Phế tích của ảo ảnh, nhan đề một tập
thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại
Hoa Kỳ. Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không
biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều
gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh”
khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ
lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức.
Nhìn
từ nội dung tập thơ, “Phế tích” khơi gợi hình ảnh đầy xô lệch của quá khứ, những
chấn thương của tâm hồn. Và “Ảo ảnh” là cách gọi về những điều giống như thật,
hầu xoa dịu, với khát vọng vừa phủ nhận vừa lưu giữ. Và ai ngoài Thơ, lưu giữ,
giải mã những nghịch lý ấy?
Sự
nghịch lý trong nhan đề lại là một gợi mở cho tôi khám phá. Trong bài viết “Tại sao chúng ta làm thơ?”, Trịnh Y Thư
từng bộc lộ sự đồng ý của ông với câu nói của nữ sĩ Emily Dickinson “Hãy nói lên Sự Thật nhưng hãy
nói một cách nghiêng lệch.” Như thế hẳn tôi được hiểu ông dùng “Ảo ảnh”
để chỉ danh Sự Thật?
Chỉ
còn mớ ký ức thảm thương
làm hành trang cho những
chuyến hành hương tuyệt vọng.
Chuyến
hành hương dù ngắn hay dài theo muôn dặm đời người, chặng cuối là điểm
khởi đầu? Ý
tưởng này khiến tập thơ Phế tích của ảo ảnh
mang nhiều màu sắc triết lý, vừa vô vi của Lão Tử vừa vô thường của Phật Giáo.
Và là sức hút ở một người làm thơ đương đại như Trịnh Y Thư, ông dung hòa cả
hai phong cách tưởng như trái ngược nhau: Tinh hoa của cuồng nộ và kiệt xuất của
trầm tư cùng bộc lộ làm thơ Trịnh Y Thư xô vỡ những câu hỏi trực diện, và lặng
lẽ tỉnh thức với những trả lời. Tôi thích phong cách này.
CÔ
ĐƠN, MỘT PHẾ TÍCH LỪNG LỮNG TRONG CUỘC LỮ (Cho dù cô đơn cũng sẽ được hiểu là ảo
ảnh)
Rêu
phong mái ngói ngày tôi trở lại
đốm
chiều lập lòe ánh mắt
sâu ký ức mù đồng cỏ nương ngô
âm vang châu thổ
nghe như tiếng thở dài từ nghìn năm
bồi hồi dòng sông cạn.
Sau
những bước dài cuộc viễn du
chặng cuối là điểm khởi đầu
nhức nhối những bào ảnh
bóng tối thê lương
ban mai hừng rỡ như mang dấu ấn tội đồ
phát vãng từ thần kỳ huyền sử.
(Phế tích của ảo ảnh/ 1)
Cái
khốc liệt trong cuộc mất mình của Trịnh Y Thư là luôn bị dội lại âm vang của
cuộc chiến trên quê hương mình, một cuộc chiến mà mỗi tên gọi là một vết sẹo
tang thương của bao phận người Việt Nam. Có một cái nhìn vừa khôi hài vừa chua
chát trong tang lễ người lính sau chiến tranh, tâm trạng bi hài ấy là phản ứng
sau bao lần bị sự thật và lý tưởng chà đạp:
Trong
trận địa ấy, Trịnh Y Thư đã xoay sở gần như trăm phương nghìn kế – … dầm
mình trong hồn nhiên, say sưa thư trang cồn tịch, đánh mất cả ảo ảnh, đuổi bắt trên một
trận đồ khốc liệt, có
bỏ chạy,
có gục ngã – giữa vây hãm muôn hình trạng của phế tích, mà chỉ một cái
quay đầu hay ngồi phệt dưới thềm nhà là trần gian hóa thạch,
như thể không viện lý do để dừng lại. Phải tiếp tục thôi cho dẫu trong hỗn độn
phế tích tua tủa gai, thứ quái thai ký ức mọc lên từ súng đạn không ngớt vang
tiếng nổ. Một thứ lịch sử như vết hằn dấu đinh trên thân thể tận thế của loài
người, và vì trong những tượng đài trí nhớ nó đã thuộc về vĩnh cửu, nên nó
không được quên, không được phép quên. […] Người con lịch sử khuôn mặt ngươi ở
đâu… bên dưới những nấm mồ oan khốc….
Tôi
cũng thử dầm mình trong hồn nhiên
bông núi bay về lả tả mái hiên nhà
đêm thư trang say sưa cồn tịch
hay ngất ngưởng đi giữa rừng sao.
[…]
Nhưng
tôi biết đấy chỉ là ảo ảnh
một trận mưa chẳng thể xóa nhòa ký ức
chẳng thể rũ bỏ quá khứ
như ném vào bãi phế thải
một món đồ hư hỏng dư thừa.
[…]
Khi
dòng sông cất tiếng hát tôi bỏ chạy
bên tai tôi trận bão lá tràn về
đuổi bắt trên một trận đồ khốc liệt
như thứ ngôn ngữ chiến tranh
đóng đinh vào tận thế.
(Phế tích của ảo ảnh/
1)
[…]
Chân
trần vượt qua bãi mộ
có
lúc bước chân tôi ngã gục
với
gai nhọn và cạm bẫy đợi chờ.
(Ẩm ướt)
[…]
cửa
mở nhưng tôi chỉ biết ngồi phệt
dưới
thềm nhà
uông
uông cơn ảo vọng
một
trần gian hóa thạch.
(Phế tích của ảo ảnh/ 6)
Trịnh
Y Thư đã mượn ảnh ảo hay ảo ảnh để đánh lừa cái phế tích mồn một kia, dưới ánh
nhìn của một người, luôn hình như, đứng giữa đời sống và mộng tưởng, chiêm
nghiệm sự tan biến cùng nhặt nhạnh vết tích của những điều đã xảy ra, dù ông
khẳng định, một quá khứ không thể rũ bỏ, một ký ức không thể xóa? Như bình minh
và hoàng hôn, không còn là khái niệm thời gian nữa mà là cường độ đo nhớ quên cái
không-thời-gian, dư chấn của bao lần thất lạc. […]
như một kẻ hành hương lạ thất lạc/ trong ngôi đền không có nổi một lư hương…
Thậm
chí tôi đánh mất cả ảo ảnh
như buổi chiều hôm hôn ám này
không nhớ bình minh
làm sao tôi hiểu được hoàng hôn
dù lịch sử trở về từ vĩnh cửu.
(Phế tích của ảo ảnh/ 1)
Tôi cũng mong một lần cho tất cả, Phía bên kia bờ vực/
một đàn chim nhạn bay…
đường bay nhẹ nhàng không lưu dấu, Chỉ còn sự cô độc/ ôi tôi yêu nó xiết
bao…
TỘI
ĐỒ TRONG TRẬN CHIẾN KÝ ỨC VÀ LÃNG QUÊN, VÀ NIỀM KHÁT KHAO TRÍ NHỚ
Ký
ức tôi đang rạn vữa
còn lại chỉ là sự lãng quên
dò dẫm bước đường về
trên muôn trùng bến lạ
canh cánh một tín điều mệt mỏi khôn kham.
[…]
Ký
ức như mộ phần người chết
hãy để nó vĩnh viễn nằm dưới đáy ngục sâu
đào lên chỉ thấy toàn hồn ma
và xương xẩu kinh người.
(Phế tích của ảo ảnh/ 2)
Nhà
thơ đang đi hành hương, một mình, nhặt nhạnh những mảnh phế tích ký ức, ghép cho
hoàn thiện bức tranh lãng quên của con người.
…
bất chợt một góc trời điêu hao thành lũy
giữa
muôn trùng cảnh lạ bến nước bủa giăng.
[…]
hiện
hữu những cơ ngơi ảo hoặc thánh hóa
[…]
Dù
tôi biết mình không còn chỗ chạy
không
cả một tòa án giả hình
thu
hẹp trong vòng tròn định mệnh
trên
cả những giao ước biển lận trớ trêu.
[…]
Vẫn
biết sự thật là tiếng vọng thiên thu
nhưng
hãy cho tôi hòa giải
bởi
cuộc chiến với ký ức
là
cuộc chiến với sự lãng quên.
(Phế tích của ảo ảnh/ 2)
Gượm
đã, Lãng Quên là phế tích của Ký Ức. Tôi tự hỏi làm sao nhìn Lãng Quên như một
ảo ảnh? Dường như có cả mối tương quan nhân quả, hay là một sự đồng dạng nữa, e
rằng không có cuộc hòa giải nào dễ dàng đối với hai cuộc chiến vô hình cam go
này, bởi vậy mà triệu tâm hồn tan vỡ đều tồn tại trong mình nỗi đau riêng, câm
lặng. Sự thúc thủ ấy khác chi một tội đồ?
Cuộc
chiến với ký ức
mới
thực là cuộc chiến kinh hoàng
đốt
cháy cả cuộc đời anh
vết
thương mưng mủ
nhức
nhối ngày đêm khôn dứt
và
anh bất lực với chính sự bất lực của mình.
(Phế tích của ảo ảnh/ 7)
những
gì từng căm ghét
những gì từng trân trọng
bây giờ đều biến thành trò chơi
cầu vực của yêu thương thù hận
chẳng còn chỗ cho bất cứ
một phán quyết nào.
(Phế tích của ảo ảnh/ 10)
[…]
Để
về đây viếng lại
ngôi cổ mộ u hiển điêu linh
nơi người sống và người chết
cùng nắm tay nhau ca hát.
(Bởi tôi không thể dừng lại nơi đây)
[…]
Ý
thức xanh là lời mời gọi các linh hồn oan ương
nhưng
không hề hối tiếc một thời đã sống
họ về đây bảo tôi
đã qua rồi
tất cả đã qua rồi
nước phù sa vẫn nhóc nhách
chảy ngang con trổ
luồn lách giữa những
chân lúa đang hăm hở đơm bông.
(Phế tích của ảo ảnh/ 10)
Tôi
xin một lần cho tất cả, ý thức xanh xoa dịu oan khốc kiếp người.
TÔI VỐN LÀ KẺ LẠ/ KHÁT VỌNG HOÀI THAI
Hãy đọc lại những câu trong Phế tích của ảo ảnh:
Tôi
trở về đây vòng quay của đất trời tê tái
thăm hỏi những con người bị lãng quên
nằm chen chúc
dưới đám ruộng
chiêm trũng
lúc giao mùa phất phơ.
Họ
là ai tôi tự hỏi
những bản văn tự không ấn dấu
xung quanh một bến nước
có tiếng hát phù trầm
quay quắt một đêm mưa
hàng cau đánh sập sân từ đường
vỡ vụn những viên gạch
khép nép nghìn thu.
Trên
nỗi đau phận người là những lời lừa phỉnh
dù bóng tối không bao dung
và nỗi khiếp sợ ngập tràn
nhưng hy vọng vào ngày mai
tia rực sáng vui đùa cùng cỏ cây
còn sự lừa phỉnh là bóng tối đời đời
nhốt chặt những linh hồn muôn kiếp
không cơ may cứu chuộc.
[…]
Nằm
đếm sao trời đêm đêm
họ gửi chúng ta thông điệp gì
gia phả không đủ chỗ
viết những lời nhắn nhủ
cựa mình chạm vào rễ gai
trợn trừng hai hốc mắt
không – họ chẳng nói gì
bởi tất cả những điều cần nói
đã được nói ra
từ trước đó lâu lắm rồi.
(Phế tích của ảo ảnh/ 3)
[…]
Tôi
nhìn thấy gì trong đôi mắt lá răm
ở nơi có ánh chiều tháng Chạp
và những quả ổi mơn mởn xanh
rầu rầu liếp mía
con giẻ cùi phụ họa
lời ru mái nhà nâu hiu hắt à ơi.
Miệng
lúng liếng giọng luyến láy
những điều tôi không hiểu
chẳng sao cô gái ạ
tôi vốn là kẻ lạ
khát vọng hoài thai
trên những rui mè
ngôi nhà huyền sử
thất lạc trong chuyến đi tìm
quá khứ vong thân.
Bóng
ma quá khứ không làm cô sợ hãi
miểng bom cắm trên hương thờ
trở thành linh thiêng
vẫn nhịp nhàng
như điệu chày ba thuở ấy
ngây tạnh một đêm mưa
nước trổ đòng đòng.
(Phế tích của ảo ảnh/ 4)
Cũng
trong bài viết “Tại sao chúng ta làm thơ?”,
Trịnh Y Thư viết: “Trong lúc sự
hư ngụy, giả trá được tâng xưng lên làm chân lý, thì thơ ca vẫn lặng lẽ nói lên
Sự Thật. Sự Thật của thơ ca là hy vọng cuối cùng cho con người tìm lại được sợi
dây thắt buộc mình lại với nhau sau những phân liệt tranh chấp và hận thù.” Những đoạn thơ Phế tích của ảo ảnh trên là một minh chứng rõ nhất cho quan điểm này của ông. Hình dung,
ông nhìn thấy gì qua chiêm trũng buổi
giao mùa, trái ổi xanh, nhịp chày ba, đôi mắt lá răm? Một hiện thực đẹp rực
hơi sống lại trồi lên phế tích: những xác người đã bị vùi chôn từ thời súng đạn.
Hai đối cực,
một bên hừng hực sinh khí, một bên là tử khí từ xương khô, không có cách nào
hơn là dùng cái đẹp lương thiện nhất của màu xanh ổi, đôi mắt lá răm để xoa dịu
và bao biện cho cái đau trần trụi của chiến tranh.
Bạn thử ghép
lại:
Những viên
gạch nhà từ đường vỡ và Nghìn Thu.
Bóng tối và
những tù nhân linh hồn.
Hai hốc mắt trợn
trừng và vô vọng những thông điệp.
Miểng bom
cắm trên hương thờ lại âm vang nhịp chày ba.
Sự thật và
tiếng vọng bị giam hãm trong thiên thu.
Khát vọng hoài
thai từ quá khứ vong thân.
Đó là những
cặp phế tích và ảo ảnh được Trịnh Y Thư trưng ra như hai mặt của một tấm gương,
phản chiếu những truân chuyên của bao thế hệ, đeo đẳng hành trang của người
khách lạ trên con đường ruột thịt quê hương. Cảm giác “kẻ lạ” ấy, là một phế
tích của hàng triệu thân phận lưu vong. Và khát vọng hoài thai là một ảo ảnh
đẹp chưa từng, hoài thai để được nguyên vẹn của Đêm mưa nước trổ đòng đòng?
Để thời
đoạn gian truân chỉ
còn là ảo ảnh mây trong một buổi ngắm trăng suông…?
Chỉ
có Thơ mới đảm nhận sự hoài thai ngây thơ và ý nghĩa ấy.
Nơi
tôi đứng chiều nay
những mái nhà nâu
những chiếc cầu lung linh bóng nước
sẽ tan biến cả và còn lại
chỉ là phế tích của ảo ảnh – rớt rơi.
(Phế tích của ảo ảnh/ 1)
Và,
tôi nhủ thầm, Nên quán tưởng như thế (Kinh Kim Cang)
MỘT
THOÁNG XANH VỀ TRONG LỆ XANH
Con
nước chảy hoài bờ biên tái
một thoáng xanh về trong lệ xanh
tan đi giữa cõi mù sương ấy
hoa lê một nụ điểm trên cành.
Một
mai trở lại với cồn sương
dùng dằng dăm bước ngẫm đoạn trường
phân vân nước chảy hồn nẻo ý
một nhánh phù dung cũng đủ thương.
Đến
hạn tôi về trong mây thôn
trống chiêng không gọi đã khua dồn
đếm đi đếm lại chừng năm tháng
điểm tóc tro phai mặt mạc hồn.
(Phế tích của ảo ảnh/ 4)
[…]
Nghe
trong cô quạnh tiếng mưa
rơi
thầm vào những bến bờ mù tăm
rừng
xưa lỡ hẹn trăm năm
ngoảnh
trông mộ chí chỗ nằm mộng dư.
(Nghìn thu từ độ)
[…]
Chờ
ngày hóa thân
cõi
lạ vừa nằm xuống đã thấy biển xưa
cát
trắng mái nhà nâu hàng dừa.
(Tháng ba, hãy trôi đi)
[…]
nghe
tiếng tim mình thong thả
bởi tôi biết đó là
mộ phần tôi được tiên tri.
(Bóng tối)
Một
vị lai tâm hồn đang chờ đợi sau nhịp tim thong thả ấy. Vầng trăng cổ độ được vớt lên từ đại
dương trầm tích theo người về, dự phòng cho một không gian, ở đó, một nhánh phù dung
cũng đủ thương?
…
từ tốn tách cà phê buổi sáng
hay vội vã bữa cơm chiều
khoan hòa với giấc ngủ
mặc tưởng một vầng trăng
chỉ để mặc cả với bóng đêm
về những điều không có thật.
(Phế tích của ảo ảnh/ 10)
[…]
Tôi
muốn mặc cả với đêm yên
hãy cho tôi đầu thai
làm hòn cuội
nằm yên dưới lòng suối này
đến thiên thu.
(Đêm yên)
Tôi
tin người thơ là kẻ thắng trong cuộc mặc cả ấy để có cho mình sự thật, có cho
mình sự bình yên trong suốt của viên cuội trong đêm yên.
Đừng
đánh thức giấc mơ tôi
trong lúc ngửa mặt lên trời
hứng những giọt mưa đêm tháng Chạp
với hình ảnh duy nhất
là đôi mắt em.
(Mưa đêm tháng Chạp)
– Nguyễn Thị Khánh Minh
(Upland,
tháng 8.2025)