Trung Hoa nhưng theo ngữ cảnh khác nhau. Tại Malaysia và Singapore, nơi các hậu duệ người Hoa vẫn bị coi như người bên ngoài, mục tiêu của họ nhằm chứng tỏ tổ tiên của họ được mọc rễ rất sâu vào lịch sử địa phương. Tại Trung Hoa, việc làm hồi sinh sự quan tâm đến kiều bào được khởi điểm từ tầm vóc quốc gia trong giữa thập niên 1980s, đi theo dòng hồi sinh của dòng họ, nhất là tại các tỉnh Phúc Kiến và Quảng Đông nên nhu cầu tìm hiểu lịch sử được trỗi dậy. Vì lý do này rất nhiều dòng họ bắt đầu sưu tầm và nghiên cứu về các thế hệ trước và dần dần đã hoàn tất được. Đồng thời từ đường 祠堂 hay đền thờ tổ tiên được tu bổ, các bản phục chế bài vị của tiền nhân – bài vị 牌位- được đưa lên bàn thờ và những nhân vật nổi danh trong giới kiều bào được dành cho những chỗ trang trọng bằng cách trình bày tiểu sử của họ theo phong cách mới hay đặt hình tượng trên bàn thờ đồng thời cũng in những tác phẩm ghi công như trong trường hợp của Trần Thượng Xuyên.

Về mặt phương pháp, chúng ta có thể kết luận rằng cùng một lúc các nguồn của Âu châu và của Á châu đã được đánh giá cao vì hai đằng hỗ tương nhau. Để làm như thế, chúng ta có thể nhìn vào tầm kích quốc tế của những cuộc di cư này và tiếng vọng về không gian và thời gian. Hơn nữa, các tài liệu thương mại của Âu châu giúp soi sáng cho lịch sử của cộng đồng người Minh hương tại Aceh, Banten và Batavia là những nơi mà tài liệu viết bằng tiếng Trung Hoa hầu như không có. Ngược lại tài liệu tiếng Trung Hoa, Hán – Việt, tiếng Nhật và tiếng Cambodian soi sáng những vấn đề ở Cochinchina nơi tài liệu Âu châu ít ỏi. Tuy nhiên, một số chỗ so le với nhau nhất là ngày tháng và cả sự kiện cũng thỉnh thoảng xảy ra giữa các nguồn khiến cho việc tìm hiểu thêm phức tạp và đơn điệu như Gaspardone và Trần Kinh Hoà trong các nghiên cứu về họ Mạc và quân Long Môn đã chỉ ra.



[1] Về các chi tiết này, xem Lynn A. Struve, The Southern Ming, 1644-1662, New Haven/London: Yale University Press, 1984; Cùng tác giả, The Ming-Qing Conflict, 1619-1683. A Historiography and a Source Book, Ann Arbor, Michigan: Published by the Association for Asian Studies (Monographs and Occasional Paper Series no. 56), 1998; John E. Wills, Jr., "The Seventeenth-Century Transformation of Local Elites: Taiwan under the Dutch and the Zheng Regime", in Murray A. Rubinstein (bt.), Taiwan: A New History, Armonk, New York & London: An East Gate Book, 1999, tr. 84-106.

[2] Về việc di cư sang Hàn Quốc thì từ thập niên sau năm 1618 khi người Mãn Châu xâm lăng bắt đầu chạy sang Liêu Đông và Liêu Tây; xem Adam Bohnet, "From Liaodongese Refugee to Ming Loyalist: The Historiography of the Sanggok Ma, A Ming Migrant Descent Group in Late Joseon Korea", The Review ofKorean Studies, 15: I (June 2012), tr. 109-139.

[3] Nguyên văn: "could apply meaningfully to anyone who pointedly altered his or her life patterns and goal to demonstrate unalterable personal identification with the fallen order. The term need not be restricted to men who worked actively for a Ming revival or who clearly harbored seditious intentions... " Lynn A. Struve, "Ambivalence and Action: Some Frustrated Scholars of the K'ang-hsi Period", trong Spence, Jonathan D. and John E. Wills, Jr. (bt.), From Ming to Ch 'ing. Conquest, Region, and Continuity in Seventeenth-Century China, New Haven and London: Yale University Press, 1979, tr. 327.

[4] Về tiểu sử những người này, xem L. Carrington Goodrich & Fang Chaoying (bt.), Dictionary of Ming Biography 1368-1644, New York & London: Columbia University Press, 1976, l, tr. 1020-1022; Arthur W. Hummel, Eminent Chinese of the Ch'ing Period, Washington: United States Government Printing Office, 1943, I, tr. 179-180; E.W. Clement, "Chinese Refugees of the Seventeenth Century in Japan", Transactions of the Asiatic Society of Japan, 24 (1896), tr. 12-40; Heinz Friese, "Chu Shun-shui (1600-1682) und Japan", Nachrichten der Gesellschaft fiir Natur-und Völkerkunde Ostasiens, 99 (June 1966), tr. 35-55.

[5] Xem Pin-tsun Chang, "The First Chinese Diaspora in Southeast Asia in the Fifteenth Century", Roderich Ptak and Dietmar Rothermund (bt.), Emporia, Commodities and Entrepreneurs in Asian Maritime Trade, C. 1400-1750, Stuttgart: Franz Steiner Verlag, 1991, tr. 1328; Lý Khánh Tân李慶新 "Minh trung hậu kỳ Quảng Đông thương nhân tại Nam Dương đích hoạt động 明中後期 廣東商人在南洋的活動 trong Trương Tồn Vũ 張存武 & Thang Hi Dũng 湯煕勇 (bt.), Hải ngoại Hoa tộc nghiên cứu luận tập, đệ Nhất tập 海外華族研究論集 第一輯, Di dân, Hoa thương dữ kinh mậu 遺民,華商與經貿 Taipei: Huaqiao xiehui chuban, Minguo 91, tr. 31 1-348.

[6] Chữ này viết đúng thì họ Mạc từ thôn Đông Lăng 東陵村, bán đảo Lôi châu phải là nhưng theo Emile Gaspardone, "Un Chinois des Mers du Sud. Le fondateur de Hà-Tiên", Journal asiatique, 240 (1952), tr. 374, ct. 1, theo lệnh triều đình Huế, thì để khỏi nhầm với họ Mạc (1527-1592) ở Cao Bằng và theo Trần Kinh Hoà 陳荆和, "Hà Tiên Mạc thị thế hệ khảo 河仙鄚氏世系考", Hoa Cương học báo 華岡學報 , 5 (1969), tr. 181, từ Mạc Cửu trở đi dùng chữ này.

[7] Trần Kinh Hoà, Thừa Thiên Minh hương xã Trần thị chính phổ 承天明乡社陳氏正譜 / A Brief Study of the Family Register of the Trans, A Ming Refugee Family in Minh-huong-xa Thua-thien (Central Vietnam), Hong Kong: Southeast Asia Studies Section New Asia Research Institute, Chinese University of HK, 1964; Emile Gaspardone, "Un Chinois des Mers du Sud. Le fondateur de Hà-Tiên", tr. 363-385; Trần Kinh Hoà, Hà Tiên trấn diệp trấn Mạc thị gia phả thích chú 河仙鎭葉鎮鄚氏家譜釋注 Văn sử triết học báo (Dân Quốc 45 [1956]), tr. 77-139; , Hà Tiên Mạc thị thế hệ khảo 河仙鄚氏世系考, tr. 179-218; , "Mac Thien Tu and Phraya Taksin. A Survey on their Political Stand, Conflicts and Backgrounds", in Proceedings of the 7th IAHA Conference, 22-26 August 1977, Bangkok: Chulalongkorn University Press, 1979, tr. 1534-1575; Lý Khánh Tân 李慶新 Mạc thị Hà Tiên chính quyền (Cảng Khẩu quốc) cập kỳ đối ngoại quan hệ "鄚氏河仙政權 (港口國) 及其對外關係”, bài thuyết trình trong Hội Nghị Quốc Tế về Lịch Sử Hải Dương ở Macao, Quảng Đông và khu vực Á châu-Thái Bình Dương, 4-5/12/2012, được ấn hành trong Hải Dương Sử Nghiên Cứu 海洋史研究 (Studies of Maritime History), 5 (2013), tr. 1 14-147. Tiểu sử của một số nhà sư thấy trong Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên nhưng không biết họ có phải là người Minh hương hay không. Bản dịch tiếng Pháp tiểu sử của Tạ Nguyên Thiều 謝元韶 đến An Nam năm 1665, Đại Sán 大汕 (Thạch Liêm 石濂) và Giác Linh (覺靈) xem Émile Gaspardone, "Bonzes des Ming réfugiés en Annam", Sinologica 2 (1950), tr. 12-25. Lý Khánh Tân 李慶新 16-17 世紀粵西 珠賊’,海盜與西賊’. Hải dương sử nghiên cứu 海洋史研究 / Studies of Maritime History, 2 (2011), tr. 144-148 đề cập đến một người trung thành với nhà Minh khác từ Quảng Đông là Đặng Huy 鄧輝 (theo một số tài liệu) đã trốn sang An Nam năm 1660 và thành một nhà sư.

[8] Xem Hứa Văn Đường 許文堂, Tạ Kỳ Ý 謝奇懿, Đại Nam Thực Lục Thanh Việt Quan Hệ Vựng Biên 大南實錄清越關係史料彙編 / Material on the Sino-Vietnamese Relations in the Đại Nam Thực Lục (Veritable Record of Vietnam), Taipei: Academia Sinica, 2000, tr. 3, số 1679 (Thái Tông, năm 31, tháng Giêng).

[9] Trần Kinh Hoà, Thanh Sơ Trịnh Thành Công Tàn Bộ Chi Di Thực Nam Kỳ (thượng & hạ) 清初鄭成功殘部之移殖南圻 (上,下), Tân Á Học Báo 5: I (Aug. 1960), tr. 433-459; 8: 2 (Aug. 1968), tr. 413-435 (Tóm tắt tiếng Anh, tr. 13-20).

[10] C. Salmon, "Réfugiés Ming dans les Mers du Sud vus à travers diverses inscriptions (ca. 1650-ca. 1730)", in Bulletin de I 'Ecole française d'Extréme-Orient, 90-91 (2003-2004), tr. 177-227; Bản dịch tiếng Hoa La Di Anh 羅燚英 (Luo Yiying) Bi Minh Sở Kiến Nam Hải Chư Quốc Đích Minh Đại Di Dân 碑銘 所見南海諸國的明代遺民, Hải Dương Sử Nghiên Cứu 海洋史硏究/ Studies of Maritime History, 4 (2012), tr. I I I-158.

[11] Chẳng hạn như Gabriel Rantoandro, "Kiyai Ngabehi Kaytsu de Banten, shahbandar de son état et 'passeur' occasionnel", Archipel 56 (1998), tr. 251-271; Claude Guillot, "Un maître d'oeuvre du XVIle siècle à Banten: Kiyai Ngabéhi Cakradana", in Henri Chambert Loir & Bruno Dagens (bt.), Anamorphoses. Hommage à Jacques Dumarqay, Paris: Les Indes savantes, 2006, tr. 449-455.

[12] Về Philippines, xem trong Phương Chân Chân 方真真, Minh Mạt Thanh Sơ Đài Loan Dữ Mã Ni Lạp Đích Phàm Thuyền Mậu Dịch 明末清初台彎與馬尼拉的帆船貿易(1664-1684) Taipei: Daoxiang chubanshe, 2006; Alfonso Felix, Jr., The Chinese in the Philippines 1570-1770, vol. Il, Manila, Bombay, New York: Solidaridad Publishing House, 1986; Patrizia Carioti, Zheng Chenggong, Napoli: Istituto Universitario Orientale, 1995, especially tr. 103-125; Manel Ollé Rodriguez, "Manila in the Zheng Clan Maritime Networks", Review of Cullure, 29 (2009), tr. 91-103.

[13] Trần Thầm 陳忱 (1615-1670?), Thuỷ Hử Hậu Truyện 水滸後傳. Thượng Hải: Thượng Hải cổ tịch xbx, 1990, "Cổ Tịch Tiểu Thuyết Tập Thành, đệ 270 sách, ảnh ấn Thiệu Dụ Đường san bản, đệ Thập hồi, 13a-13b; Xem Ellen Widmer, The Margins of Utopia. Shui-hu hou-chuan and the Literature of Ming Loyalism, Harvard: Council of East Asian Studies, Harvard University Press, 1987; La Thuỷ Ngọc, Thuỷ Hử Hậu Truyện – Cựu Minh Di Thần Trần Thầm đích Hải Ngoại Càn Khôn, Hán Học Nghiên Cứu 19: 1 (Sept. 2009), tr. 219-248.

[14] Cham i.e. Khan. Từ ngữ này gốc là kagan hay khagan trong tiếng Turkic có nghĩa là người cai trị.

[15] J.TR. Cortemünde, Dagbogfra en Ostindiefart 1672-75, biên tập bởi Henning Henningsen, Søhistoriske Skrifter V, Kronborg: Handels- Og Søfartsmuseet, 1953, tr. 132.

[16] Xem thêm Wills, "The Seventeenth-Century Transformation of Local Elites: Taiwan under the Dutch and the Zheng Regime", tr. 97.

[17] Caspar Schmalkalden, Die wundersamen Reisen des Caspar Schmalkalden nach West- und Ostindien 1642-1652. Nach einer bisher unveröffentlichten Handschrift bearbeiteit und herausgegeben von Wolfgang Joost, Leipzig: Verlag für Kunst und Wissenschaft, 1982, tr. 129. Về tác giả, xem Mary Somers Heidhues, "An Early Traveler's Compendium: Caspar Schmalkalden's Images of Asia", Archipel 70 (2005), tr. 145- 184.

[18] Die wundersamen Reisen des Caspar Schmalkalden, tr. 131.

[19] Die wundersamen Reisen des Caspar Schmalkalden, tr. 129: "Diejenigen, so ihre Haare noch haben, prangen sehr damit und werden Thaywing, die aber, so dieselben verloren, PO thaiwing genennet."

[20] Marie-Odette Scalliet, "Une curiosité oubliée: le «Livre de dessins faits dans un voyage aux Indes par un voyageur hollandais», du marquis de Paulny", Archipel 54 (1997), tr. 35-62.

[21] These three drawings are reproduced in Scalliet, "Une curiosité oubliée", plates 4, 5, 6.

[22] Hai bản viết tay này hiện tàng trữ tại Stiftsbibliothek St.Gallen (Cod. 1278 and Cod 1311); bản sau cùng có thể xem online: www.ecodices.unifr.ch/en/csg/1311 dưới nhan đề "Reise nach Java".

[23] Bài thơ bằng tiếng Đức được chép lại bởi Karl Schmuki, Der "Indianer" im Kloster St. Gallen, Georg Franz Müller (1646-1723), ein Weltreisender des 17. Jahrhunderts. Aus den Handschriften Nr. 1278 and 1311 der Stiftsbibliothek St.Gallen, St.Gallen: Verlag am Kloster St.Gallen, 2001, tr. 42. Müller cũng vẽ một võ quan Tartar (ein Orientalischer Tartar) mà có lẽ ông ta thấy khi phái đoàn của Thanh triều đến Batavia năm 1679-1680, trong đó có khoảng 100 người lính và một viên sĩ quan chỉ huy; xem John E. Wills, Jr., Pepper, Guns, & Parleys, The Dutch East India Company and China, 1662-1681, Cambridge, Massachusetts: Harvard University Press, 1974, tr. 179.

[24] "Orang Sina", hay orang Cina tiếng Malay/lndonesian để chỉ người Trung Hoa.

[25] Xem Wills, "The Seventeenth-Century Transformation of Local Elites: Taiwan under the Dutch and the Zheng Regime", tr. 97.

[26] Cortemünde, Dagbogfra en Ostindiefart 1672-75, tr. 132.

[27] Gio Ghirardini, Relation du voyage fait à la Chine sur le vaisseau « I 'Amphitrite » en I 'année 1698, Paris: N. Pepie, 1700, tr. 38: "Les Chinois sont propres & parez comme des femmes, ils attachent leurs cheveux avec des aiguilles de téte, & portent un éventail à la main." Frangois Froger, The Journal of the First French Embassy to China 1698-1700, dịch từ một bản thảo chưa xuất bản bởi Saxe Bannister. With an essay on the friendly disposition of the Chinese government and people to foreigners, London: T.C. Newby, 1859, tr. 40, miêu tả người Trung Hoa tại Aceh cũng tương tự: "The Chinese are clean in their persons, with the clothing of women; they fix large needles in their hair and carry fans."

[28] Đại Sán 大汕, Hải Ngoại Ký Sự 海外記事, Dư Tư Lê 余思黎 (bt.), Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục, 1987, tr. 80.

[29] Leonard Blussé, Strange Company. Chinese settlers, mestizo women and Dutch in VOC Batavia, Dordrecht-Holland/Riverton-USA: Foris Publications, 1986, tr. 127; Qui tắc hành động ban hành tại Nederlandsch-lndisch Plakaatboek, 1602-1811, biên tập bởi

  J.A. van der Chijs, Batavia: Landsdrukkerij, s'Hage, M. Nijhoff, 1885-1897, vol. 3, 21/29 May 1690, tr. 262-269 and reproduced in Marie-Sybille de Vienne, Les Chinois en Insulinde, Echanges et sociétés marchandes au XVIT siècle, Paris: Les Indes Savantes, 2008, tr. 323-325.

[30] Dagh-Register gehouden int Casteel Batavia vant passerende daer ter plaatse als over geheel Nederlandts-lndia, Anno 1624-1682, 31 vol., Batavia: Uitg. door het Koninklijk Genootschap van Kunsten en Wetensschappen met de medewerking van der Nederlandsch-lndische Regering en onder toezicht, met medew. van J.A. van der Chijs, H. T. Colendrander, F. de Haan, W. Fruin-Mees, J. de Hulu, 1887-1931, Có 5 năm bị mất 1630s (1630, 1635, 1636, 1638, 1639), 4 năm bị mất 1640s (1643, 1646, 1647, 1649), 6 năm bị mất 1650s (1650, 1651, 1652, 1654, 1655, 1658), và 2 năm bị mất 1660s (1660, 1662) (từ đây viết tắt là D.R.).

[31] D.R. 1644, tr. 28, 31, 39, 54.

[32] D.R. 18 Dec. 1647 (tr. 4) và 24 Feb. 1648 (tr. 31).

[33] D.R. 18 Feb. 3 March 1656 (tr. 101-102, 113).

[34] Bản khắc cũ nhất trong đình làng có niên đại 1653 [1653] (bản 11).

[35] François Froger, Relation du premier voyage des François à la Chine fait en 1698, 1699 et 1700 sur le vaisseau L'Amphitrite, Herausgegeben von E. A. Voretzsch, Leipzig: Verlag der Asia Major, 1926. (Bản viết tay này lưu trữ trong thư viện của lâu đài Ajuda (Portugal) có khác bản dịch ra tiếng Anh của Saxe Bannister (xem ghi chú 16).

[36] Theo gia phả họ Lý tại Cảng Khẩu xã, Hạ Môn có tên là Phúc Kiến tỉnh, Tuyền Châu phủ, Đồng An huyện, Gia Hoà lý, Chấp Nhị đô, Tăng Khê bảo, Tuy Đức hương, Hạng Khẩu xã, Quang Dụ Đường Lý thị tộc phổ (từ đây gọi tắt là Lý thị tộc phổ) (chụp bản ở Makassar năm 2005), tr. 33 (bản 7).

[37] Có lẽ sai, địa danh này không tìm thấy.

[38] Theo bản chép tay Lý thị gia phả 李氏家譜 do Lý Văn Phức (1785-1849) soạn năm 1821 (Minh Mạng nhị niên), nay còn giữ tại họ Lý, Hanoi, thì tên của sinh quán ba anh em ở Phúc Kiến không có. Khi Lý Văn Phức đến Phúc Kiến năm 1831 khi đi sứ ông đã cố gắng tìm nhưng không thấy tổ quán ở đâu, xem Mân Hành Tạp Vịnh (còn gọi là Minh Hành Thi Thảo Tập (1831) (bản chép tay), Hanoi: Hán Nôm Institute, AB. 1291, tr. 38b. (plate 8).

[39] Làng Hồ Khẩu ở cuối đường Thuỵ Khuê, trong một khu tên là Yên Thái, trước khi đến chợ Bưởi. Nguyễn Vĩnh Phúc, Đường phố Hà Nội. Hà Nội: nxb Hà Nội, 1979, tr. 440.

[40] Xem Lý thị gia phả, tr. 6b, 7a. Người Trung Hoa trồng dâu nuôi tằm, dệt vải và buôn bán tơ lụa ở Tonkin cũng được đề cập tại nhiều nguồn khác. Xem bên dưới.

[41] Xem Trần Kinh Hoà, Chu Thuấn Thuỷ An Nam Cung Dịch Ký Sự Tiên Chú 朱舜水安南供役記事箋注. Hương Cảng Trung Văn Đại Học Trung Quốc Văn Hoá Nghiên Cứu Sở Học Báo 1, 1968, tr. 212.

[42] Sonoda Kazuki 園田一龜, "Annan-koku taishi kara Min-jin Gi Kiü Shi ni yoseta shokan ni tsuite Minami-Ajiya gaku hô / Journal of the Institute for Southern Asian Research, 1942, tr. 49-70, dẫn theo Chingho A. Chen, Historical Notes on Hi-An (Faifo), Monograph Series IV, Carbondale: Centre for Vietnamese Studies, Southern Illinois University, 1974, tr. 39.

[43] Trịnh Hoài Đức 鄭懷德 (soạn) Cn Trai Thi Tp 艮齋詩集. Trần Kinh Hoà, Đông Nam Á Nghiên Cứu Chuyên San chi Nhất, 1962, tr. 7. Họ Trịnh có một nghĩa địa gia đình tại Biên Hoà và năm 1998, ngôi mộ của Trịnh Hoài Đức được tu bổ nhân dịp mừng 300 chu niên của thành phố Biên Hoà.

[44] Grégory Mikaelian, La royauté d'Oudong. Réformes des institutions et crise du pouvoir dans le royaume khmer du xviie siècle, Paris: PUPS, 2009, tr. 339.

[45] Cheng Wei-chung, War, Trade and Piracy in the China Seas, 1622-1683, Leiden/Boston: Brill, 2013, tr. 220, cung cấp nhiều tài liệu thú vị về những liên hệ cũ giữa Piauwja VOC: "Although some Guangdong privateers/pirates had previously attempted to set up an alternative silk trade route from Vietnam, they failed because of the obstacles thrown in their path by Tonkin, the Ch'ing, and the Dutch. [...] One of the victims of the 1663-4 Dutch blockade of Tonkin was the Chinese privateer/pirate Piauwja who later had his revenge by playing an important role in the Chinese raid on the Dutch factory in Cambodia." (Mặc dầu một số hải phỉ Quảng Đông trước đây đã cố gắng tạo nên một mạng lưới buôn bán tơ lụa khác từ Việt Nam nhưng đã thất bại bị trở ngại vì các chính quyền Đàng Ngoài, nhà Thanh và người Hoà Lan […] Một trong số những nạn nhân của việc người Hoà Lan ngăn chặn năm 1663-4 là cướp biển người Hoa Piauwja là người sau này đã trả thù khi đóng một vai trò quan trọng của việc người Hoa cướp phá xưởng của người Hoà Lan tại Cambodia.”)

[46] Người ngoại quốc được định cư ở phía nam của cung điện, tại hải cảng hoàng gia, nơi đây họ sống trong từng khu tuỳ theo nguồn gốc của họ; cf. Mikaelian, La royauté d'Oudong, tr. 338.

[47] Xem Mak Phœn, "La deuxième intervention militaire vietnamienne au Cambodge (1673 1679)", Bulletin de I 'Ecole française d'Extréme-Orient (hereafter BEFEO), 77 (1988), tr. 233-235.

[48] H.P.N. Müller, De Oost-lndische Compagnie in Cambodja en Laos, Lindschoten-vereeniging XIJI, 'Gravenhage: M. Nijhoff, 1917, tr. 447; D.R. 29 Nov. 1667. Müller, Tlđd., tr. 410 ám chỉ cộng đồng người Hoa tại địa phương dưới quyền kiểm soát của một shahbandar tên là "Tiouponia". Để có thêm chi tiết, xem Cheng Wei-chung, War, Trade and Piracy in the China Seas, 1622-1683, tr. 220-222.

[49] Xem bên dưới về sự phát triển của Ph Hiến ở chương Il.

[50] India Office Records, E/3/31, 29.12.1671, dẫn theo Claude Guillot, "Banten in 1678", Archipel 37 (1989), tr. 142.

[51] 1671 là năm lấy từ Mc th gia ph thực hiện năm 1818 by Vũ Thế Dinh nhưng trong Gia Định thông chí thì là năm 1680; xem Gaspardone, "Un Chinois des Mers du Sud", tr. 378 380. Hiện nay họ Mạc ở Lôi Châu theo con số thứ hai.

[52] Theo một số nguồn Âu châu thì Mạc Cửu đã đến Philippines và Batavia trước khi định cư ở Cambodia, sự kiện này không thấy ghi trong nguồn từ Á châu. Gaspardone, "Un Chinois des Mers du Sud", tr. 368. Gia phả họ Mạc (còn giữ tại quê quán năm 2012) ghi rằng Mạc Cửu (và con trai) dưới tên Thiệu Nguyên 紹原 nói rằng ông di cư sang An Nam và trở thành trấn thủ Hà Tiên (投居安南任河仙鎮侯) nhưng không nói lúc nào (bản 9). Họ Mạc gốc người Phúc Kiến, di cư sang bán đảo Lôi Châu đầu đời Nguyên. Xem thêm Lý Khánh Tân, Mạc Cửu dữ Hà Tiên chính quyền. Hải dương sử nghiên cứu / Studies of Maritime History, I (2010), tr. 171-216.

[53] D.R. 27/28 Feb. 1673 (tr. 50).

[54] D.R. 5 April 1673 (tr. 91).

[55] D.R. 31 Dec. 1674 (tr. 354); D.R. 31 Jan. 1675 (tr. 53).

[56] DR. 18 Feb. 1677 (tr. 19); 30 June 1678 (tr. 332); 13 July (tr. 41 1); 31 July 1679 (tr. 343).

[57] Năm 1680 theo D.R. ngày 31 Aug. (tr. 525) có ghi chép khoảng 100 người Trung Hoa từ Chương Châu và 50 người từ Macao.

[58] Trần Kinh Hoà. Thanh Sơ Trịnh Thành Công Tàn Bộ Chi Di Thực Nam Kỳ (thượng và hạ). Nam Á Học Báo 5/1 (1960), tr. 433-459; 8/2) (1968), tr. 418-485. Những nguồn này có nhiều mâu thuẫn không đồng nhất nhất là về ngày tháng di cư đến Quảng Nam.

[59] Trần Kinh Hoà. Thanh Sơ Trịnh Thành Công Tàn Bộ Chi Di Thực Nam Kỳ (thượng), tr. 451-454.

[60] Năm sinh của Trần Thượng Xuyên theo Trần Tế Hoa (biên tập) An Nam Vương Trần Thượng Xuyên 安南王陳上川 (Tương Giang: Trung Hoa Nhân Dân xbx, 2012), tr. 17, và Lý Khánh Tân trong “Thập Thất Thế Kỷ Hạ Bán Điệp Bắc Bộ Loan Trung Quốc Mạo Hiểm Gia” 十七世紀下半葉北部灣中國冒險家 và Trần Tế Hoa (bt.), tlđd. tr. 132, cả hai đều dùng gia phả họ Trần tại thôn Điền Đầu, đảo Nam Tam tại Trạm Giang.

[61] Đây là tài liệu của họ Dương tại làng Đông Pha, tuy còn một ngôi từ đường nhỏ ở đây nhưng gia phả thì không còn nên không có gì xác minh chuyện này. Lý Khánh Tân trong “Thập Thất Thế Kỷ Hạ Bán Điệp Bắc Bộ Loan Trung Quốc Mạo Hiểm Gia”, tr. 131, là ý kiến có lẽ của một người dân ở Khâm Châu, Quảng Tây.

[62] Xem Paola Calanca, "Aspects spécifiques de la piraterie à Hainan sous les Ming et le début des Qing", trong C. Salmon & R. Ptak (bt.), Hainan. De la Chine à I 'Asie du Sud-Est, Von China nach Südostasien, Wiesbaden: Harrassowitz Verlag, 2001 , tr. 124-125.

[63] Anh của Trần Thượng Xuyên, Trần Đình Xuyên là một thương nhân ở Hải Nam theo Lý Khánh Tân trong “Thập Thất Thế Kỷ Hạ Bán Điệp Bắc Bộ Loan Trung Quốc Mạo Hiểm Gia”, tr. 133.

[64] Trần Tế Hoa (biên tập) An Nam Vương Trần Thượng Xuyên, tr. 227.

[65] Muốn có thêm chi tiết, xem Lý Khánh Tân trong “Thập Thất Thế Kỷ Hạ Bán Điệp Bắc Bộ Loan Trung Quốc Mạo Hiểm Gia”, tr. 126-127.

[66] Hứa Văn Đường 許文堂, Tạ Kỳ Ý 謝奇懿, Đại Nam Thực Lục Thanh Việt Quan Hệ Vựng Biên 大南實錄清越關係史料彙編 q. 7, tr. 3.

[67] Yoneo Ishii (bt.), The Junk Trade from Southeast Asia. Bản dịch của Tösen Fusetsu-gaki, 1674-1723, Data Paper Series; Sources for the Economic History of Southeast Asia, NO 6, Singapore: ISEAS Press & Canberra: Research School of Pacific Studies, ANU, 1998, tr. 30.

[68] Trần Kinh Hoà. Thanh Sơ Trịnh Thành Công Tàn Bộ Chi Di Thực Nam Kỳ (thượng), tr. 453. Việc các người nhà Minh di cư sang Xiêm La rất ít ghi chép trong sử Xiêm, xem Sarasin Viraphol, Tribute and Profit: Sino-Siamese Trade, 1652-1853, Cambridge, Massachusetts and London, England: Harvard University Press, 1977, tr. 40

[69] Cù Lao Phố là một cái cồn trên sông Đồng Nai hiện nay là trung tâm của thành phố Biên Hoà. Còn biết dưới nhiều tên khác như Giản Phố, Nông Nại, Đại Phố, Cù Châu …

[70] Trần Ngang trước đây phụ tá cho đề đốc Thi Lang trong chiến dịch đánh họ Trịnh theo Giang Nhật Thăng, Đài Loan Ngoại Ký, Phúc Châu: Phúc Kiến Nhân Dân xbx, 1983, tr. 319. Tiểu sử Trần Ngang trong Lý Hoàn: Quốc Triều Kỳ Hiến Loại Trưng 國朝耆獻類徵, q. 273, (1884, tr. 28a-29a).

[71] Trần Luân Quýnh 陳倫炯, Hải Quốc Văn Kiến Lục 海國聞見錄, Khang Hi 60 (1720), Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục, 1991, tr. 2.

[72] Nederlandsch-lndisch Plakaatboek, 1602-1811, biên tập bởi J.A. van der Chijs, vol. 3, tr. 292; de Vienne, Les Chinois en Insulinde, tr. 284.

[73] Xem W.H. Moreland, "The Shahbandar in the Eastern Seas", Journal of the Royal Asiatic Society, 52: 4 (Oct. 1920), tr. 517-533; về phê bình bài của Moreland, xem C.O. Blagden, "Shahbandar and Bendahara", Op. Cit., 53: 2 (April 1921), tr. 246-248; P. Purbatjaraka, "Shahbandar in the Archipelago", Journal of Southeast Asian History, 2: 2 (July 1961), tr. 1-9.

[74] Xem Claude Guillot, Lukman Nurhakim, Claudine Salmon, "Les sucriers chinois de Kelapadua, Banten", Archipel 39 (1990), tr. 139-157 ; Claudine Salmon, "Le cimetière chinois de Kasunyatan à Banten Lama (fin du XVIle - début XVIlle s.)", Archipel 50 (1995), tr. 41-66.

[75] Về điểm này xem Yang Baoyun, Contribution à I'histoire de la principauté des Nguyn au Vietnam méridional (1600-1775), Genève: Olizane, Études Orientales, 1992, tr. 159-162.

[76] Xem Iwao Seiichi (Nham Sinh Thành Nhất 岩生成一), Nanyö Nihon machi no kenkyü Tökyö: Minami Ajia bunka kenkyüjo, Shöwa 15 (1940), tr. 35 and 39, chú thích 9 dẫn một tài liệu của Hoà Lan tại Batavia: Declaratie vande gelegentheijt des Quinamsen rijcx door seekeren Japander genaempt Francisco... der 28en May anno 1642 [Kol. Archief 1049].

[77] Chữ dùng trên tấm biển này là một loại dị thể của chữ chức , cũng thấy trong các bi ký khác ở chùa Quảng Yên viết năm 1680 bởi Ngô Uông Dần, người Đồng Thành (tên khác của Tấn Giang, Tuyền Châu, Phúc Kiến) nay giữ trong Bảo tàng Lịch Sử Hội An. Về tước hiệu Quan Đế, xem Gunter Diesinger, Vom General zum Gott. Kuan Yü (gest. 220 n. Chr.) und seine "posthume Karriere Heidelberger Schriften zur Ostasienkunde, 4, Frankfurt/Main: Haag und Herchen, 1984, tr. 184.

[78] Xem Salmon, "Réfugiés Ming dans les Mers du Sud vus à travers diverses inscriptions (cm 165ma. 1730)", tr. 181.

[79] Năm 1826, do một dụ chỉ của vua Minh Mạng thì chữ Hương (có nghĩa là thơm) trong Minh hương 明香 phải đổi ra hương (có nghĩa là làng). Xem Chen Chingho A, Historical Notes on Hội-An (Faifo), tr. 36-37 và biên khảo trước của ông Quan Ư Minh Hương Đích Kỷ Cá Vấn Đề 關於明鄉的幾個問題 và của Bao Đạo Bành 包導彭 (bt) Minh Sử Luận Tùng Chi Thất. Minh Đại Quốc Tế Quan Hệ 明史論叢之七。明代國際關係。Taibei: Taiwan xuesheng shuju, Minguo 57 (1968), tr. 147.

[80] Chingho A. Chen, Historical Notes on Hội-An (Faifo), tr. 122, 155-157; Salmon, "Réfugiés Ming dans les Mers du Sud vus à travers diverses inscriptions (ca. 1650-ca. 1730)" , tr. 186.

[81] Đại Sán, Hải Ngoại Kỷ Sự, tr. 80. Dịch ra tiếng Anh bởi Chingho A. Chen, Historical Notes on Hội-An (Faifo), tr. 16-17.

[82] William Dampier, A Supplement of the Voyage Round the World: Voyages and Descriptions, Vol. Il, tái bản, London: James Knapton, 1700, tr. 7-8.

[83] Quinam hay Quảng Nam tiếng Việt, và Guangnan tiếng Hoa. Muốn biết thêm xem Li Tana, Nguyén Cochinchina. Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries, Ithaca, New York: Cornell University, 1998, tr. 173-175.

[84] Xem Trần Kinh Hoà, Chu Thuấn Thuỷ An Nam Cung Dịch Kỷ Sự Tiên Chú 朱舜水安南供役紀事箋注, Trung Quốc Văn Hoá Quí San, I (1968), tr. 212-213.

[85] Xem Yang Baoyun, Contribution à I 'histoire de la principauté des Nguyen, tr. 77, quoting Lê Quí Đôn 黎貴惇, Phủ Biên Tạp Lục 撫邊雜錄, Saigon: Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hoá, 1972, 1, q. 3.

[86] Chingho A. Chen, Historical Notes on Hội-An (Faifo), tr. 158-159. Nghĩa địa trước đây nằm trong thành phố đã bị dỡ bỏ, ngoại trừ ngôi mộ của Khổng Thiên Như vẫn còn ở làng Cẩm Phố. Một số các bia mộ đã dời về phía bắc của thành phố không xa ngôi chùa Chúc Thánh, làng Thanh Hà. Tuy nhiên vì chôn quá sâu nên chỉ đọc được một phần.

[87] Xem Yang Baoyun, Contribution à I 'histoire de la principauté des Nguyên, tr. 77.

[88] Theo P. Poivre thì trong thế kỷ XVIII tại các hải cảng chính trong vương quốc thì vai trò này vẫn còn nằm trong tay những người gốc Hoa; dẫn theo Léopold Cadière, "Quelques figures de la cour de V6 Vuong : le chef du bureau des navires", Bulletin des amis du vieux Hué, 5: 4 (1918), tr. 278-293.

[89] Trần Kinh Hoà, Historical Notes on Hội-An (Faifo), tr. 48, giải thích chức vụ này là “So sánh với các trường hợp tương tự trong Đại Nam Thực Lục Tiền Biên hay Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên thì Nội Viện là chức vụ chúa Nguyễn ban cho những người Trung Hoa có đóng góp về kinh tế hay tài chánh cho triều đình. Do đó chức vụ Nội Viện có thể coi như cố vấn hay tham mưu cho triều Nguyễn”.

[90] Trần Kinh Hoà Historical Notes on Hội-An (Faifo), tr. 46-47, đã tìm ra rằng em trai của Khổng Thiên Như là hải thương Khổng Thiên Nghi rời Quảng Nam năm 1689 trong vai thuyền trưởng cùng khoảng 60 thương nhân khác và đến Nagasaki năm 1690 sau khi ghé qua Ninh Ba, Chiết Giang.

[91] Dẫn từ Trần Kinh Hoà, Historical Notes on Hội-An (Faifo), tr. 121, 156-157.

[92] Ngôi đền bị phá huỷ vào một thời điểm không rõ rệt.

[93] Xem Yang Baoyun, Contribution à I 'histoire de la principauté des Nguyên, tr. 169-170.

[94] Xem vị trí chính xác của ngôi đền trên bản đồ do Gustave Dumoutier, "Les comptoirs hollandais de Phố Hiến ou Phố Khach pres de Hung Yén (Tonkin au XVIle s.)", Bulletin de géographie historique et descriptive, 2 (1895), appendix, được chụp lại ở đây (map 7: "Emplacement du temple de Lé Cong").

[95] Tràng An, nay là Tây An, Thiểm Tây là kinh đô của nhà Đường (618-907).

[96] Giovani Filippo de Marini, Relation nouvelle et curieuse du Royaume de Tunquin et de Lao, dịch từ tiếng Ý sang tiếng Pháp bởi François-Célestin Le Comte, Paris: Clouvier, 1666, tr. 58.

[97] Phan Đỉnh Khuê, An Nam Kỷ Du. (Tứ Khố Toàn Thư), 1996, tr. 151.

[98] Dẫn theo Thanh Thực Lục. Việt Nam, Miến Điện, Thái Quốc, Lão Qua Sử Liệu Trích Sao 清實錄,越南緬甸泰 國老撾史料摘抄,Côn Minh: Vân Nam nhân dân xbx 1985, tr. 4, mục 1661.5.3.

[99] D.R. 11 Dec. 1661 (tr. 468).

[100] Xem Fujiwara Riichirô, "Vietnamese Dynasties' Policies toward Chinese Immigrants", Acta Asiatica. Bulletin of the Institute of Eastern Culture, 18(1970), tr. 51-55; Cheng Wei-chung, War, Trade and Piracy in the China Seas, tr. 214.

[101] William Danipier, A Supplement of the Voyage Round the World: Voyages and Descriptions, tr. 15-16.

[102] Dampier, A Supplement of the Voyage Round the World: Voyages and Descriptions, tr. 15.

[103] Nara Shuichi, "The Power of the Chinese Merchants in the China Sea World", Tôhô 12 (Heisei 8) tr. 169-170 nói rằng việc buôn bán lụa và cả thợ dệt cũng đều là người Trung Hoa. "Việc buôn bán tơ lụa ở Đông Kinh nằm trong tay người Trung Hoa. Hoạt động tầm tang, mua bán cũng đều do người Trung Hoa cả. Trong việc buôn bán lụa với nhà vua và các đại quan, thương nhân Trung Hoa có ảnh hưởng nhiều hơn và có nhiều bạc hơn người Hoà Lan.” Xem thêm Hoang Anh Tuan, Silk for Silver: Dutch- Vietnamese Relations, 1637 1700, TANAP vol. 5, Leiden/Boston: Brill, 2007.

[104] D.R. 29 April 1664 (tr. 144). VOC toan tính nắm lấy cơ hội này để buôn bán với họ. Xem thêm Cheng Wei-chung, War, Trade and Piracy in the China Seas, 1622--1683, tr. 215.

[105] "Réfugiés Ming dans les Mers du Sud vus à travers diverses inscriptions (ca. 1650-ca. 1730) ", tr. 207, 210.

[106] Đông Đô là tên cũ của Hà Nội.

[107] Long phi Mậu Tí 龍飛戊子có thể là 1708 hay 1768 vì lư hương này đề năm 1784.

[108] Ngôi đền này bị phá huỷ năm 1885 trong một chiến dịch của người Pháp nhưng Dumoutier ("Les comptoirs hollandais de Phố Hiến ou Phố Khách pres de Hung Yên (Tonkin au XVIle s.)" đã chỉ ra ngôi đền trong bản đồ (Bản đồ 7). Tấm bia vẫn còn ở đó và rập bản nay lưu trữ trong Viện Hán Nôm (NO 26 892). Xem bản chép lại trong Phụ Lục Il.

[109] Abbé Presvot, Histoire générale des voyages, 20 vol, Paris: Didot, 1746-1789, v. I X, tr. 95. Tấm bản đồ được in lại trong Charles-B. Maybon, Histoire moderne du pays d 'Annam (1592-1820), Paris: Plon, 1919, giữa trang 404 405. Cái tên Lai Triều Vạn thì đã không còn dùng kể từ thế kỷ XIX, cũng không thể biết chính xác chỗ nào nhất là dòng chảy của sông Hồng đã thay đổi rất nhiều từ thế kỷ XVII. Tên vạn được dùng để chỉ những ngôi làng chài lưới nổi trên sông.

[110] Quoted from Chåu Hải, "Người Hoa Phố Hiến trong mối quan hệ với người Hoa các đô thị Việt Nam cùng thời kỳ", Phố Hiến – Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hải Hưng: Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Hưng, Hội khoa học lịch sử Việt Nam , Văn hoá Thông tin – Thể thao Hải Hưng, 1994, tr. 203.

[111] Xem bên dưới.

[112] Xem chẳng hạn như Sakurai Yumio Kitagawa Takako, "Hatien or Banteay Meas in the time of the Fall of Ayutthaya", trong Kennon Breazeale (bt.) From Japan to Arabia: Ayutthaya 's Maritime Relations with Asia, Bangkok: Foundation for the Promotion of Social Sciences and Humanities Textbooks Project, 1999, tr. 156.

[113] Nơi gọi là Banteay Meas, theo tiếng Cambodian có nghĩa là "Chiến luỹ vàng", đã được người Âu châu biết đến trong nhiều nguồn phiên âm như Ponthiamas, Pontiamas, Ponteamas(s), Pontiamasse, Pontaimas, Po-taimat, Pontiamo … Nó xuất hiện trong tài liệu Âu châu lần đầu tiên vào năm 1682 nhưng không dính líu gì đến Mạc Cửu; xem Mak Phoeun, Histoire du Cambodge de la fin du XVIe au début du XVIIIe, Paris: Presses de l' Ecole française d'Extréme-Orient, Monograph no 176, 1995, tr. 365.

[114] Cũng xem Charles B. Maybon, Histoire moderne du pays d 'Annam (1592-1820), Paris, tr. 122-123: Luc Mogenet, "Ponthiamas: Eden tropical et utopie libérale dans le Cambodge du XVIlle siècle", Péninsule, 61 : 2 (2010), tr. 51-58.

[115] Bản đồ này nay được lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Brazil, nhưng có thể truy cập trên mạng World Digital Library, khu vực Southeast Asia.

[116] Xem Pierre Lapie, Atlas universel de géographie ancienne et moderne, précédé d'un abrégé de géographie physique et historique, Paris: Eymery, Fruger et Cie, 1829. Xin cám ơn ông Gregory Mikaelian và Nasir Abdou-Carime về tham khảo này.

[117] Xem mục mở đầu, chú thích 7.

[118] Hoàng Triều Văn Hiến Thông Khảo 皇朝文獻通考q. 297 (ấn bản Đài Bắc: Đài Loan thư cục 1986, vol. 7, tr. 618 sq), Cảng Khẩu quốc, Cảng Khẩu, Cancar tiếng Âu châu là một tên gọi của Hà Tiên.

[119] Chúng ta sẽ thấy với Hamilton thì việc phục hồi Hà Tiên xảy ra sớm hơn.

[120] Ám chỉ thi xã mà Mạc Thiên Tứ lập ra có tên gọi Chiêu Anh Các 招英閣 là nơi thi nhân gặp mặt; Emile Gaspardone, Bibliographie annamite, Hanoi, Extrait du BEFEO, XXXIV (1935), tr. 1 19.

[121] Trần Kinh Hoà, "Mạc Thiên Tứ và Phraya Taksin", tr. 1549; Lý Khánh Tân, Mạc thị dữ Hà Tiên chính quyền (Cảng Khẩu Quốc) dữ kỳ đối ngoại quan hệ, tr. 9-15.

[122] Pierre Poivre, Voyage d'un philosophe, ou observations sur les mœurs et les arts des peuples d 'Afrique, de I 'Asie et de l'Amérique, Yverdon, 1768 (ấn bản 1794, tr. 67-73); Theo Gaspardone, "Un Chinois des Mers du Sud", tr. 307-308, là nơi lần đầu được trích dẫn.

[123] Tên của giám mục người Pháp Armand-François Lefèvre (chết 1760 Cambodia) và một giáo dân người Việt; dẫn theo Gaspardone, "Un Chinois des Mers du Sud", tr. 370.

[124] Trong nhật ký hành trình của Poivre đến Đàng Trong, ghi ngày 27 October 1749, cũng cung cấp một số thông tin về Hà Tiên nhưng nhấn mạnh là viết về Mạc Thiên Tứ (tuy không nói tên) mà ông ta ca ngợi là một người có tư cách được vua xứ Đàng Trong (tức chúa Nguyễn) kính trọng. Ông ta cũng thêm là hải cảng thường có các thuyền mành Đàng Trong ghé đến buôn bán gạo, sáp, ngà voi và các loại mặt hàng khác. Dẫn theo Gaspardone, "Un Chinois des Mers du Sud", tr. 369-370.

[125] Theo A New Account of the East Indies, được nhận định bởi Capt. Alexander Hamilton là người từng sống ở đây từ năm 1688 đến 1723 để buôn bán và du hành theo cả đường biển lẫn đường bộ tới hầy hết mọi quốc gia và các đảo có thể tới được, giữa mũi Vọng Giác (cape of Good Hope) và các đảo thuộc Nhật Bản. Edinburgh: John Mosman, 1727, II, tr. 196-198.

[126] Gaspardone, "Un Chinois des Mers du Sud", tr. 375, dẫn theo Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên.

[127] Gaspardone, Tlđd., tr. 376.

[128] Gaspardone, Tlđd., tr. 382.

[129] Gaspardone, Tlđd., tr. 376-377 dẫn theo Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên và Mc th gia ph 鄚氏家譜 của Vũ Thế Dinh 武世營.

[130] Chen Chingho, "Mac Thien Tu and Phraya Taksin", tr. 1541.

[131] Gaspardone, "Un Chinois des Mers du Sud", tr. 381.

[132] Mạc Thiên Tứ là một thi nhân nổi tiếng, một sưu tập thơ của ông và 31 nhà thơ khác ở Hà Tiên được Trần Kinh Hoà xuất bản: "Kasen teishi no bungaku katsudo, tokuni kasen jü ei ni tsuite (Các tác phẩm văn chương của họ Mạc, đặc biệt là Hà Tiên thp vnh 河仙十詠) Shigaku 40: 2-3 (1967), tr. 149-211. Về bản dịch sang tiếng Anh, xem Liam C. Kelley, "Thoughts on a Chinese Diaspora. The Case of the Macs of Hà Tiên", Crossroads: An Interdisciplinary Journal of Southeast Asian Studies, 14: I (2000), tr. 85, 86, 88.

[133] Dẫn theo Fanny Vieille-Blanchard, Les formes artistiques à Hà Tiên sous la principauté des Mc, de 1708 à 1809: Triomphe d'une Ville chinoise en Asie du Sud-Est, Paris: Mémoire de DEA de I'EPHE, 1999, 116 tr. +47 pl.

[134] Chen Chingho, "Mac Thien Tu and Phraya Taksin", tr. 1563.

[135] Mikaelian, La royauté d'Oudong, tr. 284-285, 345-347.

[136] Mikaelian, Tlđd., tr. 346.

[137] Mikaelian, Tlđd., tr. 348.

[138] Takeo Itasawa Orandafüsetsugaki no kenkyü, (A Study on the "Oranda Fusetsu-gaki"), Tökyo: Nihon Kobunka kenkyüjo, 1937, tr. 1 16-1 17, quoted from Chen Chingho, "Mac Thien Tu and Phraya Taksin", tr. 1535, 1569.

[139] Chen Chingho, "Mac Thien Tu and Phraya Taksin", tr. 1535.

[140] Yoneo Ishii (bt.), The Junk Trade from Southeast Asia. Translations from the Tösen Fusetsu-gaki, 1674-1723, tr. 30.

[141] Mikaelian, La royauté d 'Oudong, tr. 348-349.

[142] Trần Kinh Hoà, Thanh Sơ Trịnh Thành Công Tàn Bộ Chi Di Thực Nam Kỳ (thượng & hạ) 清初鄭成功殘部之移殖南圻 (,), tr. 428 và kế tiếp; Mikaelian, La royauté d'Oudong, tr. 348.

[143] Dampier, A Supplement ofthe Voyage Round the World, Vol. Il, tr. 105-107.

[144] Trần Kinh Hoà, Thanh Sơ Trịnh Thành Công Tàn Bộ Chi Di Thực Nam Kỳ (thượng & hạ) 清初鄭成功殘部之移殖南圻 (,), tr. 428 và kế tiếp; Mak Phœun, Histoire du Cambodge de la fin du XVIe au début du XVIIIe, tr. 367-381; - "La troisième intervention vietnamienne au Cambodge (1679-1688)", BEFEO, 92 (2005), tr. 339-381. Mikaelian, La royauté d'Oudong, tr. 347-348).

[145] Trần Kinh Hoà, Thanh Sơ Trịnh Thành Công Tàn Bộ Chi Di Thực Nam Kỳ (thượng & hạ) 清初鄭成功殘部之移殖南圻 (,), tr. 435-437.

[146] Câu này dẫn phần lớn theo Trần Kinh Hoà, Tlđd.

[147] Tuy nhiên, những người Trung Hoa sống ở Nhật Bản được phép đi sang Malacca; cf. Realia. Register op de generale resolutiën van het kasteel Batavia, 1632-18Q5, Leiden: Kolff & Nijhoff, 1882-1886, I., 1st April 1664, tr. 227.

[148] Trần Kinh Hoà, Thanh Sơ Hoa Bạc Chi Trường Kỳ Mậu Dịch Cập Kỳ Nhật Nam Hàng Vận 清初華舶之長崎貿易及其日南航運. Nam Dương Học Báo, XllI: I (1957), tr. 9-51.

[149] Froger, Relation du premier voyage des François à la Chine, tr. 26.

[150] Balthasar Bort, "Report on Malacca, 1678", M.J. Bremmer dịch, JMBRAS 5: I (1927), tr. 187-188.

[151] Bort, "Report on Malacca, 1678", tr. 188. Chúng ta biết được từ Dagh-Register rằng người Trung Hoa phục vụ cho sultan ở Banten đều mặc quần áo giống như quần áo của người đạo Thiên Chúa (Christen habyt) mà họ cho rằng dễ nhận diện. Đây là trường hợp của những thừa sai gửi sang Bengal năm 1671 (D.R. 20-21 July 1671, tr. 383). Tuy nhiên một số thuyền buồm thuộc họ Trịnh cũng đạ đến Malacca chẳng hạn như những wangkang do Trịnh Thành Công gửi đi năm 1683, dẫn theo Cheng Wei-chung, War, Trade and Piracy in the China seas, 1622-1683, tr. 172-173.

[152] Lý Thị Tộc Phả, tr. 33, 27, 37.

[153] Thật ra Thành Kim 成金 (1661-1724) là vợ của Kapitan Tăng Kỳ Lộc 曾其祿 (1643-1718) và bia của bà ta còn giữ trong Thanh Vân Đình cùng với của chồng và ngẫu tượng của họ.

[154] Franke 傅吾康 & Chen Tieh Fan 陳鐵凡 (bt.), 馬來西亞華文銘刻萃編 Chinese Epigraphic Materials in Malaysia. Kuala Lumpur: University of Malaya Press, 1982, I, tr. 369, và ở đây (bảng 16). Khu vực nghĩa địa Bukit Cina bị thu hẹp dưới thời Anh cai trị vì làm một con đường chung quanh ngọn đồi và ngôi mộ của Lý Vi Kinh và vợ hiện nay nằm ở khu vực nhà ở của Taman Laksama Cheng Ho (phía đông nam của nghĩa địa ngày nay).

[155] Hibino Takeo, "Malacca no Chinese Kapitan no keifu / Niên biểu của các Kapitans người Trung Hoa ở Malacca", Tônan Asia 6: 4 (1969), tr. 94.

[156] Hibino Takeo, "Malacca no Chinese Kapitan no keifu" tr. 91; theo tác giả, tr. 92-93, tấm bia của cha Trịnh Phương Dương (Trịnh Phương Thúc 1586-1645) và vợ Lã thị (chết 1681) cũng được táng tại Malacca và vì có ghi Cố Minh nên có lẽ cũng đến từ Phúc Kiến.

[157] Xem Trang Khâm Vĩnh 莊欽永 (David K.Y. Chng) 馬六甲華人加必丹新探 Mã Lục Giáp Hoa Nhân Gia Tất Đan Tân Thám , History of the Chinese in Singapore & Malacca: Some Notes, Singapore: The South Seas Society, 1990, tr. 7-9 để tìm một giải thích khác.

[158] Lý thị tộc phổ, tr. 6. Đây cũng là kết luận của David. K. Y. Chng, 馬六甲華人加必丹补遺 Mã Lục Giáp Hoa Nhân Gia Tất Đan Bổ Di (Chinese Kapitans in Malacca: A Supplementary Note)", Á Châu Văn Hoá / Asian Culture, 7 (1986), tr. 101.

[159] Bort, "Report on Malacca, 1678", JMBRAS, 5: I (1927), tr. 131.

[160] Theo Lý Thị Tộc Phổ, tr. 38, Chính Khôn chết trên biển.

[161] Lý Thị Tộc Phổ, tr. 6-7.

[162] Franke 傅吾康 & Chen Tieh Fan 陳鐵凡 (bt.), 馬來西亞華文銘刻萃編 Chinese Epigraphic Materials in Malaysia, l, tr. 223, có chép bài ai điếu Kapitan Lý Vi Kinh (đề năm [1685]), xem Phụ Lục l.

[163] Franke 傅吾康 & Chen Tieh Fan 陳鐵凡 (bt.), 馬來西亞華文銘刻萃編 Chinese Epigraphic Materials in Malaysia, I, pp. 228, 233—234, and tại Phụ Lục Il; C. S. Wong, A Gallery of Chinese Kapitans, Singapore: Dewan Bahasa dan Kedudayaan Kebangsaan, 1963, pp. 2—3. Nghĩa địa người Hoa này vẫn còn tồn tại là một trong những nghĩa địa người cổ nhất ở Đông Nam Á.

[164] Lý Thị Tộc Phổ, tr. 33; Hibino Takeo, "Malacca no Chinese Kapitan no keifu", tr. 766-767; Franke 傅吾康 & Chen Tieh Fan 陳鐵凡 (bt.), 馬來西亞華文銘刻萃編 Chinese Epigraphic Materials in Malaysia, I, tr. 230, nơi bài vị của Lý Chính Hào được phục chế. Từ đường ở tại Cảng Khẩu Thôn Khẩu Hạ Môn bị hư hại nhiều bởi người Nhật. Xem Tư Minh Văn Sử Tư Liệu, Chính Hiệp Hạ Môn Thị Tư Minh Khu Uỷ Viên Hội Biên vol. 5, Doanh Bình Phiến Khu. Tăng Thố Án Phiến Khu, Hạ Môn, tr. 137. Trong kỳ đến thăm Cảng Khẩu tháng November 2013, chúng tôi đã ngạc nhiên khi thấy một số người họ Lý chung tay xây lại từ đường mặc dù không biết gì về tổ tiên vì gia phả đã mất.

[165] Franke 傅吾康 & Chen Tieh Fan 陳鐵凡 (bt.), 馬來西亞華文銘刻萃編 Chinese Epigraphic Materials in Malaysia, I, tr. 228.

[166] Franke 傅吾康 & Chen Tieh Fan 陳鐵凡 (bt.), 馬來西亞華文銘刻萃編 Chinese Epigraphic Materials in Malaysia, I, tr. 228. Bản khắc đặt trong Thanh Vân Đình.

[167] Chẳng hạn như Từ Phù Viễn 徐孚远 (1599-1665) là người sau khi nhà Minh mất đã chạy sang Đài Loan đã tái lập Kỷ Xã đặt tên là Hải Ngoại Kỷ Xã 海外幾社 "Overseas Association of the Few."

[168] Bort, "Report on Malacca, 1678", tr. 39-44. Năm 1686 thuyền trưởng một chiếc thuyền mành từ Malacca có nói là số người Hoa khoảng 700 đến 800 người; dẫn theo Trần Kinh Hoà, Thanh Sơ Hoa Bạc Chi Trường Kỳ Mậu Dịch Cập Kỳ Nhật Nam Hàng Vận 清初華舶之長崎貿易及其日南航運. Nam Dương Học Báo, tr. 22; Purcell, The Chinese in Malaya, tr. 28-30.

[169] Franke 傅吾康 & Chen Tieh Fan 陳鐵凡 (bt.), 馬來西亞華文銘刻萃編 Chinese Epigraphic Materials in Malaysia, I, tr. 245, trong đó có chép bản khắc ghi nhớ việc tu sửa ngôi đền trên đó viết: Vu Long Phi Quí Sửu Tuế, Thuỷ Kiến Thử Đình. 于龍飛癸丑歲,始建此亭。

[170] Ngôi đền nay vẫn còn tại Đình Nhai, trên viết Quan Âm Đình Nhai 觀音亭街。 (Bản 18).

[171] Froger, Relation du premier voyage des François à la Chine fait en 1698, 1699 et 1700 sur le vaisseau L'Amphitrite, tr. 36-37.

[172] Dịch bản chú thích:

A.            Cột cao ở giữa đường trước ngôi đình nơi người Hoa thường treo cờ khi có lễ.

B.             Hai dãy bàn làm bằng gỗ tốt, trên bày hoa quả, bánh trái để cúng thần.

C.             Bàn trên để vàng mã để đốt.

D.            Bếp đốt vàng mã.

E.             Đèn.

F.             Bàn thờ trang trí loè loẹt.

G.            Ba nhà sư quì đọc kinh.

H.            Trống và chiêng đánh khi nhà sư tụng kinh với giọng rền rĩ.

L.             Mộ bang trưởng người Hoa.

M.           Chùa sư nữ.

[173] Anthony Reid & Ito Takeshi, "A Precious Dutch Map of Aceh, c. 1645", Archipel 57 (1999), tr. 198, dẫn theo nguồn Hoà Lan.

[174] Như trên.

[175] Froger, Relation du premier voyage des Francois à la Chine fait en 1698, 1699 et 1700 sur le vaisseau L'Amphitrite, tr. 36-37. Trương Nhiếp 張燮, Đông Tây Dương Khảo 東西洋. Tạ Phương 謝方 (bt.), Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục, 1981, tr. 73 cũng đã đề cập đến việc có một ngôi đền Trung Hoa ở trên một hòn đảo nhỏ tên là Gia Dữ 椰嶼 ngoài khơi Banda Aceh. Những kiến trúc này niên đại cuối thế kỷ XIX.

[176] Dampier, A Supplement ofthe Voyage Round the World, Vol. Il, tr. 136-137.

[177] Dampier, A Supplement of the Voyage Round the World, Vol. Il, tr. 136-137.

[178] Xem DR, 11 Dec. 1677 (tr. 447); DR, 21 March 1681 (tr. 193).

[179] Tomé Pires, The Suma Oriental, London: Hakluyt Society, 1944, I, tr. 170; Il, tr. 415. Tuy nhiên, Triệu Nhữ Quát 趙汝适 khi miêu tả hải cảng Sunda (Chau Ju-Kua, On The Chinese and Arab Trade in the Twelfth and Thirteenth Centuries, biên tập bởi Friedrich Hirth và W.W. Rockhill, Amsterdam: Oriental Press, 1966, tr. 70-71) cũng như những khai quật mới đây ở Banten Girang (Claude Guillot, Lukman Nurhakim và Sonny Wibisono, Banten avant I'Islam. Etude archéologique de Banten Girang [Java Indonésie] 932?-1526, Paris: Publications de l' Ecole française d' Extreme-Orient, NO 173, 1994) cho thấy người Trung Hoa đã tới Banten từ thế kỷ 12th-13th vì ở đây có trồng hồ tiêu.

[180] G.TR. Rouffaer & J.W. Yzerman (bt.), De Eerste Schipvaart der Nederlanders naar oost-Indiie onder C. de Houtman (1595-1597), Den Haag: Linschoten Vereeniging, Nijhoff, 1915 (3 vols.), I, tr. 108 và kế tiếp. Bản vẽ được sao lại trong W. Fruin-Mees, Geschiedenis van Java, Batavia: Commissie voor de volkslectuur, 1919-1920, vol. Il.

[181] Trương Nhiếp 張燮, Đông Tây Dương Khảo 東西洋. tr. 48.

[182] Sau đây là nguyên văn trong sách: The twentieth (January) being ashoare, I procured Lackmoy and Landching two Chinese Merchants, to translate the letter which the King of Firando in Japan had delivered mee to carry to our King lames; it was written in China character and language, they translated it into the Malayan which in English is as followeth. Samuel Purchas, Purchas his Pilgrimes. In five bookes. The first, contayning the voyages made by ancient kings, … and others, to and thorow the remoter parts of the knowne world, etc., London: In bởi William Stansby cho Henrie Fetherstone, 1625, I, book Ill, tr. 352 sqq.

[183] W. Foster (bt.), The Journal of John Jourdain, 1608-1617, London: Hakluyt Society, 1905, tr. 316 và sau đây: "And therefore he keepeth neere him two or three China slaves alias China turncoats beinge become mahometans."

[184] Xem Cortemünde, Dagbogfra en Ostindiefart 1672-75, tr. 134. Kiến trúc của ngôi đền ở Pecinan có niên đại 1923.

[185] Việc phát triển các đồn điền trồng mía ở Kelapadua, phía nam thành phố Banten có thể giải thích vì lý do là Pangeran Aria Ranamenggala đã quyết định đặt một lệnh cấm vận việc bán hồ tiêu cho VOC và ra lệnh nhổ các cây tiêu coi đó như nguồn gốc của xấu xa. (Xem Claude Guillot, Lukman Nurhakim, Claudine Salmon, "Les sucriers chinois de Kelapadua, Banten, Archipel 39, 1990, tr. 139-157). Chính sách này đã thay đổi nên từ 1626 thì việc xuất cảng hồ tiêu lại được thi hành; Xem C. Guillot, H. M. Ambary, and J. Dumarqay, The Sultanate of Banten, Jakarta: Gramedia Book Publishing Division, 1990, tr. 40-43.

[186] Rantoandro, "Kiyai Ngabehi Kaytsu de Banten, shahbandar de son état et 'passeur' occasionnel", tr. 258. Nguyên thuỷ của Kaytsu còn mù mờ. Dường như ông ta đã có thời gian sống tại Batavia và trở lại Banten đầu thập niên 1650s. Năm 1657 ông ta vẫn còn hoạt động trong ngành mua bán hồ tiêu.

[187] Rantoandro, Tlđd., tr. 258 dẫn từ D.R. 20 Nov. 1656 (tr. 15).

[188] Rantoandro, Tlđd., tr. 258-260.

[189] Rantoandro, Tlđd., tr. 261 dẫn từ India Office Records. Java 3, tr. Ill, 19/1 1/1666, và nhiều nguồn tài liệu VOC khác.

[190] Vì VOC phong toả hải cảng Banten trong thập niên 1650 nên thuyền của Trung Hoa phải chuyền hướng sang Batavia.

[191] Rantoandro, Tlđd., tr. 266.

[192] D.R. 25 March 1663 (tr. 93).

[193] D.R. 14 July 1663 (tr. 353).

[194] Rantoandro, Tlđd., tr. 269-270.

[195] D.R. 21 Feb. 1671 (tr. 263); 6 April 1671 (tr. 295); 21 June 1672 (tr. 160), 28-29 June 1672 (tr. 169).

[196] D.R. 10-19 April 1671 (tr. 297); D.R. 10 May 1674 (tr. 117). Nơi đây sản xuất nhiều gỗ tốt.

[197] D.R. 21 June 1672 (tr. 160); 28 1671 (tr. 287). Theo sau Hiệp ước 1677 với Mataram, VOC nhận được lợi tức từ các hải cảng ở phía bắc bờ biển Java và tiến hành việc xây dựng những chiến luỹ ở Rembang để kiểm soát việc cung cấp gỗ teak dùng vào việc đóng tàu.

[198] D.R. 13 March 1671 (tr. 273); 1st April 1671 (tr. 293).

[199] Những đề nghị từ trước đã được gửi đến các đại diện của VOC ở Quảng Nam, nhất là năm 1667 khi một chiếc thuyền từ Đài Loan xuống; theo D.R. 3 Dec. 1667 (tr. 255).

[200] D.R. 23 April 1671 (tr. 299).

[201] D.R. 10 June 1674 (tr. 158) , Claude Guillot, "Banten en 1678", Archipel 37 (1989), tr. 133; Rantoandro, Tlđd., tr. 268. Mộ của người Muslim ở Banten không có bia.

[202] Sultan Ageng trước đã chỉ định vợ goá của Kaytsu làm shahbandar (D.R. June 1674, tr. 158), một quyết định khiến cho ông sultan trẻ không bằng lòng nên đã ra lệnh tịch thu hàng hoá và cư sở của quả phụ này. (D.R. 14 Feb. 1676, tr. 14). Có lẽ Sultan Ageng chịu ảnh hưởng của người Trung Hoa tại Batavia nên năm 1666 đã chọn quả phụ người Bali của Siqua thay chồng làm Kapitan và bà này đảm trách công việc đến tận 1678; xem Hoetink, "Chineesche Officieren te Batavia onder de Compagnie", tr. 26.

[203] Guillot, "Un maitre d'oeuvre du XVIle siècle à Banten", tr. 450.

[204] F.H. van Naerssen, Th.G.Th. Pigeaud và TR. Voorhoeve, Danh mục của cảo bản Indonesian, phần 2. Tài liệu về Old Javanes'e Charters, Javanese, Malay và Balinese.Thư từ và tài liệu tiếng Indonesian, Copenhagen: The Royal Library, 1977, tr. 161-162, và Phụ lục Ill.

[205] Con dấu này được người Trung Hoa gọi là thư giản ấn 書簡印. Tại khu vực Ấn Độ Hoà Lan người Trung Hoa ít dùng dấu vì nhà cầm quyền Batavia thích chữ ký hơn khi xem những ký kết được công chứng vào thế kỷ XVII. Tuy nhiên có vẻ như người Hoa tại Malacca được phép dùng dấu như ta thấy tại các tài liệu địa phương.; Xem Geoff Wade, Some Sources for the Economic History of the Chinese in the Malay Archipelago 1780s-1820s, on-line: Wade-G-ASAA2004( I ).pdf

[206] Thư và bản dịch tại Phụ Lục III.

[207] D.R. 14 March 1667 (tr. 248).

[208] D.R. March 1670 (tr. 33)

[209] Guillot, "Un maitre d'oeuvre du XVIle siècle à Banten", tr. 451.

[210] India Office Records XXX, dẫn từ Guillot, "Un maitre duvre du XVIle siècle à Banten", tr. 452.

[211] Một hình vẽ tương tự có thể thấy tại Wouter Schouten, De Oost-lndische voyagie van W.S., Zutphen: Warburgerpers, 1676.

[212] Archives des Missions étrangères de Paris, vol. 135, P 209, dẫn theo Guillot, Tlđd., tr. 451.

[213] Glanius Mr., A new voyage to the East-Indies containing an account of several of those rich countries, and more particularly of the kingdom of Bantam : giving an exact relation of the extent of that monarch's dominions, the religion, manners and customs ofthe inhabitants, their commerce, and the product of the country, and likewise a faith/ill narrative the kingdom of Siam, of the isles ofJapan and Madagascar, and of several other parts, with such new discoveries as were never yet made bv any other traveler, London: In cho H. Rode, 1682, tr. 55-56.

[214] Cortemünde, Dagbog fra en Ostindiefart 1672-75, tr. 126. Nơi có tên Kelapadua xuất hiện trong các nguồn tiếng Anh, Đan Mạch và Hoà Lan. Ngoại trừ đề cập cũ nhất năm 1635 cho thấy vị sultan có mặt tại đây, các nguồn khác nói về thỏa hiệp buôn bán với thương nhân người Anh. Nay vẫn còn hai cái tên của Kelapadua: Kelapadua Lor and Kelapadua Kidul (Bản đồ 13).

[215] Một nơi tại làng Malangnengah nay vẫn còn biết dưới tên Klenteng, cho thấy quả thực có cái đền trước đây vì chữ klenteng (từ tiếng Hoa Quan Âm Đình) vẫn được dùng tại Java để chỉ bất cứ ngôi đền nào của người Tàu. Tiếc rằng dân địa phương không ai giải thích được. Xem. Guillot, Lukman, Salmon, "Les sucriers chinois de Kelapadua, Banten", tr. 145.

[216] Các tấm bia còn tồn tại chỉ đề năm theo can chi.

[217] Guillot, Lukman, Salmon, "Les sucriers chinois de Kelapadua, Banten", tr. 143-146.

[218] Cf. Salmon, "Le cimetière chinois de Kasunyatan à Banten Lama (fin du XVIle - début XV111e s.) ", tr. 41-66.

[219] D.R. Jan. 1672 (tr. 78-79); de Vienne, Les Chinois en Insulinde. tr. 125; Cheng WeiChung, War, Trade and Piracy in the China Seas, 1622-1683, tr. 234.

[220] D.R. 17 April 1679 (tr. 140). Vào tháng December cùng năm, một phái đoàn Mãn Châu đến Batavia với mục đích là đàm phán đển nhờ người Hoà Lan giúp đỡ trong việc chinh phục Đài Loan nhưng chẳng bao lâu họ thấy chính người Hoà Lan cũng đang có nhiều vấn đề tại Indonesia; Xem Wills, Pepper, Guns, & Parleys, The Dutch East India Company and China, 1662-1681, tr. 180.

[221] Xem Guillot, "Un maitre d'œuvre du XVIle siècle à Banten", tr. 455. Tirtayasa nằm khoảng 20 km phía đông bắc của Banten là nơi ở phụ của tiểu vương Sultan.

[222] Hoetink, "Chineesche Officieren te Batavia onder de Compagnie", tr. 101. Guillot, "Un maitre d'cuvre du XVIE siècle à Banten", tr. 455.

[223] Blussé, Strange Company. Chinese settlers, mestizo women and Dutch in VOC Batavia, tr. 79.

[224] Hứa Vân Tiều 許雲樵 (bt.), Khai Ba Lịch Đại Sử Ký 開吧歷代史記 Nam Dương học báo / Journal ofthe South Seas Society, IX I (1953), tr. 22-63. Một bản dịch tiếng Hoà Lan, xem W.H. Medhurst, "Chronologische geschiedenis van Batavia, geschreven door een Chinees", Tijdschrift voor Nederland's Indie, 3: Il (1840), tr. I-1 13.

[225] Johannes Huber, "Chinese Settlers against the Dutch East India Company: The rebellion led by Kuo Huai-l on Taiwan in 1652", in E.B. Vermeer (bt.), Development and Decline of Fukien Province in the 17th and 18th Centuries, Leiden: E.J. Brill, 1990, tr. 265-296; tác giả ám chỉ rằng Trịnh Thành Công có liên quan đến đám giặc này.

[226] Wills, Pepper, Guns, & Parleys, The Dutch East India Company and China, 1662-1681, tr. 24.

[227] Wills, Tlđd., tr. 24.

[228] Bingam đến Batavia năm 1621 và Siqua năm 1626; xem Hoetink, "Chineesche Officieren te Batavia onder de Compagnie", tr. 21, 26.

[229] D.R. 18 Feb. 1656 (tr. 100-101).

[230] Năm 1655 Trịnh Thành Công đã gửi một lá thư về mục đích này cho nhà cầm quyền tại Đài Loan, xem Hồ Nguyệt Hàm 胡月涵 (Johannes Huber), Ngô Mai 吳枚 (phiên dịch), Thập Thất Thế Kỷ Ngũ Thập Niên Đại Trịnh Thành Công Dữ Hà Lan Đông Ấn Độ Công Ty Vãng Lai Đích Hàm Kiện 十七世紀五十年代鄭成功與荷蘭東印度公司往來的函件trong Trịnh Thành Công Nghiên Cứu Quốc Tế Học Thuật Hội Luận Văn Tập 鄭成功硏究國際學術會論文集. Nam Xương: Nhân Dân xbx, 1989, tr. 310-311.

[231] Xem Rev. W.M. Campbell, Formosa under the Dutch, described from contemporary records (in lần đầu 1903), In lại, Taipei: Ch'eng-wen Publishing Company, 1967, tr. 388 389.

[232] Khi qua đời năm 1663, ông vẫn còn nợ Công ty một món tiền lớn, xem Hoetink, "Chineesche Officieren te Batavia onder de Compagnie", tr. 22.

[233] Xem Roderich Ptak, "Zur Befreiung Taiwans vom holländischen Joch: Die Vertreibung der Niederländer durch Zheng Chenggong vor 300 Jahren", Saeculum, 62: l, 2012, tr. 113-134.

[234] De Vienne, Les Chinois en Insulinde, tr. 261 dẫn bởi D.R. 20 Januray 1673 (tr. 16).

[235] Xem DR, 22 May 1676 (tr. 100).

[236] D.R. 29 Dec. 1679 (tr. 620). Rất đáng ngạc nhiên là Khai Ba Lịch Đại Sử Ký lại không ghi chép việc phái đoàn nhà Thanh đến và càng lạ hơn năm 1680 lại bị mất.

[237] D.R. 29 Dec. 1679 (tr. 224-225).

[238] D.R. 29 Dec. 1679 (tr. 627-628). Theo D.R. 8 May 1680 214), Tengelouw là một hải thương mà thuyền thường xuyên đến Trung Hoa và Nhật Bản.

[239] John E. Wills, Jr., "Ch'ing Relations with the Dutch, 1662-1690)", torng John K. Fairbank (bt.), The Chinese World Order, Cambridge, Massachusetts: Harvard University Press, 1968, tr. 247.

[240] Xem Liêu Triệu Hanh 廖肇亨trong Trường Đảo Quái Mạt, Trung Nghĩa Uyên Tẩu, Bích Thuỷ Trường Lưu: Minh Thanh Hải Dương Thi Học Trung Đích Thế Giới Trật Tự 長島怪沫,忠義淵藪,碧水長流:明清海洋詩學中的世界秩序, Trung Ương Văn Triết Nghiên Cứu Quí San 32 (2008, March), tr. 41-71; giống như Ẩn Nguyên Thiền Sư Thi Ca Trung Đích Lưỡng Chủng Thanh Âm: Dĩ Vãn Niên Thi Tác Vi Trung Tâm 隐元禪師詩歌中的兩種聲音:以晚年詩作為中心 trong Diệp Quốc Lương 葉國良, Trần Minh Tư 陳明姿 (biên tập) Nhật Bản Hán Học Nghiên Cứu Tục Thám: Văn Học Thiên 日本漢學硏究續探:文學篇. Đài Bắc: Đài Loan đại học xuất bản, 2005, tr. 157-186.

[241] Xem Wilt L. Idema, Wai-yee Li, Ellen Widmer (bt.), Trauma and Transcendence in Early Qing Literature, Harvard East Asian Monograph 250, Cambridge Massachusetts: Harvard University Press, 2006.

[242] Triển lãm tại Metropolitan Museum of Art, New York, về "The Art of Dissent in 17th Century-China. Masterpieces of Ming Loyalist Art from the Chih Lo Lou Collection" (September 7, 2011-January 2, 2012).

[243] Xem Ralph C. Croizier, Koxinga and Chinese Nationalism. History, Myth, and Hero, Cambridge, Massachusetts, and London, England: Harvard University Press, 1977.

[244] Xem bản dịch tiếng Anh của Donald Keene, The Battles of Koxinga, Chikamatsu's Puppet Play, Its Background and Importance, Cambridge: Cambridge Oriental Series, 1951.

[245] Kim Vũ Chương 金宇璋. Trịnh Thành Công, Dân Tộc Anh Hùng Cố Sự 鄭成功,民族英雄故事 Hong Kong: Thương Vụ Ấn Thư Quán, 1958.

[246] Quách Mạt Nhược 郭沫若. Trịnh Thành Công, điện ảnh văn học kịch bản 鄭成功,電影文學劇本. Shanghai: Wenyi chubanshe, 1979.

[247] Tô Thượng Hào 蘇上豪, Quốc Tính Gia Đích Bảo Tàng 國姓家的寶藏"Koxinga's Treasure' , Đài Bắc: Thời Báo Văn Hoá xbx, 2012.

[248] Năm chết đúng của Trần Thượng Xuyên là 1715 được ghi nhận bởi các nguồn Trung Hoa và Việt Nam nhưng hiện nay một số tài liệu Hoa Việt đã ghi nhầm là 1720.

[249] Xem chương II, tr. 47 ở đó nói rằng Hoàng Tiến đã dựng lên một bức luỹ tại một cái cồn nhỏ trong vùng châu thổ sôn Bassac để chặn thuyền đi vào.

[250] Trịnh Hoài Đức 鄭懷德, Cấn Trai Thi Tập 艮齋詩集, Thối Thực Truy Biên Tập 退食追編集. Trần Kinh Hoà (bt.) Xianggang: Dongnanya yanjiu chuankan zhiyi, 1962, tr. 35-36.

[251] Xem Trần Kinh Hoà, Thanh Sơ Trịnh Thành Công Tàn Bộ Chi Di Thực Nam Kỳ (hạ) 清初鄭成功殘部之移殖南圻 (), tr. 468-469.

[252] See Mak Phœn, Histoire du Cambodge de la fin du XVle siècle au début du XVIIIe, tr. 383-384.

[253] Hiệp hội này nằm tại đường Trần Hưng đạo số 360, Chợ Lớn, quận 5. Xem Li Tana & Nguyễn Cẩm Thúy (chủ biên), Bia Chữ Hán trong Hội Quán người Hoa tại tp HCM. Hanoi: Nxb Khoa Hoc Xã Hội, 1999, tr. 459.

[254] Lý Khánh Tân, Mạc thị dữ Hà Tiên chính quyền (Cảng Khẩu Quốc), tr. 214-215 dẫn theo Trần Kinh Hoà, Hà Tiên trấn diệp trấn Mạc thị gia phả.

[255] Khắc trên bia ghi là Mộ Quyên Bản Từ Tiểu Dẫn, dẫn theo Lý Khánh Tân, Mạc Cửu, Mạc Thiên Tứ dữ Hà Tiên chính quyền (Cảng Khẩu quốc), tr. 187.

[256] Dẫn theo Lý Khánh Tân, Mạc Cửu dữ Hà Tiên chính quyền (Cảng Khẩu quốc), tr. 214-216 chép gia phả họ Mạc và một tấm hình ngôi đền cùng nhiều biển gỗ.

[257] Tấm hình và chữ khắc là bản sao lại từ Franke & Chen Tieh Fan (bt.), Chinese Epigraphic Materials in Malaysia, I, tr. 225.

[258] Sau khi Malacca thuộc quyền người Anh năm 1795 thì không còn chỉ định kapitan nữa. Người dân bầu ra một đình chủ hay thủ lãnh Thanh Vân Đình.

[259] Franke & Chen Tieh Fan (bt.), Chinese Epigraphic Materials in Malaysia, I, tr. 245, 247-249.

[260] C.S. Wong, C.S., A Gallery of Chinese Kapitans, tr. 8; Franke & Chen Tieh Fan (bt.), Chinese Epigraphic Materials in Malaysia, I, tr. 227-228.

[261] Pierre Poivre, Voyage d'un philosophe, ou observations sur les mœurs et les arts des peuples d 'Afrique, de I 'Asie et de I 'Amérique, Yverdon, 1768, tr. 13.

[262] Pierre Poivre, Travels of a Philosopher or Observations of the manners and arts of various nations in Africa and Asia, from the French, Glasgow: Robert Uri, 1770, tr. 98. Một ấn bản sớn hơn in năm 1769.

[263] Một bản tiếng Đức nhan đề Reisen eines Philosophen Oder Bemerkungen über die Sitten und Künste der Völker in Africa, Asien und America tại Leipzig năm 1769.

[264] Jean Castilhon, Anecdotes chinoises, japonaises, siamoises, tonquinoises, etc., Paris: Vincent, 1774, tr. 726-727.

[265] Luc Mogenet, "Ponthiamas: Eden tropical et utopie libérale dans le Cambodge du XVIlle siècle. Présentation de textes oubliés", Péninsule, 61: 2 (2010), tr. 51.

[266] Philadelphia: Thành phố Mỹ nơi Hiệp Chủng Quốc tuyên bố độc lập năm 1776.

[267] Saint-Lambert, Jean-Franqois (de), "De la raison ou Ponthiamas", in Œuvres philosophiques, t. I, Paris: Agasse, an V de la République (1797), tr. 268-348. Nghiên cứu về Saint-Lambert, xem Roger Poirier, Jean-Francois de Saint-Lambert, 1716-1803, sa vie, son œuvre, Sarguemines: Pierron, 2001 trong đó có tóm tắt chủ nghĩa không tưởng (tr. 287-292); xem thêmD. W. Smith, "Nouveaux regards sur la breve rencontre entre Mme Du Châtelet et Saint-Lambert", trong Terry Pratt David McCallam (bt.), The Enterprise of Enlightenment. A Tribute to David Williams from his friends, Oxford, Berne, etc.: Peter Lang, 2004, tr. 329-343; Mogenet, "Ponthiamas: Éden tropical et utopie libérale dans le Cambodge du XVIlle siècle", tr. 64-87.

[268] Jonathan I. Israel, Democratic Enlightenment, Oxford University Press, 2012, tr. 421.

[269] Xem Peter Jimack (bt.), A History of the Two Indies. A Translated Selection of Writing from Raynal's L'Histoire philosophique et politique des établissements et du commerce des Européens dans les deux Indes, Aldershot: Ashgate, 2006, tr. 47-52.

[270] Saint-Lambert (de), "De la raison ou Ponthiamas", tr. 265-267.

[271] Ms 8455. The text (in 20x24 cms) is 105 page long.

[272] Pilar Nieva de la Paz, "El arte cultivar la razón o descripción del establecimiento de la colonia de Ponthiamas: un texto utópico traducido del francés en el siglio XVIII", in Literatura utópica Siglo XVIII, Madrid: Universidad Complutense, 1990, tr. 79-94 http://digital.csic.es/handle/10261/12639/1/20090407091858291. pdf

[273] Rainer Klump, "The Kingdom of Ponthiamas - a physiocratic model state in Indochina : a note on the international exchange of economic thought and concepts for economic reforms in the 18th century" , in Ingo Barens, Volker Caspari, Bertram Schefold (bt.), Political Events and Economic Ideas, Northampton (USA): Edward Elgar Publishing, Inc., 2004, tr. 173-186.

[274] Xem The Rev. Yeh Hua Fen, "The Chinese of Malacca", trong Historical Guide of Malacca, Malacca: Malacca Historical Society, 1936, tr. 73-83; C.S. Wong, A Gallery of Chinese Kapitans, tr. 2-3; Hoàng Tồn Sân 黄存燊(nhóm) Trương Thanh Giang 張清江 (biên tập). Tân Mã Hoa Nhân Gia Tất Đan 新馬華人加必丹Xinjiapo: Yazhou yanjiu xuehui, 2006, tr. 22.

[275] Xem Trịnh Lương Thụ 鄭良樹. Tân Mã Hoa Tộc Sử Liệu Văn Hiến Vựng Mục 新馬華族史料文獻彙目 / Classified Bibliography of Chinese Historical Materials in Malaysia and Singapore, Singapore: Nanyang xuehui, 1984; và Mã Lai Tây Á, Tân Gia Ba, Hoa Nhân Văn Hoá Sử Luận Tùng 馬來西亞新加坡華人文化史論叢/ Chinese Culture in Malaysia and Singapore, 2 vol., Singapore: South Seas Society Monograph No. 24, 1986.

[276] Trịnh Lương Thụ, Thanh Vân dữ Thạch Lặc 青雲與石叻, Johor: Nam Phương Học Viện Văn Nghệ Tùng Thư, đệ Nhị tập, 2000, tr. 8-1 12; Thạch Lặc là phiên âm tiếng Mã Lai selat nghĩa là eo biển (Strait).

[277] Tác giả của bài điếu văn này vinh danh Tăng Kỳ Lộc (1706) thú nhận rằng ông không biết nhiều về thời kỳ ông này ở Hạ Môn; xem Franke & Chen Tieh Fan (bt.), Chinese Epigraphic Materials in Malaysia, l, tr. 228-230.

[278] Hibino Takeo, "Malacca no Chinese Kapitan no keifu", tr. 39 khi ghi lại bia mộ của Lý Vi Kinh đọc tên theo phổ hệ thì người con thứ đã không biết phải đọc là Triệu Thành 肇城 vì trong Lý Thị Tộc Phổ (tr. 38) lại viết là 肇城 và tên của ông ta là Chính Hào 正壕 và người con cả là Chính Khôn 正坤 (chết năm 1681), tên hiệu là Triệu Thần 肇臣nên tên 肇城 có thể viết nhầm.

[279] Xem Diệp Đài Ngân 葉苔痕, Mã Lục Giáp Gia Tất Đan Lý Quân Thường Dữ Thanh Vân Đình 馬六甲加必丹李君常與青雲亭. Tân Xã Tập San, 4: 4 (Dec. 1974), tr. 22. Xem bản sao trong C.S. Wong, A Gallery of Chinese Kapitans, hình I

[280] Lý Khánh Tân, Mạc Cửu dữ Hà Tiên chính quyền, tr. 180.

[281] Xem Ôn Quảng Nghi 温廣義 (chủ biên) Hoa Kiều Danh Nhân Truyện – Quảng Đông Tịch 華僑名人傳-鄺東籍Quảng châu: Quảng Đông nhân dân xbx, 1988, tr. 1-17; Chu Nam Kinh 周南京(chủ biên). Hoa Kiều Hoa Nhân Bách Khoa Toàn Thư – Nhân Vật Quyển 華僑華人百科全書. Bắc Kinh: Trung Quốc Hoa kiều xbx, 2001, tr. 418.

[282] Văn bản ám chỉ nhiều nguồn Hán-Việt và Hoa văn, kể cả "World History" biên tập bởi Chu Nhất Lương 周一良 có trước Cách Mạng Văn Hoá.

[283] Trong thập niên 1980s, các sử gia địa phương đã xuất bản tiểu sử Trần Thượng Xuyên. Xem Ôn Quảng Nghi 温廣義 (chủ biên) Hoa Kiều Danh Nhân Truyện – Quảng Đông Tịch 華僑名人傳-鄺東籍, tr. 17-24.