Tiếng chuông reo inh ỏi và khi cô Parker bước đến chỗ loa phát
thanh [1], một giọng nói giận dữ vang lên với giọng Bắc Ireland nghe the thé:
“Gọi Farrington lên
đây ngay cho tôi!”
Cô Parker quay lại
bàn máy của mình nói với gã đàn ông đang ngồi viết ở bàn làm việc:
“Ông Alleyne gọi ông
lên lầu có việc.”
Gã đàn ông lẩm bẩm
“Đồ chết tiệt!” Vừa nói vừa thở hắt ra ngao ngán, gã đẩy ghế ra đằng sau
để đứng dậy. Khi đứng lên, gã có một thân hình cao lớn, khuôn mặt thõng thượi màu
rượu sẫm, đôi lông mày và ria mép màu vàng nhạt, cặp mắt hơi lồi và lòng trắng trông
bẩn bẩn. Gã nhấc quầy lên đi ngang qua vài khách hàng rồi bước ra khỏi văn
phòng với bước chân nặng nề.
Gã bước những bước
nặng nề chậm chạp lên cầu thang đến tầng lầu thứ hai, nơi có một cánh cửa trên gắn
tấm biển đồng khắc hàng chữ Mr. Alleyne. Gã dừng lại, thở hổn hển vì khó
nhọc và bực bội, đoạn gõ cửa. Một giọng nói the thé vang lên:
“Cứ vào!”
Gã đàn ông bước
vào phòng ông Alleyne. Cùng lúc, ông Alleyne, một người đàn ông vóc dáng nhỏ thó
đeo kính trắng gọng vàng, mặt mày râu ria nhẵn nhụi, ngẩng đầu bên trên một đống
giấy tờ sổ sách. Cái đầu màu hồng hồng không một sợi tóc trông giống như một quả
trứng to. Ông Alleyne không để mất một giây phút nào:
“Farrington? Ý nghĩa
của việc này là thế nào? Tại sao tôi luôn phải phàn nàn về anh? Tại sao anh vẫn
chưa sao chép bản hợp đồng giữa Bodley và Kirwan, hử? Tôi đã nói với anh là bản
hợp đồng phải xong lúc bốn giờ mà.”
“Nhưng, thưa ngài,
ông Shelley nói rằng…”
“Ông Shelley
nói rằng… Anh làm ơn nghe những gì tôi nói chứ không phải những gì ông
Shelley nói. Anh luôn có lý do này nọ để trốn việc. Anh nghe tôi nói này, nếu
bản hợp đồng không được sao chép xong xuôi trước tối nay thì tôi sẽ trình bày vấn
đề này với ông Crosbie! Anh có nghe tôi nói gì không?”
“Dạ nghe, thưa ngài.”
“Anh có nghe tôi nói
gì không? … À, còn vấn đề nhỏ nữa! Nói chuyện với anh như nói với bức tường. Tôi
nhắc anh thêm một lần nữa và đây là lần cuối cùng, rằng anh có nửa tiếng đồng hồ
để ăn trưa chứ không phải một tiếng rưỡi. Tôi muốn biết anh ăn bao nhiêu đĩa đồ
ăn mà mất đến cả tiếng rưỡi đồng hồ mỗi trưa [2]… Anh có nghe tôi nói gì không,
hả?”
“Dạ nghe, thưa ngài.”
Ông Alleyne lại
cúi đầu xuống đống giấy tờ của mình. Gã đàn ông nhìn chằm chằm vào cái hộp sọ
bóng loáng đựng bên trong là khối óc điều khiển mọi công việc của Công ty Crosbie
& Alleyne, gã ước lượng độ mỏng manh của nó. Bỗng một cơn co thắt mãnh liệt
siết cổ họng gã trong vài giây rồi trôi qua, để lại cảm giác khô rát. Gã đàn
ông nhận ra cảm giác đó và cảm thấy phải đi tìm rượu uống cho thực đã đời đêm
nay. Đã quá giữa tháng và nếu mình hoàn tất bản sao kịp thời hạn, rất có thể ông
Alleyne sẽ có món tiền thưởng cho mình. Gã đứng yên, mắt vẫn nhìn chằm chằm vào
cái đầu hói trên đống giấy tờ. Đột nhiên, ông Alleyne lật tung đống giấy như
đang tìm kiếm thứ gì đó. Đoạn, như thể không hề biết đến sự hiện diện của gã
đàn ông cho đến lúc ngẩng đầu lên, ông nói to:
“Hả? Anh định đứng
đó cả ngày à? Farrington, nghe tôi nói này, anh bình tĩnh lại đi.”
“Thưa, tôi đang đợi
để xem…”
“Tốt lắm, anh không
cần đợi xem cái gì cả, xuống lầu làm việc đi.”
Gã đàn ông bước nặng
nề về phía cửa và khi ra khỏi phòng, gã vẫn nghe tiếng ông Alleyne phía sau như
xoáy vào tai rằng nếu bản hợp đồng không xong trước tối nay thì vấn đề sẽ đến
tai ông Crosbie. Gã trở lại bàn làm việc của mình trong văn phòng tầng dưới và
đếm số tờ giấy còn lại phải sao chép. Gã cầm bút lên nhúng mực nhưng vẫn tiếp tục nhìn bằng đôi mắt
thẫn thờ ngờ nghệch vào dòng chữ đang sao chép dở dang: Trong mọi trường hợp,
Bernard Bodley nói trên sẽ không được… Trời đang tối dần và trong vài phút
nữa người ta sẽ thắp những ngọn đèn ga, lúc đó gã mới có thể viết tiếp được. Gã
cảm thấy mình phải làm cái gì cho dịu cơn khát trong cổ họng. Gã đứng dậy khỏi
bàn làm việc và nhấc quầy lên như lần trước đoạn đi ra khỏi văn phòng. Lúc đi ngang
mặt viên thư ký trưởng, ông ta nhìn gã với ánh mắt dò hỏi.
“Ông Shelley này,
không sao đâu,” gã bảo viên thư ký trưởng,
ngón tay trỏ chỉ ra ngoài đường ý nói chỉ muốn ra ngoài một chút.
Viên thư ký trưởng
liếc nhìn giá treo mũ, thấy mũ treo đầy trên đó bèn không nói gì. Ngay lúc bước
ra tới nhà sảnh, gã đàn ông rút chiếc mũ ca-rô kiểu người chăn cừu hay đội ra
khỏi túi, đội lên đầu và đi như chạy xuống chiếc cầu thang ọp ẹp. Từ cửa ra
vào, gã rón rén đi ở phía bên trong con đường hướng về góc phố và chui tọt vào
một cánh cửa. Gã đã vào an toàn trong một căn phòng tối om om của tửu quán O’Neill,
đứng trước ô cửa sổ nhỏ nhìn vào quầy rượu với khuôn mặt nóng bừng, rượu thịt màu
nâu đen hấp dẫn, gã gọi lớn:
“Này Pat, anh bạn
tốt bụng, cho chúng tôi một g.p. [3] nhé.”
Người phục vụ đem
cho gã một cốc bia đen, gã cầm lên uống một hơi cạn sạch và xin một hạt caraway
[4]. Gã ném một đồng cắc lên quầy để mặc người phục vụ mò mẫm tìm nó trong bóng
tối, đoạn lặng lẽ chuồn êm ra khỏi căn phòng ấm cúng, hành động lén lút y như
lúc bước vào.
Bóng tối cùng với
sương mù dày đặc đang dần buông xuống trời hoàng hôn tháng Hai và những ngọn
đèn trên phố Eustace đã thắp sáng. Gã đàn ông bước nhanh qua những ngôi nhà trên
phố cho đến khi đến cửa văn phòng, gã tự hỏi liệu mình có thể hoàn tất bản sao
kịp thời không. Trên cầu thang, một mùi nước hoa nồng nặc âm ẩm xộc vào mũi gã:
rõ ràng là bà Delacour đã đến trong lúc gã lẻn ra tửu quán O’Neill. Gã nhét chiếc
mũ lại vào túi và quay trở về văn phòng, tỏ vẻ lơ đãng.
“Ông Alleyne lại gọi
anh lần nữa đấy,” viên thư ký trưởng nghiêm khắc hỏi. “Nãy giờ anh đi đâu?”
Gã lừ mắt liếc
nhìn hai khách hàng đang đứng ở quầy như thể muốn ám chỉ rằng sự hiện diện của
họ khiến gã khó trả lời. Vì cả hai khách hàng đều là nam nhân nên viên thư ký
trưởng tự cho phép mình mỉm cười.
“Tôi biết tỏng cái
trò đó của anh,” anh ta nói. “Nhưng năm lần trong một ngày thì hơi nhiều đấy,
anh liệu thần hồn… Ồ, tốt hơn anh nên trông thật tỉnh táo và lấy bản sao văn kiện
thư từ trong hồ sơ vụ Delacour đem lên cho ông Alleyne.”
Bài phát biểu trước
công chúng của viên thư ký trưởng cộng với cơn mệt mỏi sau khi chạy lên lầu và cốc
bia đen ực một hơi cạn sạch khiến đầu óc gã đàn ông rối loạn và khi ngồi xuống
bàn làm việc để tìm những giấy tờ cần thiết, gã nhận ra nhiệm vụ hoàn tất bản
sao hợp đồng trước năm giờ rưỡi là hoàn toàn bất khả. Trời đêm ẩm ướt đang buông
xuống và gã ước gì gã đang ngồi trong một tửu quán nào đó, uống rượu với bạn bè
giữa ánh sáng chói lòa của đèn khí đốt và tiếng va chạm leng keng của ly cốc. Gã
lôi ra tập hồ sơ Delacour và bước ra khỏi văn phòng. Gã hy vọng là ông Alleyne
sẽ không phát hiện ra rằng hai lá thư cuối cùng đã bị thất lạc.
Mùi nước hoa ngào
ngạt từ lầu dưới lên đến tận phòng ông Alleyne. Bà Delacour là một phụ nữ trung
niên có ngoại hình Do Thái. Người ta bảo rằng ông Alleyne rất ngọt ngào với bà
hoặc là với túi tiền của bà. Bà hay đến văn phòng và ở lại rất lâu. Bây giờ bà
đang ngồi bên bàn làm việc của ông Alleyne, mùi nước hoa tỏa ra thơm phức khắp
phòng, tay bà vuốt ve cán dù và chiếc lông vũ lớn màu đen nhánh trên mũ bà
không ngớt rung rinh. Ông Alleyne xoay ghế lại ngồi bắt chân chữ ngũ đối diện bà,
bàn chân phải của ông đè lên đầu gối trái. Gã đàn ông đặt tập hồ sơ lên bàn và
cúi chào một cách kính cẩn nhưng cả ông Alleyne lẫn bà Delacour đều không để ý
đến cái cúi chào của gã. Ông Alleyne lấy ngón tay gõ gõ lên tập giấy tờ rồi búng
về phía gã như muốn nói: “Được rồi, anh có thể đi.”
Gã đàn ông quay lại
văn phòng dưới lầu và ngồi xuống bàn làm việc. Gã nhìn chòng chọc vào dòng chữ đang
sao chép dở dang: Trong mọi trường hợp, Bernard Bodley nói trên sẽ không được…
và ngẫm nghĩ thật kỳ lạ ba từ cuối cùng lại bắt đầu bằng
cùng một chữ cái [5]. Gã nghe viên thư ký trưởng giục cô Parker phải đánh máy gấp
cho xong các lá thư để kịp gửi ra bưu điện. Gã lắng nghe tiếng máy chữ kêu lách
cách trong vài phút rồi quay lại việc sao chép bản hợp đồng. Nhưng đầu óc gã không
còn tỉnh táo nữa, nó cứ lan man nghĩ đến ánh sáng chói chang và tiếng ly tách
leng keng của quán rượu. Đêm nay là đêm uống hot-punch [6]. Gã vật lộn với mấy tờ giấy, và khi đồng hồ điểm năm
giờ, gã vẫn còn mười bốn trang chưa chép xong. Đồ chết tiệt! Gã không thể nào
làm kịp nữa rồi. Gã muốn chửi thề thật to, muốn đấm mạnh vào cái gì đó. Cơn tức
giận khiến gã viết Bernard Bernard thay vì Bernard Bodley và gã phải
viết lại từ đầu trên một tờ giấy trắng.
Uất khí trong người
gã dâng lên cực điểm, đến nỗi gã cảm thấy một mình gã có thể dẹp sạch cái văn
phòng này. Gã muốn làm cái gì đó, như lao ra ngoài đường tung hê mọi thứ. Tất cả
những điều sỉ nhục trong đời khiến gã run lên uất nghẹn vì tủi hận… Gã có thể nói
nhỏ với tên thủ quỹ xin tạm ứng trước một món tiền được không? Không đời nào, tên
thủ quỹ chẳng tốt lành gì, đếch tốt lành chút nào: hắn ta sẽ không chịu ứng trước
đâu… Gã biết mình sẽ gặp những ai và ở đâu: Leonard, O’Halloran và Nosey Flynn.
Phong vũ biểu về bản
chất cảm xúc của gã đã sẵn sàng cho một đợt bạo loạn. Thần trí gã mê muội quay
cuồng đến nỗi tên gã được gọi hai lần trước khi gã ngửng đầu lên. Ông Alleyne
và bà Delacour đang đứng bên ngoài quầy và tất cả nhân viên trong phòng đều
quay mặt lại nhìn như chờ đợi điều gì sắp xảy ra. Gã đứng dậy khỏi bàn làm việc.
Miệng ông Alleyne xổ một tràng xỉ vả mắng nhiếc không tiếc lời, ông bảo có hai
lá thư bị thiếu trong tập hồ sơ. Gã đàn ông trả lời rằng gã không biết gì về hai
lá thư đó, rằng gã đã sao chép trung thực toàn bộ thư từ, văn kiện. Bài chửi rủa
tiếp tục: nó sâu độc và dữ dằn đến nỗi gã đàn ông cảm thấy khó có thể kềm chế
được nắm đấm của mình giáng xuống cái đầu hói của con người lùn tịt trước mặt:
“Tôi không biết gì
về hai lá thư đó cả,” gã đã trả lời một cách ngu xuẩn.
“Anh-không-biết-gì-cả.
Tất nhiên là anh không biết gì cả,” ông Alleyne quát. “Anh làm ơn nói cho tôi
biết,” ông nói thêm, đưa mắt liếc qua người phụ nữ bên cạnh như chờ đợi thái độ
đồng tình của bà ta, “anh có xem tôi là đồ ngốc không? Anh có nghĩ tôi là đồ ngốc
không?”
Gã đàn ông nhìn từ
khuôn mặt người phụ nữ đến cái đầu hói nhỏ hình quả trứng rồi lại nhìn người phụ
nữ; và, gần như trước khi gã nhận ra điều đó, lưỡi gã tìm được một khoảnh khắc
thích hợp:
“Thưa ngài, tôi
không nghĩ đó là một câu hỏi công bằng để hỏi tôi.”
Các nhân viên khác
trong phòng nín thở. Ai nấy kinh ngạc (cả tác giả câu nói lẫn những người xung
quanh đều thấy nó dí dỏm quá sức thôi [7]) và bà Delacour, một người đàn bà vóc
dáng khá đẫy đà nhưng trông phúc hậu dễ mến, toét miệng ra cười. Ông Alleyne thì
đỏ mặt tía tai như hoa hồng dại và đôi môi ông mấp máy vì cơn thịnh nộ của một
chú lùn. Ông dứ dứ nắm đấm vào mặt gã đàn ông cho đến khi nó rung lên như cái núm
của một cỗ máy điện:
“Đồ lưu manh hỗn xược!
Đồ lưu manh hỗn xược! Tôi sẽ xử lý anh một cách nhanh gọn! Đợi đấy! Anh phải
xin lỗi tôi vì sự hỗn xược của anh hoặc anh sẽ nghỉ việc ngay tức khắc! Anh phải
nghỉ việc, tôi bảo cho anh biết, hoặc anh phải xin lỗi tôi!”
*
Gã đứng ở cửa đối diện văn phòng, chờ xem tên thủ quỹ có đi
ra một mình không. Tất cả nhân viên đã ra về và cuối cùng tên thủ quỹ đi ra cùng
với viên thư ký trưởng. Rõ chán, hắn đi với thư ký trưởng thì làm sao gã dám mở
miệng xin xỏ được điều gì đây. Gã cảm thấy đang ở trong một tình trạng tồi tệ hết
sức. Gã đã phải dằn lòng xin lỗi ông Alleyne một cách hèn hạ vì sự hỗn xược của
mình nhưng gã biết cái văn phòng này sẽ biến thành tổ ong cho gã. Gã nhớ ông
Alleyne đã đuổi cậu bé Peake ra khỏi văn phòng như thế nào để giành chỗ cho
cháu trai mình. Gã thấy sôi máu, cơn khát trong cổ họng lại bốc lên và gã thèm
được trả thù, gã phẫn nộ với chính mình và với mọi người khác. Ông Alleyne sẽ
không bao giờ cho gã nghỉ ngơi một giây một phút nào; cuộc sống gã sẽ trở thành
địa ngục. Lần này gã đã tự biến mình thành một kẻ ngu ngốc thực sự. Gã không thể
giữ mồm giữ miệng được sao? Gã phải khôn ngoan hơn thế chứ. Nhưng sự thật là,
giữa gã và ông Alleyne, họ chưa bao giờ hòa hợp ngay từ đầu, kể từ ngày ông
Alleyne nghe lỏm gã nhại giọng Bắc Ireland của ông để pha trò với Higgins và cô
Parker: đó chính là khởi đầu của mọi chuyện không mấy vui. Có thể gã đã thử hỏi
Higgins xin ứng tiền lương trước, nhưng đời nào hắn ta chấp thuận chuyện đó. Một
người phải duy trì cả hai cơ sở, tất nhiên là hắn không thể…
Gã cảm thấy cái cơ
thể to lớn dềnh dàng của mình lại thèm được hưởng sự thoải mái trong một tửu quán
nào đó. Sương mù bắt đầu làm gã lạnh cóng và gã tự hỏi liệu mình có thể chui lại
vào quán O’Neill gặp thằng Pat không. Không có ít nhất một bob [8] thì đừng hòng. Phải kiếm cho ra tiền. Gã đã tiêu hết đồng
xu cuối cùng cho cốc bia đen hồi chiều rồi và chẳng mấy chốc sẽ quá muộn để moi
tiền ở bất cứ đâu. Đột nhiên, trong lúc mân mê sợi dây đồng hồ, gã nhớ đến tiệm
cầm đồ Terry Kelly trên phố Fleet. Đúng rồi! Tại sao mình không nghĩ ra điều đó
sớm hơn nhỉ? Gã nhủ thầm trong lúc bước thật nhanh xuyên qua con ngõ nhỏ Temple
Bar. Gã lẩm bẩm trong miệng, tất cả lũ chúng bay đều sa xuống địa ngục vì ta sẽ
có một đêm tuyệt vời. Nhân viên tiệm cầm đồ ở Terry Kelly ra giá một crown [9] cho chiếc đồng hồ đeo tay, nhưng
gã kỳ kèo đòi sáu shilling; và cuối
cùng sáu shilling đã được trao vào
tay gã. Gã vui vẻ bước ra khỏi tiệm cầm đồ, mấy đồng shilling gã cầm gọn thành hình trụ nhỏ trong lòng bàn tay. Lối đi bộ
trên phố Westmoreland đông nghẹt nam nữ trẻ tuổi tan tầm đang xuôi ngược về nhà
và những đứa trẻ áo quần rách rưới chạy lên chạy xuống, miệng rao to tên các tờ
báo ấn bản buổi tối. Gã đàn ông luồn lách giữa đám đông, gã nhìn cảnh tượng xung
quanh với sự hài lòng tự mãn, các cô gái làm việc văn phòng cũng không thoát được
đôi mắt sỗ sàng của gã. Tai gã đầy những tiếng ồn, tiếng chuông xe điện, tiếng
sột soạt của những chiếc ròng rọc [10], và mũi gã đã ngửi thấy mùi khói uốn lượn
trên cốc hot-punch thơm lừng. Trong
lúc đi, đầu gã nhẩm lại câu chuyện thú vị tại văn phòng hồi chiều để kể cho mấy
tên bạn nhậu nghe:
“Thế là tớ cứ nhìn
lão ta – tỉnh bơ, cậu biết đấy, rồi nhìn bà ấy. Sau đó, tớ lại nhìn lão một lần
nữa – từ tốn, chậm rãi, cậu biết đấy. ‘Thưa ngài, tôi không nghĩ đó là một câu
hỏi công bằng để hỏi tôi,’ tớ đã trả lời lão như thế.”
Nosey Flynn ngồi ở
góc thường lệ của mình trong quán Davy Byrne, và khi nghe xong câu chuyện, hắn gọi
một cốc rượu đãi Farrington, hắn bảo đó là điều thông minh thú vị nhất mà hắn từng
nghe. Farrington đáp trả hắn ta bằng một cốc rượu khác. Một lát sau, O’Halloran
và Paddy Leonard bước vào và câu chuyện được lặp lại với hai người này. O’Halloran
đãi cả bọn một chầu malt [11] nóng, thuận
miệng hắn kể cho cả bọn nghe chuyện hắn bốp chát với viên thư ký trưởng hôm hai
người uống rượu tại quán Callan trên phố
Fownes; nhưng vì cuộc đấu khẩu ấy có phong cách của những chàng trai chăn cừu lãng
tử trong tập thơ Eclogues [12], nên hắn ta phải thừa nhận rằng nó không thông
minh bằng cuộc đấu khẩu của Farrington. Nghe vậy, Farrington liền bảo các trự
nhậu cạn ly mau mau để gọi thêm một tua nữa.
Ngay khi họ đang tíu
tít gọi rượu thì một kẻ bước chân vào, chính là Higgins chứ còn ai vào đây! Tất
nhiên là hắn ta phải tham gia cuộc vui cùng những người khác. Họ yêu cầu hắn kể
lại phiên bản của mình, và hắn đã diễn tả câu chuyện với sự hoạt kê thật hào hứng
với năm ly whisky nhỏ giơ lên giơ xuống không ngớt. Mọi người phá lên cười ầm ỹ
lúc hắn diễn lại điệu bộ của ông Alleyne vung nắm đấm dứ dứ vào mặt Farrington.
Sau đó, hắn còn giả cách làm Farrington, nói rằng, “Đấy, đấy là ông sếp của tớ, các cậu có thấy tuyệt vời không cơ chứ,”
trong lúc Farrington nhìn mọi người bằng đôi mắt sùm sụp mờ đục, miệng gã mỉm
cười, thỉnh thoảng lại đưa môi dưới lên để thấm những giọt rượu dính vương vãi
trên ria mép.
Khi tua rượu kết
thúc, mọi người bỗng ngưng lại. O’Halloran còn tiền trong túi nhưng hai người
kia thì hình như không; vì vậy, cả đám tiếc rẻ kéo nhau ra khỏi quán. Ở góc phố
Duke, Higgins và Nosey Flynn rẽ trái trong khi ba người kia quay lại thành phố.
Mưa rơi lặng lẽ trên những con phố ướt lạnh và khi họ đến tòa nhà Văn phòng
Ballast, Farrington đề nghị cả bọn vào Scotch House. Quán đầy người và náo động
tiếng nói cười và ly cốc va chạm nhau. Ở cửa ra vào ba người phải đẩy giạt những
đứa trẻ bán diêm năn nỉ họ mua giùm và chụm đầu thành một nhóm nhỏ ở góc quầy.
Họ chào hỏi những người đứng gần bên. Leonard giới thiệu một cậu trai trẻ tên
là Weathers, cậu ta là một artiste
nhào lộn và diễn viên múa rối đang
biểu diễn tại gánh xiếc Tivoli. Farrington mời tất cả mọi người một tua rượu.
Gã trai Weathers xin
một ly Irish nhỏ pha nước khoáng Apollinaris [14]. Farrington, vốn rành rẽ các
loại nước uống và rượu, hỏi các bạn nhậu của mình có muốn một ly pha Apollinaris
không, nhưng họ bảo chàng Tim hâm nóng rượu cho họ. Buổi nhậu trở nên hào hứng,
mọi người cười nói rôm rả. O’Halloran mời một tua và sau đó Farrington mời thêm
một tua nữa, Weathers phản đối cái trò hiếu khách của dân Ireland đó. Cậu ta hứa
sẽ đưa họ vào hậu trường gánh xiếc để giới thiệu họ với vài cô gái dễ thương. Nghe
vậy, O’Halloran bảo gã ta và Leonard sẽ đi, nhưng Farrington thì chắc không đi
đâu vì là người có vợ; đôi mắt đùng đục nặng nề của Farrington lừ lừ nhìn mọi
người để tỏ ý rằng gã hiểu mình đang bị trêu chọc. Weathers móc tiền mời mỗi
người một cốc rượu nhỏ và hứa sẽ gặp họ sau tại quán Mulligan trên phố Poolbeg.
Khi quán Scotch
House đóng cửa, họ đi vòng qua Mulligan. Họ vào phòng khách ở phía sau và O’Halloran
gọi những ly nhỏ đặc biệt nóng cho cả bọn. Mọi người đã bắt đầu cảm thấy ngà
ngà say. Farrington vừa định đãi một tua nữa thì Weathers quay lại. Gã cảm thấy
nhẹ nhõm khi lần này cậu ta chỉ gọi một cốc bia đắng. Túi tiền đang cạn dần
nhưng cả bọn vẫn còn đủ để tiếp tục uống. Ngay lúc đó, hai người đàn bà trẻ đội
mũ rộng vành và một chàng trai trẻ mặc vét-tông kẻ ca-rô bước vào ngồi ở một
chiếc bàn gần đó.
Weathers lại chào ba
người mới vào rồi quay lại bảo mấy người đó mới đi xem xiếc ở Tivoli ra. Ánh mắt
của Farrington cứ liếc về phía một trong hai cô gái trẻ. Có điều gì đó nổi bật nơi
ngoại hình của cô. Một chiếc khăn san lớn bằng vải mỏng màu xanh đuôi công quấn
quanh mũ và thắt thành một chiếc nơ lớn dưới cằm; cô đeo găng tay màu vàng
tươi, dài đến khuỷu tay. Farrington nhìn chằm chằm vào cánh tay nuột nà của cô,
hai cánh tay cô cử động liên tục với điệu bộ rất duyên dáng; sau một lúc, cô
đáp lại ánh mắt của gã, đôi mắt to màu nâu sẫm liếc xéo đầy biểu cảm khiến gã
như mê mẩn tâm thần. Cô liếc nhìn gã một hai lần và khi nhóm người rời khỏi
phòng, cô khẽ chạm vào ghế của gã và nói “Ồ, xin lỗi!” bằng giọng
London. Gã nhìn theo cô rời khỏi phòng với hy vọng cô ngoái đầu nhìn lại, nhưng
gã thất vọng. Gã nguyền rủa cái túi rỗng không tiền của mình và nguyền rủa tất
cả những chầu đãi rượu, đặc biệt là những cốc whisky và Apolinaris mà gã đã trả
cho Weathers. Nếu có thứ gì gã ghét nhất trên đời thì đó chính là lũ ăn uống chực
[15]. Gã tức giận đến nỗi không còn theo dõi được cuộc trò chuyện của bạn bè xung
quanh.
Khi Paddy Leonard
gọi tên gã thì gã sực tỉnh và biết rằng họ đang nói về những cuộc đọ sức mạnh.
Weathers đang khoe cơ bắp tay trước mặt mọi người, cậu ta khoe khoang đến mức
hai người kia phải yêu cầu Farrington đứng ra bảo vệ danh dự quốc gia. Gã cũng
xắn tay áo lên khoe cơ bắp tay trước mặt mọi người. Hai cánh tay được kiểm tra
và so sánh, cuối cùng, họ đã đồng ý đọ sức. Bàn được dọn sạch và hai người chống
khuỷu tay lên bàn, nắm chặt tay nhau. Khi Paddy Leonard hô “Go!”
mỗi người phải cố gắng lật tay người kia xuống bàn. Mặt Farrington đanh lại, dồn
mọi sức mạnh vào cánh tay.
Cuộc đấu bắt đầu. Sau khoảng ba mươi giây, Weathers từ từ hạ
tay đối thủ xuống bàn. Khuôn mặt màu rượu sẫm của Farrington càng bầm tím hơn
vì tức giận và nhục nhã khi bị đánh bại bởi một gã trai trẻ như vậy.
“Cậu không được
dùng sức nặng của cơ thể để ăn gian như thế. Hãy chơi công bằng”, gã nói to với
gã trai.
“Ai chơi không
công bằng?” Gã kia đáp trả.
“Đấu lại! Ba trận,
ai thắng hai sẽ thắng cuộc.”
Cuộc đấu lại bắt đầu.
Các mạch máu vằn rõ trên trán Farrington, và sắc diện trắng bệch của Weathers thì
chuyển sang màu đỏ hồng [16]. Bàn tay và cánh tay của hai người run rẩy vì gồng
lên căng thẳng. Sau một hồi lâu vật lộn, Weathers lại từ từ đưa tay của đối thủ
xuống mặt bàn. Có tiếng vỗ tay rào rào từ phía khán giả. Người quản lý đang đứng
cạnh bàn, gật gật cái đầu đỏ tía về phía kẻ chiến thắng và nói với vẻ quen thuộc
ngu xuẩn:
“Ồ! Thật là tuyệt
vời!”
“Ông có câm họng lại
không thì bảo!” Farrington tức tối nói như quát vào mặt ông ta. “Ông thì biết cái
quái gì!” [17]
“Suỵt, suỵt!” O’Halloran
trông thấy vẻ giận dữ hiện trên khuôn mặt Farrington. “Nhanh lên nào, các bạn của
tôi ơi. Chúng ta chỉ cần thêm một smahan
[18] nhỏ nữa rồi chúng ta sẽ về nhà thôi.”
*
Gã đàn ông mặt mày rầu rĩ đứng ở chân cầu O’Connell chờ chuyến
xe điện Sandymount về nhà. Trong lòng gã đầy giận dữ và thù hận. Gã cảm thấy bị
sỉ nhục và bất mãn; thậm chí gã không cảm thấy say; gã chỉ còn hai xu trong
túi. Gã nguyền rủa mọi thứ. Gã đã tự làm hại mình trong văn phòng, cầm cố chiếc
đồng hồ, tiêu hết tiền; vậy mà không say thì nghĩa là gì. Gã bắt đầu cảm thấy
khát nước trở lại và chỉ muốn quay lại cái tửu quán nồng nặc hơi người đó. Gã đã
mất thể diện là người đàn ông mạnh mẽ, đã bị đánh bại hai lần bởi một thằng lỏi
con. Tim gã trào dâng cơn phẫn nộ và lúc nghĩ đến người phụ nữ đội mũ rộng vành
chạm vào người gã và nói Xin lỗi! thì cơn giận khiến gã gần như nghẹt
thở.
Chiếc xe điện thả gã
xuống trạm phố Shelbourne và gã cố nhấc thân hình cao lớn của mình xệch xạc đi
dọc theo ven tường những dãy nhà. Gã chẳng muốn về nhà. Khi bước vào nhà bằng cửa
hông, gã thấy nhà bếp lạnh tanh, ngọn lửa bếp đã gần tàn lụi. Gã ngửng đầu lên thang
gác gọi to:
“Ada! Ada!”
Vợ gã là một chị đàn
bà vóc người nhỏ nhắn, nhưng khuôn mặt sắc lem lẻm, chị hay bắt nạt chồng khi gã
tỉnh táo và bị gã bắt nạt lại lúc say sưa. Họ có năm đứa con. Một cậu bé chạy
xuống cầu thang.
“Đứa nào thế?” Gã
hỏi to trong lúc cố nhìn thấu vào bóng tối.
“Con, bố ạ.”
“Đứa nào? Charlie
à?”
“Không, bố ơi. Tom
đây.”
“Mẹ mày đâu?”
“Mẹ đang ở ngoài
nhà nguyện.”
“Thế à… Mẹ mày có
nhớ làm cơm cho tao ăn không?”
“Vâng, bố ạ. Con…”
“Thắp đèn lên. Mày
làm gì mà để nhà tối om om thế này? Mấy đứa khác đi ngủ hết chưa?”
Gã ngồi phịch xuống
ghế trong lúc thằng bé đi thắp đèn. Gã bắt
chước giọng nhỏ nhẹ đều đều của thằng
con trai, nửa như nói với chính mình: “Ở ngoài nhà nguyện. Ở ngoài nhà nguyện,
làm ơn làm phước giùm tôi!” Khi ngọn đèn thắp lên, gã vung tay đập nắm đấm
xuống mặt bàn đánh rầm một cái và hét lên:
“Dọn cơm ra cho
tao ăn!”
“Để con… đi… nấu cho
bố ăn,” thằng bé run rẩy nói.
Gã nhảy dựng lên
giận dữ, tay chỉ vào bếp lửa.
“Mày định nấu trên
cái bếp đó, hả! Ai bảo mày tắt lửa! Chúa ơi, tao phải dạy mày bài học cho chừa
cái tật ấy!”
Gã bước nhanh ra cửa,
vớ cây gậy dựng phía sau.
“Tao đánh cho mày
chừa cái tật tắt lửa trong bếp!” Gã vừa nói vừa xắn tay áo lên.
Thằng bé kêu to, “Ôi,
bố ơi! Bố đừng đánh con” và chạy quanh bàn miệng mếu máo khóc, nhưng gã đuổi
theo và túm được chiếc áo khoác ngoài của nó. Nó hốt hoảng nhìn quanh nhưng
không thấy lối thoát bèn quỳ sụp xuống sàn.
“Cho chừa cái tật tắt
lửa!” Gã vung cao cây gập đập túi bụi lên người thằng bé. “Này! Này! Đồ khốn nạn!
Đồ ngu đần!”
Thằng bé hét lên
đau đớn khi cây gậy quất lên đùi mình. Nó chắp hai tay vào nhau, giọng nói run
rẩy vì sợ hãi.
“Ôi, bố ơi! Đừng
đánh con nữa, bố ơi! Con sẽ… con sẽ… đọc
kinh Kính mừng cho bố… Con sẽ đọc kinh Kính mừng cho bố, bố
ơi, bố đừng đánh con nữa… Con sẽ đọc kinh Kính mừng…”
(Trịnh Y Thư dịch từ ấn bản Dubliners, NXB Alfred
A. Knoff, 1991.)
Chú thích của người dịch:
[1]
Trong nguyên tác là “the tube”,
loại máy liên lạc dùng trong văn phòng thời trước.
[2] Câu
này được dịch thoát. Nguyên tác là “How many courses do you want, I’d like to know…”
[3] g.p., a glass (half-pint) of porter: Một
cốc bia đen, tiếng lóng hay dùng của dân uống rượu.
[4] Caraway là một loại
thảo mộc hoa màu trắng hạt cay, có mùi nồng. Người ta cho rằng hạt khi nhai có
thể đánh bạt mùi rượu trong miệng, và do đó được các tửu quán ở Dublin vào đầu
thế kỷ XX cung cấp cho khách hàng.
[5] Trong nguyên tác
là “Bernard Bodley be…” Cả ba từ
đều bắt đầu bằng chữ “b”.
[6] Hot-punch là một loại đồ uống được làm từ
nước nóng, nước ép trái cây, đường và rượu mạnh như rum, brandy hoặc cognac. Cũng
có thể bỏ thêm các loại gia vị như hạt nhục đậu khấu, quế, đinh hương hoặc hồi
cho tăng mùi vị.
[7] Cụm từ “cả tác giả
câu nói lẫn những người xung quanh đều thấy nó dí dỏm quá sức thôi” ngụ ý rằng gã
đàn ông thiếu nhận thức về bản thân hoặc hiểu biết khá nông cạn về tính hài hước.
[8] bob: tiếng lóng, ám chỉ đồng shilling.
[9] Một crown bằng ¼ pound, tương đương 5 shillings.
[10] Vào đầu thế kỷ
XX, Ireland là một quốc gia lạc hậu thua xa Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha… nhưng
Dublin lại là một thành phố có đầy đủ tiện nghi vật chất như xe điện, đèn thắp
khí, ô-tô, v.v…
[11] Trong nguyên
tác, câu này là “O’Halloran stood tailors
of malt, hot…” Trong một câu văn ngắn ngủi, Joyce sử dụng ba từ tiếng lóng
trong giới giang hồ tửu quán thời đó: “stand/stood”
nghĩa là trả tiền một tua rượu cho những người khác; “tailor” ám chỉ một lượng rượu whisky;
và “malt” là rượu whiskey hâm nóng. Điều này phản ánh bầu
không khí xã hội của quán rượu, nơi việc đãi rượu người khác theo tua là một cử
chỉ biểu hiện tình bạn và sự hào phóng. Nó cũng nhấn mạnh đến văn hóa tửu quán
và giao lưu trong câu chuyện, đây là yếu tố trung tâm trong nỗ lực thoát khỏi sự
bất mãn của nhân vật chính Farrington với công việc và cuộc sống của gã.
[12] Cụm từ này trong
nguyên tác là “… as the retort was after
the manner of the liberal shepherds in the Eclogues”, ám chỉ một câu trả lời
dí dỏm hoặc vui tươi được đưa ra trong một cuộc trò chuyện tào lao trong quán
rượu. Eclogues là tập thơ của đại thi hào Virgil người Roma thời cổ đại, một tập
thơ nói về cuộc sống đồng quê thôn dã nơi những chàng trai chăn cừu tham gia
vào các cuộc đối thoại thơ ca, thường chứa đựng lối chơi chữ khéo léo và sự
bông đùa vui tươi. Bằng cách so sánh lời đáp trả của nhân vật O’Halloran trong
truyện với phong cách của “những chàng trai chăn cừu lãng tử,” Joyce làm nổi bật
bản chất dí dỏm và phóng túng của cuộc trao đổi. Cụm từ này đắp thêm một lớp mỉa
mai cho câu chuyện, vì nó đối lập thế giới cổ điển, cao cả trong thơ của Virgil
với bầu không khí trần tục thô lậu của một quán rượu ở Dublin. Sự đối lập này
phản ánh tính cách pha trộn đặc trưng của Joyce giữa cái tầm thường với văn học
và nhấn mạnh sự căng thẳng giữa khát vọng và thực tế trong cuộc sống các nhân vật
của ông.
[13] Trong nguyên
tác, câu này là “And here was my nabs, as cool as you please.” Nabs là một từ tiếng lóng có thể ám chỉ
một người – có thể là người có thẩm quyền hoặc người được nói đến theo cách
quen thuộc hoặc chế giễu. Cụm từ này phản ánh phong cách nói chuyện không mấy
tao nhã trong khung cảnh quán rượu đồng thời ám chỉ các chủ đề về động lực quyền
lực và tương tác xã hội trong câu chuyện.
[14] Apollinaris là thương
hiệu một loại nước khoáng lấy từ nước suối vùng Bad Neuenahr, Đức quốc, được ưa
chuộng bên Anh quốc và Ireland.
[15] Trong nguyên tác, Joyce sử dụng từ sponge/ cái bọt biển. Ở bối cảnh này, là kẻ ăn bám, hoặc người chỉ ngồi
lại để được uống rượu miễn phí.
[16]
Joyce viết “sắc diện của cậu Weathers chuyển sang màu hoa mẫu đơn/ peony.”
Tôi không mấy thích lối so sánh như vậy cho một người đàn ông và chỉ giản dị gọi
là màu đỏ hồng.
[17] Trong
nguyên tác, câu này là “What do you put in your gab for?” Theo một truyền thuyết của
người Ireland, hôn Blarney Stone, một khối đá trên tường thành lâu đài Blarney
sẽ giúp một người có khả năng nói chuyện dễ dàng và tự tin. Đây chính là nguồn
gốc của cụm từ “the gift of the gab/ món
quà của sự ăn nói.” Trong ngữ cảnh này, Farrington, đang trong cơn tức giận
vì thua đấu, thấy người đàn ông đó chẳng có gì giá trị để nói thêm.
[18] Từ “smahan” là
phiên bản phóng đại, vui tươi của từ “samhán”
trong tiếng Ireland, có nghĩa là “một chút” hoặc “một lượng nhỏ”. Trong ngữ cảnh
này, từ này ám chỉ việc uống thêm một cốc rượu nhỏ nữa trước khi ra về.
Nhân vật Farrington trong truyện ngắn Những bản sao của Joyce là một ngoại lệ. Ở những truyện ngắn khác
trong tập truyện Dubliners, Joyce thường
vẽ ra những nhân vật luôn mang mặc cảm thua kém, họ mong ước một điều gì đó, nhưng
khi đối mặt với trở ngại và nghịch cảnh, họ thất vọng và cuối cùng từ bỏ mong ước
của mình trong sự tê liệt. Gã đàn ông trong truyện Những bản sao là một kẻ bất mãn kinh niên, gã xem mọi thứ trên đời
là trở ngại cho cuộc sống của mình và không lúc nào ngưng phàn nàn, nguyền rủa.
Trước hết là sự nhàm chán của công việc, nó khiến Farrington cảm thấy bức bối, khó
chịu, nhưng hầu như mọi thứ gã gặp phải trong cuộc sống hằng ngày cũng vậy. Gốc
rễ của hành vi thô bạo đến độ tàn nhẫn của gã là từ đó mà ra. Giải pháp để khắc
phục và thoát ra khỏi sự tê liệt của gã là trong men rượu và những cuộc gặp gỡ
với các bạn nhậu tại trà đình tửu quán huyên náo tiếng nói tiếng cười. Trong
câu chuyện, Farrington lao mình về phía trước như điên rồ mà không lúc nào dừng
lại để ngẫm nghĩ về hành động của mình hoặc lý do tại sao mình cảm thấy bất mãn
với cuộc đời. Kết quả, gã trở nên càng lúc càng tàn bạo hơn. Khi gã thua
Weathers, một “cậu trai” mới lớn, hai trận đấu kéo tay, gã về nhà trút cơn giận
lên đứa con trai bé bỏng vô tội của mình và đánh đập nó thật tàn nhẫn. Câu chuyện
gợi ý rằng những gì bắt đầu như một sự sao chép tầm thường, mất kiểm soát, biến
thành một chu kỳ bạo hành đáng sợ. Tựa đề “Counterparts” trong nguyên tác, ngày
nay còn được hiểu là “Đối tác,” nhưng ở bối cảnh của truyện ngắn này, ta chỉ
nên hiểu theo ý nghĩa phổ quát của nó là bản sao hoặc bản sao giấy tờ pháp lý, nó
chính là công việc của Farrington làm hằng ngày, nhưng nó cũng ám chỉ những thứ
tương tự hoặc ngang bằng nhau. Cuộc sống của Farrington là cuộc sống của những bản
sao, những bản sao thấp hèn hướng đến những cứu cánh nguy hiểm. Cuộc sống lặp lại
chính nó: tại sở làm, tại quán rượu, tại nhà riêng, tất cả là những bản sao. Và
sự chảy máu giữa các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống như vậy chắc chắn sẽ xảy
ra.
Tính cách tàn bạo
mà những truyện ngắn khác trong Dubliners
ám chỉ trở nên rõ ràng hơn trong “Counterparts,”
và xuyên suốt câu chuyện, ở bất kỳ sự kiện nào, người đọc cũng thấy cảm xúc giận
dữ, bất mãn được thể hiện thật rõ nét nơi nhân vật. Joyce sử dụng các tính từ
như nặng nề, đen đúa, bẩn thỉu để miêu tả nhân vật người đàn ông, gã thực sự kiệt
sức vì thất vọng và tức giận. Ngay cả đứa con trai ngoan ngoãn cũng không thể vực
gã lên nổi, không thể cứu rỗi một tâm hồn băng hoại. Farrington không hề nhận
ra rằng hành động của chính gã còn tồi tệ hơn nhiều so với sự mắng chửi của ông
chủ gã. Joyce gọi Farrington bằng cả tên lẫn “người đàn ông” trong suốt câu
chuyện. Trong một câu, gã là nhân vật Farrington, nhưng ở một câu khác, là “người
đàn ông” trên phố, trên tàu, trong văn phòng. Theo một ý nghĩa nào đó,
Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ
đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người
bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh
đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường.
Đúng thế, trong
lúc dịch truyện “Counterparts,” tôi
không thể không nhớ lại thời thơ ấu của tôi. Năm tôi lên mười, nhà tôi ở vùng
Khánh Hội, quận IV Sài Gòn trong một khu dân cư lao động. Cạnh nhà tôi là vợ chồng
anh đạp xích lô, và cứ vài hôm là tôi thấy anh ta nửa khuya uống rượu say về
nhà đánh đập chị vợ dã man đến bầm tím cả mặt mày, vừa đánh anh ta vừa quát mắng
chửi rủa om sòm làm náo động cả khu xóm. Gã Farrington của Joyce và anh chồng đạp
xích lô cạnh nhà tôi là một mẫu người chung, hiện hữu ở Dublin, ở Sài Gòn, ở
Los Angeles, nơi tôi đang sinh sống hiện thời, hay bất cứ nơi chốn nào khác
trên mặt hành tinh này, bất cứ thời gian-không gian nào, lúc xưa cũng như bây
giờ, và bởi thế những điều Joyce viết cách đây cả trăm năm vẫn hàm chứa một giá
trị văn học phổ quát về thân phận con người. (TYT)