MỘT
CHIẾN BINH, MỘT BẠN HIỀN VỪA RA ĐI
Hình 1: Tốt nghiệp khóa 17 trường Võ Bị
Quốc Gia Đà Lạt 1963, Vũ Xuân Thông tình nguyện gia nhập Lực Lượng Đặc
Biệt, một binh chủng mới của quân lực Việt Nam Cộng Hòa thời bấy giờ. Hình
trên là Đại Úy LLĐB Vũ Xuân Thông khi đang là Liên Toán
Trưởng Thám Sát của Trung Tâm Huấn Luyện Hành Quân Delta, sau này, sát
nhập với Tiểu Đoàn 81 để trở thành Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù,
một lực lượng tổng trừ bị thiện chiến trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu. [nguồn: LĐ81
BCNDLLĐB]
*
Vũ Xuân Thông sinh ngày 9
tháng 12
năm 1939 tại Hà Nội.
Là gia đình có đạo dòng, Thông theo học trường Puginier, là một ngôi trường cổ
xưa được xây cất từ năm 1897 tại Hà Nội. Năm 1954, khi gia đình di cư vào Nam,
ở tuổi 15 Thông là con trai cả trong một gia đình lúc đó có 4 anh em: Vũ Xuân
Thông, Vũ Văn Thanh, Vũ Văn Phượng, Vũ Thị Bích, sau này trên vùng đất mới, gia
đình Thông có thêm 2 người em nữa là Vũ Hồng Vân, Vũ Văn Dũng.
Hình 3: Hình
chụp gia đình Ba Mẹ Vũ Xuân Thông và các con ở Hà Nội năm 1951, Vũ Xuân Thông
là con trai cả đứng ở bìa phải, lúc ấy mới 12 tuổi đã bắt đầu “trổ giò” cao lớn
hơn hẳn các em. [tư liệu gia đình Vũ Hồng Vân, em gái Vũ
Xuân Thông]
Có bố là công chức từ thời Vua Bảo Đại, ngay sau Hiệp định
Genève 1954 ông quyết định đem toàn gia đình vào Nam và chọn định cư
ở Đà Lạt. Vũ Xuân Thông tiếp tục theo học trường công lập Trần Hưng Đạo, tới Tú
tài 2 không có lớp nên VXT phải vào Sài Gòn theo học trường Chu Văn An cho đến
hết năm cuối trung học.
Sẵn có năng khiếu về hội họa, Thông có giấc
mơ đầu đời là trở thành kiến trúc sư, nhưng rồi với học trình dài 6 năm rất tốn
kém, với đồng lương công chức khiêm tốn của bố, lại phải nuôi một gia đình 6
anh em đang ở tuổi ăn học, mà Thông là con cả nên biết là gia đình không kham
nổi. Vũ Xuân Thông đã chọn một hướng khác. Là trai thời loạn, rồi cũng tới lúc
phải “xếp bút nghiên”, Thông mơ ước trở thành phi công. VXT viết:
“Ngay từ những năm đầu ở Trung Học, tôi đã rất
ngưỡng mộ Không Quân dù chỉ qua hình ảnh của các anh phi công Mỹ, Pháp và Anh
trong thời kỳ Thế Chiến thứ hai và trong thời gian chiến tranh Việt Nam vào những năm 50. Tôi có ý định sẽ gia nhập Không Quân Việt Nam, nhưng mộng không thành vì khi khám sức khỏe ở Bệnh Viện Cộng Hòa tôi
mới phát giác ra là thị lực con mắt phải của tôi chỉ có 7/10. Thế là vỡ mộng…”
Mộng phi công cũng không thành. Lựa chọn
tiếp theo của Thông là thi vào trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, một học viện quân
sự danh tiếng của Đông Nam Á được ví như một West Point của Mỹ hay một
Saint-Cyr của Pháp thời bấy giờ.
Vũ Xuân Thông gia nhập Khóa 17 Lê Lai từ
trung tuần tháng 11 năm 1960 gồm hơn 200 thanh niên tuấn tú, nhưng rồi qua một
chương trình huấn luyện sàng lọc khắt khe, ngày ra trường 30 tháng 3 năm 1963
chỉ còn lại 180 tân sĩ quan. Thời gian thụ huấn dự trù là 4 năm, khi ra trường,
ngoài cấp bậc Thiếu úy Hiện dịch, mỗi khóa sinh còn được cấp văn bằng Cử nhân
Khoa học Ứng dụng, nhưng rồi do nhu cầu chiến trường đang thiếu sĩ quan nên
Khóa 17 đã mãn khóa sớm, với thời gian thụ huấn được rút ngắn xuống chỉ còn là
2 năm 4 tháng.
ĐẠI ĐỘI THÁM SÁT VÀ NHỮNG
NGÀY NHẢY TOÁN
Trước ngày tốt nghiệp, Vũ
Xuân Thông đã có ý định tình nguyện gia nhập binh chủng Lực Lượng Đặc
Biệt (ARVNSF / Army of the Republic of Vietnam Special Forces), được tổ chức giống như
LLĐB Hoa Kỳ. Tổng Thống Kennedy đã khai sinh ra những toán lính Mũ Xanh (Green
Berets) này với ước mong đó là những chiến sĩ giải phóng các dân tộc bị
áp bức – De Oppresso Liber, và cũng nhằm đối
phó với mọi loại hình thức chiến tranh vô quy ước (unconventional
warfare) trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh.
Hình 4: Lực Lượng Đặc Biệt Việt Nam chính thức thành lập
tháng 4 năm 1963, với chiếc Mũ Xanh lá cây rừng, và phù hiệu cánh dù với cọp
bay trên vai áo.
Lực Lượng Đặc
Biệt Việt Nam trên giấy tờ được thành lập từ tháng 4 năm 1963, chỉ một
tháng trước ngày Thông ra trường, nhưng trước đó, Thông đã được nghe rất nhiều
huyền thoại về những hoạt động bí mật đã có từ năm 1957 của các tổ
chức như Liên Đội Quan Sát Số 1, rồi Liên Đoàn 77,
rồi Liên Đoàn 31, rồi lại đổi danh thành Liên Đoàn 111,
với các chương trình thả Toán Thám Kích ra Bắc, cùng với các hoạt động bí mật
ngoại biên khác nữa. Các tổ chức trên chính là tiền thân của Lực Lượng
Đặc Biệt Việt Nam sau này. (Phan Văn Huấn, Câu
Chuyện Chiếc Mũ Xanh)
Về trình diện Bộ Tư Lệnh
LLĐB đóng ở Nha Trang, Vũ Xuân Thông được cử đi học ngay khóa nhảy dù, và
tiếp theo là một khóa Lực Lượng Đặc Biệt về mưu sinh và thoát
hiểm tại Trung Tâm Huấn Luyện LLĐB Đồng Bà Thìn cùng với một
chương trình huấn luyện về diện mạo mới của cuộc Chiến tranh phi quy ước
(Unconventional Warfare).
Sau đó, Thông được
phân phối về Trung Tâm Huấn Luyện Hành Quân Delta [TTHLHQ
Delta] với 12 toán Thám Sát đang hoạt động. Mỗi toán Thám sát chỉ gồm 6
người, mỗi người với lương khô đủ cho 6 ngày, 2 bi đông nước uống, băng cấp cứu
cá nhân, vũ khí trang bị thật gọn nhẹ với 1 cặp lựu đạn M67, 1 súng M16 và 2
cấp số đạn, một lưỡi lê, tất cả toán viên được huấn luyện chu đáo với khả năng hoạt động sâu trong vùng kiểm soát của
đối phương. Mỗi toán được trực thăng thả vào hậu phương địch
để hoạt động trong một vùng nhất định, thời gian hoạt động trung bình từ một
tuần cho tới 10 ngày, có thể lâu hơn, chủ yếu làm các nhiệm vụ thu thập thông tin
tình báo, tránh đụng độ, nếu có thể bắt cóc tù
binh để khai thác,
và khi tình thế cho phép, Toán sẽ hướng dẫn các Trung đội
Xung kích của Tiểu Đoàn 81 đột nhập phá hoại chớp nhoáng các mục tiêu quân sự của
địch. Yếu tố bất ngờ là ưu điểm cho những chiến công của đơn vị.
TTHLHQ
Delta lúc ấy đã có Chỉ huy trưởng là Thiếu Tá Phan Văn
Huấn, xuất thân Khóa 10 Trường Võ Bị Đà Lạt. Thời gian đầu, TTHLHQ Delta
hoàn toàn được Phi đội trực thăng 281 Hoa Kỳ tăng phái và yểm trợ.
Nếu là thả Toán, Phi đội trực
thăng gồm 5 chiếc: một trực thăng chỉ huy / Lead Slick (hay còn gọi là C&C
/ Command & Control), một chiếc chở Toán Thám Sát vào vùng hoạt động, 2
gunships hộ tống, và thêm một trực thăng sẵn sàng cấp cứu (rescue).
Thường thì chính Thiếu Tá
Huấn đích thân bay trên chiếc C&C, trực tiếp chỉ huy và điều hợp các phi vụ
thả và bốc toán, kể cả trường hợp cứu toán khi bị lâm nguy, hay với hoạt động
hành quân lớn hơn, được tăng cường thêm các phi đội trực thăng bạn để thả các
Trung đội Xung Kích đánh nhanh và rút nhanh ra khỏi trận địa.
Hình 5: BCD Phan Văn Huấn, CHT / LĐ81 BCND từ 1970 tới
1975. Tiểu sử của Anh đã gắn liền với từng bước phát triển các đơn vị đã có
trước đó từ năm 1957. Người Anh Cả Phan Văn Huấn đã được vinh thăng cấp Đại Tá
tại Mặt Trận tử thủ An Lộc 1972. Đơn vị Biệt Cách Nhảy Dù đã đi vào Chiến Sử
với 2 câu thơ của cô giáo Pha: “An Lộc địa sử ghi chiến tích, Biệt Cách
Dù vị quốc vong thân”.
LIÊN ĐOÀN 81 BIỆT CÁCH
NHẢY DÙ
Cùng với Tiểu Đoàn 81 BCND
có 6 Đại Đội Xung Kích túc trực ứng chiến, cứu Toán hay phối hợp với TTHLHQ
Delta trong các cuộc hành quân đột kích phá hoại chớp nhoáng các mục tiêu quân sự của địch.
Vũ Xuân Thông đã dạn
dày lửa đạn và trưởng thành từ những Toán Thám Sát cho tới khi trở thành cấp
chỉ huy của Liên Đoàn 81. Thời gian Nhảy Toán, với Vũ Xuân Thông đó thực sự là những
ngày gian khổ. Và Thông đã thương biết bao những người lính nhảy Toán ấy trong
suốt những năm tháng chỉ huy họ sau đó.
Hình 6: Vẫn với chiếc Mũ Xanh màu lá cây
rừng (trái) của Lực Lượng Đặc Biệt và thêm Phù hiệu tam giác với Chim Ưng và
Cánh Dù 81 may trên vai áo của Liên Đoàn 81 BCND – phù hiệu này do chính BCD Vũ
Xuân Thông vẽ khi đang là Trưởng Ban Ba LĐ 81 BCND (phải); tất cả đã tạo nên
những huyền thoại về người chiến binh BCND sau này. [nguồn: tư liệu
Gia Đình 81 BCND]
Khi bắt đầu giai đoạn Việt Nam hóa cuộc
chiến tranh, Liên Đoàn 5 LLĐB Hoa Kỳ [ 5th Special Forces Group, US) rút khỏi
Việt Nam, Lực Lượng Đặc Biệt Việt Nam cũng bị giải thể vào tháng 8
năm 1970. Nhưng Liên Đoàn 81 BCND vẫn tồn
tại với tiếp liệu và vũ trang bắt đầu bị hạn chế. Các phi đội trực
thăng của Không quân Việt Nam đã hoàn toàn thay thế phi đoàn trực thăng 281 Hoa
Kỳ, nhưng với một chiến trường sôi động và ác liệt hơn trước rất nhiều. Các phi công trực thăng Việt Nam đã rất
can trường hoàn thành ngoạn mục nhiệm vụ được giao phó dĩ nhiên với nhiều hy
sinh và tổn thất cho tới ngày 30.04.1975.
Và rồi khi mà Hà Nội bất
chấp Hiệp ước Paris 4 bên, quyết định đưa hàng chục sư đoàn Bắc quân công khai
tràn xuống xâm lấn Miền Nam, với nguồn vũ khí vô hạn của Trung Quốc và Liên Xô,
cuộc chiến tranh đã hoàn toàn thay đổi bản chất, không còn là du kích chiến mà
là những trận địa chiến với hỏa lực kinh hoàng của đối phương.
Với Liên Đoàn 81 BCND, Bộ
Tổng Tham Mưu VNCH qua nghiên cứu phân tích và lượng giá những trận địa, đã đưa
ra các nhận định và đi tới kết luận là:
Liên Đoàn 81
BCND có 3 khả năng đáng kể mà ít có đơn vị tổng trừ
bị nào có được, đó là: (1) Có thể tách ra thành từng toán nhỏ hoạt động nhiều
ngày trong hậu tuyến địch, (2) Có
thể đánh đêm bằng du kích chiến; (3) Có
thể tập trung lại để đánh trận địa chiến như các đơn vị khác được.
Từ đó Bộ Tổng Tham Mưu đã đưa tới quyết định: phát triển LĐ
81 BCND thành Lữ Đoàn, với quân số bổ sung không gì khác hơn là các tân binh
quân dịch, và điều gì đã khiến những tân binh này đã mau chóng trở thành những
chiến binh thiện chiến khi gia nhập Liên Đoàn 81 BCND?
Dĩ nhiên giai đoạn huấn luyện hiệu quả là
không thể thiếu, nhưng chỉ có thể giải thích là tinh
thần chiến đấu với thành phần những tân binh ấy phần
lớn đều dựa vào sự tự hào trên màu cờ sắc áo của đơn vị, như Sư đoàn Nhảy Dù với chiếc Mũ Ðỏ, Thủy Quân Lục Chiến
thì có mũ Xanh, Biệt Ðộng Quân có Mũ Nâu, và anh em Liên Đoàn 81
Biệt Cách Nhảy Dù thì hãnh diện
với chiếc Mũ Xanh
màu lá cây rừng có từ thời Lực Lượng Đặc Biệt.
Tất cả đều phải qua bao gian khổ kể cả xương
máu và mạng sống của đồng đội họ mới tạo được những chiến công, và phần lớn cũng
nhờ niềm kiêu hãnh trên màu cờ sắc áo đó. [Phan Văn Huấn, Câu Chuyện Chiếc Mũ Xanh]
…
Vũ Xuân Thông khi viết Những Cánh Thép Ngày
Trước để ca ngợi những phi công VNCH can trường, các Phi đội
trực thăng bạn đã anh dũng yểm trợ cho LĐ81 BCND trong suốt các cuộc hành quân,
mà Thông đã ví họ như bùa hộ mạng, nhưng VXT cũng không quên dí dỏm nói về
những gian khổ hy sinh xương máu của bản thân và đơn vị mình.
“Xin
cho chúng tôi được hân hạnh nhận các chiến hữu Không Quân là bạn để dễ bề tâm sự và để nói hết những điều cần nói
sau 37 năm dài. Vì không nói ra lúc này sẽ không có dịp nào để nói, giữa chúng
ta từ lâu đã cư xử với nhau rất mực huynh đệ chi binh, nhưng cũng đầy hào khí
giang hồ. Tôi sẽ không nhắc lại những chiến công oanh liệt của các bạn hay của
chúng tôi. Tôi chỉ muốn nhắc lại – các bạn những người đi vào chiến tranh với dáng
vẻ hào hoa phong nhã, lúc nào quân phục cũng sạch bóng, trang bị nhẹ nhàng…
Không giống như đám chúng tôi bao giờ cũng vậy
hễ xuất quân là quần áo rằn ri, lôi thôi lếch thếch… nào là ba lô, súng
ngắn, súng dài, dây nhợ quanh người, lựu đạn lủng lẳng đằng trước, đằng sau. Mỗi lần được bốc ra khỏi vùng
hành quân thì ôi thôi khỏi nói, dù có yêu tôi cách mấy cũng chỉ đứng xa mà chào mừng chứ chưa ai dám ôm hôn tôi
thắm thiết. Mười lăm ngày hay một tháng luồn lách qua bờ bụi, lên xuống
đồi núi dưới cái nắng nóng ẩm, mồ hôi rơi xuống mờ cả mắt lau không kịp. Bộ đồ
trận lúc nào cũng đẫm ướt mồ hôi nhiều khi chảy theo hai bắp chân xuống đôi
giày đi rừng.
Đêm nằm trên chiếc poncho gấp
đôi, mồ hôi vẫn còn đọng ướt cả lưng. Cứ như thế ngày này sang ngày khác, bộ đồ
trận ướt rồi khô, bao nhiêu mùi hôi đều thấm sâu vào vải áo quần. May mắn lắm
mới qua được một con suối còn lại chút nước, vội vàng múc cho đầy 2 bi đông nước, xong cùng nhảy xuống hụp cho
ngập đầu rồi lại tiếp tục đi.
Ấy là những ngày không chạm
địch, còn có thời gian ngồi xuống để thay một đôi vớ đã bốc mùi khó chịu. Những
lần chạm địch thì coi như được phép quên đi những khó chịu hàng ngày, quên đi
mình đã chưa ăn gì suốt một ngày qua, đã chưa uống một ngụm nước. Tàn cuộc
thắng hay thua, lúc ấy mới biết mình còn đủ mồm miệng để ăn vội bọc cơm sấy…
Còn các bạn tôi thật khỏe, ngồi trong buồng
lái tha hồ tung hoành ngang dọc, hết phi vụ quay về phi trường, đi thẳng vào
Câu lạc bộ làm một ly cà phê đá, khỏe re trong lúc chờ
cho các chuyên viên “check” tàu, tái trang bị bom đạn, “rocket” để chờ phi vụ
tiếp theo.
Chưa nói đến vài ngày chúng tôi được xả hơi
sau mỗi cuộc hành quân, cởi được bộ đồ hôi hám, thay vào một bộ quân phục mới
để cùng xuống phố phường uống vài chai “33” cho đã bù lại những ngày phải
uống nước sông nước suối. Nhưng nếu có xuống phố hay buổi tối tạt vào một tiệm
nhảy nào lại đụng mấy bạn, và bao giờ chúng tôi cũng lép vế, lép vế về đủ mọi
phương diện. Đôi khi có một tí tình còm để an ủi những hễ chấm được cô nào vừa
ý là y như rằng đã có một ông Không Quân nào sắp sửa rước đi rồi! Nói cho
vui vậy thôi chớ vội cho rằng chúng tôi đả kích các bạn nhé, thua thì thua rồi.
Xưa còn trẻ đã không thắng các bạn, nay đầu đã bạc, chân mỏi gối mòn, hơi sức
đâu mà ganh với đua…”
Cái gia tài của người lính như tôi còn lại há không phải là quá
khứ của 15 năm trong quân đội hay sao? 15 năm trong một đời người như chúng ta,
những người lính đã sống qua cuộc chiến ác liệt, đầy máu và nước mắt, vinh có
nhục có và đôi khi buồn nhiều hơn vui, dù muốn quên cũng khó quên…
Đã bao lần không quản ngại trước lưới lửa
phòng không của địch tua tủa như pháo bông để mang chúng tôi và xác đồng đội ra
khỏi vùng vây địch. Qua hàng trăm cuộc hành quân, những đôi cánh thép đã mặc
nhiên như gắn ngay sau lưng chúng tôi, đã chắp cho chúng tôi đôi cánh thép. Đơn
vị của chúng tôi đã gắn liền với Quân Chủng Không Quân của các bạn.”
NGƯỜI
LÍNH VŨ XUÂN THÔNG NGOÀI ĐỜI VÀ TRONG PHIM ẢNH
“Người Tình Không Chân Dung” là một cuốn phim hiện thực
về chiến tranh Việt Nam. Các diễn viên đa số gốc quân đội như Vũ Xuân
Thông, Minh Trường Sơn, Minh Đăng Khánh, Dương Hùng Cường, Nguyễn Mộng Hùng
(Hùng sùi), Hà Huyền Chi… Sau biến cố 1975, cùng với số phận của
giới văn nghệ sĩ Miền Nam, hầu như tất cả đều bị bắt đi tù đày. Riêng diễn viên
Dương Hùng Cường, binh chủng Không quân, bút hiệu Dê Húc Càn, đã bị chết trong
nhà tù CS Phan Đăng Lưu 1987. Đạo diễn Hoàng Vĩnh Lộc cũng không thoát cảnh lao
tù, cho đến lúc sức khỏe bị suy kiệt lại thêm bệnh tật mà không có thuốc men,
chỉ được thả về khi sắp chết và anh qua đời sau đó.
Hình 7: BCD Vũ Xuân Thông, cũng từng là
diễn viên nghiệp dư, với tên là Thịnh Sư Tử, trong một cuốn phim chiến
tranh Người Tình Không Chân Dung (1971) của đạo diễn Hoàng Vĩnh Lộc.
Nội dung phim Người Tình
Không Chân Dung nói về Mỹ Lan, mô phỏng theo một chương trình “Giờ của
Dạ Lan” của đài phát thanh Quân đội VNCH, người khai sinh ra chương trình này
từ 1964 là Đại Tá Trần Ngọc Huyến – từng là Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bị Quốc
Gia Đà Lạt. Chương trình Dạ Lan rất phong phú được phát thanh từ 7 tới 9 giờ
hằng đêm, với giọng nói dịu dàng của một thiếu nữ hậu phương đêm đêm tâm tình
chuyện trò với các anh chiến sĩ ngoài tiền đồn. Phần hấp dẫn nhất vẫn là mục
trao đổi thư tín giữa Dạ Lan và các quân nhân nơi tiền đồn xa xôi hẻo lánh.
Chương trình Dạ Lan kéo dài được 9 năm, kết thúc năm 1975.
Mỹ Lan
trong phim – là Dạ Lan ngoài đời, cô đã đến gặp một đại tá xin được vào chiến trường để tìm người yêu.
Ban đầu
bị từ chối, nhưng rồi vị đại tá cũng đồng ý và chỉ
định một đại úy tên Thịnh có
biệt danh Thịnh Sư Tử (Vũ Xuân Thông) đưa Mỹ Lan đi vào chiến trường, và đây
cũng là dịp cô đã được tận mắt chứng kiến đời sống thật của những người
lính. Rồi cô được tin người yêu mà cô đang tìm kiếm đã bị thương, đang nằm trong một Quân
Y viện, cũng nơi đây cô đã phải chứng kiến những cảnh thực của những vết thương
chiến tranh. Tài tử nghiệp dư Vũ Xuân Thông, là lính chuyên nghiệp dày dạn chiến
trường, VXT không cần diễn xuất, những khúc phim của anh là một phần của đời
sống thực ngoài đời…
Trở Về Với Nhiệm Vụ
Nhiệm vụ chính của Liên Đoàn 81 bấy lâu là thả các toán thám sát vào hoạt động
ngay trong lòng địch, những nơi mà những đơn vị khác ít khi hành quân vào vì lực lượng địch
quá đông, hoặc vì địa thế hiểm trở, vì ngoài tầm hoạt động của pháo binh,
vì xa nơi hoạt động của các đơn vị bạn, v.v... Các toán thám sát có cái lợi thế là quân
số ít – mỗi toán chỉ có 6
người, dễ dàng lẩn tránh khi gặp địch, dễ dàng thoát hiểm khi bị địch truy kích
vì đã được huấn luyện kỹ về mưu sinh thoát hiểm. Nhiệm vụ các toán thám sát là thu lượm tin tức
hoạt động của địch để báo cáo lên cấp trên, tùy theo mục tiêu, các toán có thể
tổ chức đột kích, phục kích bắt tù binh khai thác tin tức.
Có những mục tiêu ngoài khả năng của toán, nhưng theo yêu cầu
của Quân Đoàn, Liên Đoàn 81 đôi khi cũng mở những cuộc đột kích vào hậu tuyến
địch như trận phục kích ở thung lũng Ashau thuộc tỉnh Thừa Thiên năm
1968; và trận đột kích ở vùng Tam Biên
(biên giới Việt, Miên, Lào) thuộc tỉnh Kontum năm 1972 tiêu diệt đoàn xe
tiếp tế của Bắc quân… Ngoài nhiệm vụ
phục kích, đột kích nói trên, tùy theo tình hình Liên Đoàn 81 còn có thể tập
trung lại để hành quân quy mô phối hợp với các đơn vị khác như ở tại
thành phố An Lộc năm 72, Quảng Trị năm 73…
Có thể nói, suốt năm 1974 cho đến ngày 30/4/1975, Liên Đoàn 81 BCND, thay vì là Tây Nguyên – nơi địa bàn hoạt động quen thuộc, thì
nay hoàn toàn tăng phái cho Quân
Đoàn III để hoạt động trong các chiến khu Dương Minh Châu, chiến khu D, và các
vùng rừng núi thuộc các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Bình Long, Phước Long, Bình
Tuy, Phước Tuy, Long Khánh, và Biên Hòa. Và rồi cho đến ngày 6
tháng 1 năm 1975…
LĐ81/BCND
và Niềm
Đau Phước Long
Ngày 3 tháng 1 năm 1975, khi tỉnh Phước
Bình đã rơi vào tay địch, Liên Đoàn 81 được lệnh tăng viện cho tỉnh lỵ Phước Long đang nguy ngập. Trung Tá Vũ Xuân Thông và Thiếu Tá Nguyễn Sơn chỉ huy hai Chiến đoàn
BCND với quân số chỉ vỏn vẹn hơn 300 chiến binh chuẩn bị nhảy vào cứu Phước Long.
Dự trù, cuộc đổ quân được chia ra làm hai đợt, nhưng ngày hôm đó phi
trường Biên Hòa bị pháo kích, một số trực thăng bị hư hại. Giờ xuất quân ấn
định là 9 giờ sáng nhưng mãi đến chiều, mới tập trung đủ số trực thăng ở phi
trường Long Bình để đưa BCND vào trậnđịa Phước Long cách đó hơn 100 km.
Đúng 2 giờ chiều, 30 trực thăng cùng cất cánh. Sau một giờ bay,
trận địa Phước Long
đãhiện ra trước mắt. Đỉnh núi Bà Rá đã lọt vào tay Việt Cộng. Từ cao điểm đó, pháo địch rót
như mưa vào quân ta, Phước Long như chìm trong biển
lửa. Không thể thả BCND xuống khi các phi tuần oanh tạc vẫn chưa đến để làm tê liệt
các ổ pháo của địch quân. Lại thêm trời
đã sẩm chiều, Phước Long với núi rừng âm u bao quanh, rồi màn đêm kéo đến. VàCHT/LĐ 81
Đại Tá Phan Văn Huấn đã quyết định không thả quân BCND vào một chảo lửa như thế.
Trong
trận địa Phước Long, Biệt Cách Dù Vũ Xuân Thông – là cấp chỉ huy và cũng là
nhân chứng sống sót, anh kể lại trong bài viết Những Cánh Thép Ngày
Trước,
về một trận đánh có thể coi như trận đánh cuối cùng trong cuộc đời binh
nghiệp của anh, và đã không kết thúc bằng một chiến thắng; đây cũng là nỗi ám
ảnh trong suốt cuộc đời còn lại của anh. Vũ Xuân Thông viết:
“Vào tháng 1 năm 1975 khi Biệt Đoàn BCND chúng tôi được lệnh tăng viện cho Tiểu
Khu Phước Long, lúc này đang bị hơn một sư đoàn địch vây hãm, các đơn vị địa
phương hầu như đã tan hàng. Nói là Biệt Đoàn nhưng thật ra chỉ có 2 Biệt Đội
811, 814 và Bộ Chỉ Huy, tổng cộng khoảng 320 nguời. Không Đoàn 43 Chiến Thuật
thuộc Sư Đoàn 3 Không Quân là đơn vị yểm trợ và đổ quân, dưới cơn mưa pháo 105 ly, 155 ly, hỏa
tiễn 122 ly và súng cối, và các phi đoàn trực thăng đã hoàn thành nhiệm vụ
một cách phi thường với tổn thất không đáng kể.
VXT viết tiếp: Đích thân Chỉ Huy Trưởng của tôi, Đại Tá Phan Văn Huấn và
Đại Tá Triệubên Không quân đã trực tiếp chỉ huy cuộc đổ quân. Nhìn
từ trên trực thăng xuống thị xã Phước Long tôi nghĩ khó mà đáp được vì cả thị
xã ngập trong khói lửa của đủ loại pháo chưa kể hỏa lực phòng không của địch
tua tủa bắn lên đầy trời với đủ loại từ đại liên 50, súng cá nhân, 23 ly và 37 ly.
Tiếng đạn pháo nổ dưới đất cộng tiếng các loại phòng không nổ ngang trời nhắm
vào các phi tuần
A-37 và F-5 đang cố thả những trái bom và bắn
rocket yểm trợ cho cuộc đổ quân vang rền cả một vùng trời.
Tôi chỉ còn trông cậy vào tài
bay bổng của các bạn đưa tôi an toàn xuống đất, chỉ cần chúng tôi đặt được chân
xuống đất, dù chưa biết sau đó sẽ ra sao. Và thật như một phép lạ, cả hai lần
đổ quân đều trót lọt, tất cả đều nhờ tài khôn ngoan của phi hành đoàn. Thay vì
đáp ngay xuống thị xã, các phi hành đoàn của Không Đoàn 43 Chiến Thuật đã đáp
xuống cạnh các khe suối cạnh thị xã, là những nơi khuất tầm quan sát của các
tiền sát viên địch. Địch đã bố trí quanh khu vực Phước Long một trung đoàn
phòng không với đủ mọi loại súng từ 12 ly 8 đến 23 ly và 37 ly. Tiền sát viên
của địch ở khắp nơi, nhất là đỉnh núi Bà Rá đã bị địch chiếm mấy ngày trước.
Biệt Đoàn I Chiến Thuật của tôi chỉ gồm có Bộ Chỉ Huy và 2 Biệt Đội, không quá
300 người. Lực lượng trú phòng của Tiểu Khu Phước Long và các đơn vị tăng phái
không còn bao nhiêu.
Tiểu Đoàn 7 thuộc Trung Đoàn 9
của Sư Đoàn 5 chỉ còn không quá 100, Đại Đội 5 Trinh Sát, Sư Đoàn 5 chỉ còn hơn
10 người đã giạt vào đơn vị tôi, Đại Đội Trinh Sát Sư Đoàn 18 Bộ Binh còn Đại
Đội Trưởng và hơn một trung đội. Hai Tiểu Đoàn Địa Phuơng Quân đã tan hàng,
quân nhân còn lại cũng lẫn lộn trong hàng rào phòng thủ của Biệt Đội 811 của
tôi. Cộng chung lại không quá 500 tay súng để chọi lại với lực lượng địch trên
10 ngàn với đủ bộ xe pháo mã tốt. F-5 và A-37 vẫn yểm trợ tích cực
nhưng với một hệ thống phòng không chằng chịt không thể xuống thấp để có thể
đánh bom chính xác hơn. Từ dưới đất tôi thấy chỉ một chút sơ hở là
những chiếc F-5 và A-37 kia sẽ vỡ tung, có một vài trái bom đã rơi vào vị
trí bạn… phải chấp nhận thôi. Dù sao sự hiện diện của những chiếc phi
cơ này cũng khiến địch không dám điều động thiết giáp tiến sát đến vị trí chúng tôi.
Dân và lính bỏ đơn vị tràn ngập vị trí chúng tôi khiến không thể nào kiểm soát
được, tuy vậy chúng tôi vẫn đẩy lui được nhiều đợt xung phong của địch và đã hạ
được 4 chiến xa địch.
Vào lúc chạng vạng tối
ngày 5 tháng 1 năm 1975, chiến xa địch và bộ binh tiến sát vị trí Bộ Chỉ Huy
của tôi, sau đợt pháo 130 ly, 155 ly, 122 ly và 105 ly, chúng thả một toán đặc
công vào 2 lô cốt trống, nhờ phát giác kịp thời nên chúng đã bị tiêu diệt ngay
sau đó.
Suốt trong thời gian từ ngày 4
tháng 1 năm 1975 đến ngày 6 tháng 1 năm 1975, không lúc nào địch ngưng pháo vào
vị trí chúng tôi, chúng mở nhiều đợt tấn công có chiến xa yểm trợ mong tiến sát
vào vị trí chúng tôi. Sáng ngày 5 tháng 1 năm 1975, tôi đơn phương quyết định
không cho C-130 thả dù tiếp tế nữa vì 1/2 khu vực thị xã đã rơi vào tay địch
trước đó 2 ngày. Hầu như 9/10 những kiện hàng tiếp tế đều rơi vào tay địch, các
phi vụ oanh kích không còn hiệu quả, không còn pháo binh yểm trợ, không
tiếp viện. Ở tại Quân Đoàn III, Trung Tướng Dư Quốc Đống từ chối lệnh thả phần
còn lại của Liên Đoàn 81 BCND. Trong tình thế này, tôi buộc phải cho lệnh đơn
vị rút khỏi Phước Long để bảo toàn đơn vị, tôi đã phải để lại hơn 60 xác đồng
đội tại đây. Một điều đau đớn chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử của đơn vị tôi.
Tôi đã phải phân tán đơn vị tôi thành từng toán nhỏ, lợi dụng đêm tối, vượt qua
hàng rào bao vây của địch để thoát ra ngoài. Phước Long thất thủ vào sáng ngày
6 tháng 1 năm 1975.
Trớ trêu thay, sau khi Phước Long thất thủ, Không quân
đã phải ra tòa vì tội "mất Phước Long", đó là một quyết định bất
công. Đúng hơn, là cấp thẩm quyền vẫn quyết định đưa Biệt Cách Dù vào
"biển lửa" khi đã có ý định bỏ rơi Phước Long mới là kẻ có tội. Nhưng không, các ông Tướng thì chẳng thấy trách nhiệm gì nhưng cũng phải
kiếm cho ra một con dê tế thần để trút hết tội lên đầu nó là yên – Biệt Cách Dù
ư, không ổn và cả thất nhân tâm nữa khi đơn vị này đã làm nên lịch sử ở An Lộc.
Vậy còn Không Đoàn 43
Chiến Thuật phải lôi họ ra điều trần trước hội đồng tướng lãnh,
Đại Tá Phan Văn Huấn, Chỉ Huy Trưởng LĐ81 BCND đã đến buổi họp, ông xin được phát biểu trước:
_ Mất Phước Long, lý do tại sao, quý vị đều
biết nhưng không ai nói ra. Phần Biệt Cách Dù 81, chúng tôi vào chỗ chết
đã đành, bởi nghề nghiệp chúng tôi là chọn chỗ chết để đi vào. Riêng với anh em
Không Quân, các phi hành đoàn trực thăng đã làm quá bổn phận của họ, chết lây
với chúng tôi thật tội nghiệp. Nay đưa họ ra tòa là điều tôi cho là vô lý. Nếu
có lỗi làm mất Phước Long, tôi nhận lỗi. Xin quý vị ở lại tiếp tục họp và cho
tôi biết kết quả. Tôi xin phép ra về vì còn nhiều việc phải làm".
Và sau đó, Đại Tá Huấn vội vã ra về vì Phước Long
đã mất, Bộ Chỉ Huy BCND chỉ mới cứu ra
được hơn 100 quân. Việc phải làm gấp rút, chạy đua với kim đồng hồ là làm sao vào vùng lửa
đạn, linh hoạt điều động các phi vụ trực thăng 221, 223, 231, 237 với các phi công vô cùng can trường
cùng với ông trên
chiếc CNC L-19 đang bay
vào tìm kiếm số anh em BCD còn thất lạc và bốc họ ra khỏi chảo
lửa, trước khi họ bị tiêu diệt và bắt làm tù binh.
VXT viết tiếp: Trong lúc đơn vị tôi còn đang tìm cách vượt qua
vòng vây của địch thì ngày 7 tháng 1 năm 1975 đã có một buổi họp cao cấp của
Quân Đội, giống như tòa án quân sự, họ cố gán ghép việc thất thủ Phước
Long là do lỗi của Không Đoàn 43 Chiến Thuật thuộc Sư Đoàn III Không Quân Biên
Hòa. Thật là vô cùng phi lý nếu không nói là ngược ngạo. Trong khi những
phi cơ của các Phi Đoàn Trực Thăng 221, 223, 231, 237 và phi cơ L-19 còn
đang bay tìm kiếm và bốc các toán đã vượt qua được vòng vây địch thì tại hậu
phương những ông Tướng đang họp để kết tội họ.
Trách nhiệm làm mất Phước Long nếu nói thuộc
về tôi, người đã tự quyết định rút khỏi Phước Long, hoặc cao hơn là vì chỉ
huy trực tiếp của tôi đã không buộc tôi phải hy sinh cả đơn vị để cố thủ một vị
trí mà gần như đã hoàn toàn bị chiếm giữ bởi quân địch. Chúng tôi còn sống
sót không trách cứ bất cứ cấp chỉ huy nào. Người lính chỉ biết tuân hành
mệnh lệnh nhưng rõ ràng trách nhiệm làm mất Phước Long thuộc về người đã ra
lệnh thả một đơn vị 300 người vào chỗ cầm chắc 90% để thua về một mục đích
chính trị. Một ván bài tháu cáy, và đã thua, là khởi sự cho sự sụp đổ sau này.
Mãi 2 ngày sau, ngày 8
tháng Giêng, tôi – VXT và Bộ Chỉ Huy, mới thoát ra khỏi được vòng vây địch.
Ban đêm di chuyển qua các bãi trống, tôi phát giác được nhiều chốt của địch
đang bám giữ các bãi đáp này. Sáng cuối cùng chúng tôi tới được một nương sắn
(khoai mì), đã thấy nhiều trực thăng đang bốc các toán lẻ cách thị xã khoảng 5
đến 10 cây số. Tôi không còn máy để liên lạc với họ vì chiếc máy truyền tin PRC-25 cuối cùng đã bị Hiệu Thính
Viên của tôi đánh rớt xuống nước khi vượt qua sông vào buổi tối. Phương tiện
liên lạc duy nhất là một mảnh kiếng nhỏ bằng 2 đầu ngón tay, tôi cũng không hy
vọng được bốc ra.
Ở tại Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn, mọi người đều nghĩ
tôi đã tử trận hoặc bị bắt. Còn đang kiểm điểm xem còn lại bao nhiêu người
trong Bộ Chỉ Huy của tôi, bất chợt tôi nghe lùng
bùng ở tai. Tôi biết đang có trực thăng bay rất thấp vì tiếng quạt gió làm rung
chuyển lớp không khí còn ướt hơi sương, chỉ trong một khoảnh khắc ngắn chiếc
chiếc trực thăng UH1 đã ở ngay phía trước.
Anh em vội bẻ gãy một số cây
khoai mì, trong lúc đang ra dấu cho trực thăng vào vị trí, tôi chợt nghe nhiều loạt súng
cá nhân từ các đồi bên cạnh bắn qua, có lẫn cả tiếng nổ của đạn súng cối bắn
vào vị trí quanh bãi đáp. Vì số cây khoai mì còn nhiều nên trực thăng chỉ lơ
lửng trên đầu ngọn cây khoai mì, anh em tự nhảy lên bám vào càng leo lên rồi
kéo người khác lên. Đạn bắn càng lúc càng gần, đốn gẫy các cây mì chung quanh.
Vì đạn địch bắn quá gần nên phi
hành đoàn buộc phải cất cánh vội vàng. Tôi và Đại Úy Thành, sĩ quan
liên lạc Không Quân (ALO/ Air Liaison Officer) phải nhảy lên mới bám được vào càng bên trái
của chiếc trực thăng.
Khi anh em kéo tôi lên được
trên sàn tàu, tôi phải xoay người lại nhờ anh em bám chặt hai chân, cúi xuống
nắm lấy hai cổ tay của Đại Úy Thành và la lớn để anh thả hai tay ra thì
tôi mới kéo anh lên được. Nhưng Anh Thành vẫn không chịu buông tay ra và la lên: “Cho tàu đáp xuống”. Khi chiếc trực thăng đã bốc lên cao khoảng 200
bộ, bỗng nhiên anh bỏ tay ra không báo trước nên tôi đã để vuột anh. Nhìn anh
rơi xuống như một chiếc lá rụng, chiếc áo jacket da bò xòe ra như một cánh bướm
mất hút với tiếng la thảm thiết của anh, tôi như người mất hồn… Cả phi hành
đoàn đều cúi xuống nhìn anh rơi mà không màng đến hàng trăm viên đạn phòng
không đang túa theo chiếc trực thăng đang nặng nề rời bãi. Chiếc trực thăng duy nhất của Không Đoàn 43 do Trung Úy Sơn (Sơn Rỗ) lái đã phải cất cánh với 32 người kể cả phi hành đoàn, nó đã bị quá tải
(overtorque), chỉ bay mà không đáp được nữa vì nếu đáp sẽ không còn có thể cất
cánh được nữa.
Trong đời binh nghiệp của tôi từ khi còn là
một toán trưởng thám sát cho đến khi trở thành một cấp chỉ huy cao hơn, chưa
bao giờ tôi phải ân hận như thế, đã để rớt Đại Úy Thành. Hình ảnh của anh
còn mãi trong tôi như một cơn ác mộng luôn đè nặng lên tôi trong nhiều năm.” [Vũ Xuân
Thông Những Cánh
Thép Ngày Trước]
Hình 8: Trang nhất báo Tiền Tuyến Thứ Nm ngày 8.1.1975, viết về niềm đau mất
Phước Long. Phước Long là quân cờ Domino đầu tiên đã đổ xuống, kéo theo một chuỗi
những sự suy sụp của toàn Miền Nam, kết thúc bằng ngày 30 tháng 4 năm 1975,
cách đây đúng 50 năm.
Là sĩ quan cấp tá, cũng như vị chỉ huy trưởng
đơn vị, gia đình Vũ Xuân Thông vẫn sống giản dị trong khu trại gia binh Bắc
Tiến của Liên Đoàn. Sau khi thoát trận Phước Long trở về, lại phải chứng kiến
và nghe tiếng gào thét thảm thiết của những người vợ mất chồng hay những đứa
con mất cha, cảnh tượng ấy quá sức chịu đựng của Thông vào lúc ấy. Như cơn ác
mộng mà Thông không bao giờ quên cả nhiều năm về sau này.
NGÀY ĐẶT CHÂN TỚI HOA KỲ 1992
Ngày Thứ Ba 06.04.1992, vợ chồng BCD Vũ Xuân
Thông tới phi trường LAX, California sau hơn 13 năm tù đày trong các trại tù
khắc nghiệt của Cộng Sản từ Bắc xuống Nam, kể cả nhà tù Chí Hòa và Trại Trừng
giới A20 tỉnh Phú Yên. Cụm
chữ A20 đứng sau tên Vũ Xuân Thông là dấu ấn của giai đoạn cực kỳ khó khăn khi
VXT bị dẫn độ từ trại Hàm Tân về Khám Chí Hòa, và từ Khám Chí Hòa ra Trại Trừng
Giới A20, vì bị kết tội có liên hệ tới một vụ chống đối của các tù nhân tại
trại Hàm Tân nhằm phản đối những cư xử quá bất công trong trại cải tạo và Vũ
Xuân Thông bị gán cho tội lãnh đạo cuộc “nổi loạn”. Bị kết tội ấy có thể khiến Thông bị án tử hình nhưng
rồi nhờ vào lúc đang có Chương trình H.O. mà Vũ Xuân Thông mới được thả
ra.
Hình 9: Trên
trang nhất tờ Việt Báo, ngày 6 tháng 4 năm 1992 có đăng hình Vũ Xuân Thông,
“người chiến sĩ và diễn viên” đã tới phi trường LAX, từ trái là vợ chồng VXT
với nữ diễn viên điện ảnh Kiều Chinh ra đón. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
NGÀY LỄ
ĐỘC LẬP 1993
Fouth of July là Ngày Lễ Độc Lập của Hoa Kỳ, tập thể người Việt tị nạn
cùng hòa nhịp trong niềm vui ấy. Và cách đây 32 năm (1993), như một “duyên
khởi” các anh BCD Đào Minh Hùng, BCD Ngô Thế Vinh, BCD Phan Văn Huấn, BCD La
Cao, BCD Phạm Châu Tài, BCD Vũ Xuân Thông, BCD Võ Đình Lâm, BCD Võ Xuân Đồng đã
gặp nhau tại Long Beach, để cùng chia sẻ những ưu tư về cuộc sống trên vùng đất
mới, và không quên đồng đội với thân phận các anh chị em
BCD-LLĐB kém may mắn hiện còn sống lưu lạc khắp nơi hay đang chịu
cảnh kỳ thị lầm than nơi quê nhà.
Hình 10: Fouth of
July 1993, từ trái: BCD Đào Minh Hùng, BCD Ngô Thế Vinh, BCD Phan Văn Huấn, BCD
La Cao, BCD Phạm Châu Tài, BCD Vũ Xuân Thông, BCD Võ Đình Lâm, BCD Võ Xuân Đồng
họ đã gặp nhau tại Long Beach, cũng là ngày đánh dấu sự hình thành của Gia Đình
81 BCD/LLĐB tại Hải Ngoại. [nguồn: tư liệu Gia Đình 81 BCND]
Từ đó các anh đã cùng đi tới quyết định thành lập
Gia Đình 81 / BCND vào ngày 4 tháng 7 năm 1993. Không ai khác hơn, BCD Đại
Tá Phan Văn Huấn, con chim đầu đàn của Liên Đoàn 81 đã được anh em đề cử vào
chức vụ Hội Trưởng đầu tiên. Anh Tư – một tên gọi thân thương BCD Phan Văn Huấn
từ khi anh đang còn là Thiếu Tá – mà anh rất thích, cho dù sau này anh đã lên
những cấp bậc cao hơn. Và tiếp sau đó, Anh Tư đã được toàn thể anh em lưu nhiệm
nhiều lần qua các kỳ đại hội và đã đảm nhiệm chức vụ Hội Trưởng Gia Đình 81
BCD-LLĐB ròng rã suốt 20 năm.
“Kể từ ngày
thành lập GÐ81/BCD/LLÐB đã liên lạc được trên 500 anh em Delta (kể cả
BiệtKích Quân), Biệt Cách Dù và
Lực Lượng Ðặc Biệt, đã gây được quỹ TÌNH THƯƠNG để tương
trợ cho các gia đình thương binh tử sĩ và anh em BCD/LLÐB nghèo khổ ở quê nhà,
số tiền tương trợ đã lên tới trên 50 ngàn Mỹ kim và
đã được báo cáo chi tiết trên 28 bản tin nội bộ. Tuy GÐ81 là một hội riêng
nhưng công việc làm đều được thực hiện dưới danh nghĩa chung cho cả hai đơn vị
BCND và LLÐB vì Danh Dự của “màu cờ sắc áo”, và của chiếc
nón màu Xanh lá cây rừng Dũng Cảm”. [Bản Tin Gia Đình 81 BCD LLĐB, 2013]
Cho đến
tuổi 84, do sức khỏe suy yếu, anh Tư không còn kham nổi công việc nặng nhọc này
nữa và Đại hội Gia Đình 81 đã phải bầu một Hội trưởng mới là BCD Thiếu Tá Đào
Minh Hùng thay anh cho tới nay.
Hình 11: Hình trên là
một tấm Thiệp Chúc Xuân Quý Sửu (1973), mà anh chị BCD La Cao may mắn còn giữ
lại được. Bao nhiêu năm đã qua cùng với biết bao biến cố lịch sử,
giờ đây lưu lạc nơi xứ người, nhìn lại tấm thiệp cùng với địa danh các chiến
trận như: An Lộc, Quảng Trị, Dambe (Krek, Cambodia), Bến Thế (Bình Dương), Tân
Phú Trung (Củ Chi)… mọi người không khỏi hãnh diện và cả bùi ngùi nhớ lại những
ngày xưa cũ. Tấm Thiệp Xuân này có được là do nét vẽ tài hoa của BCD Vũ
Xuân Thông LĐ81 BCND. [nguồn: tài liệu Gia Đình 81, do BCD Đỗ Đức Thịnh cung
cấp]
Hình 12: Một Vũ Xuân
Thông trong đời thường, vào một ngày Chủ Nhật cuối tuần được nghỉ ngơi, ngồi
dưới nắng đẹp trong vườn nhà ở San Diego. [album gia đình VXT]
Hình 13: Sau những năm dài tù
đày, họ có khoảnh khắc gặp nhau tại Little Saigon, từ trái, Thiếu Tá BCD Trần
Quang Huế (2016), Trung Tá BCD Vũ Xuân Thông (2025), Thiếu Tá BCD Nguyễn Sơn
(2014), Trung Úy BCD Nguyễn Hiền. Ngoại trừ BCD Nguyễn Hiền, 3 chiến hữu BCD
kia nay đã là “người trăm năm cũ”. [tư liệu Gia Đình 81 BCND]
KHÔNG THỂ NÀO ĐƠN GIẢN HƠN
Ở tuổi 86, Vũ Xuân Thông ở lần cuối nhập viện, với sức khỏe
gần như suy kiệt – như một cây tùng cây bách hết nhựa, VXT không còn tự sinh
hoạt độc lập được nữa và tới giai đoạn vượt khả năng chăm sóc trong vòng tay
thương yêu của gia đình, nhóm bác sĩ điều trị Bệnh viện Sharp San Diego quyết
định cho chuyển Thông vào một Nhà Dưỡng / Nursing Home trong tình trạng cận tử
/ hospice. Nơi đây có dịch vụ chăm sóc 24/7, nhưng không có cung cấp các bước
điều trị tích cực. Là gia đình có đạo dòng, Thông đã được một linh mục Việt Nam
từ một nhà thờ gần đấy, tới làm đầy đủ “phép bí tích”. Sau ngày ấy, Vũ Xuân
Thông vẫn được gần gũi với sự chăm sóc của gia đình. Đã ở tuổi 86, mà Thông vẫn
mong mau chóng hồi phục, lái được xe để có thể đi làm trở lại.
Trong khoảng thời gian này, tôi vẫn được nói chuyện qua
phone với một Vũ Xuân Thông hoàn toàn minh mẫn, với thần thái thanh thản và
không phải trải qua giai đoạn đau đớn nào. Như một thói quen, Thông vẫn gọi tôi
là bác sĩ nhưng chúng tôi thực sự là hai người bạn, không chỉ trong thời gian
hơn 2 năm tôi còn là Y sĩ trưởng của LĐ81 BCND và cả những năm xa cách nhau về
sau này.
Rồi
cái ngày phải đến đã đến, Vũ Xuân Thông đã nhẹ nhàng ra đi vào lúc 6 giờ sáng
ngày 12 tháng 3 năm 2025 trong thanh thản, với dặn dò gia đình vợ con và các em
của Thông trước đó, là sẽ không có tổ chức tang lễ, không đăng cáo phó, không
có nghi thức phủ cờ. Ước nguyện của Anh là được thiêu ngay với tro than được
thả ra biển ngay sau đó.
Từ thành
phố biển San Diego, nhìn sang bờ bên kia Thái Bình Dương là Quê Nhà, một Quê
hương Việt Nam mà Vũ Xuân Thông đã dâng hiến tất cả tuổi trẻ trong suốt cuộc
đời binh nghiệp của Anh. Không có một “tang lễ” nào có thể đơn giản hơn thế.
BCD Vũ Xuân Thông đã đi vào một cuộc hành trình khác, trong một thế giới khác,
nơi đó không có máu lửa của chiến tranh, nơi anh có thể sống với ước mơ đầu đời
của mình, được theo học ngành kiến trúc mà anh mơ ước, và rồi Anh sẽ vẽ những
căn nhà ánh sáng không phải cho anh, mà cho những đồng bào đã từng khốn khổ
trên vùng đất lửa đạn như anh, và nay cũng như Anh, họ cũng đã qua thế giới khác.
Hình 14: từ trái , tấm thân tứ đại của Vũ Xuân Thông, vốn
cao 1,82 mét nay thu lại chỉ còn là một nhúm tro than; đúng theo ước nguyện của
người đã khuất, hũ tro cốt đã được thả ngay trong cùng ngày trên một vùng biển
vắng Imperial Beach nơi cực nam San Diego lúc 3:35 chiều thứ Năm 27.3.2025; dưới,
biển San Diego vẫn xanh, vẫn chông chênh những ngọn sóng “nước vẫn còn chau mặt
với tang thương.”
Trong khi bên Việt Nam, một đất nước tự hào là đã “thống nhất” từ 50 năm – nhưng lòng dân thì vẫn chưa tụ, một đất nước vẫn chưa có tự do dân chủ. Và từ suốt nhiều tháng nay, cả một bộ máy nhà nước đang rầm rộ chuẩn bị cho cuộc diễu binh lớn không tiền khoáng hậu với tổn phí lên tới nhiều triệu Mỹ kim để kỷ niệm 50 năm ngày “Giải Phóng” [sic] Miền Nam, vẫn với các khẩu hiệu không suy suyển “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào,” vẫn hừng hực không khí thù hận không biết còn kéo dài cho tới bao giờ.
NGÔ THẾ VINH
Sài Gòn 1975 – San Diego 2025