Sunday, May 11, 2025

Ngô Thế Vinh & Eric Henry: Thế Giới Sáng Tạo Miền Nam 1054 – 1975 Những thăng trầm của một dân tộc với năng khiếu nghệ thuật mãnh liệt

 

Rising Asia Journal, Summer Issue May 2025

Kết Từ

Thế Giới Sáng Tạo Miền Nam 1054 – 1975

Những thăng trầm của một dân tộc

với năng khiếu nghệ thuật mãnh liệt

 


 Các bài viết của Bác sĩ Vinh được đưa vào số báo Rising Asia này đều là bằng chứng chi tiết về một sự kiện lịch sử quan trọng: chính quyền do nhà nước mới Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau khi đánh bại miền Nam vào năm 1975 đã sử dụng mọi biện pháp trong khả năng để xóa bỏ nền văn hóa đã ra đời dưới thời Cộng hòa Miền Nam trong giai đoạn 1954 đến 1975. Trong cả hai lĩnh vực văn học và nghệ thuật thị giác, nỗ lực này ít nhất đã thành công tạm thời; chỉ có một vài tập truyện và bài viết rải rác, một vài bức tranh và tác phẩm điêu khắc lạc lõng từ thời kỳ đó đã quay trở lại đất nước trong nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ khi chiến tranh kết thúc. Nhưng bản chất của các hệ thống chính trị xã hội không phải là tĩnh tại; chúng tiến hóa. Có thể vào một thời điểm nào đó trong nửa thế kỷ tới, văn học và nghệ thuật của Cộng Hòa Miền Nam sẽ không đặt ra thách thức chính trị đối với chế độ Việt Nam sau này và do đó, sẽ được chấp nhận lại vào nền văn hóa. Tuy nhiên, điều này vẫn chưa xảy ra.

 

Điều đáng chú ý là ở một lĩnh vực, nỗ lực xóa bỏ văn hóa Miền Nam của chế độ mới đã hoàn toàn thất bại: lĩnh vực ca khúc đại chúng. Chế độ chắc chắn đã làm hết sức mình trong những năm đầu để xóa bỏ âm nhạc miền Nam. Cá nhân tôi có quen một ca sĩ đã bị giam cầm mười năm vì bị bắt gặp đang nghe một bài hát có đặc tính "tiểu tư sản". Chế độ muốn âm nhạc phải có tinh thần cách mạng và mang tính quần chúng. Nó đã không liên quan gì đến sở thích cá nhân. Một đối tượng cụ thể bị chỉ trích là "nhạc vàng", một loại nhạc buồn được hình thành nhằm xoa dịu thần kinh mệt mỏi của những khách hàng trong quán cà phê và quán bar. Nó được sản xuất và trình diễn rất nhiều dưới thời Cộng hòa. Sự phản đối của nhà nước đối với loại nhạc này một phần dựa trên một mê tín cổ xưa của Trung Hoa, rất có ảnh hưởng ở Đông Á, theo đó, loại nhạc không phù hợp có thể khiến một quốc gia hoặc triều đại sụp đổ, trong khi loại nhạc phù hợp có thể khiến một quốc gia hoặc triều đại hưng thịnh. Có một tên gọi tiếng Trung Hoa cho loại nhạc không đúng này là: Vong Quốc Chi Âm wáng guó zhī yīn 亡國之音, hay “nhạc mất nước”. Nhưng trong nhiều thập niên hiện nay, “nhạc mất nước”, một thể loại chủ yếu gồm các bài hát được sáng tác dưới thời Cộng hòa, đã hoàn toàn thắng thế ở Việt Nam. Chế độ này đã nỗ lực quảng bá “nhạc đỏ”—những giai điệu vui tươi, hào hùng, lạc quan do những người đồng chí hân hoan hát—nhưng nhạc vàng mới là thể loại mà mọi người thích nghe nhất.

 Để cung cấp bối cảnh rộng hơn cho những nhân vật mà Bác sĩ Vinh thảo luận, tôi sẽ thêm một vài bình luận ở đây về mối liên hệ lịch sử mà nền văn học miền Nam đã nảy sinh.

 

• Ngôn ngữ: Tiếng Việt về bản chất là một thành viên của ngữ hệ Môn-Khmer, một ví dụ là tiếng Khmer, ngôn ngữ của Campuchia, nhưng cũng có liên hệ gần gũi với tiếng Trung Hoa đến mức đối với những sinh viên bình thường, nó có vẻ gần gũi hơn bất kỳ ngôn ngữ nào khác. Trong một tác phẩm văn xuôi tiếng Việt điển hình, khoảng bảy mươi phần trăm từ là tiếng Trung Hoa, nhưng được phát âm theo cách riêng của tiếng Việt. Có sáu thanh điệu được phân biệt trong hệ thống chữ viết và ngôn ngữ này chủ yếu là đơn âm tiết, theo nghĩa là hầu như mọi âm tiết trong tiếng Việt đều mang một ý nghĩa nào đó. Có sự khác biệt đáng kể về cách phát âm theo vùng, với ba phương ngữ Bắc, Trung và Nam, thường được phân biệt. Tiếng Việt hiện được viết bằng hệ thống ngữ âm bao gồm các chữ cái Latinh cộng với các dấu phụ. Người đầu tiên biên soạn hệ thống này là nhà truyền giáo Dòng Tên Alexandre de Rhodes (1593–1660), người đã xuất bản một cuốn từ điển ba ngôn ngữ Latinh, Bồ Đào Nha và Việt Nam tại Rome vào năm 1651. Tuy nhiên, hệ thống chữ viết của ông không được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam cho đến những thập niên đầu của thế kỷ XX. Thay vào đó, hệ thống được sử dụng là "chữ nôm" (chữ viết phương Nam), một bản chuyển thể rộng rãi của chữ Hán viết. Hệ thống này rất cồng kềnh và đòi hỏi nhiều năm học để thành thạo.

 

• Truyền thuyết: Văn học Việt Nam bắt đầu với hai bản thảo dài bằng chữ Hán cổ do các viên quan triều đình Việt Nam viết vào thế kỷ XIV, dưới thời nhà Trần. Việc chúng được viết bằng chữ Hán không có gì lạ, vì đó là ngôn ngữ của triều đình Việt Nam, và vào thời điểm đó, chỉ có một số ít nỗ lực được thực hiện để sử dụng các ký tự (có sẵn hoặc mới được phát minh) để đại diện cho các từ có nguồn gốc bản địa. Bản thảo đầu tiên, Việt Điện U Linh Tập dành riêng cho các chiến công của nhiều nhân vật quân sự đã khuất, những linh hồn của họ được các tác giả cho là những hỗ trợ siêu nhiên cho quân đội hoàng gia. Bản thảo thứ hai, Lĩnh Nam Chích Quái chứa đầy những truyền thuyết lịch sử—về các vị vua, hoàng tử, thần linh, thiếu nữ, nhà thám hiểm, pháp sư, v.v.— như gợi lên sự so sánh với các truyền thuyết lịch sử của Trung Hoa. So với các tác phẩm tương tự của Trung Hoa, những câu chuyện của Việt Nam có tính siêu nhiên thái quá, giàu trí tưởng tượng và đầy rẫy những điều ước.

 

• Thơ ca dân gian nông thôn: Thể loại văn học này đồ sộ và có thể thấy ở khắp mọi nơi. Nó không có sự tương đồng ở Trung Hoa, cả về hình thức lẫn nội dung. Thơ ca dân gian nông thôn ở Việt Nam tồn tại dưới dạng thơ song đôi, được gọi là thể thơ lục bát, với câu đầu có sáu âm tiết và câu thứ hai có tám âm tiết. Âm tiết cuối của câu sáu phải vần với âm tiết thứ sáu của câu tám, để tạo nên một thứ kết thúc ngắn gọn. Loại câu đối ấy  có xu hướng ngang tàng, châm biếm và phi ý thức hệ. Sau đây là một số ví dụ:

 

Xưa kia nói nói thề thề,

Bây giờ bẻ khóa trao chìa cho ai.

 

và:

Hoài tiền mua pháo đốt chơi,

Pháo nổ ra xác, tiền ôi là tiền.

 

và:

Khen ai khéo đấm bình phong,

Ngoài long, lân, phượng, trong lòng gạch vôi.

 

• Thơ tự sự: Đây là hàng ngàn hoặc nhiều hơn những câu “sáu-tám” được xâu chuỗi lại với nhau. Đây, một lần nữa, là một nhánh văn học không có sự tương đồng ở Trung Hoa. Có hơn một chục ví dụ về hình thức này hiện còn tồn tại, nhưng có một ví dụ đặc biệt nổi tiếng. ĐóTruyện Kiều, được Nguyễn Du (1766–1820) một viên quan triều đình dưới thời vua đầu tiên của triều Nguyễn, người được coi là nhà thơ vĩ đại nhất của Việt Nam qua tác phẩm này. Tác phẩm viết bằng “chữ Nôm” vào khoảng năm 1818, các nhân vật và cốt truyện dựa vào một câu chuyện tình lãng mạn bằng văn xuôi của Trung Hoa xuất hiện vào giữa thế kỷ XVII. Câu chuyện kể về số phận của Kiều, một nhân vật nữ -- người bị hoàn cảnh buộc phải chịu đựng một loạt những cuộc hành trình đau thương, bao gồm nhiều đỉnh điểm của thăng hoa và sự suy trầm. Trích dẫn từ Kiều của Nguyễn Du và các tài liệu tham khảo về các nhân vật và sự kiện được thấy rất nhiều trong các tác phẩm của các tác giả Việt Nam khác. Trong số các bản dịch tiếng Anh của tác phẩm này, tôi giới thiệu bản dịch của Vladislav Zhukov có tựa đề Kim Vân Kiu (Nhà xuất bản Đại học Cornell) và một bản khác của Huỳnh Sanh Thông (Nhà xuất bản Đại học Yale). Một câu chuyện thơ Việt Nam khác có ảnh hưởng đáng kể là Lục Vân Tiên (sáng tác năm 1851, in lần đầu 1864) của Nguyễn Đình Chiu (1822–1888), là một bài thơ ca ngợi đức hạnh của Nho giáo kết hợp sự can trường tự nhiên của nhân vật.

 

• Lời bài hát: Như tôi đã đề cập ở trên, thời kỳ Cộng Hòa Miền Nam đặc biệt phong phú về sáng tác các bài hát. Các nhạc sĩ sáng tác giai điệu cho những bài hát đó thường cũng viết lời, vì vậy họ vừa là nhà thơ vừa là nhà soạn nhạc. Nhiều ca từ trong các bài hát đã trở thành một phần của tiếng Việt và một số lời bài hát đủ sức diễn đạt để có thể hoạt động như những bài thơ độc lập. Ví dụ, đây là lời bài hát "Cho đời chút ơn" của Trịnh Công Sơn:

 

Hôm chợt thấy em đi về bên kia phố
Trong lòng bỗng vui như đời rất lạ
Tôi tìm thấy tôi theo từng gót xa
Làm lời lá bay trên đường đi
Tôi tìm thấy tôi như giọt nắng kia
Làm hồng chút môi cho em nhờ

Môi thiên đường hót chim khuyên
Ôi tóc trầm ướp vai thơm
Ta nghe đời rất mênh mông
Trong chân người bước chầm chậm

Hãy còn bước đi cho bình minh lên sớm
Cho đời chút ơn biết tà áo nọ
Em là phấn thơm cho rừng chút hương
Là lời hát ca cho trần gian
Dưới phường phố kia có người nhớ em
Nằm mộng suốt đêm trong thiên đường.

 

• Những khía cạnh khác của văn hóa: Trong những điều trên, tôi đã lược bỏ nhiều mục đáng để khám phá. Tôi sẽ thêm vào đây một vài thông tin ngẫu nhiên. Có một cuốn tự truyện của nhà làm phim Trần Văn Thủy (Chuyện Nghề Của Thủy, 2014, tựa tiếng Anh: In Whose Eyes, Nhà xuất bản Đại học Massachusetts). Thủy, sinh năm 1941, bắt đầu sự nghiệp làm phim của mình với tư cách là một nhà báo trong quân đội Bắc Việt và sau đó trở thành nhà làm phim tài liệu chuyên nghiệp nổi tiếng vì tính chân thực của chúng. Cuốn sách của ông có thể được coi là một loại "anh em" với Testimony của Solomon Volkov (hồi ký truyền miệng của Shostakovich) ở chỗ nó miêu tả những khó khăn cố hữu trong việc cư xử tử tế, có nguyên tắc trong một hệ thống chính trị xã hội trừng phạt những người có những phẩm chất như vậy. Có Số Đỏ (tên tiếng Anh: Dumb Luck, Nhà xuất bản Đại học Michigan) của Vũ Trọng Phụng (1912–1939), lần đầu tiên được xuất bản vào cuối thời kỳ thuộc địa năm 1936. Đây là một tiểu thuyết châm biếm trong đó sự thiếu hụt hoàn toàn về trí tuệ và nguyên tắc của nhân vật chính cho phép anh ta vươn lên đến những cấp bậc cao nhất của xã hội. Rồi đến Chuyện Ngõ Nghèo, do Nguyễn Xuân Khánh (1933–2021) viết vào năm 1982, nhưng không được xuất bản cho đến năm 2016. Tác phẩm gợi lại một thời đại mà tác giả và những người đồng hương của ông phải nuôi lợn ở nhà để giữ cho thể xác và tâm hồn được gắn kết. Nuôi lợn trong tác phẩm này như săn cá voi trong Moby Dick, và phát triển thành ẩn dụ cho nhiều tình huống khác. Tác phẩm này vẫn chưa được dịch.

 

Cuối cùng, tôi muốn lưu ý rằng người Việt Nam là một dân tộc có năng khiếu văn chương và nghệ thuật mãnh liệt. Tôi thích nói đùa rằng bất cứ khi nào một số người Việt Nam trước đây không quen biết gặp nhau tại một quán cà phê, thì một tạp chí văn học mới sẽ ra đời.

 


 

TS Eric Henry, Emeritus Professor,

University of North Carolina at

Chapel Hill, May 2025