Dẫn nhập
Thuở còn ở bậc
Trung Học, mỗi tuần chúng tôi có hai giờ Việt Văn, chia ra kim văn và cổ văn.
Kim văn thì chúng tôi được giảng dạy về những nhà văn mới thời tiền chiến như
nhóm Tự Lực văn đoàn, các nhà văn độc lập như Trần Tiêu, Nam Cao, Bùi Hiển, Ngô
Tất Tố … Về phần cổ văn, chúng tôi được học thơ văn chọn của những danh sĩ
trong lịch sử, nam trung bắc đủ cả. Và lẽ dĩ nhiên, tuỳ năm, tuỳ chương trình
mà chúng tôi biết đến Lục Súc Tranh Công, Trê Cóc, Trinh Thử, Gia Huấn Ca,
Chinh Phụ Ngâm, Đoạn Trường Tân Thanh (Kiều) … là những tác phẩm nhiều người biết,
phần lớn qua bộ Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển (1943) và Việt Nam Văn Học Sử Yếu (1962)
của Dương Quảng Hàm.
Tuy thời gian dành
cho chương trình đệ Nhất cấp (từ đệ Thất đến đệ Tứ, tức lớp 6-9 ngày nay) chỉ
có thế, chúng tôi vẫn lãnh hội được khá nhiều, không phải qua sách giáo khoa mà
thường qua những bài giảng. Chúng tôi lại có dịp mày mò đi tìm tài liệu riêng
vì mỗi tháng có một ngày “thuyết trình” trong đó mỗi nhóm phải lên trình bày và
bị chất vấn về một đề tài tự chọn, tuy có liên quan đến bài học nhưng tương đối
mở rộng hơn.
Qua những giờ trong
lớp, chúng tôi được biết nhiều “giai thoại” mà thầy giáo đã đọc, đã biết nhưng
chúng tôi chưa hề nghe và chính những mẩu chuyện ngoài lề ấy giúp chúng tôi hứng
thú hơn với bộ môn văn chương, sử địa, công dân … vốn dĩ khô khan, khó hấp thụ.
Mà kho tàng chuyện lịch sử, văn chương của nước mình thì không thiếu nên đến giờ
này chúng tôi vẫn có thể kể cho nhau những điều đã nghe từ hồi đệ Thất.
Những thầy cô của
chúng tôi hồi đó, tuy không giỏi nhưng cũng biết ít nhiều chữ Hán nên miệng nói
tay viết giúp chúng tôi hiểu rành mạch hơn về những câu chuyện văn chương. Chẳng
hạn một cậu bé trần truồng đứng giang hai tay thì là chữ thái (太) chứ không phải là chữ đại (大). Cũng vì thế, để tìm hiểu sâu xa hơn về những
câu truyện kể, chúng tôi cố tìm hiểu xem ý nghĩa chứa đựng những gì trong đó. Nếu
không biết chữ nhật (日), chữ sơn (山),
chữ vương (王), chữ khẩu (口)
thì sẽ không thấy cái lắt léo của câu đố trong bài thơ chữ điền (田) tương truyền là sứ Tàu sang đố mà chỉ có
Nguyễn Hiền giải được.
兩日平頭日,四山傎倒山。兩王爭一國,四口縱橫間。
Lưỡng nhật bình đầu
nhật, Tứ sơn điên đảo sơn. Lưỡng vương tranh nhất quốc, Tứ khẩu tung hoành
gian.
Hai chữ nhật ngang
với nhau, Bốn chữ sơn xoay ngang xoay dọc. Hai vua tranh một nước, Bốn chữ khẩu
dọc ngang nằm trong đó.
Nếu xét nghĩa đen
thì bốn câu này không có nghĩa gì cả nhưng hiểu theo chiết tự thì chung qui chỉ
là một chữ điền (田).
Khi học đến Chinh
Phụ Ngâm, chúng tôi được nghe kể về những giai thoại liên quan đến bà Đoàn Thị
Điểm. Bà Đoàn Thị Điểm là một nữ sĩ thời Hậu Lê, có người anh cũng là danh sĩ
tên Đoàn Doãn Luân. Một hôm, ông Luân thấy cô em soi gương vẽ lông mày nên đọc
bỡn:
對鏡畫眉,一點翻成兩點
Đối kính hoạ mi, nhất
điểm phiên thành lưỡng điểm
Soi gương vẽ lông
mày, một cái chấm hoá thành hai cái chấm
Bà Đoàn thị Điểm liền
đáp lại:
臨池玩月,隻輪轉作雙輪
Lâm trì ngoạn nguyệt,
chích luân chuyển tác song luân
Đến ao xem trăng, một
vầng hoá thành hai vầng
Nếu không biết luân
là cái vòng tròn, điểm là một cái chấm thì không thấy cái dí dỏm của đôi câu đối.
Cái khéo của hai anh em là điểm là tên bà Điểm mà luân là tên ông Luân mặc dầu
đọc thì đồng âm nhưng nghĩa thì khác. Thành ra câu đối này có thể hiểu như sau:
Soi gương vẽ lông
mày, một cô Điểm hoá thành hai cô Điểm,
Đến ao xem trăng, một
ông Luân hoá thành hai ông Luân.
Qua nhiều giai thoại
về bà Đoàn Thị Điểm, lại thêm những “dật sự” liên quan đến Trạng Quỳnh, đến việc
đối đáp với sứ Tàu nên trong đầu chúng tôi luôn luôn nhìn bà Điểm như một nữ sĩ
hết sức đáng kính, đáng phục. Cũng vì thế việc chấp nhận Đoàn Thị Điểm là dịch
giả của bản Chinh Phụ Ngâm ra quốc âm trong sách giáo khoa là việc rất bình thường
nên nếu có ai đưa ra một kiến giải khác thường không được đón nhận một cách hào
hứng.
Chỉ tới gần đây,
khi đọc nhiều ý kiến khác nhau về ai là người dịch, tôi mới có dịp xem kỹ để
tìm lại câu trả lời ai là tác giả thật của bản dịch Chinh Phụ Ngâm khúc? Khi khảo
sát văn bản, nhất là một tài liệu có hơi hướng lịch sử, quan trọng nhất vẫn là
chứng cớ chứ không thể dựa trên cảm tính, vốn dĩ chủ quan. Việc xác định người
nào là chủ nhân đích thực của bản dịch này cần phải dựa trên những chi tiết rõ
ràng trên văn từ còn để lại chứ không thể dựa trên suy đoán hay lời đồn mà gần
như mọi tác giả đã dùng khi biện giải. Hữu tín hữu trưng luôn luôn là một
nguyên tắc bất biến của nghiên cứu, dù là lịch sử hay văn học.
Dịch giả “thật” là
ai?
Trong khoảng hơn
100 năm qua, nhiều cuộc tranh luận trên văn đàn về bản quyền tác giả của bản dịch
“Chinh phụ ngâm” ra quốc âm là ai. Tác giả bản dịch chúng ta hằng quen thuộc mở
đầu bằng câu “Thuở trời đất nổi cơn gió bụi” có hai người. Đó là Đoàn Thị Điểm
và Phan Huy Ích.
Nam
Phong (Đông Châu, Văn Uyển)
Cho đến đầu thế kỷ
XX, văn đàn nước ta vẫn coi Đoàn Thị Điểm là tác giả đích thực của bản dịch
Chinh Phụ Ngâm Khúc mà không ai đặt thành vấn đề. Thế nhưng năm 1926, trên báo Nam Phong số 106, tháng Juin (6-1926), trong phần Văn
Uyển (Văn thơ cổ), Đông Châu (Nguyễn Hữu Tiến) đã có một dẫn thuật ngắn dưới
nhan đề “Phan Dụ-am tiên-sinh văn-tập” nêu ra một nghi vấn khác về Phan
Huy Ích mới là
người đã dịch Chinh Phụ Ngâm. Bài báo nguyên văn như sau:
Cụ Phan Dụ-am huý
là Huy Ích 輝益,
người làng Thuỵ-khuê tổng Lật-sài phủ Quốc-oai tỉnh Sơn-tây. Cụ đỗ Tiến-sĩ năm ất
vị đời Lê-mạt, làm quan triều Tây-sơn đến chức Lễ bộ Thượng-thư kiêm chương-nhạc
chính-ty, Thuỵ-nham hầu. Cụ là thân-sinh ra ông Phan Huy-Chú 潘輝注 làm ra bộ Lịch-triều hiến-chương.
Cụ sở-trường về văn
quốc-âm, mà xưa nay không mấy người biết. Mới rồi tôi có tiếp thư ông Phan
Huy-Chiêm cũng là con cháu về họ Phan nói rằng cứ tra trong Phan-gia-tộc phả
cùng lời các phụ-lão trong họ Phan truyền lại, thì bài “Chinh phụ ngâm 征婦吟” bằng hán-văn là của ông Đặng Trần-Côn người
làng Nhân-mục làm ra, mà cụ Phan Huy-Ích dịch ra văn nôm, hiện nhà họ Phan còn
giữ được bản chính, vừa chữ vừa nôm; mà khi cụ dịch xong bài “Chinh phụ ngâm” có làm bài thơ ngẫu-thuật bằng
chữ nho rằng:
仁睦先生征婦吟。
Nhân-mục tiên-sinh Chinh phụ ngâm
高情逸調播詞林。
Cao tình dật điệu bá từ lâm
近來膾炙[1]相傳誦。
Cận lai khoái chá tương truyền tụng
多有推敲爲演音。
Đa hữu thôi sao [xao] vi diễn âm
韻律曷窮文脉粹。
Vận luật hạt cùng văn mạch tuý
篇章須向樂聲尋。
Thiên chương tu hướng nhạc thanh tầm
閒中翻譯成新曲。
Nhàn trung phiên dịch thành tân khúc
自信推明作者心
Tự tín suy minh tác giả tâm
Bài thơ này hiện
còn chép ở trong bộ Dụ-am ngâm lục đại-ý nói rằng: “Ông Trần-Côn người Nhân-mục
làm ra bài “Chinh-phụ ngâm” bằng chữ nho, từ-điệu cao-kỳ đã truyền-bá ở chốn từ-lâm,
ai cũng truyền tụng lấy làm khoái-chá lắm, đã có người thôi sao diễn ra ca nôm,
nhưng theo về âm luật thì dịch sao cho hết được cái tinh-tuý trong mạch văn, vậy
phải theo thiên-chương và hiệp với âm-nhạc mà diễn ra mới được. Nay nhân buổi
nhàn đã dịch ra thành khúc mới, chắc tin rằng suy minh được bụng của tác giả”.
Xem như bài thơ trên đó truyền lại, thì đủ chứng minh rằng “Chinh-phụ-ngâm-khúc”
bấy lâu nay ta vẫn truyền là bà Thị-Điểm diễn nôm, dễ thường không phải, mà
chính là của cụ Phan Huy-Ích diễn ra đó chăng? Nếu quả thật thế, thì ta nên
chính-đính lại. Trong thư ông Huy-Chiêm lại nói rằng: Bài “Nhân-nguyệt vấn đáp”
mà các hàng sách xuất-bản đó, xưa nay chưa biết đích là ai làm, nhưng xét trong
gia phả thì là ông Phan-Huy-Thực 潘輝湜
soạn ra hãy còn bản chính, so với phường-bản có nhiều chỗ sai. Và bài
“Tì-bà-hành” diễn nôm, mà ả đào vẫn hát, ta vẫn truyền là của ông Nguyễn
Công-Trứ, thì cũng là ông Huy Thực diễn ra. Ông Huy-Thực là ai? Cũng là con thứ
hai cụ Phan-Huy-Ích. Ông làm đến Lễ-bộ thượng-thư đời vua Minh-mệnh. Xem thế
thì nhất-gia phụ-tử đều sở-trường về quốc-văn, mà nghe nói trong bộ Dụ-am
ngâm-lục cả thảy 13 quyển, chính là một tập văn thơ của cụ Huy-Ích truyền lại,
còn có đến vài ba mươi bài thơ phú và văn tế, văn hịch, toàn bằng quốc-âm cả. Ước
mong ông Huy-Chiêm sẽ lai-cảo lục-đăng dần, để giữ lấy một nền văn cổ, và làm
khảo-chứng cho sử văn-học nước nhà về sau này…
Đông-Châu cẩn-chí. [2]
Tuy vấn đề này đã
được nêu ra nhưng rất tiếc sau đó, bản gốc Chinh Phụ Ngâm diễn âm không được
công bố nên nhiều tác giả vẫn theo truyền thuyết mà cho rằng Đoàn Thị Điểm là
người đã dịch ra quốc âm. Năm 1943, trong số báo Tri Tân 113 (năm thứ ba) ngày
thứ Năm 23 tháng Septembre, tác giả Hoa Bằng trong bài Dịch phẩm
« Chinh-phụ ngâm » phải chăng là của bà Đoàn-thị-Điểm ? cũng
đã nêu lại nghi vấn này và cũng nhận định rằng những tác giả đã coi bản dịch
Chinh Phụ Ngâm là của Đoàn Thị Điểm như Dương Quảng Hàm (Quốc-văn trích diễm,
1942), Sở Cuồng (Nữ lưu văn học sử, Hà Nội, 1929), Bùi-văn Lăng (Chinh phụ
ngâm, bản dịch ra tiếng Pháp, Hà Nội, 1943) … thì đều dựa theo truyền ngôn nên
cần căn cứ vào một nguồn xác thực hơn để phá cái nghi án văn học bấy lâu nay
và tránh cái nạn « râu ông, cằm bà ».[3]
Chinh
Phụ Ngâm bị khảo (Hoàng Xuân Hãn)
Đến năm 1953, lần đầu
tiên một tác phẩm tương đối đầy đủ và kỹ lưỡng đã được giáo sư Hoàng Xuân Hãn công
bố và xuất bản. Ông cũng đi tới tận cùng để tìm hiểu việc coi nữ sĩ họ Đoàn là
tác giả phát nguồn từ đâu? Trong lời Dẫn “Chinh-Phụ-Ngâm bị-khảo” (Paris: Minh
Tân, 1953) trang 24 thì việc ghi nhận Đoàn Thị Điểm là tác giả bản dịch được
công bố từ năm 1902 do một viên chánh tổng là ông Vũ Hoạt khắc in:
… Kể về bút-chứng,
thì nay chỉ có bản “Chinh-phụ-ngâm bị-lục” khắc bởi hiệu Long-hoà, năm
1902. Trong đó, có bài mở đầu của Vũ Hoạt nói: “Nhớ xưa, Đặng tiên-sinh
làm sách ấy, Đoàn phu-nhân diễn ra quốc-âm”.
Ở đầu sách lại có đề
rõ hơn: “Thanh-trì Nhân-mục tiên sinh Đặng Trần-Côn làm. Văn-giang Trang-phủ
phu-nhân Đoàn Thị-Điểm diễn-âm”.[4]
Chính từ đây, những
người đi sau đều dựa vào bản Long Hoà mà không tra cứu thêm để xác minh lời dẫn
đó đúng hay sai.Trong hơn 20 năm kể từ khi báo Nam Phong nêu ra, nhiều nhà
nghiên cứu đã cất công đi tìm câu trả lời nhưng kết luận đều do suy đoán và phần
nhiều nghiêng về tác giả là Đoàn Thị Điểm.[5] Mãi đến năm 1953, sau nhiều năm sưu tầm,
phân tích, giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã tìm ra nhiều bản diễn âm khác nhau, có bản
được phỏng đoán là của Đoàn Thị Điểm nhưng bản đang lưu truyền và thông dụng
hơn cả thì của Phan Huy Ích. Công trình của ông được công bố trong
nghiên cứu Chinh-Phụ-Ngâm bị-khảo (Paris: Minh Tân, 1953) và được nhiều
người đi tiếp mong tìm ra một sự thật lịch sử và văn học. Khúc mắc còn tồn tại
cũng vì giáo sư Hoàng Xuân Hãn chưa có cơ hội tham khảo bộ Dụ Am Ngâm Lục là tập
hợp văn thơ của Phan Huy Ích nên ông không có cơ hội đưa ra một dẫn chứng cụ thể
để bảo vệ kết luận của mình. Cũng nên nói thêm, cũng vì giáo sư Hoàng không được
đọc bộ sách này nên ông không [hay chưa] giải thích nhiều vấn đề lịch sử cuối đời
Tây Sơn, đầu đời Nguyễn mà cho đến gần đây vẫn còn bị hiểu một cách sai lạc.
Bìa sách Chinh Phụ Ngâm bị khảo của Hoàng
Xuân Hãn
Paris, Minh Tân, 1953
Chinh
Phụ Ngâm diễn âm tân khúc (Nguyễn Văn Xuân)
Năm 1972, tác giả Nguyễn
Văn Xuân công bố một tác phẩm nhan đề Chinh Phụ Ngâm diễn âm tân khúc của
Phan Huy Ích (Lá Bối, 1972) dựa trên một chứng cớ quan trọng từ việc khảo lục
một văn bản ông tìm thấy tại Huế.
Theo chúng tôi tìm
hiểu, bản in lần đầu này có hai ấn bản, một ấn bản thường chỉ có phần Việt Văn
và một ấn bản đặc biệt (50 cuốn) có đăng ảnh ấn nguyên bản chữ Nôm mà ông tìm
thấy ngày 14 tháng 3 năm 1970. Bản gốc này do Chính Trực Đường khắc bản ấn hành
tháng Ba (AL) năm Gia Long 14 (Ất Hợi, 1815) tức là khi Phan Huy Ích còn sống
và cũng mới diễn âm chưa lâu[6].
Công bố này, ngoài việc hiệu đính văn bản, có cả bài tựa của chính tác giả [tuy
mất phần cuối kể cả lạc khoản nên không xác định được chắc chắn là ai]. Tuy
nhiên, ở ngay câu cuối trong bài Tựa của bản nôm Chinh Phụ Ngâm diễn
âm tân khúc có một chi tiết:
…甲子初春予奉應候使事在北城。閒悶中歷閱舊解輙復技癢。爰將原吟。細加註釋。惑約其辭。惑申其意。凡用詞曲該二百四聫。務使原作之精神理脈。讀之愈覺敷暢。[7]
…Giáp Tí sơ xuân dư phụng ứng
hậu sứ sự tại Bắc thành. Nhàn muộn trung lịch duyệt cựu giải triếp phục kỹ dưỡng.
Viên tương nguyên ngâm. Tế gia chú thích. Hoặc ước kỳ từ. Hoặc thân kỳ
ý. Phàm dụng từ khúc cai nhị bách tứ liên. Vụ sử nguyên tác chi tinh thần lý mạch.
Độc chi dũ giác phu sướng …
Đầu mùa Xuân năm Giáp Tí (1804) ta phụng mệnh lo việc đón tiếp sứ thần ở
Bắc thành. Khi nhàn rỗi đem các sách cũ ra đọc và ngứa tay thi thố chút tài mọn.
Ta mới lấy bản ngâm gốc chú thích cho kỹ lưỡng, hoặc là giảm bớt chữ, hoặc là
diễn ý dài thêm, dùng từ khúc mà diễn 204 câu đôi, cốt lấy tinh thần mạch văn của
nguyên tác, để người đọc càng thêm thoải mái …
Bản A là bản đặc biệt (Lá Bối 1972) có cả
nguyên bản Hán – Nôm (do nhà sưu tập Lê Thành Tôn cung cấp)
Bản B là bản in lại Lá Bối 1972 (in lại tại hải
ngoại theo bản thường, không có nguyên bản Hán - Nôm)
Bản
C là bản in lại trong nước (Văn Nghệ, 2002) ảnh ấn bản đặc biệt Lá Bối, 1972
(có nguyên bản Hán – Nôm)
Gia Long thập tứ
niên cốc nguyệt
cát nhật
嘉隆十四年榖月吉日
Tân San Chinh Phụ
Ngâm Diễn Âm Từ Khúc
新刊征婦吟演音辭曲
Chính Trực Đường hiệu
tử
正直堂校梓
Chi tiết nhỏ bé này phù hợp với hành trạng của
Phan Huy Ích khi ông phải ứng trực ở Thăng
Long để lo việc tiếp sứ thần nhà Thanh
Tề Bố Sâm sang phong vương cho vua Gia Long
nên nhân lúc nhàn rỗi ông đã dựa
theo nguyên tác của Đặng Trần Côn để dịch ra quốc âm mà ông đặt tên là Chinh Phụ
Ngâm diễn âm tân khúc. Nếu nói là của bà Đoàn Thị Điểm (1705-1746) thì
đến thời điểm này, Hồng Hà nữ sĩ đã qua đời 58 năm trước rồi.
Việc Phan Huy Ích chủ trì
trong việc đón tiếp Tề Bố Sâm và sắp xếp các nghi thức ngoại giao đời Gia Long
là một sự kiện rất minh bạch. Có điều, vì tài liệu thiếu thốn cũng có, vì tư
tình, cảm tính cũng có nên vai trò của hai ông Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm bị bỏ
quên trong tiến trình xin nhà Thanh phong vương cho chúa Nguyễn Phúc Ánh. Ngay
cả sử triều Nguyễn, tuy có nhiều chi tiết về đại lễ này nhưng hầu như không nhắc
tới vai trò của Phan Huy Ích. Chính đó cũng là một sự kiện lịch sử bị ẩn dấu
như nhiều việc lớn khác xảy ra trong lịch sử của buổi giao thời Cựu Nguyễn –
Tân Nguyễn (Tây Sơn). (Xin xem phần Phụ Lục kèm theo bài này)
Không phải riêng tác giả
Chinh Phụ Ngâm diễn âm tân khúc đã bị nhầm sang người khác, nhiều nghi án cũng
vẫn tồn tại do “định kiến văn học” hơn là do chứng cớ rõ ràng.
Hai trang cuối bài Tựa Chinh Phụ Ngâm diễn âm
tân khúc[9]
Gần đây hơn, khi
nghiên cứu về việc đối xử với giới sĩ phu Bắc Hà khi vua Gia Long tiến ra bắc,
chúng tôi tìm đọc bộ Dụ Am Ngâm Tập, đến quyển VI, tr. 417-418 thì đã
tìm thấy bài thơ nhan đề Tân Diễn Chinh Phụ Ngâm Khúc Thành Ngẫu Thuật (新演征婦吟曲成偶述) với tám câu hoàn toàn đúng như bản chép
trong Nam Phong của cụ Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến năm 1926. Tuy chưa thấy bản dịch
gốc của Phan Huy Ích mà gia đình họ Phan cất giữ như thế nào
nhưng chi tiết trong bản in năm Gia Long 14 (1815) là khi dịch giả còn sống,
phù hợp với bài tựa ông nhắc đến thời điểm đã hoàn tất dịch phẩm này là khi ra
Bắc Thành lo việc tiếp sứ Thanh sang phong vương năm 1804. Như vậy, tập thơ
này còn tồn tại với nội dung đúng như trong Nam Phong và chúng ta có thể liên kết
với những khảo luận có từ trước của hai nhà nghiên cứu lão thành Hoàng Xuân
Hãn, Nguyễn Văn Xuân để xác định dịch giả thực của bản Chinh Phụ Ngâm hiện đang
lưu truyền chính là Phan Huy Ích chứ không phải Đoàn Thị Điểm. Chúng ta cũng biết
bản dịch nôm này cũng đã được khắc in năm Gia Long 14 mà ông Nguyễn Văn Xuân đã
công bố.
Bản chụp 2 trang 417-418 Dụ
Am Ngâm Tập (quyển VI, Vân Du Tuỳ Bút)
Kết luận
Năm 1978, nhà xuất
bản Khoa Học Xã Hội (Hà Nội) có giới thiệu một bản dịch rất công phu của nhiều
học giả Việt Nam nhan đề Thơ Văn Phan Huy Ích bao gồm 3 tập. Theo sự giới thiệu
văn bản của Nguyễn Ngọc Nhuận thì Dụ Am ngâm lục là tập thơ coi như đầy đủ nhất
của tiên sinh bao gồm 6 tập chia ra như sau:
-
Tập 1. Dật thi lược
toản, gồm những bài thơ làm từ tháng Ba năm Canh Dần (1770) đến tháng Tư năm
Canh Tuất (1790).
-
Tập 2. Tinh tra
(sà) kỷ hành, gồm những bài thơ làm từ tháng Tư đến tháng Chạp năm Canh Tuất
(1790).
-
Tập 3. Dật thi lược
toản, gồm những bài thơ làm từ tháng Giêng năm Tân Hợi (1791) đến tháng Chín
năm Bính Thìn (1796).
-
Tập 4. Nam trình tục
tập, gồm những bài thơ làm từ tháng Một năm Bính Thìn (1798) đến tháng Mười năm
Đinh Tị (1797).
-
Tập 5, Dật thi lược
toản, gồm những bài thơ làm từ tháng Giêng năm Mậu Ngọ (1798) đến tháng Chạp
năm Quí Hợi (1803).
-
Tập 6, Vân du tuỳ
bút, gồm những bài thơ làm từ tháng Giêng năm Giáp Tí (1804) đến tháng Chạp năm
Giáp Tuất (1814).
Tuy nhiên, trong bản
chúng tôi hiện có (từ tập I đến tập III) chỉ thấy các văn bản trong Dật Thi Lược
Toản (tập I), Tinh Sà [Tra] Kỷ Hành và Dật Thi Lược Toản (tập II), Cúc Thu Bách
Vịnh và Tinh Sà [Tra] Kỷ Hành (tập III). Như vậy các tập Nam Trình Tục Tập và
Vân Du Tuỳ Bút chưa thấy dịch và xuất bản. Gần đây, nhân thủ đắc được bản chụp
của toàn bộ 6 tập Dụ Am ngâm lục [A.603, VHv.1467, VHv.2462] từ kho sách Viện
Hán Nôm, chúng tôi đã tìm ra một số chi tiết mới đóng góp vào những biên khảo
cuối thời Tây Sơn, đầu triều Nguyễn đang thực hiện. Những chi tiết đó rất hữu
ích để vá lại một số vấn đề chưa có câu trả lời dứt khoát như việc phong vương
cho vua Gia Long, vụ án đánh roi Ngô Thì Nhậm, và tác giả thật của bản dịch
Chinh Phụ Ngâm lâu nay tương truyền là của Đoàn Thị Điểm …
Chính tại tập 6,
Vân du tuỳ bút, chúng tôi đã tìm thấy bài thơ “Tân diễn Chinh Phụ Ngâm khúc
thành ngẫu thuật” (Bài thơ làm khi mới dịch xong khúc Chinh Phụ Ngâm) để biết rằng
Phan Huy Ích quả thực có làm công việc dịch sang quốc âm. Việc dịch đó hoàn
tất năm Giáp Tí (1804) khi ông phải ứng trực ở Thăng Long chờ phái đoàn Tề Bố
Sâm sang phong vương cho vua Gia Long. Tuy ông không ra mặt chính thức để
đón tiếp phái đoàn nhà Thanh nhưng vai trò của ông rất lớn vì ông am tường lễ
nghi đã đành mà còn khôn khéo đáp ứng đúng những điều nhà Thanh yêu cầu. Có lẽ trong
giai đoạn mà việc đề cao triều đại Tây Sơn được coi như quốc sách, các nhà
nghiên cứu và dịch giả Việt Nam không thấy hứng thú khi tìm ra những chi tiết đề
cập đến việc hai ông Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích tham gia tích cực dưới thời
Gia Long.
Nói tóm lại, từ dẫn
thuật của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến trên báo Nam Phong năm 1926, chúng ta đã
tìm được bài thơ của Phan Huy Ích trong Vân du tuỳ bút và cũng xác định Tân
San Chinh Phụ Ngâm Diễn Âm Từ Khúc in năm Gia Long 14 là bản dịch hoàn tất khi
Phan tiên sinh ở Thăng Long. Trước khi tìm ra bản Chính Trực Đường các nhà
nghiên cứu đã dựa trên bản in của ông Vũ Hoạt (1902) để tên dịch giả là bà Đoàn
Thị Điểm mà không kiểm chứng nên cái nghi án đó đã kéo dài đến tận hôm nay. Sự
nhầm lẫn đó một phần cũng bởi có nhiều bản dịch khác nhau nên bản của Phan Huy
Ích đã bị nhầm sang bản Đoàn Thị Điểm như giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã chỉ ra.
Những nghi vấn văn
học và lịch sử thường bị dẫn giải lệch lạc do nhiều nguyên nhân chủ quan, đôi
khi rất ngẫu nhiên nhưng một khi có chứng cớ rõ ràng, dù thích hay không chúng
ta cũng nên trả lại sự thật để người đi sau không bị rơi vào mê lộ.
NGUYỄN DUY CHÍNH 12-2022
PHỤ LỤC
PHAN HUY ÍCH TRONG LỄ PHONG VƯƠNG NĂM GIÁP TÍ
(1804)
不知擁節三來客,認淂詞家故套無。
Không biết ba người khách cầm cờ tiết đi
sang,
Có nhận ra rằng lời lẽ kia là của người cũ
hay không?
Phan Huy Ích
Tham gia của Phan Huy Ích
Phan
Gia Thế Tự Lục (潘家世祀錄)[11]
chép:
[40b] …季夏。今朝進兵北出,所向風靡。中旬,大帥到城。大人避住于城外。下旬,高皇帝御駕詣行在。降詔。凡西官降順並在含容。
初[41a]秋。大人與伯舅公,暨年伯安隴阮公[諱嘉璠]以次謁駕。奉旨應直内城以備顧問。
仲秋。朝護以衆所指斥。遂轉縻禁衛將擬重處,奉上諭姑置之。
季秋。駕囬春京,旨下禁衛引送三名先行。
孟冬。抵京。各就軍寨。
仲冬。告成。邢部錄奏,奉御筆硃圈三名,諭令赦免。
是後連日宴會,无人再爲請旨仍留寨所。會北城委員遞元旦禮。附奏三名合從重治。
癸亥開春。上[41b]諭委員此三名已經准寬赦。玆委引赴城任咱總鎭分處。盖御意亦體貌大臣也。遂隨伊員發程。
閏正月。抵城。留前軍寨二月。北城官協護釋遣出城,住瑞璋坊與諸親眷欵洽。月底還山。風濤既岸。滽灑邱園。蔬食菜羨晏如也。
Bản dịch:
Nhâm Tuất (1802)
Tháng quí hạ (tháng
Sáu), triều hiện tại [tức triều Nguyễn]
tiến binh ra bắc một trận phong ba. Trung tuần tháng đó đại
binh [nguyên văn viết là đại soái 大帥có lẽ là đại sư 大師viết nhầm] đến thành. Đại nhân (tức Phan Huy Ích) tránh ra sống ở ngoài thành.
Hạ tuần, Cao hoàng đế (tức vua Gia Long) ngự giá đến nơi, ông đến yết kiến ở hành tại. Vua giáng chiếu rằng hễ
quan lại Tây Sơn hàng thuận thì đều được tha thứ.
Đầu thu (tháng Bảy), đại nhân cùng bá cữu (tức
Ngô Thì Nhậm) và người đồng niên làng An Lũng họ Nguyễn [tên Gia Phan] lại đến yết kiến, vâng chỉ ứng trực ở trong thành để
phòng khi hỏi đến.
Tháng trọng thu (tháng Tám), triều đình bàn rằng
vì có người tố cáo nên chờ đem ra xử lại, chuyển sang an trí nơi quân tướng
vâng theo dụ của hoàng thượng.
Quí thu (tháng Chín), vua trở về Phú Xuân, chỉ thị cho cấm vệ đưa ba người đi trước.
Mạnh đông (tháng Mười) đến kinh đô, mọi người
đều đưa vào trong trại quân.
Trọng đông (tháng Một), mọi
việc xong, bộ hình tâu lên, được ngự bút khuyên đỏ tên ba người, dụ lệnh tha
tội.
Từ đó [ở kinh đô] liên tiếp
ngày nào cũng hội hè tiệc tùng nên không còn ai thỉnh chỉ [xin tái thẩm]
nhưng vẫn còn giữ ở trong trại quân. Lúc đó ở Bắc thành sai người đem lễ Tết
vào có kèm theo lời tâu xin đưa ba người trị tội nặng.
Quí Hợi (1803)
Mùa xuân năm Quí Hợi
(1803), hoàng thượng dụ cho viên chức đó rằng ba người này đã được chấp thuận
tha tội nên sai người đưa đến Bắc thành để cho tổng trấn phân xử. Vì thế nên lại
đi theo viên chức đó lên đường.
Tháng Giêng nhuận đến Bắc thành giữ ở trại của
tiền quân trong hai tháng. Quan hiệp hộ Bắc thành thả ra bảo ra khỏi thành sống
ở phường Thuỵ Chương cùng với thân quyến. Cuối tháng đó trở về Sài Sơn.
Phong ba đến thế là hết, nay vui thú điền
viên. Rau dưa qua ngày không vướng bận.[NDC]
Phần tiểu sử này đã bỏ đi một câu do chính Phan Huy
Ích viết trong Dật Thi Lược Toản:
Ngày 12 tháng Hai, hiệp nghị chỉ cảnh cáo
nhẹ rồi tha về. (二月十二日。協議薄警放遣。)
Trong khoảng tám tháng kể từ
khi đại binh nhà Nguyễn ra đến Thăng Long (tháng
Sáu Nhâm Tuất đến tháng Hai năm Quí Hợi), ba ông Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Gia Phan có
chung một hoàn cảnh, khi thì như chứng nhân nhưng cũng có lúc tham gia vào một
số sinh hoạt triều đình nhất là việc liên lạc với nhà Thanh. Mà theo tình hình
lúc đó, việc nội trị thì có nhiều người đảm trách, bao gồm cả cận thần lẫn những
quan lại mới về đầu phục nhưng trên mặt ngoại giao thì hoàn toàn không thể dựa
vào ai khác ngoài những văn thần nhà Tây Sơn nay cộng tác với tân triều. Tuy
không biết rõ đời sống hai ông Ngô Thì Nhậm và Nguyễn Gia Phan cụ thể ra sao
nhưng chúng ta có thể dựa trên di văn của Phan Huy Ích để xem xét thực tế và hiểu
được những người cùng hoàn cảnh đã sinh hoạt như thế nào.
NHỮNG THỜI ĐIỂM
QUAN TRỌNG
Năm
|
Tháng
|
Phan Huy Ích
|
Chú thích
|
Văn bản
|
Nhâm Tuất (1802)
|
Sáu
|
Ra trình diện và không bị bắt tội
|
Có chiếu tha tội những
người ra đầu thú.
Ngày 21, vua Gia Long đến
Thăng Long
|
Đại Nam Thực Lục (I,XVII, 20-21, 25)
Dật Thi Lược Toản (399)
|
|
Bảy
|
Được hỏi về bang giao
|
Vua Gia Long muốn làm lễ ở Nam Quan nhưng Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm không tán thành
|
Đại Nam Thực Lục (I,XVIII, tr. 6)
|
|
Tám
|
Giam trong quân
|
Vì có người tố cáo nên ba
ông không được miễn tội như những người khác và phải xử lại nên bị giam trong
quân theo lệnh vua Gia Long.
|
Dật Thi Lược Toản (400)
|
|
Chín
|
Vào Phú Xuân
|
Vua Gia Long trở về kinh đô ra lệnh đưa ba người vào Huế
|
Dật Thi Lược Toản (400)
|
|
Mười
|
Đến kinh đô
|
|
Dật Thi Lược Toản (401)
|
|
Một
|
Được tha bổng
|
Châu khuyên ân xá của vua
Gia Long
|
Dật Thi Lược Toản
(401)
|
|
Chạp
|
Sinh sống bình thường tại kinh đô
|
Yến ẩm và giao thiệp với
quan lại ở Phú Xuân, chứng kiến những biến cố của thời đó trong đó có cả việc
hành hình và trừng trị vua tôi nhà Tây Sơn.
|
Dật Thi Lược Toản (401-2)
|
Quí Hợi (1803)
|
Giêng
|
Đưa ra bắc
|
Vua Gia Long dụ rằng đã
tha cho ba người
|
Dật Thi Lược Toản (402)
|
|
Hai
|
Ở trong quân
|
|
Dật Thi Lược Toản (402)
|
|
|
|
|
|
|
15-Hai
|
Bị xử tội suy
|
Ba ông Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm và Nguyễn
Gia Phan bị xử nhẹ (theo Đại Nam Thực Lục thì bị đánh đòn tại Văn Miếu)
|
Dật Thi Lược Toản (403)
Theo Ngô Gia thế phả thì Ngô Thì Nhậm chết ngày 16 tháng Hai (7-4-1803)
|
|
Ba
|
Về Sài Sơn
|
|
Dật Thi Lược Toản (405)
|
|
|
Chín
|
Trở ra Bắc thành
|
|
Dật Thi Lược Toản (408)
|
|
Mười
|
Tham gia vào công việc từ hàn
|
Vua Gia Long ra bắc
|
Dật Thi Lược Toản (408)
|
THAM GIA CỦA PHAN HUY ÍCH TRONG BANG GIAO
Năm
|
Tháng
|
Phan Huy Ích
|
Dụ Am Văn Tập
|
Chú thích
|
Quí Hợi (1803)
|
Một
|
|
|
|
|
Chạp
|
|
(2.121) Tiến cống biểu
|
Tờ biểu kèm theo phẩm vật tiến cống nhà Thanh
|
Giáp Tí (1804)
|
Giêng
|
Lễ sách phong
|
(5.28) Giáp Tí xuân phụng
nghĩ tân kiến quốc hiệu tuyên cáo
|
Tuyên cáo với quốc dân về quốc hiệu mới mùa xuân năm Giáp Tí (1804)
|
|
|
|
(4.59) Giáp Tí xuân, tân triều thụ
phong, giản khâm sứ Quảng Tây án sát Tề Bố âm, đồng tuyên phong Thái Bình phủ
chính Vương Phủ Đường
|
Giản gửi sứ thần nhà Thanh sang phong vương là Tề Bố Sâm và Vương Phủ
Đường
|
|
|
|
(2.111) Thụ phong trần tạ biểu
|
Biểu tạ ơn sau khi được phong vương
|
|
|
|
(2.114) Tấu tu cống biểu
|
Lời tâu về việc triều cống
|
|
|
|
(2.116) Phong tặng tạ biểu
|
Tạ biểu về việc được vua Gia Long cho chức quang lộc tự khanh, tòng
tam phẩm
|
|
|
|
(2.106) Giáp Tí niên, tân triều thụ
thiên triều sách phong ấu sự biểu
|
Biểu gửi lên nhà Thanh tường thuật việc tân triều được công nhận
|
|
|
|
(2.123) Tạ tống hồi nhân khẩu
biểu
|
Biểu tạ ơn nhà Thanh cho đưa những người nhà Lê lưu vong trở về nước
|
|
|
|
(4.62) Gia Quất công quán tống
yến các giản
|
Các giản về việc đãi tiệc sứ thần nhà Thanh ở công quán Gia Quất
|
|
|
|
(4.63) Tuyên phong hậu tống
yến các giản
|
Các giản gửi sau khi tuyên phong và đãi tiệc sứ nhà Thanh
|
|
|
|
(4.64) Thỉnh lưu khâm sứ giản
|
Giản muốn mời khâm sứ nhà Thanh ở lại
|
|
|
|
(4.65) Tiễn hành giản
|
Giản tiễn đưa khâm sứ nhà Thanh trở về nước
|
|
|
|
(4.67) Tuyên phong hậu phụng
hữu khiển sứ tạ cống tư Lưỡng Quảng tổng đốc Uy đại nhân[12]
|
Sau khi tuyên phong, phụng mệnh uỷ sứ tạ cống, thư gửi tổng đốc Lưỡng
Quảng Uy
(Thập Bố) đại nhân
|
|
|
|
(4.69) Tư Quảng Tây tuần phủ
Bách đại nhân[13]
|
Thư gửi tuần phủ Quảng Tây Bách (Linh) đại nhân
|
|
|
|
(4.71) Tư Quảng Đông tuần phủ
Tôn đại nhân[14]
|
Thư gửi tuần phủ Quảng Đông Tôn (Ngọc Đình) đại nhân
|
Bính Dần (1806)
|
|
|
(2.104) Truy tôn liệt thánh
miếu hạ biểu
|
Biểu mừng về việc hoàn thành miếu truy tôn liệt thánh
|
Tân Tị (1821)
|
|
|
(2.119) Hựu đại nghĩ nhất thể
|
Biểu tạ ơn được phong Lại bộ tả tham tri đời Minh Mạng
|
Đầu mùa đông năm Quí Hợi
(1803), tin tức về việc sứ thần nhà Thanh sắp sang làm lễ phong vương đã đến
triều đình chủ yếu từ sứ thần mang biểu cầu phong sang Trung Hoa nay đã trở về.
Vua Gia Long có lẽ cũng nóng lòng về một vận hội mới nên ngay từ tháng Tám đã
bàn chuyện bắc tuần (đi ra thăm ngoài bắc). Theo Đại Nam Thực Lục, quyển
XXII thì nhà Thanh thông báo rằng hai sứ bộ Lê Quang Định và Trịnh Hoài Đức đã
lên đến Yên Kinh và vua Thanh sai án sát Quảng Tây là Tề Bố Sâm sang tuyên
phong.[15]
Vua Gia Long sai Tống Phước
Lương, Nguyễn Vĩnh Thị đem quân thuỷ bộ ra bắc trước còn nhà vua thì khởi hành
từ kinh sư ngày Bính Dần (4-Tám tức 19-9-1803) có Nguyễn Văn Trương, Lê Chất,
Nguyễn Đức Xuyên đem quân theo hầu. Theo Lý Lịch Sự Vụ thì số binh lính
đi cùng với nhà vua là năm dinh Thị Trung, Túc Trực, Nội Trực, Thần Sách và Tượng
Dinh, tất cả 16,907 người bao gồm 12, 719 người cầm nghi trượng và lính bếp
cùng các viên chức khác là 4,188 người.[16] Ngày Đinh
Sửu (16) tháng Mười năm đó, nhà vua đến Thăng Long. Cuối năm đó, phái bộ Lê
Quang Định về đến nơi, vào triều yết được vua Gia Long hỏi han về việc đi sứ.
Tính ra từ khi phái đoàn rời
Phú Xuân đến khi tới Bắc thành mất khoảng 2 tháng 12 ngày. Việc di chuyển một
đoàn quân và lỗ bộ đi suốt một đoạn đường dài rất phiền toái và tốn kém. Phái
đoàn cũng lưu trú lại Thăng Long một tháng rưỡi trước khi sứ thần nhà Thanh đến
nơi.
Chúng ta cũng còn được một
số văn bản do Phan Huy Ích soạn có liên quan đến thời kỳ này cho thấy ông đã
tham gia rất tích cực ngay từ những ngày đầu tiên khi vua Gia Long ra Thăng
Long. Cũng theo lời kể của chính ông, Phan Huy Ích được vua Gia Long gần như
giao toàn bộ tổ chức đón tiếp và nghi lễ tiếp sứ Thanh, có điều là không lộ diện
trực tiếp gặp gỡ phái đoàn. Sau khi Ngô Thì Nhậm qua đời, vai trò của họ Phan gần
như không ai có thể thay thế, về văn chương, về ứng phó và cũng không ai nắm vững
các thể chế bang giao bằng ông trong thời đó.
Theo Phan Gia Thế Tự Lục
thì:
[41b]季秋。北城官推赴城,謂天朝册使近期,宜候直在城,待有詢訪。遂寓于南門庯。
孟冬。御駕到城。總鎭阮公引見于行殿。奉御[42a]詢使事諸條件,仍諭扈侍六卿官。凡關封使事宜並查訪。伊員計護取旨奉行。是後列台催問詶答不暇。又奉稿擬表柬各道,經奉准用。
甲子,孟春。册封禮完。下浣告謝囬山。
Quí Hợi (1803)
Quí thu (tháng Chín), quan ở Bắc thành giục ra
Thăng Long nói rằng sứ thần sách phong của thiên triều sắp
đến, cần phải ở lại trong thành đợi khi có việc hỏi đến. Khi đó lại ở trong phố
cửa nam.
Mạnh đông (tháng Mười), vua đến Bắc thành, tổng
trấn Nguyễn công [tức Nguyễn Văn Thành] đưa vào yết kiến ở hành điện, hỏi về mọi
việc liên quan đến sứ sự (các việc ngoại giao, đón tiếp sứ thần), sau đó dụ cho
đi theo lục khanh (sáu quan lớn trong triều). Tất cả những việc liên quan đến sứ
thần phong vương đều được hỏi đến rồi các viên chức đó sắp xếp nhận chỉ thi
hành.
Từ đó về sau, các ngài giục giã hỏi han qua lại
không lúc nào ngơi. Lại được lệnh soạn thảo các biểu, giản các loại để chờ
hoàng thượng chuẩn thuận thì dùng.
Giáp Tí (1804)
Mạnh xuân năm Giáp Tí (tháng Giêng), lễ sách
phong hoàn thành. Hạ tuần tháng đó cáo tạ trở về Sài Sơn.[17][NDC]
Trên đây là lời tường thuật
trong gia phả họ Phan tương đối giản lược. Theo chính lời Phan Huy Ích ghi chép
về vai trò của ông trong lễ sách phong năm Giáp Tí (1804) đối chiếu với những
văn thư, giản trát mà ông soạn thì ta thấy vai trò của ông quan trọng không kém
những lần ông tổ chức đón sứ nhà Thanh đời Quang Trung và Cảnh Thịnh, có lẽ vì
trong công tác này không ai có thể hơn ông được. Dụ Am Ngâm Tập có một bài ký sự
như sau đây:
[416]册封禮完紀事
天朝特派廣西按察使齊布參,帶同太平知府正堂王撫棠前來頒封。
訂以正月初四出關。十一日行封禮。
自年底得报旨下。一切文書列台預先據予稿擬,陸續進讀。
所修謝封,請貢,謝文表三道,咨呈總督二道,迎餞册使柬札十二道,以次還稿進覽。
間有別擬表稿遞進者,上更准用予稿,迨送呈册使,卒無一字改易。以是屢蒙獎諭。
封禮訖,彙集公文,現成甲子册封一集。
[417]下浣,駕囬春京。余始撰告謝還山。
新國恩封禮典稠,毫端摹畫一閒夫。
天恩曲軫多啣感,邦好旁搜免應酬。
次第儀章花使驛,尋常文字契宸謨。
不知擁節三來客,認淂詞家故套無。
預封使。故結語云。[18]
Lễ sách phong hoàn tất,
ghi lại sự việc
Thiên triều đặc biệt
sai án sát Quảng Tây Tề Bố Sâm, dẫn theo tri phủ Thái Bình Vương Phủ Đường đi
sang phong vương.
Ấn định ngày mồng 4
tháng Giêng sẽ ra khỏi cửa quan, ngày 11 sẽ làm lễ sách phong.
Từ cuối năm đã có
chỉ xuống nói rằng nhất thiết các văn
thư gửi cho các ngài do tôi soạn dự bị từ trước lục tục gửi lên để cho hoàng
thượng xem.
Ba đạo văn tạ phong
biểu, thỉnh cống biểu, tạ ân biểu, và hai đạo trình lên tổng đốc, mười hai đạo
giản trát đưa đón và tiễn các sứ thần và thư trả lời đều đưa lên ngự lãm.
Nếu như có biểu cảo
gì khác đệ lên thì hoàng thượng đều chuẩn thuận dùng bài của tôi để gửi cho sứ
thần, không sửa một chữ nào. Lại được khen ngợi mấy bận.
Sau khi lễ phong
vương xong, thu thập tập hợp các công văn thành một tập sách phong năm Giáp Tí.
Hạ tuần (tháng
Giêng) nhà vua trở về Phú Xuân, ta soạn bài cáo tạ rồi trở về Sài Sơn.
Tân quốc
ân phong lễ điển trù,
Hào đoan mô hoạch nhất nhàn phu.
Thiên
ân khúc chẩn đa hàm cảm,
Bang hảo bàng sưu miễn ứng thù.
Thứ đệ
nghi chương hoa sứ dịch,
Tầm thường văn tự khế thần mô.
Bất tri
ủng tiết tam lai khách,
Nhận đắc từ gia cố sáo vô. [19]
Dịch thơ
Nước mới ân phong lễ điển dầy,
Bao nhiêu sắp xếp một tay này.
Cảm thông trông xuống bao hờn tủi,
Cho được đứng ngoài miễn tiếp tay.
Mỗi trạm văn chương chu đáo cả,
Tầm thường nhưng cũng chẳng đổi thay.
Không biết sứ thần ba khách đến,
Hay chăng người cũ được dùng đây.
Tham gia vào việc
phong vương nên kết thúc thế này. [NDC]