Wednesday, August 13, 2025

TRẦN MẠNH TOÀN: NỬA HỒN TRĂNG

 

 


                                          Bìa trong Một Mùa Tóc Mộ, 1970

 

Huy Tưởng tên thật Nguyễn Đức Hiệp, sinh năm 1942 tại Kontum. Quê cha : Quảng Trị, Quê mẹ: Thừa Thiên.

Khởi sự viết năm 1960. Thành lập nhà xuất bản Kinh Thi.

Tác phẩm đã in:

+ Mưa Trong Vườn Chiêm Bao (tập thơ)

+ Một Mùa Tóc Mộ  (tập thơ)

+ Áo Nguyệt Ca (tập thơ)

  

 ra đi gió hẹn trở về

 ngày sau mây hẹn trả khe trên ngàn

                                               Bùi Giáng

mái sương bỏ vắng canh vàng

về im rũ mộng bẽ bàng nhựa khô

                                              Huy Tưởng

 

Người ta bắt gặp Huy Tưởng bên dòng suy tưởng vào lúc thịnh thời của dòng thơ này. Mối ngạc nhiên về sự có mặt của người làm thơ trẻ đã không còn, khi mà tư tưởng, dù bằng nhiều nẻo đến, bất ngờ trở thành cuộc lãng du nhiều hứa hẹn hay đáp ứng niềm tự hào thầm kín. Với những người trẻ mà thực tại phần nào cách biệt với thực tại của máu lửa tranh giành, dòng suy tưởng không chỉ là nguồn sáng tạo dồi dào mà còn không buộc nhà thơ phải trằn trọc với việc phải tách rời với những cái đối mặt. Cái đối mặt ( dĩ nhiên trong thơ) của họ là cuộc đời qua ý thức về nó. Ý thức ấy sẽ không buông thả họ cho dù họ bằng lòng hay không về những điều phát giác. Bằng chứng là sau khi nền văn học mà họ có mặt phải mệnh chung, với họ, dòng suy tưởng vẫn là nguồn nuôi dưỡng sự sáng tạo. Họ vẫn xem ánh sáng phương đông đem lại độ cảm quang phù hợp cho cái nhìn về cuộc đời và con người. “ ... Lòng sông càng lúc càng rộng, lòng người càng lúc càng nhỏ hẹp, nhỏ cho vừa những qui ước giới hạn của ngôn ngữ. Làm thế nào để được như mặt hồ trên đỉnh núi, đem lòng trống ra mà đối đãi với mọi người ? Làm thế nào để có thể nói cạn những gì cần phải nói và sau đó là sống bằng hơi thở của trời đất !” ( Tuệ Sỹ, Sau Lưng Ngôn Ngữ của Thi Ca, Khởi Hành, số 104, 13.5.1971, tr. 5.)

Có thể nghĩ, trên đây, ngoài việc rao truyền nhiệm vụ của thơ và cũng là công việc của người thi sĩ, còn không kém quan trọng là sự quy kết về sự hẹp hòi của quy ước ngôn ngữ. Một lời trách gián tiếp về thái độ của một phần người đọc họ Bùi. Chính thơ Bùi đã làm hiển hiện khuyết điểm của ngôn ngữ về những hạn chế nay rõ rệt trở thành trùng vi che lấp tầm nhìn. Cái nhìn khuy khuyết trên đã ngăn cản thơ Bùi ( và đôi người khác) đến với người đọc một cách bình thường và không là ngoại lệ. Không những thế, ngôn ngữ, trong trường hợp này, đã phản bội thơ, đẩy người làm thơ vào ngõ tối.

 Trời đất như đã thay loài người nói lên ý nghĩa cứu cánh của sự sống, nói bằng một thứ tiếng riêng biệt: tiếng nói thầm lặng hay tiếng nói của sự im lặng.” ( Tuệ Sỹ, Sau Lưng Ngôn Ngữ Của Thi Ca, Khởi Hành, số 104, 13.5.1971, tr.5)

Đây là suy nghĩ của một nhà thơ nói về ngôn ngữ của một lãnh vực mà họ chọn để lên tiếng. Thơ. Im lặng không phải là không nói lên, không viết ra. Im lặng là tác phẩm của vô ngôn, nghĩa là chứa đựng câu trả lời bằng một thái độ, hiểu theo cách giản dị nhất. Im lặng như thế là trường hợp dành cho tiếng nói tối hậu, cuối cùng trong hy vọng có tác dụng kết thúc một công án. Nam Chữ cũng xem “ cách lập ngôn của ông ( Bùi Giáng) là cách ông muốn im lặng đến cùng” ( Bùi Giáng Về Cố Quận, Văn, 18.5.1973, tr.48. ) Nhưng đây là kết quả thất bại của một nỗ lực tương thông. Một sự ám chỉ cực đoan về sự bất lực con người trước ngôn ngữ do chính họ sáng lập.

Hơn ai hết, Bùi ( và một số ít người bên ông) đều hiểu rõ nguyên nhân của sự gián cách giữa người đọc với thơ mình và bằng những lần minh giải. Cách minh giải của Bùi lại đặt thêm một tầng nghĩa nữa cho câu giải thích. Đường qua ngôn ngữ cuối cùng / đường sâu hun hút đêm trừng trị đêm ( Bùi Giáng, Thư Từ với Nguyễn Xuân Hoàng, Văn, 18.5.1973, tr.31)

Huy Tưởng, trong hướng nhìn về phương đông của một thành phần trẻ đương thời, mang theo việc từ bỏ thái độ duy ngã, duy lý từng khiến người thêm hiu quạnh giữa đời.  Nhưng không lâu sau, người làm thơ có thể lại mắc cạn nơi bến mới nếu như không ra khỏi nếp suy nghĩ quen thuộc, thói quen dễ dãi cho những đường mòn. Suy tưởng không là gậm nhấm lại những điều được gợi ý. Hâm nóng một khẩu phần có sẵn, dù là thịnh soạn, cho thực đơn tư duy.

Nhưng dù cho lựa chọn phương đông làm hướng qui chiếu, cõi thơ của những người lựa chọn sẽ không thay đổi nếu thế giới quan của họ không hề xê dịch. Nói cách khác, bước đi của thơ chính là sự di chuyển của quan niệm sáng tác và thưởng ngoạn.

Huy Tưởng rời thực tại trước khi phát giác được lẽ biến dịch của tạo vật. Và, việc rời bỏ thực tại là hành vi phát động nhận thức mới. Trời mù mịt cõi hư không mất rồi. Cõi hư không mà họ ghé đến không là quê nhà được hư vô hóa của  mấy thập niên trước

chợt quên xuôi ngược là gì

nửa đêm mùa dậy, xuân đi lên đồi

cỏ sương biêng biếc bên người

âm vang trái rụng xuống đời ta xưa

trăng tàn ngập đỏ cơn mơ

lại qua khe cửa như mưa xô hồng

ta nằm nghìn nhánh chia sông

trời mù mịt cõi hư không mất rồi

( Huy Tưởng, Đêm Nằm Nghe Sung Rụng Ngoài Sân)

Hư vô, ý thức mới bắt được từ trời đất, đã là một thứ của báu của nhận thức. Từ nay, họ đã thu lượm được vô vàn điều góp nên một chân lý mới của trí tuệ. Thi nhân không cần rõ nguồn cơn của sự vật. Chàng chỉ cần tái khám phá vạn vật sau khi hiểu dược quy luật của mối tương quan giữa con người và vạn hữu. Hiển nhiên là thế giới đó phong phú sâu sắc lạ thường. Mỗi vật, mỗi nơi là một trang thơ. Họ ( Bùi và Huy Tưởng) cùng khám phá thiên nhiên trong nỗ lực truy tầm chân lý. Cỏ hoa từ bỏ ruộng đồng / hồn du mục cũ xa gần hử em ( Bùi Giáng, Cỏ Hoa Hồn Du Mục.) Chỉ khác là Bùi theo đuổi công việc ban sơ, ngược đường tìm về quê cũ, nơi chất chứa tình tự sâu sắc của con người. Riêng Huy Tưởng, mỗi chuyến đi là cuộc viễn du của nhận thức. Tư tưởng là yến tiệc nồng hậu đãi cho thơ với thịnh tình của ngôn ngữ. Bùi Giáng không ngần ngại đặt Thi Ca – Tư Tưởng bên nhau như một song hành tất yếu. Ra đi gió hẹn trở về / ngày sau mây hẹn trả khe trên ngàn ( Bùi Giáng, trong tập Ngàn Thu Rớt Hột, 1963, dẫn theo Thục Khưu, Văn, 18.5.1973, tr. 72.)

Bỏ thêm cọng cỏ khô này

hơ cho đỡ lạnh bàn tay sương mờ

ngồi bên ngọn lửa hoang sơ

hốt nhiên tôi sợ hư vô cháy bùng

( Huy Tưởng, Đốt Cỏ Trên Đồi)

Người làm thơ trẻ hôm nay chiêm nghiệm hành động thường nhật của mình như một hành giả. Sự phát giác thế giới khách quan của họ chính là sự soi rọi của ý thức qua trái tim mẫn cảm của nhà thơ, hiển nhiên chưa thể là kết quả cuộc đốn ngộ qua trực giác. “ Thiền không phải là những nếp gấp quằn quại của tư tưởng chỉ làm người đọc choáng váng  hay “ được đối đãi bằng ngôn ngữ văn tự to lớn và siêu lý khi đi vào thi ca. “ ( Thục Khưu, Thi Ca Thiền, Khởi Hành, số 104, 13.5.1971, tr.2.)  Như đã nói, dòng trầm tư của một thành phần làm thơ trẻ hôm nay trước hết là sự bày tỏ một thái độ trầm tĩnh hiếm có với một thực tại sẵn sàng sôi bỏng thách thức. Thơ chọn sự lắng đọng theo chiều sâu sau khi được dàn trải trên bề mặt theo ngọn triều tình cảm. Thơ không còn nhằm vào việc khơi dậy, khiếu động cho dẫu là dành cho một tình cảm chân thành, mà nay là việc lui vào, tĩnh tọa, đối diện với bản thân bằng ánh sáng trí tuệ. Khác với những thế hệ trước, họ đã nhẫn nhục vào đời với tâm bình lặng để hóa giải tương tranh. Cũng không thể so sánh dòng trầm tư với dòng thơ thiền chính danh được mong đợi như một thứ trái chín mùi của văn chương

múc hai gàu nước chưa đầy

tự nhiên trăng sáng mái Tây dội vào

quay nhìn lại mấy hàng rau

ô hay ngọn lá ướt màu hư linh

( Huy Tưởng, Múc Nước Tưới Rau)

Trong dòng trầm tư trên, dường như Huy Tưởng là người hướng nhiều hơn vào hình thức diễn đạt, tìm kiếm hình ảnh mới cho việc thể hiện kết quả của trầm ngâm cũng như tìm cách hiển lộ

những va chạm vào tâm hồn trong cuộc viễn du trí tuệ. Ít ra trong rong chơi, Huy Tưởng đã bắt gặp tâm hồn Bùi qua một trung gian của khách quan ( bài Phương Lá Cỏ trong Mười Phương Tố Mộng.)  Lá cỏ, một nghi từ nào đó của Bùi, xuất hiện như cảm hứng buông tuồng về lộng ngữ. Một ngàn cỏ lá cồn trơ ( Bùi Giáng, Bờ Tồn Sinh.)

Và, không ít những trầm tư hay liên tưởng bồng bềnh về hình ảnh còn lại duy nhất của mùa thu, khi thi nhân ra đời. Những đứa con mùa thu chết hết / lúc tôi ra đời ngó xung quanh / mở mắt bên người tôi chẳng biết / mùa sau lá có rộng bên mình. ( Bùi Giáng, Cỏ.) Lá cỏ có thể ám thị một hiện thân hay nỗi ám ảnh ghê gớm từ sự xuất trần của người thi sĩ.                        

Có thể một số hình tượng nơi Bùi trở thành ám ảnh không nguôi với Huy Tưởng như họ từng chia sẻ, trong vô thức, một số giá trị tự thân. Từ đó những khám phá được trông chờ, không chỉ là một số từ ngữ được khai dụng

khuya mê động bước trên đồi

nghiêng u hồn lá tỏ lời đi hoang

mái sương bỏ vắng canh vàng

về im rũ mộng bẽ bàng nhựa khô

 ( Huy Tưởng, Phương Lá Cỏ, Tư Tưởng, số 6, 1.10.1970, tr.37)

Lá cỏ. Sự ngập lún trầm trọng ( chữ quen dùng của Bùi Giáng) vào tiềm thức thâm u, hay dấu vết còn sót lại của cơn bão cuồng ý thức. Huy Tưởng vào ra thơ với ảnh tượng này như một thứ tín đồ ngậm chặt đức tin, một chén cháo lú cần thiết cho sự bỏ quên những kiếp thơ trước. Với Huy Tưởng, ảnh hình của cỏ, là sức mạnh của giải oan, của cứu chuộc, của sự ban tặng và không là kết quả sự truy tìm. Dâng từ một ngọn cỏ thôi / mầu trăng xuống bệnh vỡ ngời tiếng chim ( Huy Tưởng, Dâng Từ Lá Cỏ, Tư Tưởng, số 8, 01.12.1970, tr. 13.)

Lá cỏ. Còn là một giá trị ngang tầm với sự tồn tại nhưng luôn có mặt để làm chứng cho giá trị này. Lá cỏ được viện cầu như để làm chứng cho tiếng nói của thơ, tiếng nói kèm theo sự thực được minh chứng.  Lá cỏ không còn và có nghĩa ám thị  rằng sự có mặt của nó không còn cần thiết khi chân lý đã được xác định. Cầm tay em dưới trăng câm / tôi nghe lá cỏ âm thầm chết theo ( Huy Tưởng, Dưới Trăng Câm, Tư Tưởng, số 8, 01.12.1970, tr.12)

Thi nhân còn nghĩ đến hoàng hôn của chân lý, là hình ảnh lá cỏ úa. Cũng là sự qua đời của hiện hữu. Bước qua một sợi cỏ vàng / nghìn năm hoang lạnh bỗng tràn xuống khe ( Huy Tưởng, Tảo Mộ, Tư Tưởng, số 8, 01.12.1970, tr. 12.)

Hình ảnh lá cỏ của Bùi Giáng ra khỏi ý nghĩa siêu hình để làm nên một hiện thực về một giá trị.

Dòng trầm tư của giai đoạn văn học trên có lưu lượng đáng kể của một mùa lũ phù sa, một tập hợp những chi lưu cùng về xuôi êm ả. Không ít người làm thơ trẻ trước sau giữ nguyên vẻ đăm chiêu như nét riêng của khuôn mặt thơ giữa gió bụi lẫn khí dữ. Dòng trầm tư nguyên thủy không hề là hình ảnh của ốc đảo xa xăm, phản chiếu sự thèm khát mãnh liệt một nhu cầu dù chính đáng. Phần nào chính là sự phản chiếu trung thực ý thức về con người trước hiện tình, là cách nhắc nhở  về sự có mặt của con người trong xã hội như cách giới thiệu của một tạp chí dành cho trang thơ  ( tạp chí Tư Tưởng của đại học Vạn Hạnh dành cho trang thơ thường mang hàng chữ,  “ tiếng nói của con người trên mặt đất.”) Từ đó nên xem những hàng trầm tư bằng thơ ấy là cơ hội của ý thức làm người được trần tình trước khi đặt chúng vào vị trí của một dòng thơ.

Huy Tưởng vẫn giữ được ranh giới riêng trên đường thể hiện điều khắc khoải. Một cuộc truy tầm chân lý lớn rộng của nhà thơ, ít ra được dàn trải trong Mười Phương Tố Vọng. Kẻ đi sau đã từng phác họa cho mình một sơ đồ tìm kiếm chân-như bằng nhiều ngả của con đường giải thoát. Có hướng đi sớm nhận ra sự bế tắc không lối thoát từ đầu. Về cô độc giữa sương hoa / mới hay cái chết là mồ ta xưa ( Phương Mộ, Tư Tưởng, số 6, 01.10.1970, tr. 34.)

Có hướng đi, đòi hành giả  ý chí tận hiến mãnh liệt của một khổ tu, chiến đấu với chính mình tận sức. Nhốt trong tim ánh lửa ngời / nửa khuya mửa máu độc trời huyền ngâm ( Phương Cố Cùng, Tư Tưởng,số 6, 01.10.1970, tr. 38.) 

Có hướng đi mơ hồ dễ khiến người lạc bước bởi vọng tâm thường xuyên chi phối ý thức kẻ lên đường. Chân đi lạc nẻo non mù / động bờ tâm vọng giọt phù ảo rơi ( Phương Khói Mộng, Tư Tưởng, số 6, 01.10.1970, tr. 37.)

Có hướng đi trắc trở dẫy đầy vì lòng người chưa kịp mở rộng như đòi hỏi để đón ánh sáng chân lý

trũng hai mắt vọng bia đời

cổng tồn sinh mở mù khơi nắng tà

lòng tay nát mộng châu sa

phương chiều bãi quạnh mưa qua bên mình

( Huy Tưởng, Phương Chiều, trong Mười PhươngTố Vọng, Tư Tưởng, số 6, 1.10.1970, tr. 33)

Những hướng đi dù bế tắc hay không, đều để lại dấu vết rõ rệt và mạnh mẽ như dấu răng trên trái cây được vồ vập. Kinh nghiệm suy tưởng có thể làm người làm thơ vật vã như sau một cuộc xuất trần kiệt lực trong lẻ loi. Nhốt trong tim ánh lửa ngời / nửa khuya mửa máu độc trời huyền ngôn / tôi nằm lả tóc cô đơn / cúi xa thẳm liếm oan hồn tôi xưa  ( Phương Cố Cùng, Tư Tưởng, sđd. tr.38.)

Bùi và những nhà thơ trẻ khác như chưa từng vượt qua khổ ải trầm tư mãnh liệt như thế trong ngôn ngữ diễn đạt. Cũng có thể họ - Bùi và những nhà thơ cùng dòng – chỉ nói về kinh nghiệm

đắc thành viên mãn hay chỉ một phần nhỏ. Riêng ở Bùi, chỉ thấy nụ cười nhiều khi ranh mãnh khác thường đến nỗi khó có thể hình dung những nhọc nhằn, đau đớn phải trải. Đến mức cuộc truy tầm chân lý đầy thống khổ của người chỉ được xem tương tự cái phác tay ra dấu của người trong cuộc. Rằng từ ngẫu nhĩ nhảy qua / bờ là vũ trụ bến là cõi kia ( Rằng Từ Ngẫu Nhĩ II, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 2, tr. 65)

Đây có lẽ là sự khác biệt rõ rệt hơn cả giữa Bùi với Huy Tưởng và một số nhà thơ “đồng dạng” mặc dầu chính điều này cũng cho thấy mức độ vượt thoát cá nhân trong cuộc hành trình và cái duyên tao ngộ mỗi người với cái đích trông đợi. Bùi có lẽ là người chẳng bao giờ để lộ phút trông chờ và như thế, ông là người sớm “ngộ” hơn ai. Mai sau dù có bao giờ / gió đưa một trận về bờ bữa nay ! ( Rằng Từ Ngẫu Nhĩ II, sđd. tr. 65) Có thể nói hàng hàng chữ nghĩa thơ ông là cuộc diễn hành của chân lý được phát giác, được khai triển như giấc mơ nằm lòng. Tư tưởng, đứa con của thơ, dâng lời cảm tạ ơn thiêng về quá trình gửi gắm cho đời cho người. Gửi trời một giọt mù sương / trao về cho đất vô thường cảo thơm ( Bùi Giáng, Nguyễn Du, Tư Tưởng, số 8, 1.12.1970, tr. 3.)                                                                                                                                                                           

Thật ra chính ngôn ngữ chứ không hẳn chặng đường “khai ngộ” nặng nhọc, đã khiến người đọc khó hình dung được quá trình tiến triển của điều thức giác mà Huy Tưởng đã lãnh hội. Nhưng điều này không hoàn toàn cần thiết với người làm thơ nếu ta chấp nhận Thơ là cách thể hiện riêng theo nghệ thuật điều mà trực giác bùng vỡ như khi được kích hỏa.

Thi ca Thiền chỉ mới là tên gọi đích thực chưa là bản năng đúng mức cơ cấu của thi ca và ngược lại chưa lúc nào Thiền đối đãi bằng ngôn ngữ văn tự to lớn và siêu lý khi đi vào thi ca.”  (Thục Khưu, Thi Ca Thiền, Khởi Hành, số 104, 13.5.1971, tr.14.) Thơ trầm tư  cùng chứa đựng yếu tính của thơ Thiền và cùng chung cách thể hiện sự diễn đạt những suy tư và cảm xúc trên đường tìm kiếm chân lý. Thơ Thiền cũng như thơ trầm tư không phải là sự tập hợp thuật ngữ dù thuần nhất, và xem như điều kiện duy nhất để xác định xu hướng của thơ. Cách thẩm nhập chất thiền hay chất trầm tư vào thơ phải là cách ẩn mật, sâu lắng bằng tinh ba của điều được suy nghĩ, được tinh lọc. Nó là mật ngọt không là phấn hoa. Nó là sương khuya không là nước đọng.

Thiền tự nó là một kiêu ngạo sâu kín, ám tàng những huyền bí thâm diệu” ( Thục Khưu, Thi Ca Thiền, Khởi Hành, sđd. tr.2.) Có thể hiểu rằng, Thục Khưu muốn nhấn mạnh đến yếu tính chung của trầm tư, không chỉ của Thiền, mà sự chứng ngộ và diễn đạt cần tới ngôn ngữ riêng của trực giác.

Từ cách hiểu riêng, Huy Tưởng đã dành cho thơ gần gũi với tư tưởng nhà Phật theo cách đối đãi nhà chùa mong muốn. Thiền vị thoang thoảng như mùi hương không định được của chén trà nơi cửa thiền, được bắt gặp trong hương vị thơ Huy Tưởng. Gần với hương thiền bằng việc xa rời cái to lớn của kho tàng văn tự nhà chùa, vốn đã quen dùng

còn đây dấu mộng tầm nguyên

nằm nghe hoa nở vang rền hư không

nhập thân đỗ bến ngô đồng

xuôi tờ kinh lặng trôi sông ảo mù

( Huy Tưởng, Đêm Tá Túc Ở Chùa Trúc Lâm, Tư Tưởng, số 2, 15.4.1971, tr. 53)

Hoa-nở-vang-rền --không phải là đóa hoa của tinh thần đốn ngộ. Nhưng đây không là sự hãnh diện mà thi nhân có được. Đó chỉ là dấu mộng tầm nguyên của bao người đến bên thềm của nơi  chứng được giác ngộ.

Thơ “chứng quả” của Bùi phóng khoáng rất mực, tưởng như kẻ cực đoan của phái thiền cũng không giữ được bình tâm. Nhưng đích thực là thơ ướp hương thiền tự nhiên như hương trà cửa không ban sớm

vào thôn xóm trọ một mùa

qua xuân tới hạ ghé chùa chiền hoa

cô nương mắt ngọc răng ngà

nhìn bồ tát gọi rằng là: dạ thưa

-dạ thưa phố huế bây giờ

vẫn còn núi ngự bên bờ sông hương

( Bùi Giáng, Thôn Xóm Thừa Thiên, Tư Tưởng, số 1, 15.3.1971, tr. 40)

Cuộc “đối thoại” giữa một giai nhân với một bậc chứng quả giác ngộ giải thoát ( bồ tát) lẽ ra chỉ là cuộc gặp gỡ cho một việc điểm mê. Nhưng, trái lại nơi đây lại chứng tỏ cái tâm không phân biệt của người tín nữ (?) Nàng nói đến khía cạnh bất dịch của quê hương, không phân định trước / sau, xưa / nay theo vị trí quan điểm của từng người trong cuộc.

Con đường suy tưởng của thi nhân diễn ra sau khi y một mình bước vào cõi mông mênh huyền nhiệm ấy, vắng mặt thơ. Thơ là con đường riêng biệt mà thi nhân đi tiếp với hành trang tư tưởng vơi hoặc đầy. Chẳng phải tình cờ mà Huy Tưởng tự giới thiệu hai bước rõ rệt của tư duy, trước và sau khi được trầm mình trong cõi thoát tục. Người bước vào như nhận cuộc thử thách. Ta ôm dâu biển bước liều qua sân. Khi đường về đã thành khó khăn, quay nhà dặm ngút hoàng hôn, thì việc đi vào cõi cần đến trí tuệ để tỉnh thức không còn là một chuyến lãng du nữa. Dù chưa gặp thuận duyên, con đường người đi là khởi đầu cuộc hành trình của một người thèm suy nghĩ. Chuyện biển dâu mà người còn canh cánh bên lòng có lẽ là gánh nặng mà bao người chưa thể bỏ lại trước cổng chùa khi tìm đến

cây ăn nhang khói bên đồi

mùi trăng sương rụng xa xôi giữa hồn

quay nhà dặm ngút hoàng hôn

bóng in lá cỏ chon von sắc chiều

sân mờ đá vọng hoang liêu

ta ôm dâu biển bước liều qua sân

( Huy Tưởng, Tần Ngần Trước Chùa Trúc Lâm, Tư Tưởng, số 2, 15.4.1971, 53.)

Trái lại, ít ra là qua thơ, Bùi chưa hề cho thấy con đường trầm tư diễn biến ra sao từ lúc ban đầu “nhập thất.” Trước sau chỉ thấy người tĩnh tọa an nhiên trong cõi lập thành ngay từ khi sơ kiến.

Tuệ Sỹ, một trong rất ít người, hiểu thấu nguồn thơ của Bùi, tương tự  tri ngộ, đã phát giác vẻ mông lung của thế giới thi ca Bùi là “ nơi của một cõi miền Hội thoại trong cách điệu tài hoa, mà Thiên Nhiên đã phơi mở tất cả xiêm y lồng lộng của Tuế nguyệt phiêu bồng, đã giũ áo mù sa, đã trút quần phong nhụy...” ( Tuệ Sỹ, Thi Ca Và Tư Tưởng, Văn, 18.5.1973, tr.16.) Người tri âm này chẳng hề nhắc nhở đến những chặng đường tư tưởng, và cùng lúc cho rằng thơ Bùi, theo cách riêng, đã vượt qua ràng buộc, để vươn lên một cõi trời lồng lộng. “ Thảm kịch khốn cùng dù có đổ ào lên Thi ca đến mấy đi nữa. Thi ca vẫn như điềm nhiên, ngao du theo ngày tháng, trong ngày tháng ngao du. Có thể nói đó là ẩn ngữ song trùng của thi ca.” ( Tuệ Sỹ, Thi Ca Và Tư Tưởng, Văn, 18.5.1973, tr.25.) Như thế, có thể nghĩ ẩn ngữ tương tự lớp mây mù che phủ, một hình thức ám tàng cái băn khoăn, trằn trọc lẫn đau khổ của người làm thơ qua những chặng đường tỉnh thức.

Tuy vậy, trong tập thơ đầu Mưa Nguồn (1963) người ta có thể bắt gặp dấu vết nhận thức của người về chính mình trong một lúc đăm chiêu, điều mà Bùi không hề để lộ. Giấn thân thể giấn bước vào. Sịch mành sực tỉnh hàng rào chắn ngang. ( Bờ Tồn Sinh.) Nước cờ chiêm bao của thi nhân ( đẩy ngang ngửa nhịp nước cờ chiêm bao – Bờ Tồn Sinh) chính là giây phút mà tia sáng của ý thức lóe lên đánh thức Bùi trong giấc mộng dài mà người hồn nhiên tự dìm mình.

Khó có thể hiểu được ngọn nguồn của một tứ thơ, lá cỏ, nơi Bùi Giáng thâm nhập vào Huy Tưởng như một làn gió lạ. Lá cỏ, một hình tượng nhập thân để có thể sống một đời trong ước vọng.  Với thi nhân, lá cỏ là trường hợp vạn hữu “quy y” góp phần vào việc dẫn người về bến giác. Lá cỏ hóa thân, và hiện thân là ngôn ngữ của sự mời gọi chân lý. Gieo thu nguyệt mộng lót tờ kinh xanh. Tờ kinh xanh là biến thân của lá cỏ ngày nào mà người làm thơ đã ngộ trong chuyến đi của trực giác

xé đau mảnh áo ngô đồng

tiểu thư gót lục băng sông sương mờ

vén tầm tả nửa trang thơ

gieo thu nguyệt mộng lót tờ kinh xanh...

( Huy Tưởng, Gót Lục Tiểu Thư, Tư Tưởng, số 2, 15.4.1971, tr. 54)

 Nhưng, “ tự nêu câu chất vấn như thế xong, là có thể nhảy vọt vào giữa cơn lốc ngôn ngữ tịch mịch của vài bộ kinh Phật” ( Bùi Giáng, Câu Chuyện Hôm Qua, Văn, 18.5.1973, tr. 80.) Bùi dường như từ chối chỗ ngồi nghiêm trang cho thơ trầm tư vì thực chất chỉ là sự xuất hiện của cơn lốc ngôn ngữ, là cuộc diễn hành tráng lệ của chữ nghĩa thuần túy. Thơ trầm tư là biểu hiện của nét mặt hồn nhiên sau khi trút hết được băn khoăn. Trầm tư đích thực không còn khi người đã giải được nghi án trí tuệ. Như thế, thơ Bùi là kết quả của chuyến trở về sau khi chấm dứt công việc trí tuệ của thi nhân. Nhẹ nhõm và hồn nhiên, vì trí tuệ đã giúp người trở về cõi người mong ước. Một ngàn cỏ lá cồn trơ. ( Bùi Giáng, Bờ Tồn Sinh.) Rốt cuộc, điều bao người làm thơ khắc khoải tìm về, với Bùi Giáng, chỉ là một trò chơi chữ nghĩa, nằm trong trò chơi lớn của cuộc đời

đáng yêu mà vô nghĩa. Một đêm bếp núc lạ kỳ / nghe trong thớ củi mộng gì đi hoang ( Bùi Giáng, Logo.)

Nếu không là sự trừng phức tư tưởng thì hình ảnh trong thơ như lá cỏ phải là giấc mơ choáng ngợp tâm hồn. Việc lặp lại một hình tượng trong thơ như bóng rợp cảm hứng không chỉ là việc thanh thỏa ước mơ. Lá cỏ có thể là kết quả thoát thai từ tiềm thức để tiến tới một hình thành trong nhận thức  một thế giới quan của người làm thơ trẻ tuổi. Lá cỏ, nhận thân phận một hình tượng để xây dựng một vũ trụ qua cái nhìn của kẻ còn tha thiết với đời. Dâng từ một ngọn cỏ thôi. Một thế giới được hình thành từ ngọn cỏ chỉ vì một tâm  hồn đi hoang ? Không. Trước sau người làm thơ yếu đuối cần nơi nương tựa dù chỉ là một ngọn cỏ vô tình.  Ngọn cỏ trong tâm hồn để lại chiếc bóng trên trăng khuya như nhắc nhở một lời nguyền. Mầu trăng xuống bệnh vỡ ngời tiếng chim. Sự tỉnh thức trong khuya khiến người nhìn rõ thêm sự vật. Chén trà sửa soạn trong bóng đêm, trong chính cái kiến trúc ngôn ngữ cô đọng khác thường tạo nên mê trận của tứ thơ cho thấy ánh sáng của vô minh là điều trông đợi. Tôi choàng dậy, đốt trà im. ( đốt lửa pha trà trong im.)

Lẽ ra con đường thơ không cần đến ánh sáng của luận lý như thế. Huy Tưởng, trên con đường riêng đã có ý gây thành độc đạo

dâng từ một ngọn cỏ thôi

mầu trăng xuống bệnh vỡ ngời tiếng chim

tôi choàng dậy, đốt trà im

máu hồng nghẹt thở cùng đêm mất rồi

( Huy Tưởng,  Dâng Từ Ngọn Cỏ, Tư Tưởng, số 8, 01.12.1970, tr.13.)

Thơ trầm tư đã có không gian thích hợp để nẩy nở kể từ những năm 70. Không hẳn một số nhân duyên được xem dành riêng cho bản sắc của dòng thơ này mà còn do thuận duyên của một quá trình lớn dậy. Sau lưng sự trầm mặc là thấp thoáng bóng dáng kiêu hãnh của điêu linh. Nguyên ủy sâu sa của sự xúc tích một dòng sông ít ai ngờ đến sự có mặt của nguồn nước ẩn mặt dưới lòng  đất. Có thể nghĩ thực tại đau thương lẫn uất nghẹn làm nên lưu lượng phong phú của văn chương hiện thực và thời thế hôm nay. Mặt khác cũng liên quan đến nguồn gốc xa gần của dòng thơ mệnh danh suy tưởng. Thơ trầm tư không trầm mặc đứng riêng một cõi như ta tưởng. Không là hiện thân của một cách thế xa rời, thụ động hoặc mông lung, huyền ảo. Mà có thể nằm trong kết quả của một tiến trình của tư tưởng, dành lấy sự chi phối và thăng tiến bằng trí tuệ. Có thể nghĩ, trước khi thực sự là nhà thơ của phái trầm tư, họ là những hành giả của điều tin cậy. Họ là người hành động, theo ý nghĩa của người tận sức tận lòng trong việc tìm kiếm chân lý.

Thơ trầm tư cũng như vụ mùa, có mùa gieo và mùa gặt hái.

Bên cạnh những thi tập của Bùi xuất hiện trước và sau năm 70, ta có Tâm Thu Kinh của Đặng Tấn Tới (1970) như một điển hình của nét riêng và phương hướng. Ta còn có sự góp mặt gần như cùng thời của một số những người làm thơ trẻ, chọn sự trầm tư làm nghiệp duy nhất khởi đầu. Đặng Tấn Tới, Nguyễn Tôn Nhan, Nguyễn Đạt, Nguyễn Lương Vỵ, Huy Tưởng, Tuệ Sỹ... Năm 70 cũng là thời điểm trỗi dậy của một tập hợp một số người làm thơ theo xu hướng trên, cũ và mới quy tụ trong tạp chí Tư Tưởng. (*)  Một tập hợp sáng tác thơ cần được lưu tâm hơn nếu đặt thơ loại này trong sự khuyếch xung về mặt tư tưởng từ một trào lưu văn hóa được hình thành.

 

------------------------------------------

 

(*) Nói rõ hơn là vai trò của Tuệ Sỹ trong thời gian  phụ trách bài vở cho tạp chí Tư Tưởng, tiếng nói của đại học Vạn  Hạnh. Trang thơ chỉ xuất hiện từ số 6, ra ngày 01.10.1970  đến số 5, tháng 8.1972.  Kể từ số 1, tháng 3.1973, trang thơ không còn thấy  tồn tại trên mặt báo.

 

---------------------------------------------

 

Sự có mặt của Bùi Giáng trong tạp chí, hay nói tổng quát, trong giai đoạn trỗi dậy của một trào lưu, có lẽ chỉ có tính chất biểu tượng. Những bài thơ đáng chú ý không tìm thấy ở đây. Nhưng mặt khác là sự xuất hiện rõ rệt của mấy điển hình khác: Trần Xuân Kiêm, Nam Chữ, Lê Nghi.

Tuy vậy, Bùi vẫn được xem là hình ảnh của một cuồng lưu cả về mặt lưu lượng lẫn vóc dáng.

Trong những thơ  được đăng tải, lá cỏ vẫn còn sót lại như di chỉ của một quá khứ nằm lẫn lộn trong tiềm thức. Khác với cách đối đãi của Huy Tưởng với thứ “thánh tích “này, chỉ thấy Bùi chìm sâu hơn trong cơn điên đảo thần trí. Ít nhất là trong mấy năm an định, thơ Bùi tìm cách rong chơi và lún sâu vào cõi đầy nghi hoặc. Cõi nguyên xuân năm nào được hình dung như nơi quy tụ “ mùa của trăng sao trong vắt và mùa của tâm linh kỳ bí mà suốt đời luôn náo nhiệt giữa nguồn mạch thiêng liêng nguyên sơ “ ( Thục Khưu , Ẩn Ngữ, Cung Bậc Thi Ca, Văn, 18.5.1973, tr.72.) Nay được nhắc đến như chốn tìm về của một người thất lạc quá khứ. Lên rừng hỏi lại dấu chim  / vùng sương cố quận ai tìm ở đâu ( Bùi Giáng, Thanh Hiên Ca, Tư Tưởng, số 1,15.3.1971, tr.51.)

Nhưng với hình tượng năm nào (cỏ khe tồn lý), thi nhân vẫn dành nguyên vị trong trinh  trong thơ, tìm sương dưới nguyệt lối về trong hoa ( Bùi Giáng, bđd, tr.51.)

Cũng có thể Huy Tưởng theo bước Bùi xây dựng cho mình một hình tượng nấp dưới ẩn ngữ. Lá cỏ là trường hợp này và thi nhân khiến ngôn ngữ thêm phong nhiêu vì nó. Vẻ đơn sơ nhưng chứa đựng cái hồn nhiên của khởi nguyên và cảm hứng bất tận từ sự hoang dã của thiên nhiên rộng mở. Lá cỏ là bước đầu của rung động về một chân trời bát ngát huyền tích của ước mơ. Ước mơ được thể hiện bằng suối trăng vàng mới là lúc ước mơ cất tiếng. Trăng câm là lúc mầu trăng nhợt nhạt, là ước mơ không thể bộc lộ nên lời. Lá cỏ tàn úa không vì trăng mờ mà vì tình người thoảng như bóng mây. Thôi em tình đã quá nhiều mây bay.Trăng ốm yếu bệnh hoạn hôm ấy không phải là khởi duyên. Người ta thường mượn trăng để gieo cầu mà quên rằng lòng người mới là đầu mối của dây tơ ràng buộc. Dưới mắt thi nhân, lá cỏ là một tặng vật của trời, một huyền tích của hồn nhiên huyền nhiệm. Nó là của tin của cõi phiêu bồng mà thi nhân thành kẻ tận tín kể từ họ Bùi

cầm tay em dưới trăng câm

tôi nghe lá cỏ âm thầm chết theo

tóc bay đụn bóng tàn xuân

thôi em tình đã quá nhiều mây bay

( Huy Tưởng, Dưới Trăng Câm, Tư Tưởng, số 8, 01.12.1970, tr. 12.)

Bùi lấy lá cỏ để đánh dấu một huyền tích của thơ sau khi dựng cho nó một truyền thuyết về nghi hoặc. Ẩn ngữ được không ít người đọc sử dụng dễ dãi và dành cho một truyền nghi trong một cõi thơ nằm ngoài truyền thống. Nhưng, “ điều quan trọng không phải là những lời những chữ, mà điều chính yếu là sau những lời những chữ ấy hiện ra cái gì ..” (Trần Hữu Cư, Bùi Giáng Trên Đường Về Cố Hương, Văn, 18.5.1973, tr. 68.) Ai cũng hiểu, trong cõi ngôn ngữ ít nhiều mang tính chất ma thuật, kể cả kỹ thuật riêng để tái tạo chúng theo ý riêng, Bùi thực sự đã nhận cưu mang một thế giới chồng chất nhiều viễn ảnh bằng kỹ thuật của người xây mộng. Giấc mộng song trùng của thi nhân – cả trong cuộc đời lẫn trong giấc mộng -  là một thử thách to lớn với những người tìm đến, hay xa hơn, muốn thẩm nhập thơ ông bằng ánh sáng điện khí hay dụng cụ của lý trí.

Thơ Bùi không phải là ngôn ngữ, hay một tập hợp ngôn ngữ theo một kỹ thuật riêng. Nó là chiều sâu, là chiếc bóng của một vật mà không phải là vật ấy. Bùi nói bằng ngôn ngữ riêng của mình khi cần giải thích. “ Cũng như thơ Lá Cỏ Whitman không nhất thiết tất nhiên phải là thơ lá cỏ. Lấy trong ý tứ mà suy ? Cái gì hiện ra ở phía sau câu thơ ?” ( Bùi Giáng, Câu Chuyện Hôm Qua, Văn, 18.5.1973, tr. 81.) Như thế, lá cỏ nằm ngoài mọi hoài nghi. Nó là dấu vết thi nhân để lại cho sự dõi tìm con đường ông đã qua, tương tự những bờ mương, vườn hạnh, truông cỏ, bóng ghềnh quen thuộc trong thơ ông, quen thuộc với một tâm hồn sơ phác mải tìm về tinh thể của nguồn cội như một cách tiếp tay vào việc cứu vãn thời đại đổ vỡ, một quê hương sa lầy

cõi bờ con mắt Hoa Nghiêm

tường vôi lá cỏ lim dim vô cùng

Cuộc đời thi nhân là con đường tiếp tục tìm kiếm. Thi nhân nếu không ở một cõi khác thì đã vượt khỏi con đường chúng ta đang đi. Có thể thi nhân đang ngóng vọng. Hay có thể người thốt lên trước khi rời chân. Tường vôi lá cỏ nay đã thuộc về thế giới của nhận thức. Không còn là hiện vật của thế giới chúng ta. Ở những trường hợp tương tự, ngôn ngữ diệu vợi của thơ giúp chúng ta đến gần với thi nhân không bằng con đường quen thuộc của lý tính.

Có thể những người bên cạnh Bùi đã sớm nhận ra tinh yếu của ngôn ngữ ông dùng trước khi họ sử dụng như mô hình mang chất thơ của tư tưởng. Rõ rệt là với Huy Tưởng, Đặng Tấn Tới... là bước nhận thức mới nơi họ mà không là một cách tiếp nối.

Không chỉ trường hợp của lá cỏ... ngôn ngữ thơ của Bùi gợi nên cảm hứng cho những tìm kiếm xa hơn trường hợp ra đời của nó.

Trong cõi tịch mặc của trầm tư, lá cỏ vươn lên trong viễn mộng thanh thỏa được những tâm hồn muốn hòa trộn với tinh yếu của cõi bao dung phơi mở. Vươn lên từ chốn thiên nhiên nguyên sơ mộc mạc, xa lánh tham vọng cưỡng cầu, lá cỏ , chọn mà không chọn, việc hướng về đất mới mà không mang nghĩa bội bạc, xa rời. Lá cỏ đã là ước vọng tự nhiên và sống một đời của ước vọng đó. Đầu khe lá cỏ phai rồi / đá vang tiếng ngựa bền lời ước mong ( Bùi Giáng)

Trong một tập hợp văn chương dành cho Nguyễn Du, Bùi mới có dịp mượn thơ để than cho một thân phận lưu đày. Lục bát là nén hương của nhịp-điệu-hình-tượng được gửi đi từ cõi của một người thất cước nơi quê nhà cho một người mà quê hương vẫn còn là chiếc bóng xa xăm. Kiều trở thành một trung gian để người làm thơ đặt vào tay những giọt lệ tin cẩn bằng lời. Chim kêu đắm đuối đầu cành / xuân trào nức nở đạp thanh lên đường / gửi trời một giọt mù sương / trao về cho đất vô thường cảo thơm (  Bùi Giáng, Nguyễn Du, Tư Tưởng, số 8, 01.12.1970, tr. 3.) Khúc đoạn trường được gửi theo nàng nhân một hội đạp thanh, cũng là sự cáo tri của nhà thơ gửi cho trời và đất, nơi đã dung nạp người con gái mà mệnh đã định bằng một ngôi sao lạc. Tác phẩm Kiều thực ra là món nợ không hoàn trái của quê nhà với nhà thơ. Nhà thơ đã giành lại cho nhân vật của mình, tố quyền trước lẽ phải và lòng chân chính.

Nương theo bước người đi trước, Huy Tưởng dự cảm về một đêm trăng lạc mất Thúy Kiều. Dự cảm dường như chưa thể đi xa hơn dù với thi nhân, phương khói mộng cũng là một hướng đi, nhưng vô hiệu, của lãng quên và giải thoát. Chân đi lạc nẻo non mù ( xem Phương khói mộng trong Mười Phương Tố Vọng, Tư Tưởng, số 6, 01.10.1970.) 

Cũng có thể, dự cảm đã là sự thực.Trăng đã đoạt được tâm hồn thi nhân vào một đêm nào đó và chàng đã lạc mất Thúy Kiều.

... chân xa đất mở biên cùng

mầu thiên thu gọi tơ đồng hương xưa

nửa hồn trăng rót nguyên sơ

hồng nhan ngậm lục chia bờ rượu cay

( Huy Tưởng, Như Đêm Nguyệt Lạc Thúy Kiều, Tư Tưởng, số 8, 01.12.1970, tr. 13.)

Trong hoàn cảnh đất mở biên cùng, tiếng đàn tri kỷ năm xưa gợi lại nơi Kiều nỗi niềm mất mát không cùng. Người con gái ấy đã chọn việc chết đuối trên cạn, lục trầm, như cách buông trôi.

Cái say có đến cũng chỉ xác nhận điều cách biệt.

Mượn hoa sen làm cảm hứng, Nguyễn Tôn Nhan, Đặng Tấn Tới đều góp bút. Riêng Đặng có những 2 bài gái hái sen mà chưa hết ý.  Người hôm nay có lẽ muốn lấy đi cái biểu tượng của một loài hoa,  một quy ước về giá trị được thành hình như thách đố ý thức về khách quan của người làm thơ.  Người con gái khi hái sen đã cất đi mùi hương của loài hoa hay chính thiên nhiên (gió, mây) không nỡ để hoa phải xa hương bằng việc giành lấy làm điều bất đắc dĩ. Cho mây gió thổi tấm lòng cô đi ( Đặng Tấn Tới, Gái Hái Sen Rồi.) Như thế, chính người thiếu nữ đã mang lại phẩm giá cho hoa bằng việc đứng bên cạnh nhan sắc. Và thơ đã có một trong trăm nghìn hoàn cảnh để ra đời.

Có lẽ gần gũi hơn cả với chúng ta là trông cậy vào thơ như một suối nguồn giải thoát cho dẫu không ít người biết rõ sự bất lực của văn chương trong đó có thơ. Nhưng ước vọng và lòng khao khát đã thắng thế. “ Thơ đem lại nguồn năng lực tươi tắn, nó cung cấp sinh khí nồng nàn, nó mời gọi chúng ta tiếp nhận những gì thực đáng gọi là tính chất thiên nhiên khỏe khoắn, để giúp chúng ta thoát được bầu không khí ngột ngạt của máy móc: thơ muốn đạt tới nguồn sống thiêng liêng, thơ là một hình thức, gần gũi với chúng ta bằng tiếng nói của sự thiêng liêng.” ( Nguyễn Nhật Duật, Đinh Hùng Thi Sĩ, Khởi Hành,  số 118, 19.8.1971, tr. 14)

Trong hoàn cảnh trên, thơ là sự nương tựa của người và trước nhất là với chính người làm thơ đang khắc khoải. Với những tâm hồn mong manh dễ vỡ, thơ trở nên cần thiết hơn bao giờ . Với họ, sự nhiệm mầu của thơ không nằm trong kết quả có được. Nó là sự tâm tín vào một năng lực siêu hình nâng bổng tâm hồn khỏi trầm luân. Là hình ảnh của chiếc phao cứu sinh, thơ không đem ảo tưởng đến cho người, huyễn hoặc hay lừa dối kẻ non dạ. Thơ có cách riêng để tương thông với người sáng tạo nên nó cũng như những người góp phần vào việc trưởng dưỡng chúng trong lòng người. Và, khác với hẳn với sấm truyền hay kinh ngữ,  trong cách chinh phục con người, thơ thoát khỏi cách lung lạc con người bằng tín điều hay mặc khải.

Thơ, theo chính danh, đã có mặt bên ta trong những lúc vui buồn, thăng trầm riêng hay chung, và dường như chẳng bao giờ bị uổng dụng, hững hờ, ruồng rẫy.  Dòng thơ được người gần gũi như chỗ nương tựa đã hợp thành dòng chủ lưu khi nhân duyên hình thành hội đủ. Lòng trắc ẩn với chính mình, niềm khao khát về một tương lai, xem trầm tư là hướng giải quyết thích hợp mọi khó khăn, mở lòng trước ngoại giới khi đứng trước nghịch cảnh. Tất cả đều là nguyên tố mời gọi việc mở rộng nguồn sinh khí của dòng.  Võ Chân Cửu, Nguyễn Đức Nhân, Thục Khưu, Tuệ Sỹ, Nam Chữ ... trong số những người ở đầu dòng, chắt lọc nguồn trong trinh đơn thuần tựa như hình ảnh người chép kinh trên lá bối.  Không là hình bóng những ẩn tu trong thế giới văn chương, họ thực sự là kẻ học trò một đời miệt mài suy nghiệm về mối tương quan huyền nhiệm giữa con người với vạn hữu qua ngôn ngữ của trí tuệ trực giác. Cho dầu, còn vẻ ngập ngừng của kẻ thực tập ban đầu, dấu chân để lại ban sơ của sự trầm tư là bước đầu của một quá trình rung cảm và khám phá. Người con gái hái sen của Huy Tưởng tương tự viêc lật lại một trang sách đã giở, nhưng là lần đọc lại khác trước

ra hồ xem gái hái sen

bỗng câu thúy lục cũng len lén hường

“thái liên khúc” ngát trầm hương

một thời phong nhã khác thường rộ hoa

( Huy Tưởng, Gái Hái Sen Nhớ Hạ Tri Chương)

lần, ý tứ phá cách, phóng túng xuất phát từ tinh thần phá chấp đến với không ít người cầm bút như nguồn cảm hứng mới, mời gọi thêm trầm tư vào năng lực sáng tạo. Sự gia công sức mạnh tu trì được thể hiện rõ rệt bằng chiều sâu của ngôn ngữ và hình ảnh. Màu áo người tu hành đổi sắc, không vì người mặc mà chính là do vọng tâm của kẻ bàng quan.  Tiếng chuông chợt thức tỉnh được lòng người, khiến họ nhìn ra điều chân giả. Giọt chuông rơi tấm áo vàng. Người ta tưởng như tiếng chuông dẫn người từ chỗ tối ra sáng. Vén màn nhá nhem cho thêm tỏ trang kinh trước mặt. Sau tiếng chuông là cả một cuộc vận hành của trí tuệ mà tiếng chuông, trang kinh chỉ làm nhiệm vụ dẫn lối, đưa đường. Chính xác hơn, làm nhiệm vụ của thứ xúc tác ảo diệu, cho âm ba của chuông thấm sâu, cho lời kinh xuất hồn khỏi trang giấy.

ướt hai tà áo nâu rồi

bên chùa mục giọng kinh hồi lệnh sang

giọt chuông rơi tấm áo vàng

nghe kìa sư nữ vừa choàng áo tu

( Huy Tưởng, Nghe Kinh, dẫn theo Đông Trình, Một Thế Giới Mới, Thi Nhân Đang Tập Nhìn,

Khởi Hành, số 103, 6.5.1971, tr. 14.)

Những hồ nghi quanh tứ thơ được đặt ra, nhưng người làm thơ không phải là người truyền bá, thi tứ không thể nằm gọn trong trang kinh. Chỉ biết cái nhìn sắc sảo đến tinh quái, nếu có, lại cho thấy khả năng cảm thụ tinh tế của thi nhân trước điều tế vi trước mặt. Chiếc áo nâu. Hồi kinh mục giọng. Trung gian nối liền trong mối tương quan nhân quả là giọt chuông rơi ướt áo. Người làm thơ cũng không cần có tâm hồn một tín đồ, chỉ biết dâng cho thơ, một rung động mà lòng vừa cảm ứng. Người sư nữ khoan thai bước vào thơ như một thi tứ trụ cột. Đẩy lui hình ảnh sắc áo nâu hay vàng, của hồi kinh, của giọt chuông âm thầm hồi hướng.

Như đã nói, sự phá cách được Bùi đẩy đi xa hơn và hàm ý một thứ triết lý thực tiễn của ngòi bút. Nhiều lần Bùi dài lời giải thích theo cách riêng, cái chiều sâu của ngôn ngữ được sử dụng, không hoàn toàn hời hợt như ta tưởng. “ Trên đường về ngôn  ngữ, người ta bỏ lạc mất riêng một chút gì, mà từ đó về sau, mọi âm thanh đều biến thành lời câm, tiếng điếc, hương ù lì, mùi lơ láo, sắc lắt lay, quần hồng không thấy có mảnh hồng ở trong khả dĩ biến quần hồng thành hồng quần làm gương soi chung cho thiên hạ...” (Rằng Từ Ngẫu Nhĩ II, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 2, 1965, tr.53.) Về mặt thực tế, sự phá chấp đã phá vỡ sự tĩnh lự của kiến trúc thơ. Đem lại tiếng cười hoài nghi về tín điều gây nên nét trang nghiêm trên khuôn mặt đại chúng.

Thực ra phá chấp mới chứng tỏ bản lãnh tu trì, giác ngộ và cả khả năng của những người đang tìm ấn chứng. Trí tuệ được mở hướng theo cách này thì ngôn ngữ mới làm xong được nhiệm vụ. Đôi mắt ngọc cặp chân cừu / đường quanh lối quẹo gọi hươu phiêu bồng ( Bùi Giáng, sđd. tr. 64)

Chẳng thế, giữa chốn quê hương của những giấc mộng được trôi dạt về bên con người bình dị, người làm thơ trẻ lại lặn lội trong ba đào để làm chứng rằng kẻ bị ruồng rẫy vẫn là người còn nặng lòng trắc ẩn, khi bất an còn phong tỏa cả ước mơ

mưa nát tan tôi đi về gió muộn

nửa chùm trắc bá chết đầu Thu

mưa tan nát tôi đi về mây cuốn

trong áo người run rẩy hạt âm u

( Huy Tưởng, Mưa Trên Đồi Khuya Đà lạt, Ý Thức, số 1, 1.10.1970)

 

Trần Mạnh Toàn