Thursday, May 22, 2025

Trần Thị Nguyệt Mai: Mai Em

Tưởng nhớ nhà văn Trần Hoài Thư,

một năm anh rời cõi tạm

 


Trần Hoài Thư & Trần Thị Nguyệt Mai 

(Ảnh PCH, Virginia, tháng 1.2016)

 

Tin anh Trần Hoài Thư mất đã được nhà thơ Phạm Cao Hoàng thông báo cùng bạn bè đúng một tháng sau ngày chị Nguyễn Ngọc Yến, người vợ dấu yêu của anh ra đi (27-4-2024), vào sáng ngày thứ Hai 27-5-2024 cũng là ngày lễ Chiến sĩ trận vong (Memorial Day) của Hoa Kỳ. Một trùng hợp thật ngẫu nhiên. Nhà văn nhà thơ Trần Hoài Thư là một sĩ quan thuộc QLVNCH ngày xưa và khi định cư ở Mỹ, anh cũng là một chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, đã cùng anh Phạm Văn Nhàn, một đồng đội và bạn văn thời trước, xuất bản tạp chí Thư Quán Bản Thảo và thành lập nhà xuất bản Thư Ấn Quán với chủ trương khôi phục và vực dậy di sản văn chương miền Nam. Nay thì người Chiến sĩ ấy đã trận vong. Thật buồn!

Nhưng tôi không bất ngờ. Vì hôm dự tang lễ chị Yến, nhìn dáng anh liêu xiêu không gậy chống, tôi rất xót xa và như cảm thấy ngày ấy của anh đã gần kề.  Anh vốn gầy, bây giờ gầy hơn, má hóp, da sậm hơn... Lại thêm, những lúc sau này, mỗi khi nói chuyện điện thoại, anh hay than bị short breath và mệt. Những câu chuyện không còn kéo dài như xưa.

 

Theo lời kể của anh Phạm Văn Nhàn, lẽ ra TQBT đã ngưng từ sau số 96 chủ đề Tạp Ghi Tiền Tuyến: Hòn đảo vàng Văn học miền Nam (tháng 12/2021) vì tình hình sức khỏe của anh THT. Nhớ lại ngày 11.11.2021, anh gửi text message cho tôi: “Anh ở bệnh viện 2 ngày. Tình trạng nguy kịch đã qua. Báo tin em hay. Hai ngày chỉ vào nước biển”. Nhưng rồi hai tháng sau, anh lại cố gắng tiếp tục thực hiện giai phẩm TQBT 97: Ký giả Lô Răng Phan Lạc Phúc & Tạp ghi Văn nghệ (tháng 2/2022). Anh chia sẻ anh chuyển tạp chí TQBT sang hình thức giai phẩm vì hợp với sức khỏe của anh hơn, khi nào khỏe thì anh làm và không cần chờ những sáng tác mới của thân hữu. Tiếp đến giai phẩm TQBT 98 (tháng 5/2022) ra mắt với chủ đề truyện ngắn Sơn Nam trong tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm. Anh bày tỏ trong Thư Tòa Soạn:

Truyện của Sơn Nam rất nhiều, đăng rải rác trên các nhật báo hay tuần báo thủ đô.

Mặc dù có sự nỗ lực tìm tòi để cho ra đời ba tuyển tập truyện ngắn Sơn Nam, nhưng vẫn có một số nhiều truyện không tìm thấy trong các tuyển tập này.

Nhận thấy nếu không sưu tập là cả một thiệt thòi rất lớn cho nền văn học nước nhà, nên chúng tôi cố gắng cho ra đời giai phẩm 98 Thư Quán Bản Thảo để đăng lại một số truyện quý hiếm của nhà văn Sơn Nam mà chúng tôi tìm thấy trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm.

Qua những truyện chúng tôi nghiền ngẫm, nhà văn Sơn Nam không những là nhà văn của Nam Bộ mà còn là nhà văn lớn của Việt Nam. Ông nghe, đọc, tìm hiểu, dùng kinh nghiệm bản thân để làm chất liệu. Bằng chứng Ma Bình Định hay Đẹp Xưa không dính dáng gì đến Nam Bộ của ông.

 

Gout rồi stroke hành hạ không làm anh nản. Tháng 7/2022, anh lại cho ra đời giai phẩm TQBT 99: Giới thiệu tạp chí Chỉ Đạo & Tưởng nhớ bằng hữu khuất bóng với sự góp sức của anh Nhàn.

Và cuối cùng tạp chí TQBT số 100 (tháng 9/2022) đã đạt thành như mong đợi của anh và bằng hữu, cũng là lúc anh bị chẩn đoán ung thư hạch bạch huyết (Lyphoma), tuy chưa biết lành hay ác tính, vì còn chờ khám nghiệm.

 

Anh tâm sự, lúc đó anh thật buồn. Nhưng khi xem trong youtube chương trình America's Got Talent có người thiếu nữ 31 tuổi bị ung thư ác tính với nghệ danh Nighbirde (tên thật Jane Marczewski) hát bài It’s OK do chính cô sáng tác nói về trải nghiệm cá nhân trong việc duy trì cái nhìn tích cực về cuộc sống sau khi được chẩn đoán mắc bệnh ung thư, khiến người hâm mộ và ban giám khảo cảm động, nên được trao giải Golden Buzzer, anh đã thay đổi cách nhìn.

 

Khi con số 100 đã thành một huyền thoại

Tôi chào mừng em, người em bất tử

Em dám thách thức tử thần

Không phải đánh bại tumor

Mà lấy tiếng hót của con chim nhốt trong lòng mà hát ca, thì thầm, an ủi

đừng sợ đừng sợ nghe chim

Đừng nao núng, nghe THT

Mình có thời gian ít ỏi

Hãy lấy niềm vui thay vì nước mắt

Thêm một email đến giữa lúc tôi bâng khuâng

Cháu chỉ còn thiếu số Văn Học 156, mà lại là số khá quan trọng ạ. Mà tiếc quá vì chắc không ai còn.

Cháu hy vọng sau này vẫn có thể tìm được, và bổ sung cho việc nghiên cứu sau này của cháu ạ.

Hiện tại, cháu đang bổ sung và chỉnh sửa luận án tiến sĩ để bảo vệ vào tầm tháng 11 năm nay bác ạ.

Cháu cảm ơn bác rất nhiều vì đã giúp cháu ạ.

….

Tôi quyết định xé bìa

in lại con số 100 từ màu đen thành màu xanh.

(Trần Hoài Thư – Con số 100)

 

Bằng ý chí, anh đã lấy lại sức mạnh. Liên tiếp những số TQBT ra đời chỉ cách nhau 1 hoặc 2 tháng:

- Giai phẩm TQBT tháng 10/2022: Những nhà văn nhà thơ sống và viết ở Phan Thiết, Bình Thuận, tuy không được đánh số nhưng được ngầm hiểu là số 101 với nội dung do anh Phạm Văn Nhàn sưu tập và biên soạn.

- Giai phẩm TQBT 102 (11/2022): Hành trình của dòng sông – Mừng sinh nhật thứ 100 của nhà văn Doãn Quốc Sỹ.

- Giai phẩm TQBT 103 (1/2023): Thơ văn những người cộng tác nữ giới & Viết về nhà văn Kinh Dương Vương.

- Giai phẩm TQBT 104 (3/2023):  Giới thiệu nhà văn Vương Hồng Sển & Tạp chí Phổ Thông

- Giai phẩm TQBT 105 (4/2023):  Chơn Hạnh - Trần Xuân Kiêm -- Phần phê bình Trần Thiện Đạo & Thụy Khuê về dịch phẩm Những Ruồi của Phùng Thăng.

- Giai phẩm TQBT 106 (5/2023): Thơ Cung Trầm Tưởng trước 1975.

 

Lúc này anh nhận được tin bác sĩ cho biết ung thư hạch không còn nữa nên anh vui lắm. Ngày 24.6.2023, từ New Jersey anh đi Houston (Texas) thăm anh Phạm Văn Nhàn và những thân hữu ở đó, mang theo Giai phẩm TQBT Thi văn hợp tuyển "Hương tình khổ nạn" của Trần Hoài Thư (6/2023) để làm quà tặng bạn bè với lời giới thiệu:

Cuốn sách này ra đời như là một chia sẻ nỗi vui buồn trùng trùng điệp điệp cũng như niềm hạnh phúc vô biên của một lão già 81 tuổi. Vẫn còn làm thơ viết văn, tự in, tự đóng, làm bìa cứng, hầu gởi tặng những người mà tác giả quý mến. THT”.

Khi trở về, nghĩ tới những dự án tương lai, anh khoe mới mua máy cắt, để từ nay anh in được những cuốn sách dày hơn mà không cần phải dùng nhiều sức...

 

Niềm vui không được bao lâu. Sau đó là những ngày anh không được khỏe, liên tiếp vào ra bệnh viện, vì bị xuất huyết. Do đó, bác sĩ Trần Quí Thoại (con anh) quyết định mổ cắt bỏ cuống gan để anh không còn lo bị xuất huyết và cả stroke. Anh chia sẻ: “Cuộc mổ gan 10 ngày trước, những phản ứng sau khi một phần bộ phận trong cơ thể phải bị vất đi, đã làm tôi mất sức. Ba tuần trong bệnh viện chỉ là juice, liquid, và ống thông tiểu với những cơn đau xé trời khi nước tiểu phải bí, phải nhỏ ra từng giọt, và những sáng chiều với những mũi kim đâm lụi, như những máy dò mìn tìm chỗ an toàn... Tôi không còn biết ngày biết đêm khi nhìn ra khung cửa bệnh viện nữa. Tôi là con thuyền bị nước tràn vào, và bao quanh tôi là những y tá bên cửa kính chờ tát nước. Hai ngày hôn mê, mà cảm thấy đau xé ở dương vật vì nước tiểu không thoát, do sự tước đoạt một phần lá gan... Rồi bỗng hai người phụ y tá tự nhiên mang dụng cụ thông tiểu, rồi hô 1, 2, 3, khi đút vào dương vật... Rồi ống cống bị chặn nay khai thông... Sau cả 15 phút, người trợ tá đưa cái bịch nylon lên để tôi hiểu tại sao. Cả một bịch chừng 2 lít nước vàng khè... Tôi nghe nhẹ nhõm. Cánh tay tìm lấy những ngón tay người y công siết mạnh, cám ơn em...

(trích từ giai phẩm TQBT 107)

 

Không còn “máy lọc” chất dơ trong máu, từ nay anh phải dùng thuốc xổ mỗi ngày để tống hết chất độc (cùng lúc với dưỡng chất), nên cơ thể anh chẳng còn giữ lại gì cả, trong khi anh vốn đã yếu, hàm răng không còn cái nào, đã từ lâu, chỉ ăn được những món thật mềm, uống nước súp, hay sữa Ensure... Nhưng anh đã chống chỏi được với lục phủ ngũ tạng hư hại thảm thương một thời gian dài, quả thật là một sự mầu nhiệm. Mọi người đều nói ý chí của anh rất mạnh khiến anh vượt qua những bệnh tật.

 

Anh lại tiếp tục cho ra đời những cuốn mới sau lần mổ gan:

- Biểu Nhất Lãm Văn Học Cận Đại của Thanh Lãng. Sách được chụp lại, chữ xấu, nhiều chỗ nhòa.

- Tiểu thuyết của Thanh Lãng. Bản in bằng ronéo, phổ biến trong sinh viên.

- Giai phẩm TQBT số 106 (10/2023) [do anh Trần Hoài Thư đánh nhầm, nên có tới hai số 106], chủ đề Thanh Lãng. Nhiều trang giới thiệu luận án tiến sĩ của L.M Thanh Lãng.

- Giai phẩm TQBT 107 (11/2023): “Dấu Yêu”, thơ văn hợp tuyển của Trần Hoài Thư.

- Giai phẩm TQBT: "Hạt Vàng Đã Mất" của Mai Thảo (12/2023).

- “Phao”, tập thơ cuối cùng của Trần Hoài Thư (4/2024), với những dòng chữ đề tặng:

Cho em và con – hai nguồn thơ vô tận, đồng thời cũng là chiếc phao giúp ta mưu sinh và thoát hiểm. Qua em, anh tập therapy về tình yêu. Qua con, với những viên thuốc mầu nhiệm.

 

Ngày 22/1/2024, anh Trần Hoài Thư gửi cho tôi “Một bài thơ cũ mà mới” qua email.

 

Mai Em

 

Bây giờ là 3 AM.
Anh đang ngồi trước máy
Gõ những trang cuối cùng cho số chủ đề về Sáng Tạo
Anh mừng, thật là mừng
Đã 180 trang rồi Mai Em
Không biết kỳ này bỏ bài nào đi bài nào
Bài nào cũng giá trị

Anh em mình khi không mà lao vào con đường hệ lụy
Anh không biết làm cách gì để em đỡ lo
Ngày sang ngày chừng ấy văn thơ
Anh cảm thấy cuộc đời đen tối quá
Anh ao ước phải chi mình trúng số
Mướn thầy cò, sửa morasse thay em

 

Bây giờ là 3 AM
Sau khi lo giúp chị Y. làm
vệ sinh cá nhân
Sau khi chúc chị Y. tiếp tục ngủ ngon
Anh xuống dưới hầm nhà
Mở lại cái máy
Mở lại trang đang viết
lỡ dở
À, mừng quá đi thôi
Anh tìm thêm một vòng hoa để vinh danh Sáng
Tạo ở trang đầu

Vòng hoa về nhóm
Vòng hoa về sự kết đoàn
Vòng hoa về tình bạn

Anh viết như thế này:

 

Chưa bao giờ có một tạp chí mà nhóm lại kết đoàn, và mãi đến sau mấy mươi năm, những người trong nhóm lại xem như niềm hãnh diện.
Phải
, chưa bao giờ có một nhóm đã ngồi lại với nhau, dù những dị biệt, mỗi người một ý, để thẳng thắn trao đổi, thảo luận và để lại cho lịch sử văn học miền Nam bốn cuộc thảo luận về văn học nghệ thuật.

Nhớ rằng lúc ấy là vào năm 1960, chứ không phải vào những năm mà talawas đã lợi dụng Internet như là một diễn đàn thảo luận cách đây khoảng 10 năm hơn. Dù sôi nổi, dù mỗi người một ý, nhưng những cuộc trao đổi trên “forum” không còn để lại dấu vết. Chỉ có Sáng Tạo. Sáng Tạo cách đây 50 năm hơn, đã làm một chuyện phi thường. Dù kẻ khen người chê. Dù người không thích, kẻ thích. Nhưng ít ra, nó cũng thực hiện một hiện tượng lịch sử.

Tại sao tôi nghĩ vậy. Bởi vì tôi cũng đã từng có mặt trong những cuộc thảo luận talawas. Bởi vì tôi có kinh nghiệm ngay trên tạp chí này. Nhóm Thư Quán Bản Thảo. Trước đây bốn người, nay chỉ còn hai. Bởi vì chúng tôi không thể dung nạp những ý kiến dị biệt lại với nhau, vì chủ trương của tờ tạp chí.

Tôi rút từ kinh nghiệm của mình để nói lên một điều mà tôi cho là đẹp nhất của Sáng Tạo. Đó là sự kết đoàn. Kết đoàn từ số 1 đến số cuối cùng, và mãi đến bây giờ.

Khó có một tạp chí nào lại có một tập họp gắn bó keo sơn lại với nhau như vậy.

Và THƯ QUÁN BẢN THẢO cũng tiếp tục những gì mà Sáng
Tạo đã đi: Đoàn kết, Tình thân. Và Tình yêu văn chương vô bờ bến.

Thưa anh Trần Hoài Thư rất kính mến,

Những gì anh mong mỏi đã thành tựu viên mãn. Tất cả mọi người đều như thấy có sự hiện diện của anh trong ngày tang lễ. Làm sao giải thích được lúc đi đến nhà quàn ở New Jersey ngày thứ Bảy (8/6), ba nhóm trong tiểu bang Virginia xuất phát từ ba ngả khác nhau lại cùng dừng chân và gặp nhau ở Delaware Rest Area. Những cái ôm thật chặt từ những người mới gặp nhau lần đầu mà tưởng như đã quen nhau từ lâu. Ngoài những chia sẻ về anh trong tang lễ từ các anh Phạm Cao Hoàng, Phạm Văn Nhàn, Nguyễn Minh Nữu, Tô Thẩm Huy, Trần Trung Đạo, ... làm mọi người rất xúc động; trong bữa tiệc thân mật tại nhà anh chị Phạm Cao Hoàng vào hôm sau (9/6), những chia sẻ từ các anh Phạm Văn Nhàn, Tô Thẩm Huy, Phạm Cao Hoàng, chị Lãm Thúy và bạn Thục Uyên, thêm một lần nữa, khẳng định điều này.

Bằng nghị lực, bằng tình yêu, anh cùng chị Yến đã làm hết sức mình cho văn học Việt Nam thời chiến (1954-1975), trả lại cho những người cầm bút ở miền Nam, nhất là những người Lính VNCH đã ngã xuống trên các trận tuyến, một vị trí xứng đáng, góp phần đập tan những luận điệu tuyên truyền của “bên thắng cuộc” gán ghép, nào là văn chương thực dân mới, nọc độc, đồi trụy, phản động, v.v...

Anh đã lo cho chị Yến, người yêu dấu nhất đời của anh, đến giây phút cuối cùng.

Giờ đây anh hãy an nghỉ.

Xin vĩnh biệt anh!

 

Trần Thị Nguyệt Mai

Tháng 6/2024

 

Monday, May 19, 2025

Trịnh Y Thư: Những bản sao

  


Tiếng chuông reo inh ỏi và khi cô Parker bước đến chỗ loa phát thanh [1], một giọng nói giận dữ vang lên với giọng Bắc Ireland nghe the thé:

    “Gọi Farrington lên đây ngay cho tôi!”

    Cô Parker quay lại bàn máy của mình nói với gã đàn ông đang ngồi viết ở bàn làm việc:

    “Ông Alleyne gọi ông lên lầu có việc.”

    Gã đàn ông lẩm bẩm “Đồ chết tiệt!” Vừa nói vừa thở hắt ra ngao ngán, gã đẩy ghế ra đằng sau để đứng dậy. Khi đứng lên, gã có một thân hình cao lớn, khuôn mặt thõng thượi màu rượu sẫm, đôi lông mày và ria mép màu vàng nhạt, cặp mắt hơi lồi và lòng trắng trông bẩn bẩn. Gã nhấc quầy lên đi ngang qua vài khách hàng rồi bước ra khỏi văn phòng với bước chân nặng nề.

    Gã bước những bước nặng nề chậm chạp lên cầu thang đến tầng lầu thứ hai, nơi có một cánh cửa trên gắn tấm biển đồng khắc hàng chữ Mr. Alleyne. Gã dừng lại, thở hổn hển vì khó nhọc và bực bội, đoạn gõ cửa. Một giọng nói the thé vang lên:

    “Cứ vào!”

    Gã đàn ông bước vào phòng ông Alleyne. Cùng lúc, ông Alleyne, một người đàn ông vóc dáng nhỏ thó đeo kính trắng gọng vàng, mặt mày râu ria nhẵn nhụi, ngẩng đầu bên trên một đống giấy tờ sổ sách. Cái đầu màu hồng hồng không một sợi tóc trông giống như một quả trứng to. Ông Alleyne không để mất một giây phút nào:

    “Farrington? Ý nghĩa của việc này là thế nào? Tại sao tôi luôn phải phàn nàn về anh? Tại sao anh vẫn chưa sao chép bản hợp đồng giữa Bodley và Kirwan, hử? Tôi đã nói với anh là bản hợp đồng phải xong lúc bốn giờ mà.”

    “Nhưng, thưa ngài, ông Shelley nói rằng…”

    Ông Shelley nói rằng… Anh làm ơn nghe những gì tôi nói chứ không phải những gì ông Shelley nói. Anh luôn có lý do này nọ để trốn việc. Anh nghe tôi nói này, nếu bản hợp đồng không được sao chép xong xuôi trước tối nay thì tôi sẽ trình bày vấn đề này với ông Crosbie! Anh có nghe tôi nói gì không?”

    “Dạ nghe, thưa ngài.”

    “Anh có nghe tôi nói gì không? … À, còn vấn đề nhỏ nữa! Nói chuyện với anh như nói với bức tường. Tôi nhắc anh thêm một lần nữa và đây là lần cuối cùng, rằng anh có nửa tiếng đồng hồ để ăn trưa chứ không phải một tiếng rưỡi. Tôi muốn biết anh ăn bao nhiêu đĩa đồ ăn mà mất đến cả tiếng rưỡi đồng hồ mỗi trưa [2]… Anh có nghe tôi nói gì không, hả?”

    “Dạ nghe, thưa ngài.”

    Ông Alleyne lại cúi đầu xuống đống giấy tờ của mình. Gã đàn ông nhìn chằm chằm vào cái hộp sọ bóng loáng đựng bên trong là khối óc điều khiển mọi công việc của Công ty Crosbie & Alleyne, gã ước lượng độ mỏng manh của nó. Bỗng một cơn co thắt mãnh liệt siết cổ họng gã trong vài giây rồi trôi qua, để lại cảm giác khô rát. Gã đàn ông nhận ra cảm giác đó và cảm thấy phải đi tìm rượu uống cho thực đã đời đêm nay. Đã quá giữa tháng và nếu mình hoàn tất bản sao kịp thời hạn, rất có thể ông Alleyne sẽ có món tiền thưởng cho mình. Gã đứng yên, mắt vẫn nhìn chằm chằm vào cái đầu hói trên đống giấy tờ. Đột nhiên, ông Alleyne lật tung đống giấy như đang tìm kiếm thứ gì đó. Đoạn, như thể không hề biết đến sự hiện diện của gã đàn ông cho đến lúc ngẩng đầu lên, ông nói to:

    “Hả? Anh định đứng đó cả ngày à? Farrington, nghe tôi nói này, anh bình tĩnh lại đi.”

    “Thưa, tôi đang đợi để xem…”

    “Tốt lắm, anh không cần đợi xem cái gì cả, xuống lầu làm việc đi.”

    Gã đàn ông bước nặng nề về phía cửa và khi ra khỏi phòng, gã vẫn nghe tiếng ông Alleyne phía sau như xoáy vào tai rằng nếu bản hợp đồng không xong trước tối nay thì vấn đề sẽ đến tai ông Crosbie. Gã trở lại bàn làm việc của mình trong văn phòng tầng dưới và đếm số tờ giấy còn lại phải sao chép. Gã cầm bút lên  nhúng mực nhưng vẫn tiếp tục nhìn bằng đôi mắt thẫn thờ ngờ nghệch vào dòng chữ đang sao chép dở dang: Trong mọi trường hợp, Bernard Bodley nói trên sẽ không được… Trời đang tối dần và trong vài phút nữa người ta sẽ thắp những ngọn đèn ga, lúc đó gã mới có thể viết tiếp được. Gã cảm thấy mình phải làm cái gì cho dịu cơn khát trong cổ họng. Gã đứng dậy khỏi bàn làm việc và nhấc quầy lên như lần trước đoạn đi ra khỏi văn phòng. Lúc đi ngang mặt viên thư ký trưởng, ông ta nhìn gã với ánh mắt dò hỏi.

    “Ông Shelley này, không sao đâu,” gã bảo viên thư ký trưởng,  ngón tay trỏ chỉ ra ngoài đường ý nói chỉ muốn ra ngoài một chút.

    Viên thư ký trưởng liếc nhìn giá treo mũ, thấy mũ treo đầy trên đó bèn không nói gì. Ngay lúc bước ra tới nhà sảnh, gã đàn ông rút chiếc mũ ca-rô kiểu người chăn cừu hay đội ra khỏi túi, đội lên đầu và đi như chạy xuống chiếc cầu thang ọp ẹp. Từ cửa ra vào, gã rón rén đi ở phía bên trong con đường hướng về góc phố và chui tọt vào một cánh cửa. Gã đã vào an toàn trong một căn phòng tối om om của tửu quán O’Neill, đứng trước ô cửa sổ nhỏ nhìn vào quầy rượu với khuôn mặt nóng bừng, rượu thịt màu nâu đen hấp dẫn, gã gọi lớn:

    “Này Pat, anh bạn tốt bụng, cho chúng tôi một g.p. [3] nhé.”

    Người phục vụ đem cho gã một cốc bia đen, gã cầm lên uống một hơi cạn sạch và xin một hạt caraway [4]. Gã ném một đồng cắc lên quầy để mặc người phục vụ mò mẫm tìm nó trong bóng tối, đoạn lặng lẽ chuồn êm ra khỏi căn phòng ấm cúng, hành động lén lút y như lúc bước vào.

    Bóng tối cùng với sương mù dày đặc đang dần buông xuống trời hoàng hôn tháng Hai và những ngọn đèn trên phố Eustace đã thắp sáng. Gã đàn ông bước nhanh qua những ngôi nhà trên phố cho đến khi đến cửa văn phòng, gã tự hỏi liệu mình có thể hoàn tất bản sao kịp thời không. Trên cầu thang, một mùi nước hoa nồng nặc âm ẩm xộc vào mũi gã: rõ ràng là bà Delacour đã đến trong lúc gã lẻn ra tửu quán O’Neill. Gã nhét chiếc mũ lại vào túi và quay trở về văn phòng, tỏ vẻ lơ đãng.

    “Ông Alleyne lại gọi anh lần nữa đấy,” viên thư ký trưởng nghiêm khắc hỏi. “Nãy giờ anh đi đâu?”

    Gã lừ mắt liếc nhìn hai khách hàng đang đứng ở quầy như thể muốn ám chỉ rằng sự hiện diện của họ khiến gã khó trả lời. Vì cả hai khách hàng đều là nam nhân nên viên thư ký trưởng tự cho phép mình mỉm cười.

    “Tôi biết tỏng cái trò đó của anh,” anh ta nói. “Nhưng năm lần trong một ngày thì hơi nhiều đấy, anh liệu thần hồn… Ồ, tốt hơn anh nên trông thật tỉnh táo và lấy bản sao văn kiện thư từ trong hồ sơ vụ Delacour đem lên cho ông Alleyne.”

    Bài phát biểu trước công chúng của viên thư ký trưởng cộng với cơn mệt mỏi sau khi chạy lên lầu và cốc bia đen ực một hơi cạn sạch khiến đầu óc gã đàn ông rối loạn và khi ngồi xuống bàn làm việc để tìm những giấy tờ cần thiết, gã nhận ra nhiệm vụ hoàn tất bản sao hợp đồng trước năm giờ rưỡi là hoàn toàn bất khả. Trời đêm ẩm ướt đang buông xuống và gã ước gì gã đang ngồi trong một tửu quán nào đó, uống rượu với bạn bè giữa ánh sáng chói lòa của đèn khí đốt và tiếng va chạm leng keng của ly cốc. Gã lôi ra tập hồ sơ Delacour và bước ra khỏi văn phòng. Gã hy vọng là ông Alleyne sẽ không phát hiện ra rằng hai lá thư cuối cùng đã bị thất lạc.

    Mùi nước hoa ngào ngạt từ lầu dưới lên đến tận phòng ông Alleyne. Bà Delacour là một phụ nữ trung niên có ngoại hình Do Thái. Người ta bảo rằng ông Alleyne rất ngọt ngào với bà hoặc là với túi tiền của bà. Bà hay đến văn phòng và ở lại rất lâu. Bây giờ bà đang ngồi bên bàn làm việc của ông Alleyne, mùi nước hoa tỏa ra thơm phức khắp phòng, tay bà vuốt ve cán dù và chiếc lông vũ lớn màu đen nhánh trên mũ bà không ngớt rung rinh. Ông Alleyne xoay ghế lại ngồi bắt chân chữ ngũ đối diện bà, bàn chân phải của ông đè lên đầu gối trái. Gã đàn ông đặt tập hồ sơ lên bàn và cúi chào một cách kính cẩn nhưng cả ông Alleyne lẫn bà Delacour đều không để ý đến cái cúi chào của gã. Ông Alleyne lấy ngón tay gõ gõ lên tập giấy tờ rồi búng về phía gã như muốn nói: “Được rồi, anh có thể đi.

    Gã đàn ông quay lại văn phòng dưới lầu và ngồi xuống bàn làm việc. Gã nhìn chòng chọc vào dòng chữ đang sao chép dở dang: Trong mọi trường hợp, Bernard Bodley nói trên sẽ không được

và ngẫm nghĩ thật kỳ lạ ba từ cuối cùng lại bắt đầu bằng cùng một chữ cái [5]. Gã nghe viên thư ký trưởng giục cô Parker phải đánh máy gấp cho xong các lá thư để kịp gửi ra bưu điện. Gã lắng nghe tiếng máy chữ kêu lách cách trong vài phút rồi quay lại việc sao chép bản hợp đồng. Nhưng đầu óc gã không còn tỉnh táo nữa, nó cứ lan man nghĩ đến ánh sáng chói chang và tiếng ly tách leng keng của quán rượu. Đêm nay là đêm uống hot-punch [6]. Gã vật lộn với mấy tờ giấy, và khi đồng hồ điểm năm giờ, gã vẫn còn mười bốn trang chưa chép xong. Đồ chết tiệt! Gã không thể nào làm kịp nữa rồi. Gã muốn chửi thề thật to, muốn đấm mạnh vào cái gì đó. Cơn tức giận khiến gã viết Bernard Bernard thay vì Bernard Bodley và gã phải viết lại từ đầu trên một tờ giấy trắng.

    Uất khí trong người gã dâng lên cực điểm, đến nỗi gã cảm thấy một mình gã có thể dẹp sạch cái văn phòng này. Gã muốn làm cái gì đó, như lao ra ngoài đường tung hê mọi thứ. Tất cả những điều sỉ nhục trong đời khiến gã run lên uất nghẹn vì tủi hận… Gã có thể nói nhỏ với tên thủ quỹ xin tạm ứng trước một món tiền được không? Không đời nào, tên thủ quỹ chẳng tốt lành gì, đếch tốt lành chút nào: hắn ta sẽ không chịu ứng trước đâu… Gã biết mình sẽ gặp những ai và ở đâu: Leonard, O’Halloran và Nosey Flynn.

    Phong vũ biểu về bản chất cảm xúc của gã đã sẵn sàng cho một đợt bạo loạn. Thần trí gã mê muội quay cuồng đến nỗi tên gã được gọi hai lần trước khi gã ngửng đầu lên. Ông Alleyne và bà Delacour đang đứng bên ngoài quầy và tất cả nhân viên trong phòng đều quay mặt lại nhìn như chờ đợi điều gì sắp xảy ra. Gã đứng dậy khỏi bàn làm việc. Miệng ông Alleyne xổ một tràng xỉ vả mắng nhiếc không tiếc lời, ông bảo có hai lá thư bị thiếu trong tập hồ sơ. Gã đàn ông trả lời rằng gã không biết gì về hai lá thư đó, rằng gã đã sao chép trung thực toàn bộ thư từ, văn kiện. Bài chửi rủa tiếp tục: nó sâu độc và dữ dằn đến nỗi gã đàn ông cảm thấy khó có thể kềm chế được nắm đấm của mình giáng xuống cái đầu hói của con người lùn tịt trước mặt:

    “Tôi không biết gì về hai lá thư đó cả,” gã đã trả lời một cách ngu xuẩn.

    Anh-không-biết-gì-cả. Tất nhiên là anh không biết gì cả,” ông Alleyne quát. “Anh làm ơn nói cho tôi biết,” ông nói thêm, đưa mắt liếc qua người phụ nữ bên cạnh như chờ đợi thái độ đồng tình của bà ta, “anh có xem tôi là đồ ngốc không? Anh có nghĩ tôi là đồ ngốc không?”

    Gã đàn ông nhìn từ khuôn mặt người phụ nữ đến cái đầu hói nhỏ hình quả trứng rồi lại nhìn người phụ nữ; và, gần như trước khi gã nhận ra điều đó, lưỡi gã tìm được một khoảnh khắc thích hợp:

    “Thưa ngài, tôi không nghĩ đó là một câu hỏi công bằng để hỏi tôi.”

    Các nhân viên khác trong phòng nín thở. Ai nấy kinh ngạc (cả tác giả câu nói lẫn những người xung quanh đều thấy nó dí dỏm quá sức thôi [7]) và bà Delacour, một người đàn bà vóc dáng khá đẫy đà nhưng trông phúc hậu dễ mến, toét miệng ra cười. Ông Alleyne thì đỏ mặt tía tai như hoa hồng dại và đôi môi ông mấp máy vì cơn thịnh nộ của một chú lùn. Ông dứ dứ nắm đấm vào mặt gã đàn ông cho đến khi nó rung lên như cái núm của một cỗ máy điện:

    “Đồ lưu manh hỗn xược! Đồ lưu manh hỗn xược! Tôi sẽ xử lý anh một cách nhanh gọn! Đợi đấy! Anh phải xin lỗi tôi vì sự hỗn xược của anh hoặc anh sẽ nghỉ việc ngay tức khắc! Anh phải nghỉ việc, tôi bảo cho anh biết, hoặc anh phải xin lỗi tôi!”

 

*

 

Gã đứng ở cửa đối diện văn phòng, chờ xem tên thủ quỹ có đi ra một mình không. Tất cả nhân viên đã ra về và cuối cùng tên thủ quỹ đi ra cùng với viên thư ký trưởng. Rõ chán, hắn đi với thư ký trưởng thì làm sao gã dám mở miệng xin xỏ được điều gì đây. Gã cảm thấy đang ở trong một tình trạng tồi tệ hết sức. Gã đã phải dằn lòng xin lỗi ông Alleyne một cách hèn hạ vì sự hỗn xược của mình nhưng gã biết cái văn phòng này sẽ biến thành tổ ong cho gã. Gã nhớ ông Alleyne đã đuổi cậu bé Peake ra khỏi văn phòng như thế nào để giành chỗ cho cháu trai mình. Gã thấy sôi máu, cơn khát trong cổ họng lại bốc lên và gã thèm được trả thù, gã phẫn nộ với chính mình và với mọi người khác. Ông Alleyne sẽ không bao giờ cho gã nghỉ ngơi một giây một phút nào; cuộc sống gã sẽ trở thành địa ngục. Lần này gã đã tự biến mình thành một kẻ ngu ngốc thực sự. Gã không thể giữ mồm giữ miệng được sao? Gã phải khôn ngoan hơn thế chứ. Nhưng sự thật là, giữa gã và ông Alleyne, họ chưa bao giờ hòa hợp ngay từ đầu, kể từ ngày ông Alleyne nghe lỏm gã nhại giọng Bắc Ireland của ông để pha trò với Higgins và cô Parker: đó chính là khởi đầu của mọi chuyện không mấy vui. Có thể gã đã thử hỏi Higgins xin ứng tiền lương trước, nhưng đời nào hắn ta chấp thuận chuyện đó. Một người phải duy trì cả hai cơ sở, tất nhiên là hắn không thể…

    Gã cảm thấy cái cơ thể to lớn dềnh dàng của mình lại thèm được hưởng sự thoải mái trong một tửu quán nào đó. Sương mù bắt đầu làm gã lạnh cóng và gã tự hỏi liệu mình có thể chui lại vào quán O’Neill gặp thằng Pat không. Không có ít nhất một bob [8] thì đừng hòng. Phải kiếm cho ra tiền. Gã đã tiêu hết đồng xu cuối cùng cho cốc bia đen hồi chiều rồi và chẳng mấy chốc sẽ quá muộn để moi tiền ở bất cứ đâu. Đột nhiên, trong lúc mân mê sợi dây đồng hồ, gã nhớ đến tiệm cầm đồ Terry Kelly trên phố Fleet. Đúng rồi! Tại sao mình không nghĩ ra điều đó sớm hơn nhỉ? Gã nhủ thầm trong lúc bước thật nhanh xuyên qua con ngõ nhỏ Temple Bar. Gã lẩm bẩm trong miệng, tất cả lũ chúng bay đều sa xuống địa ngục vì ta sẽ có một đêm tuyệt vời. Nhân viên tiệm cầm đồ ở Terry Kelly ra giá một crown [9] cho chiếc đồng hồ đeo tay, nhưng gã kỳ kèo đòi sáu shilling; và cuối cùng sáu shilling đã được trao vào tay gã. Gã vui vẻ bước ra khỏi tiệm cầm đồ, mấy đồng shilling gã cầm gọn thành hình trụ nhỏ trong lòng bàn tay. Lối đi bộ trên phố Westmoreland đông nghẹt nam nữ trẻ tuổi tan tầm đang xuôi ngược về nhà và những đứa trẻ áo quần rách rưới chạy lên chạy xuống, miệng rao to tên các tờ báo ấn bản buổi tối. Gã đàn ông luồn lách giữa đám đông, gã nhìn cảnh tượng xung quanh với sự hài lòng tự mãn, các cô gái làm việc văn phòng cũng không thoát được đôi mắt sỗ sàng của gã. Tai gã đầy những tiếng ồn, tiếng chuông xe điện, tiếng sột soạt của những chiếc ròng rọc [10], và mũi gã đã ngửi thấy mùi khói uốn lượn trên cốc hot-punch thơm lừng. Trong lúc đi, đầu gã nhẩm lại câu chuyện thú vị tại văn phòng hồi chiều để kể cho mấy tên bạn nhậu nghe:

    “Thế là tớ cứ nhìn lão ta – tỉnh bơ, cậu biết đấy, rồi nhìn bà ấy. Sau đó, tớ lại nhìn lão một lần nữa – từ tốn, chậm rãi, cậu biết đấy. ‘Thưa ngài, tôi không nghĩ đó là một câu hỏi công bằng để hỏi tôi,’ tớ đã trả lời lão như thế.”

    Nosey Flynn ngồi ở góc thường lệ của mình trong quán Davy Byrne, và khi nghe xong câu chuyện, hắn gọi một cốc rượu đãi Farrington, hắn bảo đó là điều thông minh thú vị nhất mà hắn từng nghe. Farrington đáp trả hắn ta bằng một cốc rượu khác. Một lát sau, O’Halloran và Paddy Leonard bước vào và câu chuyện được lặp lại với hai người này. O’Halloran đãi cả bọn một chầu malt [11] nóng, thuận miệng hắn kể cho cả bọn nghe chuyện hắn bốp chát với viên thư ký trưởng hôm hai người uống rượu tại quán  Callan trên phố Fownes; nhưng vì cuộc đấu khẩu ấy có phong cách của những chàng trai chăn cừu lãng tử trong tập thơ Eclogues [12], nên hắn ta phải thừa nhận rằng nó không thông minh bằng cuộc đấu khẩu của Farrington. Nghe vậy, Farrington liền bảo các trự nhậu cạn ly mau mau để gọi thêm một tua nữa.

    Ngay khi họ đang tíu tít gọi rượu thì một kẻ bước chân vào, chính là Higgins chứ còn ai vào đây! Tất nhiên là hắn ta phải tham gia cuộc vui cùng những người khác. Họ yêu cầu hắn kể lại phiên bản của mình, và hắn đã diễn tả câu chuyện với sự hoạt kê thật hào hứng với năm ly whisky nhỏ giơ lên giơ xuống không ngớt. Mọi người phá lên cười ầm ỹ lúc hắn diễn lại điệu bộ của ông Alleyne vung nắm đấm dứ dứ vào mặt Farrington. Sau đó, hắn còn giả cách làm Farrington, nói rằng, “Đấy, đấy là ông sếp của tớ, các cậu có thấy tuyệt vời không cơ chứ,” trong lúc Farrington nhìn mọi người bằng đôi mắt sùm sụp mờ đục, miệng gã mỉm cười, thỉnh thoảng lại đưa môi dưới lên để thấm những giọt rượu dính vương vãi trên ria mép.

    Khi tua rượu kết thúc, mọi người bỗng ngưng lại. O’Halloran còn tiền trong túi nhưng hai người kia thì hình như không; vì vậy, cả đám tiếc rẻ kéo nhau ra khỏi quán. Ở góc phố Duke, Higgins và Nosey Flynn rẽ trái trong khi ba người kia quay lại thành phố. Mưa rơi lặng lẽ trên những con phố ướt lạnh và khi họ đến tòa nhà Văn phòng Ballast, Farrington đề nghị cả bọn vào Scotch House. Quán đầy người và náo động tiếng nói cười và ly cốc va chạm nhau. Ở cửa ra vào ba người phải đẩy giạt những đứa trẻ bán diêm năn nỉ họ mua giùm và chụm đầu thành một nhóm nhỏ ở góc quầy. Họ chào hỏi những người đứng gần bên. Leonard giới thiệu một cậu trai trẻ tên là Weathers, cậu ta là một artiste nhào lộn và diễn viên múa rối đang biểu diễn tại gánh xiếc Tivoli. Farrington mời tất cả mọi người một tua rượu.

    Gã trai Weathers xin một ly Irish nhỏ pha nước khoáng Apollinaris [14]. Farrington, vốn rành rẽ các loại nước uống và rượu, hỏi các bạn nhậu của mình có muốn một ly pha Apollinaris không, nhưng họ bảo chàng Tim hâm nóng rượu cho họ. Buổi nhậu trở nên hào hứng, mọi người cười nói rôm rả. O’Halloran mời một tua và sau đó Farrington mời thêm một tua nữa, Weathers phản đối cái trò hiếu khách của dân Ireland đó. Cậu ta hứa sẽ đưa họ vào hậu trường gánh xiếc để giới thiệu họ với vài cô gái dễ thương. Nghe vậy, O’Halloran bảo gã ta và Leonard sẽ đi, nhưng Farrington thì chắc không đi đâu vì là người có vợ; đôi mắt đùng đục nặng nề của Farrington lừ lừ nhìn mọi người để tỏ ý rằng gã hiểu mình đang bị trêu chọc. Weathers móc tiền mời mỗi người một cốc rượu nhỏ và hứa sẽ gặp họ sau tại quán Mulligan trên phố Poolbeg.

    Khi quán Scotch House đóng cửa, họ đi vòng qua Mulligan. Họ vào phòng khách ở phía sau và O’Halloran gọi những ly nhỏ đặc biệt nóng cho cả bọn. Mọi người đã bắt đầu cảm thấy ngà ngà say. Farrington vừa định đãi một tua nữa thì Weathers quay lại. Gã cảm thấy nhẹ nhõm khi lần này cậu ta chỉ gọi một cốc bia đắng. Túi tiền đang cạn dần nhưng cả bọn vẫn còn đủ để tiếp tục uống. Ngay lúc đó, hai người đàn bà trẻ đội mũ rộng vành và một chàng trai trẻ mặc vét-tông kẻ ca-rô bước vào ngồi ở một chiếc bàn gần đó.

    Weathers lại chào ba người mới vào rồi quay lại bảo mấy người đó mới đi xem xiếc ở Tivoli ra. Ánh mắt của Farrington cứ liếc về phía một trong hai cô gái trẻ. Có điều gì đó nổi bật nơi ngoại hình của cô. Một chiếc khăn san lớn bằng vải mỏng màu xanh đuôi công quấn quanh mũ và thắt thành một chiếc nơ lớn dưới cằm; cô đeo găng tay màu vàng tươi, dài đến khuỷu tay. Farrington nhìn chằm chằm vào cánh tay nuột nà của cô, hai cánh tay cô cử động liên tục với điệu bộ rất duyên dáng; sau một lúc, cô đáp lại ánh mắt của gã, đôi mắt to màu nâu sẫm liếc xéo đầy biểu cảm khiến gã như mê mẩn tâm thần. Cô liếc nhìn gã một hai lần và khi nhóm người rời khỏi phòng, cô khẽ chạm vào ghế của gã và nói “Ồ, xin lỗi!” bằng giọng London. Gã nhìn theo cô rời khỏi phòng với hy vọng cô ngoái đầu nhìn lại, nhưng gã thất vọng. Gã nguyền rủa cái túi rỗng không tiền của mình và nguyền rủa tất cả những chầu đãi rượu, đặc biệt là những cốc whisky và Apolinaris mà gã đã trả cho Weathers. Nếu có thứ gì gã ghét nhất trên đời thì đó chính là lũ ăn uống chực [15]. Gã tức giận đến nỗi không còn theo dõi được cuộc trò chuyện của bạn bè xung quanh.

    Khi Paddy Leonard gọi tên gã thì gã sực tỉnh và biết rằng họ đang nói về những cuộc đọ sức mạnh. Weathers đang khoe cơ bắp tay trước mặt mọi người, cậu ta khoe khoang đến mức hai người kia phải yêu cầu Farrington đứng ra bảo vệ danh dự quốc gia. Gã cũng xắn tay áo lên khoe cơ bắp tay trước mặt mọi người. Hai cánh tay được kiểm tra và so sánh, cuối cùng, họ đã đồng ý đọ sức. Bàn được dọn sạch và hai người chống khuỷu tay lên bàn, nắm chặt tay nhau. Khi Paddy Leonard hô “Go!” mỗi người phải cố gắng lật tay người kia xuống bàn. Mặt Farrington đanh lại, dồn mọi sức mạnh vào cánh tay.

 


 

Cuộc đấu bắt đầu. Sau khoảng ba mươi giây, Weathers từ từ hạ tay đối thủ xuống bàn. Khuôn mặt màu rượu sẫm của Farrington càng bầm tím hơn vì tức giận và nhục nhã khi bị đánh bại bởi một gã trai trẻ như vậy.

    “Cậu không được dùng sức nặng của cơ thể để ăn gian như thế. Hãy chơi công bằng”, gã nói to với gã trai.

    “Ai chơi không công bằng?” Gã kia đáp trả.

    “Đấu lại! Ba trận, ai thắng hai sẽ thắng cuộc.”

    Cuộc đấu lại bắt đầu. Các mạch máu vằn rõ trên trán Farrington, và sắc diện trắng bệch của Weathers thì chuyển sang màu đỏ hồng [16]. Bàn tay và cánh tay của hai người run rẩy vì gồng lên căng thẳng. Sau một hồi lâu vật lộn, Weathers lại từ từ đưa tay của đối thủ xuống mặt bàn. Có tiếng vỗ tay rào rào từ phía khán giả. Người quản lý đang đứng cạnh bàn, gật gật cái đầu đỏ tía về phía kẻ chiến thắng và nói với vẻ quen thuộc ngu xuẩn:

    “Ồ! Thật là tuyệt vời!”

    “Ông có câm họng lại không thì bảo!” Farrington tức tối nói như quát vào mặt ông ta. “Ông thì biết cái quái gì!” [17]

    “Suỵt, suỵt!” O’Halloran trông thấy vẻ giận dữ hiện trên khuôn mặt Farrington. “Nhanh lên nào, các bạn của tôi ơi. Chúng ta chỉ cần thêm một smahan [18] nhỏ nữa rồi chúng ta sẽ về nhà thôi.”

 

*

 

Gã đàn ông mặt mày rầu rĩ đứng ở chân cầu O’Connell chờ chuyến xe điện Sandymount về nhà. Trong lòng gã đầy giận dữ và thù hận. Gã cảm thấy bị sỉ nhục và bất mãn; thậm chí gã không cảm thấy say; gã chỉ còn hai xu trong túi. Gã nguyền rủa mọi thứ. Gã đã tự làm hại mình trong văn phòng, cầm cố chiếc đồng hồ, tiêu hết tiền; vậy mà không say thì nghĩa là gì. Gã bắt đầu cảm thấy khát nước trở lại và chỉ muốn quay lại cái tửu quán nồng nặc hơi người đó. Gã đã mất thể diện là người đàn ông mạnh mẽ, đã bị đánh bại hai lần bởi một thằng lỏi con. Tim gã trào dâng cơn phẫn nộ và lúc nghĩ đến người phụ nữ đội mũ rộng vành chạm vào người gã và nói Xin lỗi! thì cơn giận khiến gã gần như nghẹt thở.

    Chiếc xe điện thả gã xuống trạm phố Shelbourne và gã cố nhấc thân hình cao lớn của mình xệch xạc đi dọc theo ven tường những dãy nhà. Gã chẳng muốn về nhà. Khi bước vào nhà bằng cửa hông, gã thấy nhà bếp lạnh tanh, ngọn lửa bếp đã gần tàn lụi. Gã ngửng đầu lên thang gác gọi to:

    “Ada! Ada!”

    Vợ gã là một chị đàn bà vóc người nhỏ nhắn, nhưng khuôn mặt sắc lem lẻm, chị hay bắt nạt chồng khi gã tỉnh táo và bị gã bắt nạt lại lúc say sưa. Họ có năm đứa con. Một cậu bé chạy xuống cầu thang.

    “Đứa nào thế?” Gã hỏi to trong lúc cố nhìn thấu vào bóng tối.

    “Con, bố ạ.”

    “Đứa nào? Charlie à?”

    “Không, bố ơi. Tom đây.”

    “Mẹ mày đâu?”

    “Mẹ đang ở ngoài nhà nguyện.”

    “Thế à… Mẹ mày có nhớ làm cơm cho tao ăn không?”

    “Vâng, bố ạ. Con…”

    “Thắp đèn lên. Mày làm gì mà để nhà tối om om thế này? Mấy đứa khác đi ngủ hết chưa?”

    Gã ngồi phịch xuống ghế trong lúc thằng bé đi thắp đèn. Gã bắt  chước giọng nhỏ nhẹ  đều đều của thằng con trai, nửa như nói với chính mình: “Ở ngoài nhà nguyện. Ở ngoài nhà nguyện, làm ơn làm phước giùm tôi!” Khi ngọn đèn thắp lên, gã vung tay đập nắm đấm xuống mặt bàn đánh rầm một cái và hét lên:

    “Dọn cơm ra cho tao ăn!”

    “Để con… đi… nấu cho bố ăn,” thằng bé run rẩy nói.

    Gã nhảy dựng lên giận dữ, tay chỉ vào bếp lửa.

    “Mày định nấu trên cái bếp đó, hả! Ai bảo mày tắt lửa! Chúa ơi, tao phải dạy mày bài học cho chừa cái tật ấy!”

    Gã bước nhanh ra cửa, vớ cây gậy dựng phía sau.

    “Tao đánh cho mày chừa cái tật tắt lửa trong bếp!” Gã vừa nói vừa xắn tay áo lên.

    Thằng bé kêu to, “Ôi, bố ơi! Bố đừng đánh con” và chạy quanh bàn miệng mếu máo khóc, nhưng gã đuổi theo và túm được chiếc áo khoác ngoài của nó. Nó hốt hoảng nhìn quanh nhưng không thấy lối thoát bèn quỳ sụp xuống sàn.

    “Cho chừa cái tật tắt lửa!” Gã vung cao cây gập đập túi bụi lên người thằng bé. “Này! Này! Đồ khốn nạn! Đồ ngu đần!”

    Thằng bé hét lên đau đớn khi cây gậy quất lên đùi mình. Nó chắp hai tay vào nhau, giọng nói run rẩy vì sợ hãi.

    “Ôi, bố ơi! Đừng đánh con nữa, bố ơi! Con sẽ… con sẽ… đọc  kinh Kính mừng cho bố… Con sẽ đọc kinh Kính mừng cho bố, bố ơi, bố đừng đánh con nữa… Con sẽ đọc kinh Kính mừng…”

 

(Trịnh Y Thư dịch từ ấn bản Dubliners, NXB Alfred A. Knoff, 1991.)

 

 

Chú thích của người dịch:

 

[1]  Trong nguyên tác là “the tube”, loại máy liên lạc dùng trong văn phòng thời trước.

 

[2]  Câu này được dịch thoát. Nguyên tác là “How many courses do you want, I’d like to know…”

 

[3]  g.p., a glass (half-pint) of porter: Một cốc bia đen, tiếng lóng hay dùng của dân uống rượu.

[4]  Caraway là một loại thảo mộc hoa màu trắng hạt cay, có mùi nồng. Người ta cho rằng hạt khi nhai có thể đánh bạt mùi rượu trong miệng, và do đó được các tửu quán ở Dublin vào đầu thế kỷ XX cung cấp cho khách hàng.

 

[5]  Trong nguyên tác là “Bernard Bodley be…” Cả ba từ đều bắt đầu bằng chữ “b”.

 

[6]  Hot-punch là một loại đồ uống được làm từ nước nóng, nước ép trái cây, đường và rượu mạnh như rum, brandy hoặc cognac. Cũng có thể bỏ thêm các loại gia vị như hạt nhục đậu khấu, quế, đinh hương hoặc hồi cho tăng mùi vị.

 

[7]  Cụm từ “cả tác giả câu nói lẫn những người xung quanh đều thấy nó dí dỏm quá sức thôi” ngụ ý rằng gã đàn ông thiếu nhận thức về bản thân hoặc hiểu biết khá nông cạn về tính hài hước.

 

[8]  bob: tiếng lóng, ám chỉ đồng shilling.

 

[9]  Một crown bằng ¼ pound, tương đương 5 shillings.

 

[10]  Vào đầu thế kỷ XX, Ireland là một quốc gia lạc hậu thua xa Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha… nhưng Dublin lại là một thành phố có đầy đủ tiện nghi vật chất như xe điện, đèn thắp khí, ô-tô, v.v…

 

[11]  Trong nguyên tác, câu này là “O’Halloran stood tailors of malt, hot…” Trong một câu văn ngắn ngủi, Joyce sử dụng ba từ tiếng lóng trong giới giang hồ tửu quán thời đó: “stand/stood” nghĩa là trả tiền một tua rượu cho những người khác; “tailor” ám chỉ một lượng rượu whisky; và “malt” là rượu whiskey hâm nóng. Điều này phản ánh bầu không khí xã hội của quán rượu, nơi việc đãi rượu người khác theo tua là một cử chỉ biểu hiện tình bạn và sự hào phóng. Nó cũng nhấn mạnh đến văn hóa tửu quán và giao lưu trong câu chuyện, đây là yếu tố trung tâm trong nỗ lực thoát khỏi sự bất mãn của nhân vật chính Farrington với công việc và cuộc sống của gã.

 

[12]  Cụm từ này trong nguyên tác là “… as the retort was after the manner of the liberal shepherds in the Eclogues”, ám chỉ một câu trả lời dí dỏm hoặc vui tươi được đưa ra trong một cuộc trò chuyện tào lao trong quán rượu. Eclogues là tập thơ của đại thi hào Virgil người Roma thời cổ đại, một tập thơ nói về cuộc sống đồng quê thôn dã nơi những chàng trai chăn cừu tham gia vào các cuộc đối thoại thơ ca, thường chứa đựng lối chơi chữ khéo léo và sự bông đùa vui tươi. Bằng cách so sánh lời đáp trả của nhân vật O’Halloran trong truyện với phong cách của “những chàng trai chăn cừu lãng tử,” Joyce làm nổi bật bản chất dí dỏm và phóng túng của cuộc trao đổi. Cụm từ này đắp thêm một lớp mỉa mai cho câu chuyện, vì nó đối lập thế giới cổ điển, cao cả trong thơ của Virgil với bầu không khí trần tục thô lậu của một quán rượu ở Dublin. Sự đối lập này phản ánh tính cách pha trộn đặc trưng của Joyce giữa cái tầm thường với văn học và nhấn mạnh sự căng thẳng giữa khát vọng và thực tế trong cuộc sống các nhân vật của ông.

 

[13]  Trong nguyên tác, câu này là “And here was my nabs, as cool as you please.” Nabs là một từ tiếng lóng có thể ám chỉ một người – có thể là người có thẩm quyền hoặc người được nói đến theo cách quen thuộc hoặc chế giễu. Cụm từ này phản ánh phong cách nói chuyện không mấy tao nhã trong khung cảnh quán rượu đồng thời ám chỉ các chủ đề về động lực quyền lực và tương tác xã hội trong câu chuyện.

 

[14]  Apollinaris là thương hiệu một loại nước khoáng lấy từ nước suối vùng Bad Neuenahr, Đức quốc, được ưa chuộng bên Anh quốc và Ireland.

 

[15]  Trong nguyên tác, Joyce sử dụng từ sponge/ cái bọt biển. Ở bối cảnh này, là kẻ ăn bám, hoặc người chỉ ngồi lại để được uống rượu miễn phí.

 

[16]  Joyce viết “sắc diện của cậu Weathers chuyển sang màu hoa mẫu đơn/ peony.” Tôi không mấy thích lối so sánh như vậy cho một người đàn ông và chỉ giản dị gọi là màu đỏ hồng.

 

[17]  Trong nguyên tác, câu này là “What do you put in your gab for?” Theo một truyền thuyết của người Ireland, hôn Blarney Stone, một khối đá trên tường thành lâu đài Blarney sẽ giúp một người có khả năng nói chuyện dễ dàng và tự tin. Đây chính là nguồn gốc của cụm từ “the gift of the gab/ món quà của sự ăn nói.” Trong ngữ cảnh này, Farrington, đang trong cơn tức giận vì thua đấu, thấy người đàn ông đó chẳng có gì giá trị để nói thêm.

 

[18]  Từ “smahan” là phiên bản phóng đại, vui tươi của từ “samhán” trong tiếng Ireland, có nghĩa là “một chút” hoặc “một lượng nhỏ”. Trong ngữ cảnh này, từ này ám chỉ việc uống thêm một cốc rượu nhỏ nữa trước khi ra về.

  Lời người dịch:

 

Nhân vật Farrington trong truyện ngắn Những bản sao của Joyce là một ngoại lệ. Ở những truyện ngắn khác trong tập truyện Dubliners, Joyce thường vẽ ra những nhân vật luôn mang mặc cảm thua kém, họ mong ước một điều gì đó, nhưng khi đối mặt với trở ngại và nghịch cảnh, họ thất vọng và cuối cùng từ bỏ mong ước của mình trong sự tê liệt. Gã đàn ông trong truyện Những bản sao là một kẻ bất mãn kinh niên, gã xem mọi thứ trên đời là trở ngại cho cuộc sống của mình và không lúc nào ngưng phàn nàn, nguyền rủa. Trước hết là sự nhàm chán của công việc, nó khiến Farrington cảm thấy bức bối, khó chịu, nhưng hầu như mọi thứ gã gặp phải trong cuộc sống hằng ngày cũng vậy. Gốc rễ của hành vi thô bạo đến độ tàn nhẫn của gã là từ đó mà ra. Giải pháp để khắc phục và thoát ra khỏi sự tê liệt của gã là trong men rượu và những cuộc gặp gỡ với các bạn nhậu tại trà đình tửu quán huyên náo tiếng nói tiếng cười. Trong câu chuyện, Farrington lao mình về phía trước như điên rồ mà không lúc nào dừng lại để ngẫm nghĩ về hành động của mình hoặc lý do tại sao mình cảm thấy bất mãn với cuộc đời. Kết quả, gã trở nên càng lúc càng tàn bạo hơn. Khi gã thua Weathers, một “cậu trai” mới lớn, hai trận đấu kéo tay, gã về nhà trút cơn giận lên đứa con trai bé bỏng vô tội của mình và đánh đập nó thật tàn nhẫn. Câu chuyện gợi ý rằng những gì bắt đầu như một sự sao chép tầm thường, mất kiểm soát, biến thành một chu kỳ bạo hành đáng sợ. Tựa đề “Counterparts” trong nguyên tác, ngày nay còn được hiểu là “Đối tác,” nhưng ở bối cảnh của truyện ngắn này, ta chỉ nên hiểu theo ý nghĩa phổ quát của nó là bản sao hoặc bản sao giấy tờ pháp lý, nó chính là công việc của Farrington làm hằng ngày, nhưng nó cũng ám chỉ những thứ tương tự hoặc ngang bằng nhau. Cuộc sống của Farrington là cuộc sống của những bản sao, những bản sao thấp hèn hướng đến những cứu cánh nguy hiểm. Cuộc sống lặp lại chính nó: tại sở làm, tại quán rượu, tại nhà riêng, tất cả là những bản sao. Và sự chảy máu giữa các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống như vậy chắc chắn sẽ xảy ra.

    Tính cách tàn bạo mà những truyện ngắn khác trong Dubliners ám chỉ trở nên rõ ràng hơn trong “Counterparts,” và xuyên suốt câu chuyện, ở bất kỳ sự kiện nào, người đọc cũng thấy cảm xúc giận dữ, bất mãn được thể hiện thật rõ nét nơi nhân vật. Joyce sử dụng các tính từ như nặng nề, đen đúa, bẩn thỉu để miêu tả nhân vật người đàn ông, gã thực sự kiệt sức vì thất vọng và tức giận. Ngay cả đứa con trai ngoan ngoãn cũng không thể vực gã lên nổi, không thể cứu rỗi một tâm hồn băng hoại. Farrington không hề nhận ra rằng hành động của chính gã còn tồi tệ hơn nhiều so với sự mắng chửi của ông chủ gã. Joyce gọi Farrington bằng cả tên lẫn “người đàn ông” trong suốt câu chuyện. Trong một câu, gã là nhân vật Farrington, nhưng ở một câu khác, là “người đàn ông” trên phố, trên tàu, trong văn phòng. Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường.

    Đúng thế, trong lúc dịch truyện “Counterparts,” tôi không thể không nhớ lại thời thơ ấu của tôi. Năm tôi lên mười, nhà tôi ở vùng Khánh Hội, quận IV Sài Gòn trong một khu dân cư lao động. Cạnh nhà tôi là vợ chồng anh đạp xích lô, và cứ vài hôm là tôi thấy anh ta nửa khuya uống rượu say về nhà đánh đập chị vợ dã man đến bầm tím cả mặt mày, vừa đánh anh ta vừa quát mắng chửi rủa om sòm làm náo động cả khu xóm. Gã Farrington của Joyce và anh chồng đạp xích lô cạnh nhà tôi là một mẫu người chung, hiện hữu ở Dublin, ở Sài Gòn, ở Los Angeles, nơi tôi đang sinh sống hiện thời, hay bất cứ nơi chốn nào khác trên mặt hành tinh này, bất cứ thời gian-không gian nào, lúc xưa cũng như bây giờ, và bởi thế những điều Joyce viết cách đây cả trăm năm vẫn hàm chứa một giá trị văn học phổ quát về thân phận con người. (TYT)