CÂU CHUYỆN CUỐI NĂM. Người đàn
ông nông dân ấy gốc lính cũ, hai mươi năm sau đã bước vào tuổi trung niên, chưa
tới tuổi năm mươi nhưng cuộc sống lao động lam lũ khiến anh ta trông xanh xao
và già xọm. Anh mất một bàn chân trái khi đã mãn lính do đạp phải mìn ngay trên
ruộng nhà. Không cần là bác sĩ cũng biết là anh ta mang trên người đủ thứ bệnh
tật: thiếu ăn suy dinh dưỡng, sốt rét kinh niên và thiếu máu. Tất cả sinh lực
và nhân cách của anh là nơi đôi mắt sáng tuy hơi buồn nhưng luôn luôn nhìn
thẳng vào mặt người đối diện. Hôm nay anh tới đây vì một lý do khác. Một mảng
đen bầm nơi lưng không đau rỉ nước vàng từ bấy lâu, trị cách gì cũng không hết.
Chầu trực lên trạm y tế huyện được y sĩ cách mạng cho ít viên thuốc tây, rồi
đến thầy đông y cho bốc thuốc nam và cả châm cứu nữa mà bệnh thì vẫn không
chuyển trong khi người anh cứ gầy rốc ra. Nay nghe có đoàn y tế thiện nguyện ở
ngoại quốc về, anh cũng muốn tới thử coi, biết đâu anh lại được gặp ông thầy cũ
- người y sĩ trưởng của anh năm nào. Và rồi anh chỉ gặp toàn những khuôn mặt
trẻ lạ, nhưng anh vẫn cứ đưa lưng ra cho người ta khám. Một tiếng ồ rất đỗi
kinh ngạc của cả toán. Tim người bác sĩ trẻ trưởng đoàn như lạc một nhịp. Không
cần một chẩn đoán phứctạp Toản nhận ra ngay đây là một dạng ung thư mêlanin ác
tính - malignant melanoma, chắc chắn với di căn đã tràn lan. Dĩ nhiên căn bệnh
có thể trị khỏi nếu phát hiện sớm; nhưng trường hợp này cho dù với phương tiện
tiên tiến nhất trên đất Mỹ cũng đành bó tay. Chẳng phải là người bệnh mà là
người thầy thuốc trẻ nói giọng buồn bã: Ông tới trễ quá, lẽ ra bệnh có thể trị
khỏi... Bệnh nhân không tỏ vẻ bối rối, anh vẫn nhìn thẳng vào mặt người thầy
thuốc, ánh mắt tím thẫm xuống vừa giận dữ vừa nghiêm khắc: Tới trễ? Chỉ có bác
sĩ các ông là Những Người Tới Trễ chứ tôi cũng như mọi người dân vẫn ở đây từ
bao giờ... Dứt khoát không chờ đợi một điều gì thêm ở đám thầy thuốc xa lạ ấy,
anh quay lưng bước ra khập khễnh trên đôi nạng tre mắt vẫn nhìn thẳng về phía
trước, khắc khổ cam chịu và vẫn can trường như một người lính thuở nào.
Hội nghị Y sĩ Thế giới lần thứ
5 sẽ là một Đại hội Y Nha Dược. Với Chính đó là một tin vui biểu hiện sức mạnh
đoàn kết của ngành y ở hải ngoại. Buổi họp cuối cùng ở Palo Alto kết thúc quá
nửa khuya, sáng hôm sau như thói quen của người có tuổi, Chính vẫn dậy rất sớm
chuẩn bị cho một ngày đi Las Vegas thăm con. Chỉ còn mấy tháng nữa Toản -- đứa
con trai lớn của Chính, hoàn tất bốn năm Thường trú Giải phẫu tổng quát. Sau đó
nó sẽ đi New York học tiếp thêm 4 năm về giải phẫu bổ hình. Một ngành mà đã có
lần Toản cho là một số các bác bạn của ba đã tha hóa -- prostitution of plastic
surgery, biến thành kỹ nghệ sửa sắc đẹp nâng mũi đệm mông. Toản khỏe mạnh, cao
lớn hơn bố, sống như một thanh niên sinh đẻ ở Mỹ, rất năng động xông xáo trong
công việc cũng như giải trí vui chơi; suy nghĩ và hành động đơn giản. Không
phải chỉ cách suy nghĩ mà cách đặt vấn đề của tụi nó cũng khác xa với thế hệ
của Chính. Sinh đẻ ở Việt nam sống ở nước ngoài, là công dân hạng nhất hay hạng
hai, chưa bao giờ là một “issue” đối với nó.
Tuy chỉ có một ngày để cho hai
bố con gặp nhau hàn huyên, nhưng Toản vẫn lái xe đưa bố lên một khu trượt tuyết
rất xa khu giải trí Las Vegas. Toản tâm sự với bố là không phải tình cờ mà nó
chọn đi về chuyên khoa bổ hình mà chủ yếu là phẫu thuật bàn tay. Chẳng phải chỉ
vì Toản có tâm hồn nghệ sĩ, là tay chơi guitare classic có hạng mà nó biết quý
bàn tay của nó. Với Toản chức năng đôi bàn tay là một biểu tượng vô cùng quý
giá của cuộc sống lao động và nghệ thuật. Khác với bố và các bạn đồng lứa, Toản
may mắn được trời cho đôi bàn tay vàng. Ông giáo sư dạy Toản đã phải thốt ra
như vậy. Trong mọi trường hợp từ thông thường tới những “cas” mổ đầy thử thách,
qua từng nét rạch đường cắt rất tiết kiệm, trường hợp nào cũng được đánh giá
như là đạt tới mức nghệ thuật -- “state of art”. Từ lâu Toản đã bị thuyết phục
bởi tên của một bác sĩ chỉnh hình Anh Paul Brand, phục vụ tại Ấn độ, người mà
không phải chỉ với tài năng mà còn cả với niềm tin và sự tận tụy can đảm đã có
nhiều cống hiến to lớn trong lãnh vực phẫu thuật phục hồi bàn tay cho người
bệnh Hansen, đem lại hy vọng cho hàng triệu người bệnh trên khắp thế giới. Toản
đã thích thú theo dõi các công trình của Brand trong suốt bốn thập niên qua.
Gần đây Toản cũng đã vô cùng xúc động khi lần đầu tiên được đọc một cuốn sách
tiếng Việt xuất bản ở hải ngoại của một linh mục nói về thực trạng bi thảm của
những những trại cùi ở quê nhà nhất là ở miền Bắc. Toản tâm niệm sẽ không phải
Brand hay một bác sĩ ngoại quốc nào khác mà là chính Toản và các bạn sẽ là
thành viên của Chiến dịch Phục hồi Hy vọng -- Mission Restore Hope. Toản mơ một
giấc mơ năm 2000, bệnh Hansen không còn là vấn đề y tế công cộng nơi quê nhà.
Toản tâm sự với bố là gần đây
đã liên tiếp nhận được những thư và các cú điện thoại mời mọc từ Colorado,
Boston, Houston để về làm việc tại Á châu, ưu tiên là ở Việt Nam với những điều
kiện hết sức là hấp dẫn: lương khởi đầu 6 digits nghĩa là trên trăm ngàn đô la
một năm, đi kèm theo bao nhiêu những bảo đảm quyền lợi khác kể cả không phải
đóng thuế khi làm việc ở hải ngoại. Toản có thái độ dứt khoát: nếu chỉ vì mục
đích làm giàu, con chẳng cần phải trở về Việt nam. Họ cũng cho con biết đã có
những phái đoàn Bác sĩ Mỹ gốc Việt, không phải chỉ có nhóm lớn tiếng ồn ào như
Lê Hoàng Bảo Long mà còn những toán khác “có đầu óc hơn” âm thầm lặng lẽ đi về
chuẩn bị cho mạng lưới y tế thị trường này. Cơ sở đầu tiên sẽ là bệnh viện
Thống Nhất, sẽ được tân trang và upgrade đúng tiêu chuẩn Mỹ và bác sĩ hoàn toàn
được đào tạo tại Mỹ. Không có gì thay đổi là bệnh viện ấy vẫn ưu tiên điều trị
cho các cán bộ cao cấp. Chỉ có khác và “đổi mới” cho phù hợp với kinh tế thị
trường, đây còn là nơi chữa trị cho khách ngoại quốc có bảo hiểm giàu tiền bạc
thuộc bốn biển năm châu. Nam Triều tiên có, Tàu Đài Loan có Tàu Hồng kông có,
Mỹ Pháp, Uc Gia nã đại, có đủ cả. Làm sao bảo đảm sức khỏe cho họ với tiêu
chuẩn cao nhất để họ yên tâm khai thác làm ăn và cả hưởng thụ trên khắp ngõ
ngách của Việt Nam từ ải Nam quan cho đến mũi Cà Mau. Và đây cũng là món lợi
nhuận béo bở không phải chỉ có các hãng bảo hiểm Mỹ đang muốn nhảy vào mà phải
kể tới đám bác sĩ Mỹ gốc Việt cũng đang nao nức rất muốn “về giúp Việt
nam.”
Chưa qua tuổi 30, Toản suy nghĩ
trong sáng độc lập và tự tin trên bước đường dấn thân của nó. Không hẳn là
Chính đã đồng ý, nhưng lại rất hiểu tính cứng cỏi độc lập của con, Chính không
muốn có lần đụng độ thứ hai giữa hai bố con. Chính tạm yên tâm khi thấy con
mình cho dù với chọn lựa nào cũng thôi thúc bởi những động lực trong sáng, nó
không thể lẫn vào đám bọn người cơ hội. Và theo một nghĩa nào đó, Chính thấy
hơi ganh tỵ với tuổi trẻ và sự cả tin đến trong suốt của con; rồi cho đó như
một ý nghĩ kỳ quái anh lắc đầu tự mỉm cười khi một mình lái xe đổ dốc trên con
đường về... Hơn một lần viếng thăm Cali, nhưng mỗi chuyến đi đều đem lại cho
Chính những cảm tưởng đổi mới của những cộng đồng Việt nam rất sinh động. Thay
vì chỉ hơn một giờ bay, Chính đã quyết định thuê một chiếc xe của hãng Hertz từ
phi trường, đích thân lái từ Palo Alto về tới Little Saigon. Chuyến đi hướng về
một thành phố trẻ trung của tương lai nhưng cũng lại là một cuộc hành trình
ngược về quá khứ nhìn lại khoảng thời gian đã mất. Anh nghĩ cho dù trong bối
cảnh lạnh lùng của thực tế chính trị, đương đầu với những vấn đề của Việt Nam
tương lai ở ngưỡng cửa thế kỷ 21, không phải chỉ có vận dụng bộ óc mà phải là
sự hoà hợp với rung động của con tim. Quỷ dữ không chỉ là bóng ma cộng sản mà
ngay chính cõi lòng sao vẫn cứ chai đá của chúng ta.
Tuy chỉ là câu nói đùa của
Thiện nhưng sao vẫn cứ ám ảnh Chính mãi. Rằng nếu có tên quá khích điên khùng
bắn chết Lê Hoàng Bảo Long, chắc Little Saigon sẽ buồn bã biết chừng nào. Chắc
rồi cũng phải tìm cho ra một Lê Hoàng Bảo Long thứ hai. Không có chống cộng thì
còn đâu là sự sinh động của Little Saigon. Chỉ có điều cộng sản thì ẩn hiện,
lúc nào mục tiêu cũng di động và xảo quyệt, vô hình chung bọn chúng đã khiến
các tay xạ thủ chống cộng cũng di chuyển để rồi tự nguyện sắp theo đội hình
vòng tròn tự lúc nào và dĩ nhiên ngay từ loạt súng đầu tiên tổn thất có thể
kiểm kê được là nơi chính các đồng bạn... Chính có dự định sẽ gặp Thiện -- tác
giả của Project 2000, nhằm kết hợp toàn y giới ở hải ngoại mà Chính cho là táo
bạo và hấp dẫn với quan niệm “vận dụng và chuyển hoá tài lực của thế giới thành
tài lực của Việt Nam, khai thông những hưng thịnh của thế giới chuyển đổ về quê
hương, thực hiện vận mạng Việt Nam bằng những phương tiện của thế
giới”...
Dự trù hình thành một tổ hợp vô
vị lợi, mỗi y nha dược sĩ đóng 2000 mỹ kim như một phần khấu trừ thuế rất nhỏ
trong phần thuế khóa rất lớn mà họ đóng góp hàng năm trên các vùng đất tạm dung
đang cưu mang họ, thì với một ngàn người tham gia số tiền hành sự đã lên đến 2
triệu đô la tiền mặt, với tiềm năng ấy thì không có việc gì mà Hội y nha dược
Thế giới không làm được, từ đáp ứng tức thời như cứu trợ đồng bào nạn nhân
trong bạo loạn ở Los Angeles, nạn nhân bão lụt thiên tai ở đồng bằng sông Cửu
Long, đến các công trình dài hạn như xây dựng Convention Center - Nhà Văn hoá
Công viên Việt Nam cạnh thủ đô Little Sài gòn, tham gia dứt điểm một dự án y tế
của OMS thanh toán bệnh Hansen ở Việt Nam vào năm 2000...
Chính thấy rằng chỉ ngay trong trái
tim Tiểu Sài Gòn ấy giữa đa số thầm lặng đã có biết bao nhiêu người có lòng có
cái tâm thành: ông Đại tá chỉ huy đơn vị cũ với thành tích 14 năm tù mới sang
được tới Mỹ trong tình trạng sức khỏe suy kiệt chẳng biết lo thân đã ngồi viết
ngay thư đầu tiên liên lạc với Chính yêu cầu anh với uy tín sẵn có giúp ông vận
động dựng lại được bức tượng Thương Tiếc để mọi người không quên những người
lính đã chết. Tiến người bạn đồng môn, gốc tráng sinh Bạch Mã chỉ có hai niềm
say mê: phục hồi phong trào Hướng Đạo Việt Nam tại hải ngoại cho giới trẻ và
thiết lập một bệnh viện Việt Nam đầu tiên trên đất Mỹ. Nguyễn lớp đàn anh của
Chính, tuổi ngót 60 rồi mà vẫn còn độc thân, vẫn bền bỉ trong bấy nhiêu năm
liền là người bạn thiết tận tụy của thuyền nhân và cũng là thầy thuốc miễn phí
của giới văn nghệ sĩ các gia đình H.O. Liên một bác sĩ muộn màng mới từ đảo qua
đang sống mái ngày đêm đèn sách để trở lại hành nghề nhưng vẫn tích cực mơ ước
thực hiện một tượng đài vĩ đại Mẹ Bồng Con lao vào đại dương theo nước non ngàn
dặm ra đi -- biểu tượng cho một cuộc di dân khổng lồ của 2 triệu người Việt đi
khai sinh một siêu Việt Nam trong lòng thế giới... và còn biết bao nhiêu, bao
nhiêu những điển hình và ý nghĩ tốt đẹp khác nữa, vậy mà -- Chính tự hỏi, tại
sao anh và các bạn vẫn lạc nhau trong bóng đêm của “kiêu khí, đố kỵ và mê
chướng,” lại vẫn theo ngôn từ của Thiện.
Bao nhiêu chục năm rồi, Chính
vẫn là con người trăn trở, vẫn là trí thức chứng nhân của những bi kịch của một
thời nhiễu nhương và lừa dối hào nhoáng. Giữa rất nhiều ồn ào và tiếng động của
ngôn từ sa đọa và những thực tế chính trị giả dối, nhiều lúc Chính cũng muốn
tĩnh lặng, từ bỏ những suy nghĩ khúc mắc, chỉ làm khổ chính anh và cảm tưởng
như cũng chẳng ích gì cho ai; nhưng như vậy thì anh đâu còn là Chính nữa. Trước
sau anh vẫn là anh, con người của xác tín. Dùng ngôn từ của điện toán, thì con
người anh đã được thảo chương -- programmed, chẳng thể nào mà nói đến chuyện
đổi thay, chỉ có thể anh sẽ nhạy cảm hơn, chấp nhận đối thoại với những khác
biệt mà anh tin rằng vẫn có thể có đoàn kết, cho dù đó là một liên kết nhiều
màu sắc -- rainbow coalition, và theo anh sự đa dạng chính là chất men của sáng
tạo.
Anh hiểu rằng số người còn theo và
ủng hộ anh ngày càng ít đi. Không ra mặt chống anh nhưng họ tách ra và mỗi
người chọn đi theo hướng riêng của họ. Riêng anh chắc hẳn rằng trong suốt phần
cuộc đời còn lại, anh sẽ vẫn cứ đi trên con đường thẳng băng đã vạch ra cho dù
quạnh quẽ. Sự mau quên và thỏa hiệp của những người Việt hải ngoại -- mà anh
cho là thương tổn tới nhân cách chính trị và quyền tỵ nạn của họ, cộng thêm với
sự vui mừng quá độ của người dân trong nước trước những điều được gọi là “đổi
mới” chỉ làm cho anh thêm đau lòng. Rồi ra ai thì cũng tìm cách thích nghi để
mà tồn tại, cuộc sống ngồn ngộn bản năng thì vẫn cứ dễ dàng thay da đổi màu và
bừng bừng đi tới.
Số rất ít người cứng rắn nguyên tắc
và nhất quán như anh hình như đang có nguy cơ trở thành một chủng loại hiếm hoi
sắp bị tiêu diệt - endangered species. Chính còn lại bà mẹ già bên Việt Nam,
mái tóc đã trắng bạc như sương. Anh mơ một giấc mơ đơn giản, cũng chỉ mong đất
nước thanh bình để kịp về thăm mẹ, về thăm ngôi làng cũ, ngắm đàn trẻ thơ nô
đùa nơi sân trường làng, và hạnh phúc biết bao nhiêu khi được trở lại khám bệnh
chăm sóc cho những nông dân thân thuộc bao giờ cũng đôn hậu và chất phác mà y
phí có khi chỉ là một nải chuối ít trái cây hay mấy hột gà tươi. Ước mơ có gì
là cao xa đâu nhưng sao vẫn ở ngoài tầm tay và có vẻ như còn rất xa vời. Bởi vì
anh vẫn dứt khoát tự nhủ lòng mình anh sẽ không thể và không bao giờ trở lại
quê hương như một kẻ bàng quan, một khách du lịch hay tệ hơn nữa như một tên
mại bản với vênh vang áo gấm về làng. Mặc dầu rất muốn gặp mẹ nhưng anh vẫn
không thể nào về với tâm cảnh và ngoại cảnh bây giờ.
Kể từ giữa thập niên 70, cùng
với sự xụp đổ của miền Nam, là một làn sóng ồ ạt dân tỵ nạn Đông Dương rải ra
khắp nước Mỹ, nhưng đông đảo nhất vẫn là tiểu bang Cali. Khó khăn của những
người tới sớm không phải là ít. Từ ngoài các căn cứ Pendleton, Fort Chaffee
không phải chỉ có những bảo trợ người Mỹ giàu lòng bác ái tới giúp đỡ họ mà cả
không thiếu những người điạ phương kỳ thị thù ghét trù ẻo và muốn đuổi họ về
nước. “We Don’t Want them, May They Catch Pneumonia and Die…”. Và Trong đám
người tỵ nạn ấy đã có các đồng nghiệp của Chính. Cho tới nay con số bác sĩ Việt
Nam lên tới 2000 chỉ riêng ở Mỹ, chưa kể một số không ít khác sống ở Canada,
Pháp và Uc châu và một số nước khác.
Hơn 2500 bác sĩ trên tổng số 3000 của
toàn miền Nam đã thoát ra khỏi xứ, không khác một cuộc tổng đình công của toàn
ngành y tế, liên tục kéo dài từ 75 tới nay. Chính cũng biết rất rõ anh là một
trong số ít người đã vận động và lãnh đạo một cách có hiệu quả cuộc đình công
dài bất tận một cách không tiền khoáng hậu ấy. Chính sẽ lần lượt ghé thăm: San
Jose thung lũng điện tử hoa vàng, Los Angeles thành phố thiên thần nhưng lại
sắp kết nghĩa với thành phố mang tên Hồ chí Minh, Orange thủ đô tỵ nạn chống
cộng với Sài gòn Nhỏ và San Diego nơi nổi tiếng khí hậu tốt nhất thế giới – đều
là những nơi có đông đảo người Việt, và con số ấy tiếp tục gia tăng không phải
chỉ bởi những người mới tới; mà còn do hiện tượng “di dân lần thứ hai” của
những người Việt đã tới sinh sống ở những tiểu bang khác, cuối cùng rồi cũng
lựa chọn trở về Cali nơi có nắng ấm, có khí hậu nhiệt đới giống Việt nam như ở
Đà lạt, họ nói với nhau như thế.
Tiêu chuẩn hoá, đó là đặc tính rất
Mỹ. Thành phố lớn nhỏ nào ở Mỹ thì cũng rất giống nhau, với những trạm săng,
các siêu thị và những tiệm fast food Mac Donald. Đi vào những phố chợ Việt nam
sầm uất ngay trên đường Bolsa là thấy những tiệm phở, các siêu thị lớn nhỏ,
phòng mạch bác sĩ, hiệu thuốc tây, các văn phòng luật sư và dĩ nhiên cả những
tòa báo. Các đồng nghiệp của Chính đã có mặt ngay từ đầu trong số đông đảo
những người tới sớm. Họ biểu tượng cho một tập thể trí thức khoa bảng, được sự
giúp đỡ của chương trình tỵ nạn như mọi người, đa số đã mau chóng trở lại hành
nghề trong những điều kiện hết sức thuận lợi. Sau đó phải chi ai cũng có trí
nhớ tốt về những cảm xúc đầu tiên khi dứt bỏ hết mọi thứ bất kể sống chết ra
đi. Chính còn nhớ như in về những ngày ở trên đảo, Ngạn đã nhiều lần tâm sự là
chỉ mong có ngày đặt chân tới Mỹ anh chẳng bao giờ còn mơ ước tới một nơi nào
xa hơn nữa, cũng chẳng hề có cao vọng trở lại nghề cũ mà hạnh phúc nếu có là
được hít thở không khí tự do, được sống như một con người và được khởi sự lại
từ đầu, gây dựng mái gia đình bằng sức lao động của tay chân, hy sinh cho tương
lai thế hệ những đứa con.
Nhưng sự thể lại tốt hơn với mong
đợi, chính Ngạn bằng trí thông minh nghị lực làm việc và dĩ nhiên cả may mắn
nữa, chỉ trong một thời gian ngắn anh là một trong số những người trở lại hành
nghề rất sớm. Là bác sĩ ở Mỹ có nghĩa là đã thuộc vào thành phần xã hội trung
lưu trên cao, địa vị hoàn cảnh của họ là ước mơ ngay cả đối với rất nhiều người
dân Mỹ bản xứ. Nhưng Ngạn và một số người khác đã không dừng lại ở đó. Và điều
gì phải đến đã đến.
Hậu quả là một cuộc ruồng bố được
mệnh danh là “gian lận y tế lớn nhất trong lịch sử tiểu bang Cali”. Để trở
thành tin tức hàng đầu nơi trang nhất của báo chí và các đài truyền hình khắp
nước Mỹ. Mới chín năm từ ngày xụp đổ cả miền Nam đang còn là một cơn ác mộng
chưa nguôi, biến cố tháng Hai 1984 là một cơn mộng dữ thứ hai nhưng với bản
chất hoàn toàn khác. Chưa bao giờ hai chữ Việt Nam lại được nhắc tới nhiều như
thế trong suốt tuần lễ. Cũng chưa bao giờ quá khứ bị đối xử tàn nhẫn đến như
thế. Cảnh tượng hàng loạt bác sĩ dược sĩ trong đó có Ngạn bị các cảnh sát sắc
phục còng tay ngoài đường, bêu trước nắng gió đã bị báo chí Tivi Mỹ khai thác
triệt để. Ai cũng cảm thấy bị thiệt hại về mặt thanh danh, cộng thêm với những
cảm giác bất an và sợ hãi.
Rõ ràng sau đó đã có một làn sóng
nguyền rủa của người dân bản xứ nhắm chung vào người Việt tỵ nạn. Trong các
xưởng hãng bọn sỗ sàng trực tiếp thì xách mé gọi các đồng nghiệp Việt Nam là đồ
ăn cắp, hoặc gián tiếp hơn họ cắt những bản tin với hình ảnh đăng trên báo Mỹ
đem dán lên tường chỗ có đông các công nhân Việt Nam làm việc. Những người dân
Việt bình thường lương thiện, tới Mỹ với hai bàn tay trắng, đang tạo dựng lại
cuộc sống từ bước đầu số không, bằng tất cả ý chí và lao động cần mẫn của đôi
bàn tay nay bỗng dưng trở thành nạn nhân oan khiên của kỳ thị và cả khinh bỉ.
Có người uất ức quá đã phải la lên: hỡi các ông trí thức khoa bảng ơi, ngay từ
trong nước bao giờ và ở đâu thì các ông cũng là người sung sướng, sao các ông
không có mặt ở đây để nhận lãnh sự nhục nhã này...
Chuyện xảy ra đã hơn mười năm rồi mà vẫn
tưởng như mới hôm qua, như một flashback nặng nề diễn ra trong đầu óc Chính.
Hiện giờ anh cố chủ động thoát ra khỏi những ngưng đọng của ký ức về một giai
đoạn bi ai quá khứ. Đưa tay bấm nút tự động hạ mở kính xe, gió biển thổi cuộn
vào trong lòng xe vỗ phần phật. Trời xanh biển xanh, vẫn màu xanh thiên thanh
ấy, có gì khác nhau đâu giữa hai bờ đại dương này. Khổ hải vượng dương, hồi đầu
thị ngạn. Ở đâu thì nỗi khổ cũng mênh mông, nhìn lại chẳng thấy đâu là
bờ.
Con đường 101 dọc theo bờ biển
Thái Bình dương lúc này lại gợi nhớ Quốc lộ 1 bên kia đại dương trên đất nước
thân yêu của chàng. Vẫn những giọt nước ấy là nước mắt và làm nên biển cả,
những dải cát sáng long lanh như thủy tinh, những ruộng muối trắng, những hàng
dừa xanh. Quê hương của trí nhớ đó sẽ đẹp đẽ biết bao nhiêu nếu không có những
khúc phim hồi tưởng của “dọc đường số 1”, của “đại lộ kinh hoàng”, của “những
dải cát thấm máu” ở những ngày cuối tháng Ba 1975. Little Saigon vẫn được coi
là thủ đô của những người Việt tỵ nạn. Theo nghĩa nào đó là một Sài gòn nối
dài.
Nếu khảo sát về địa dư chí, thì như
một điều trớ trêu của lịch sử, tên người Việt Nam đầu tiên đến ở quận Cam rất
sớm này lại là một người Việt xấu xí -- có tên là Phạm Xuân Ẩn, một đảng viên
cộng sản. Bề ngoài anh ta là một ký gỉa của tuần báo Times trong suốt 10 năm,
nhưng điều mà không ai được biết là từ lâu anh vốn là một điệp viên cao cấp của
Hà Nội. An đã từng được học bổng của Bộ ngoại giao đi du học tại Mỹ vào cuối
những năm 50, học xong An đi tham quan khắp nước Mỹ rồi trở về sống ở quận Cam;
sau đó trở lại Sài Gòn làm cho hãng thông tấn Reuters của Anh, rồi tuần báo
Times của Mỹ cho tới những ngày cuối của miền Nam. Mãi sau này người ta mới
được biết Ẩn đã gia nhập phong trào Việt minh rất sớm từ những năm 40, khởi từ
vai trò một giao liên chẳng có gì là quan trọng để rồi cuối cùng trở thành một
điệp viên chiến lược qua mắt được bao nhiêu mạng lưới CIA với danh hiệu phóng
viên rất an toàn của một tờ báo Mỹ uy tín...
Hiện giờ đã có tới khoảng ba
trăm ngàn người Việt đang chiếm chỗ của Ẩn trước kia. Còn riêng Ẩn thì lại đang
sống lặng lẽ ở Sài Gòn, tiếp tục là chứng nhân cho cuộc cách mạng thất bại mà Ẩn
đã trung thành và toàn tâm phục vụ trong suốt hơn 40 năm. Trở về với thực tại
của quận Cam hôm nay, nếu Ẩn có dịp trở lại đây chắc cũng chẳng thể nào nhận ra
chốn cũ. Biến từ một khu phố chết với những vườn cam xác xơ, nay trở thành một
Sài Gòn Nhỏ trẻ trung và sầm uất. Con em của những người Việt mới tới, ngay từ
thế hệ di dân thứ nhất đã rất thành công trong học vấn và nâng tiêu chuẩn giáo
dục địa phương cao thêm một bước mới. Chúng tốt nghiệp từ đủ khắp các ngành.
Hơn cả giấc mộng Đông Du, chỉ trong khoảng thời gian chưa đầy hai thập niên,
nước Việt Nam tương lai có cả một đội ngũ chuyên viên tài ba để có thể trải ra
cùng khắp.
Trong kiếp sống lưu dân, chưa
làm được gì trực tiếp cho quê hương nhưng, Chính vẫn có thể mơ một Giấc Mộng
Con Năm 2000. Trải qua bao nhiêu hội nghị, Chính có cảm tưởng anh và các bạn
vẫn như những người không nhà cho dù các nơi tạm trú đều là những đệ nhất khách
sạn không dưới bốn sao. Chuyến đi thực tế này, dự định rằng là bước khởi đầu
vận động hình thành không phải chỉ là một mái nhà cho hội y sĩ, mà bao quát hơn
là một convention center, một toà Nhà Văn hoá, một viện Bảo tàng một Công viên
Việt Nam. Đó phải là công trình biểu tượng có tầm vóc, sẽ được thực hiện ưu
tiên qua từng giai đoạn. Nếu nghĩ rằng ngôi Đình là biểu tượng cho cái thiện
của làng, thì khu Công viên Văn hoá ấy là biểu tượng cho cái gốc tốt đẹp không
thể thiếu của các thế hệ di dân Việt Nam từ những ngày đầu đặt chân tới lục địa
mới của cơ hội này, nó sẽ như một mẫu số chung rộng rãi cho một cộng đồng hải
ngoại đang rất phân hóa, giúp đám trẻ hãnh tiến hướng Việt tìm lại được cái căn
cước đích thực của tụi nó.
Dự phỏng rằng Công viên Văn hóa sẽ
được thiết lập trong vùng tây nam Hoa kỳ, tọa lạc trên một diện tích rộng lớn
phía bờ nam của xa lộ 22 và 405 tiếp ráp với khu Little Saigon. Đó là nơi có
khả năng giới thiệu một cách sinh động những nét đặc thù của văn hóa Việt qua
những bước tái thể hiện các giai đoạn lịch sử hào hùng và cả bi thảm của dân
tộc Việt từ buổi sơ khai lập quốc. Đây không phải thuần chỉ là công trình của
một Uỷ ban Đặc nhiệm, gồm tập hợp những tinh hoa trí tuệ của mọi ngành sinh
hoạt. Đó phải là một công trình của toàn thể những người Việt tự do ở hải ngọai,
không phân biệt màu sắc cá nhân phe nhóm. Bước khởi đầu đơn giản chỉ một đô la
cho mỗi đầu người mỗi năm, thì chúng ta đã có hơn một triệu mỹ kim cộng thêm
với hai triệu mỹ kim nữa của Hội y nha dược, Hội chuyên gia và các giới doanh
thương. Sẽ không phải là nhỏ với ba triệu đô la mỗi năm để làm nền móng khởi
đầu cho Dự Án 2000 ấy.
Ngũ niên đầu là giai đoạn sở hữu một
khu đất đủ lớn cho nhu cầu quy hoạch Công viên Văn hoá với một convention
center là công trình xây cất đầu tiên: đó như một cái nôi cho sinh hoạt cộng
đồng văn hoá và nghệ thuật. Chính cứ vẫn phải nghe một điệp khúc đến nhàm chán
rằng người Việt Nam không đủ khả năng tạo dựng những công trình lớn có tầm vóc.
Viện cớ rằng do những cuộc chiến tranh tàn phá lại cộng thêm với khí hậu ẩm mục
của một Á châu nhiệt đới gió mùa, đã không cho phép tồn tại một công trình nhân
tạo lớn lao nào. Nhưng bây giờ là trên đất nước Mỹ và Chính muốn chứng minh
điều đó không đúng. Yếu tố chính vẫn là con người. Làm sao có được một giấc mơ
đáng gọi là giấc mơ. Để rồi cái cần thiết là chất xi măng hàn gắn và nối kết
những đổ vỡ trong lòng... Chính đã hơn một lần chứng tỏ khả năng lãnh đạo một
tập thể trí tuệ nhất quán không làm gì trong suốt hai thập niên qua; bây giờ
thì anh đang đứng trước một thử thách ngược lại, vận dụng sức mạnh cũng của tập
thể ấy để phải làm một cái gì nếu không phải ở trong nước thì cũng ở hải ngoại,
trong một kế hoạch ngũ niên cuối cùng của thế kỷ trước khi bước sang thế kỷ 21.
Một ngũ niên có ý nghĩa của kế hoạch và hành động thay vì buông xuôi. Chỉ qua
một vài bước thăm dò Chính cảm nhận được ngay rằng quả là dễ dàng để mà đồng ý
với nhau khỏi phải làm gì nhưng vấn đề bỗng trở nên phức tạp hơn nhiều khi bước
vào một dư án cụ thể đòi hỏi sự tham gia và đóng góp của mỗi người kéo theo bao
nhiêu câu hỏi “tại sao và bởi vì” từ ngay chính những người bạn tưởng là đã rất
thân thiết của anh đã cùng đi với nhau suốt một chặng đường.
Hội nghị Palo Alto sẽ là một trắc
nghiệm thách đố không phải của riêng anh mà là của toàn thể y giới Việt nam hải
ngoại. Thay vì đứng ngoài bàng quan hội Y sĩ Thế giới sẽ tiên phong trực tiếp
tham gia ngay từ bước đầu hình thành Công viên Văn hoá ấy. Đó là một chuẩn bị
thao dượt, như một ấn bản gốc cho mô hình của viện bảo tàng chiến tranh Việt
Nam của ISAW. Người Mỹ có dự án ISAW (Institute for the Study of American Wars)
thiết lập một Quảng trường Hào hùng tại Maryland gồm một chuỗi viện bảo tàng
liên quan tới bẩy cuộc chiến tranh, mà người Mỹ đã trực tiếp can dự kể từ ngày
lập quốc. Dĩ nhiên trong đó có chiến tranh Việt Nam, cũng là cuộc chiến tranh
duy nhất có chính nghĩa mà miền Nam Việt Nam và Mỹ đã bị thua. Cung cấp dữ kiện
đi tìm đáp số cho những câu hỏi vấn nạn tại sao sẽ phải là nội dung của viện
bảo tàng tương lai này.
Hai triệu người thoát ra khỏi nước
bằng một cuộc di dân vĩ đại, họ không thể chấp nhận cuộc thất trận lần thứ hai
khác lâu dài và vĩnh viễn tại Valor Park với lặp lại những gian dối lịch sử
cũng vẫn do người cộng sản chủ động sắp xếp. Không phải chỉ là vấn đề ai thắng
ai; nhưng đó là nhân cách chính trị của hai triệu người di dân tỵ nạn đang phấn
đấu cho một thể chế chính trị tự do nơi quê nhà. Và Chính quan niệm những bước
hình thành khâu viện bảo tàng Việt Nam tại ISAW phải được khởi đầu từ dự án khu
Công viên Văn hoá Việt nam năm 2000 ngay giữa thủ đô tỵ nạn. Đó là một phác
thảo và chọn lọc tất cả các hình ảnh tài liệu và chứng tích của các giai đoạn
Việt Nam Tranh đấu sử. Đó là nơi giúp thế hệ trẻ hướng Việt tìm lại khoảng thời
gian đã mất, giúp chúng hiểu được tại sao chúng lại hiện diện trên lục địa mới
này.
Giữa hai bố con Chính đang âm thầm
diễn ra tranh chấp về trận địa của những giấc mơ. Giấc mơ của Toản thì xa hàng
vạn dặm mãi tận bên quê nhà. Giấc mơ nào là không thể được, bên trong hay bên
ngoài? Hiện thực của giấc mơ nào đi nữa không phải chỉ do hùng tâm của một
người mà là ý chí của cả một tập thể cùng nhìn về một hướng, cùng trông đợi và
ước ao niềm vui của sự thành tựu. Riêng Chính thì đang ao ước không phải để có
một ngôi đền thờ phụng, mà là một mái ấm của Trăm Họ Trăm Con, nơi ấy sưu tập
và lưu trữ những giá trị của quá khứ, nơi hội tụ diễn ra sức sống sinh động của
hiện tại, và là một điểm tựa thách đố hướng về tương lai, chốn hành hương cho
mỗi người Việt Nam đang sống bất cứ ở đâu trong lòng của thế giới.
NGÔ THẾ VINH
Little Saigon 01/1995 – 04/2025