Tuesday, December 28, 2021

Cố Nhân / Trúc Chi

     Chiều lên thăm Ngũ Phụng Lâu

Trông ra thấy bể nhìn vào thấy dâu

Riêng còn mấy đóa bên hào

Sen vàng hàm tiếu lặng chào cố nhân

 

Trúc Chi




Monday, December 27, 2021

Một Vần / thơ Trúc Chi

Ngao du nửa bước phù trầm

Thơ văn nặng gánh áo cơm chật vòng

Ai rằng hưng phế tồn vong

Ta rằng nâng bút chửa xong một vần.

 Trúc Chi










Họp Bạn / thơ Trúc Chi

tặng Hồng Quang Anh, vắng mặt

trong môt buổi họp bạn thân ở California.

 

Mới đó mà nay đã bạc đầu

Cầm tay cười khóc chuyện xưa sau

Này thơ này rượu câu tâm sự

Kìa núi kìa sông cuộc bể dâu

Tàn lớp phế hưng chừng mất cả

Gìà đời lưu lạc may còn nhau

Quí rồi! buổi loạn cầu chi nữa

Khui nốt chai kia phá trận sầu.

 

1978

Thursday, December 23, 2021

Thử Tìm Ý Nghĩa của Thế Quân Bình trong Gỗ và Đá * của Trúc Chi / Trần Mạnh Toàn

*( Văn Mới xb, California, 2002)


Kính gửi anh Trúc Chi Tôn-Thất thay cho tấm thiếp chúc một mùa thương.

LNV- Cuốn sách đọc muộn đến 20 năm, và cũng nhờ một duyên tri-ngộ. Như thế, ở một nghĩa nhất định, sách đã có chỗ trong lòng người nhận từ trước, hai-mươi năm. Những hàng lạo-thảo dưới đây thay cho sự trầm trồ về một tâm hồn trót “quy y” cái Đẹp, cái Lành, cái Thực. Ta sẽ thấy, bên Trúc Chi, Gỗ và Đá còn chỉ ra một nơi an trụ cho lòng trong thế giới có-không.

  

Tập tùy bút thứ hai của Trúc Chi ra đời tiếp theo tập tùy bút thứ nhất có tên Đó Đây vài  năm vẫn giữ nguyên mạch văn mà người làm chủ. Những dòng chữ được gói ghém trong thể loại mà có lần người viết ra, trong khiêm tốn, tỏ ý hay gián tiếp tán đồng về khía cạnh “tán gẫu”  hoặc “vô chiêu” nhưng thực sự được cô đúc bởi kinh nghiệm lịch duyệt, cái nhìn sắc sảo với đời, khả năng thể hiện hiếm có, khi cần động bút và trên hết là một tâm hồn nhất mực hướng về cái toàn thiện toàn mỹ, tỏ rõ  nỗi đau khi cái hay cái đẹp bị xem nhẹ hay bị tổn thương. Chỉ riêng trong Gỗ và Đá, tập tùy bút thứ nhì, tinh anh nhập vào ngòi bút, và có thể nói, của thể văn, một lần nữa, tái hiện không kém thâm trầm, sắc sảo.

 Có người thường nghĩ tùy bút gần gũi với lòng hoài niệm, viết ra để vơi gánh sầu tư. Nhưng riêng trong Đó Đây, Gỗ Và Đá, cái ý vị-ngã đã không còn mà thay vào là sự trắc ẩn khôn cùng trước cái không may, điều thiệt thòi hay mất mát của người quen, của người cùng chung hoàn cảnh định mệnh của đất nước. Người đọc tinh ý sẽ thấy, chỉ khi nỗi trắc ẩn bị khơi dậy “nặng tay” như thế, người làm chủ ngòi bút như Trúc Chi mới chạnh lòng để nói lời thanh nghị. Đó là những khi ông nghĩ đến tình tương lân đậm đà giữa xóm giềng, nay chỉ là “nét đẹp đã tàn” ( Mây và Tháng Ba, tr. 88.89). Nỗi bất hòa đeo đẳng, day dứt một đời nơi người bạn mòn mỏi phương xa ( Một Lần Thăm Bạn, tr. 77, 78.) Hay đậm nét hơn là cái chết oan khuất của bao thường dân trong cuộc tương tàn ( Về Một Tâm Hồn Nghệ Sĩ, tr. 218.) Những lúc ấy rõ rệt là lúc trái tim  cảm thấy bị tổn thương, ông lên tiếng, bầy tỏ như chính mình là nạn nhân, không hề nhân danh quy điều hay chính nghĩa.

 Gỗ và Đá ra đời cách đây đã 20 năm nhưng phần lớn con người có mặt và xã hội mà họ liên can có uyên nguyên trong lúc cuộc tương tàn đang tiếp  diễn. Như thế, có thể nghĩ tác phẩm, đáng chú ý là truyện mang tên tác phẩm, đã được tượng hình trong  khoảng thời gian của một kiếp người. Truyện đi ra từ giữa hai thảm kịch song song phổ biến trong gia đình (cô nhi) và ngoài xã hội ( nạn nhân chiến tranh) của ít nhất là một nhân vật rất phụ trong truyện ( chú tiểu Nhân) nhưng rõ ràng là cách gợi ý để việc mở lối cho một tâm hồn băn khoăn, một người nghĩ rằng là nạn nhân bị mắc kẹt giữa ít nhất là hai thế lực tương tranh, hoặc cảm thấy bị dằng co giữa những nghĩa vụ được định và sự giục giã của lương tâm cùng trái tim. Con người không xem việc đến chùa là tìm về một đức tin mà hầu như, do tình cờ, tâm hồn lại tìm được nơi an trụ. Họ lấy cách xếp đặt nơi hòn non bộ và tấm bản thư pháp nơi sân chùa làm cái cớ đốn ngộ được sự quân bình tâm hồn qua việc an bài vạn hữu.

Theo truyện, tác giả lưu tâm không vì việc hiểu ý nghĩa câu kinh mà do “nét đẹp của một lời nguyện”. Cái đẹp của ý nghĩa câu kinh bỏ ngỏ và của lời nguyện mông lung tạo nên sức hấp dẫn như hấp lực của hòn non bộ, đã thu hút, chiếm ngự tâm hồn người ( Gỗ và Đá, tr. 250-251.)

Cái đẹp, dẫu dưới nhiều dạng thức, vẫn có khả năng cứu độ con người, theo cách mà con người  cần tới. Trúc Chi, với một tâm hồn dễ dàng rung động trước ngoại cảnh, đã đến với cái đẹp như trở về với lòng mình. Người đã xem cuộc hành trình này không khác việc châu tuần của ấn tượng về một nơi quy về của đạo giải thoát.

Trước sau, người vẫn để ngỏ cho chốn lui về trong sự thanh tịnh của tâm hồn bằng mỹ thuật của điều lành, cái đẹp và được nâng cao như một chân lý.

Lịch sử sang trang vẫn chứng minh sự tồn tại của thế đứng dựa vào niềm tin cái đẹp, cái lành . Con người nhờ đó thoát khỏi cái chông chênh của thế nước và những dằng co nội tâm quyết liệt về một thế cờ.

Người mang theo tâm hồn thi nhân còn chịu đựng mâu thuẫn lẫn xung đột trong nội tâm gay gắt hơn khi cố chứng tỏ khả năng thuyết phục của mình về một hướng đi. Họ Trịnh là thí dụ điển hình của trường hợp này khi càng nỗ lực ý thức về thân phận thì càng chứng tỏ nỗi hoang mang, vô vọng. Trên đời người trổ nhánh hoang vu / trên ngày đi mọc cánh lá mù / những tim đời đập lời hoang phế ( Cỏ Xót Xa Đưa)

Dưới mắt Trịnh, cuộc đời và con người là trái đắng của niềm tin trước khi mang dòng lệ chưa khô vì cuộc chiến. Lá khô vì đợi chờ  / cũng như đời người mãi âm u. ( Như Cánh Vạc Bay)

Trúc Chi, qua cái mẫn cảm hiếm hoi của người làm văn nghệ, tìm tới Trịnh, nơi một tâm hồn tưởng như đồng điệu, phát giác nơi Trịnh “ một trái tim  mềm nhạy cảm.“ ( Về Một Tâm Hồn Nghệ Sĩ, tr. 220)

Trịnh đã phân phối những nhịp đập từ trái tim mềm nhạy cảm ấy, cho tình ca, và những bài hát đề cập thân phận con người khắc khoải vẻ siêu hình, vẻ như tìm kiếm một lối thoát hay hơn thế, một thế ứng phó mê hồn trận của thời thế bày ra.

Hẳn là Trịnh đã thành công ít nhiều trên đường lối này nếu chỉ căn cứ vào khả năng chinh phục của ca từ vốn ấp ủ sẵn vẻ diễm lệ lẫn ảo giác. Tương tự  xu hướng ôm cao gối mộng,” lên non tìm động hoa vàng ngủ say”, được không ít thi-tài nâng lên và củng cố như một suối nguồn an lạc.

Theo ý riêng, có thể chỉ trong lãnh vực này thôi, Trịnh không cảm thấy day dứt gì hơn và từ trái tim vốn “yếu đuối” và mẫn cảm này, cảm hứng phần lớn được mời gọi mà thành, hơn là do những thúc đẩy từ ngoại giới.

Để lấp cái trống trải, để sưởi ấm niềm cô đơn, anh chỉ còn biết yêu cuộc đời này, yêu thiên nhiên, yêu từng chiếc khăn tang, từng mái tóc, từng giọt nắng, từng hơi sương. Yêu mà vẫn không quên được cái đau làm người, cái đau làm người Việt Nam trót sinh trong khói lửa” ( Về Một Tâm Hồn Nghệ Sĩ, tr. 222) Trong đoạn văn mang đầy tính thuyết phục trên, và trong cõi nhân gian “độ lượng” ( chữ dùng của Trịnh, tr. 223), người ta hiểu rằng, Trịnh đã sống, theo cách riêng của người nghệ sĩ, và theo cách chung của không ít người muốn dành trọn cuộc đời cho nghệ thuật.

Dành phần nói về Trịnh cũng là không quên hoàn cảnh chung của những con người nghệ sĩ khác, đơn thân sống trong điều kiện nghiệt ngã mà vẫn giữ được niềm tin vào giá trị thiện mỹ của nghệ thuật.

Nhưng, cái thế “tồn tại” mà do tình cờ nhiều hơn, trong lần Trúc Chi tao ngộ với chùa, quả là nằm trong một tiến trình nhận thức cho dầu không có từ một nỗ lực lâu dài. Con thuyền cứu khổ ông chưa có dịp đặt chân nhưng ý thức về sự vượt thoát khổ đau ông đã quán xuyến. Trong cuộc hành trình ấy, Trúc Chi dường như càng tiến gần đến sự “giác ngộ” về cái đẹp, cái lành của nghệ thuật và của chính cái sự thực mà ông góp phần xiển dương trong cả 2 lãnh vực trong và ngoài nghề nghiệp.

Không chính thức đặt niềm tin vào yếu tố siêu hình nào dù rằng ấn tượng về một chốn cửa thiền là  hình ảnh của một người đã hiển hiện  đạo tâm. ( Gỗ và Đá, tr. 243) Từ đấy, truyện cuối Gỗ và Đá, chẳng phải vô tình khi phác họa lộ trình một chặng đường tư tưởng bằng những nét ngời sáng trác việt của một áng danh văn.

 Trần Mạnh Toàn ( 21-12-2021)


Sương Mây / Trúc Chi

Lang thang quẩy gánh tiêu sầu

Tới lui hoàn vũ, ra vào càn khôn

Thong dong ngồi tựa đầu non

Một bờ sương đọng, mấy cồn mây trôi


Trúc Chi









Wednesday, December 22, 2021

Về Một Nét Cũ Đã Mất / Trúc Chi

 


Kính viếng kiến trúc sư Ngô Viết Thụ.

Bây giờ...chiều rồi.

Tôi đang nghĩ đến cái bóng chiều ít lâu nay vẫn lặng lẽ đổ xuống mớ tóc bạc của mình. Giữa cái bóng chiều ấy đôi khi tình cờ thấy lại được hình ảnh của ánh nắng ban mai, ánh nắng buổi đầu, cái thứ nắng rộn rã, giục giã, mời mọc của thủa hăm hở lên đường trong cuộc sống, lòng chợt gợn lên một niềm vui dịu nhẹ.

Và gần đây tôi đã cảm được chút vui xôn xao ấy khi thấy và nhìn một trong hai tấm hình chụp cảnh cũ và mới của mái trường xưa, tấm hình có sức truyền cảm mạnh, đưa về bóng dáng của bạn bè, nhắc lại kỷ niệm thời vụng dại. Ngôi trường với cái kiến trúc hình cung vòng tròn, đứng sừng sững, mạnh mẽ, cao vòi vọi trên một ngọn đồi nhìn xuống hồ Xuân Hương, Dalat. Làm sao quên được. Trường mang tên bác sĩ Yersin, một vị ân nhân của Việt Nam, của nhân loại. Nhờ cuộc thám hiểm của ông khoảng 1920-30 mà chúng ta có cao nguyên Langbian, có thành phố Dalat. Ông cũng là người tìm được vi trùng bệnh yết hầu, nếu tôi không lầm. Ông yêu nước Việt Nam, gắn bó với sinh hoạt Việt. Trong di chúc, ông muốn được an táng ở Nha Trang và ông đã toại nguyện. Tôi ghi lại chi tiết về mộ phần của ông là vì người bạn học đã gửi cho tôi hai tấm hình mà tôi vừa nói đến trên đây, vốn cũng là gốc Nha Trang.

Trong e-mail, bạn tôi viết: "chụp lại tấm hình quí ở sân trường Yersin năm 1951 với mấy thằng nội trú cùng lớp mà chắc chắn ông còn nhớ đầy đủ tên họ, khỏi chú thích. Còn tấm thứ hai, do thằng cháu ngoại chụp khi nó khi lên Dalat năm ngoái rồi ghé xem trường cũ của ông ngoại nó. Hình cho thấy trường đã được sửa sang tu bổ lại sau tháng Tư, '75."

Tôi bấm lớn tấm hình có năm người bạn cũ và chính tôi đứng trong sân. Sau lưng chúng tôi là cái kiến trúc hình vòng cung có một không hai của trường.

Tôi liếc nhanh qua mấy bộ mặt quá thân mật, quá quen thuộc, rồi liền sau đó dừng lại để ngắm nghía chính tôi. Không biết ai ra sao chứ tôi ngắm tôi rất kỹ, để khám phá ra là trải qua nhiều dằn xóc trên đường đời, lòng có nguội lạnh với dăm thứ, nhưng mà cái tình của tôi dành cho chính tôi vẫn nồng nàn, vẫn tha thiết, nguyên vẹn như ngày nào. Nó xúi tôi dừng lại khá lâu trên cái mặt non choẹt của chính mình. Không biết xúi dại hay dạy khôn, nhưng mà tôi vui lòng chiều theo cái giục giã ân cần của nó để "nhận xét" chính mình rồi rộng lượng với bản thân mà kết luận rằng cái mặt hồi ấy... cũng không đến nỗi!

Sau đó tôi mới từ từ nhìn mấy khuôn mặt thân thiết của mấy người bạn, kẻ còn người mất. Thường, tình cờ thấy lại một tấm hình có bạn xưa cảnh cũ, tôi nghĩ ai cũng cùng cảm thấy chút vui buồn lẫn lộn. Những tấm hình mà thoạt nhìn vào thấy... vui quá... mới ngày nào đây ... mà bây giờ...

Bảy mươi năm rồi... còn gì. Tôi nghĩ thầm vậy và cảm ngay được niềm vui vừa nhẹ trỗi khi sống lại với ảo ảnh của nhiều kỷ niệm thời học trò. Rồi ngại rằng chính chút vui ấy cũng sẽ tan biến để nhường chỗ cho một thoáng nhớ tiếc không tránh được, nên tôi tạm "rời" lũ bạn để nhìn sang tấm hình của trường mới chụp năm ngoái mà bạn tôi nói đã được tu bổ sau '75.

Và tôi đã ngỡ ngàng khi thấy cái mái mới của trường, nay đã được lợp ngói đỏ. Là vì sau nhiều năm trời nội trú ở trường Yersin, mắt tôi đã quen với cái mái lợp bằng đá bảng* màu xám. Tôi đã từng thấy cái mái này chìm trong sương chiều lành lạnh, tắm nắng sớm cao nguyên mát mẻ, ngủ im dưới ánh trăng khuya trong vắt, gan lì hứng chịu những trận mưa giông xối xả thường ầm ầm sấm sét.

Tôi bật lại tấm hình chụp chung với lũ bạn năm 1951, nhìn kỹ cái mái xám cũ ấy mà hơi bùi ngùi bởi vì, với tôi, nó là một phần của tuổi học trò vô tư, tươi vui, một phần của vùng trời kỷ niệm thời nội trú.

Và cũng chính nỗi bùi ngùi tiếc nhớ cái mái cũ này đã đưa tôi về với một vẻ đẹp độc đáo của trường Yersin mà nếu không có một bậc đàn anh trong ngành kiến trúc chỉ cho tôi thì chắc chắn là đôi mắt thịt của tôi không bao giờ khám phá ra được, tuy nó vẫn sờ sờ đấy năm này qua năm kia. Người thầy của tôi trong cái nhìn đầy nghệ thuật dành cho cái mái xám cong vòng này, người chỉ cho tôi thấy nét đẹp hiếm có này, không phải ai xa lạ mà chính là kiến trúc sư trứ danh Ngô Viết Thụ.

Tôi quen biết anh Ngô Viết Thụ khoảng năm 1949-50 ở Dalat. Ngày ấy, trường Cao Đẳng Kiến Trúc được đặt ngay ở tầng thứ tư trường Yersin và anh Thụ theo học ở đấy. Các anh sinh viên kiến trúc không phải ngày nào cũng đến trường, nhưng lũ học sinh trung học chúng tôi thì có mặt ngày một và luôn thấy họ trèo lên tầng thư tư. Thấy nhau riết rồi quen, chứ làm gì có cái lối giới thiệu bặt thiệp của người lớn! Quen biết và nói chuyện một vài lần sau khi biết là anh và tôi đều gốc Huế, nhưng tôi đâu dám xem mình là bạn anh Thụ, anh lớn hơn tôi đến bảy tám tuổi.

Một buổi sáng Chủ Nhật, vừa ra khỏi cổng trường, chợt nghe tiếng gọi tên tôi. Tôi ngoái nhìn lui, nhận ra anh Thụ ngay ở cổng:

- Chủ Nhật mà anh vô trường làm chi sớm vậy?

Anh chỉ vào cái cặp da dưới nách:

- Cần gấp mấy quyển sách để lại trong lớp.

Vậy là anh và tôi vừa nói chuyện vừa đi xuống con dốc dẫn ra đường ven hồ. Đến trước cổng Nha Địa Dư bỗng nghe đánh ầm một tiếng lớn từ phía trường. Cả anh Thụ và tôi giật mình ngảnh nhìn lui. Có thể có một cành thông lớn hay một gốc thông mới đổ đâu đó sau Nha Địa Dư. Ở Dalat, một cành thông gãy, một gốc thông đổ không phải là chuyện lạ. Chờ môt hai phút, không nghe tiếng kêu cứu cũng không thấy khói lửa gì, tôi quay lại định đi tiếp thì thấy anh Thụ đang chăm chú nhìn mặt hậu của trường, không phải nhìn về hướng vừa có tiếng động mạnh. Hồi lâu, anh nói:

- Đẹp thiệt. K. thấy không?

Thú thật, cảnh này tôi đã thấy nhiều lần, thấy nó đẹp nhưng đẹp ra sao thì tôi không hề nghĩ đến chuyện phân tích hoặc đào sâu mà tìm hiểu. Ở cái tuổi mười lăm mười sáu ấy, vốn liếng học thức có là bao, cơ hội học hỏi về mỹ thuật cũng quá ít ỏi, mà cho rằng có đi nữa thì chính mình chưa chắc đã ý thức được cái quí báu của một dịp may khi đứng trước một tác phẩm nghệ thuật có tầm cỡ . Kiếm đâu cho ra cái khiếu thẩm mỹ về kiến trúc hay về bất cứ một bộ môn nghệ thuật nào khác! Tôi từng nhìn nét già nua, cổ kính của mái ngói rêu phong trên đình chùa lăng miếu ở Huế và ở một vài tỉnh khác. Lên Dalat, tôi tò mò trước cảnh mỗi kiểu một vẻ khi thấy các ngôi nhà mà hồi ấy người ta gọi là nhà tây dọc theo nhiều con dốc. Nhưng mà chưa bao giờ để tâm tự hỏi xem ngôi nhà hai tầng này có nét đặc thù nào, tại sao cái biệt thự nhỏ kia lại nổi hẳn bên cạnh nhiều ngôi nhà khác. Cho nên, nghe anh Thụ hỏi, tôi cũng nhìn lên trường rồi trả lời:

- Dạ, đẹp.

Biết tôi trả lời cho có lệ vì lễ phép thôi, anh Thụ đặt cái cặp cộm sách bên một gốc thông ven đường, lùi lại năm sáu bước rồi cười mà ngoắt:

- Lại đây anh chỉ cho cái này.

Từ chỗ anh đang đứng lúc ấy, có thể thấy hầu hết toàn thể cấu trúc mặt hậu của ngôi trường: tường gạch nâu đỏ cong vòng, tường bên ngoài mấy tầng lớp học quét vôi trắng, đặc biệt là màu xám của mái trường, kể cả mái xám của cái tháp xây theo kiểu tháp chuông, nhưng tôi không nghe tiếng chuông bao giờ cả, bên ngoài chỉ có cái đồng hồ tròn đường kính đến hơn một mét. Không biết cái đồng hồ này hỏng tự bao giờ nhưng suốt mấy năm ở Dalat hai cái kim đen cứ chỉ mãi chín giờ năm phút nếu tôi nhớ không lầm!

Anh Thụ đưa tay chỉ mặt hậu của trường, bảo tôi nhìn từ mặt đất lên đến đỉnh tháp chuông. Anh giảng qua về đường nét của cấu trúc, rồi đến màu sắc của gạch ngói. Anh bảo tôi nhìn kỹ màu xám của mái rồi chậm rãi kết thúc mẩu chuyện:

- Em thấy không, nhờ màu xám phơn phớt xanh mà cái mái này nó hoà mình vào trời xanh, mây trắng. Có thể nói màu xám này nâng cả ngôi trường lên.

Anh im lặng vài giây như để sắp đặt ý nghĩ, rồi nói một câu có chêm mấy tiếng Pháp theo thói quen khi trò chuyện của các anh sinh viên thời ấy:

- Đẹp ở trong cái...illusion du mouvement (ảo giác của chuyển động) của một cái... masse immobile (khối bất động). Nếu lợp ngói đỏ thì cả ngôi trường sẽ là một khối nặng chịch, cứng ngắt, không có hồn.

Tôi cảm phục rồi cám ơn anh đã mở mắt cho tôi. Chúng tôi đi một quãng đường ven bờ hồ, gần đến Cầu Ông Đạo, anh lên phía Chợ, tôi rẽ qua con dốc dẫn lên nhà Bưu Điện. Dọc đường, anh không nói thêm gì về vẻ đẹp mà anh đã chỉ cho tôi thấy.Tôi nhớ là anh dừng bước một lần, quay lại ngắm ngôi trường in rõ trên nền trời trong xanh ngắt. Trời Dalat vào mùa khô mà!

Rồi tôi cũng quên mất câu nói có tính cách khai thị, trực tiếp từ cửa miệng của một người sau này là bậc thầy trong ngành kiến trúc, người đã đoạt Giải Thưởng La Mã (Grand Prix de Rome) năm 1955, một giải kiến trúc được trọng vọng nhứt trên thế giới. Cho đến nay, năm 2021, thì anh Ngô Viết Thụ là người Việt Nam duy nhứt đã được trao tặng giải này.

Thế rồi, một buổi trưa không lâu sau hôm tôi gặp anh Thụ ở cổng trường, tôi đang đứng trong sân với mấy thằng bạn nội trú, chợt một đàn chim có đến trăm con bay ngang qua tháp chuông, lướt nhanh qua chiều dài của mặt tiền cái mái xám. Tôi nhìn đàn chim. Khi chúng đã bay xa thì trong cái nhìn của tôi lúc ấy chỉ còn lại mái và một vài đám mây trắng lơ lửng trên môt nền trời trong, xanh nhạt. Vụt một cái, tôi có cảm tưởng mái xám của trường như đang nhẹ nhàng chậm chậm vươn lên. Và chính cũng lúc ấy tôi mới thấm và hiểu hết ý nghĩa câu nói của anh Thụ. Lòng chợt thấy vui, mừng nữa là khác. Vui vì tình cờ mà có một thí dụ cụ thể của một điều khó nắm bắt. Mừng vì cũng ngẫu nhiên mà hiểu ngay được một bài học quí báu về một vẻ đẹp của nghệ thuật, của kiến trúc.

Mà quả vậy, mãi về sau này, nhiều lần lang thang ở một số các thủ đô và nhiều thành phố nhỏ bên châu Âu, tôi vẫn dừng bước mỗi khi thấy một kiến trúc có mái xám, mà phần đỉnh thuôn dần như hướng thẳng lên khoảng không vô tận. Một đôi lần, nhìn lâu, tôi đã có được cái ảo giác của môt sự chuyển động. Cứ mỗi bận sống được một phút với nét linh động nhẹ nhàng của gạch đá vô tri, tôi lại nhớ câu nói của anh Thụ, rồi thầm cám ơn anh. Và khỏi nói, liên tưởng đưa ngay về nhiều hình bóng của trường cũ với chút xao xuyến gợn lên do níu kéo không cưỡng nỗi của vang vọng từ tuổi hồn nhiên, tuổi học trò.

Cho nên, như tôi vừa nói ở đầu câu chuyện hôm nay, tôi đã ngỡ ngàng khi thấy cái mái lợp ngói đỏ trong tấm hình do cháu của bạn tôi chụp. Cái mái mới, lợp ngói đỏ hầu như cùng màu với gạch xây tường của cả ngôi trường khiến tôi... khựng lại. Sửng sốt đã đành vì cái mái xám cũ "của tôi" đã mất! Tôi chăm chú nhìn ngôi trường, bây giờ là một toà gạch ngói nâu đỏ. Vụt một cái, tôi nhớ ngay đến mấy tiếng "một khối nặng chịch, cứng ngắt" trong câu nói của anh Thụ. Quả có thế. Cho rằng bây giờ, nếu tôi đứng ngay trong sân, dù có cố tưởng tượng đến đâu nữa thì khi chăm chú nhìn vào hàng vạn tấn gạch ngói cùng màu, tôi cũng không tài nào có được cái ảo giác kia.

Tôi nghĩ rằng trong công cuộc tu bổ trường Yersin, thì ít nhứt nguyên bản đồ án do kiến trúc sư Paul Moncet thiết kế cũng phải được soạn ra để tham khảo. Thời gian xây cất trường ông Paul Moncet đích thân ngày ngày đốc xuất công việc ròng rã mấy năm. Hồi ở Dalat tôi nghe nói ông khó đến độ gạch và vật liệu làm ngói ardoise đều nhập cảng từ Pháp. Không phải ngẫu nhiên mà ông chọn ngói xám cho tác phẩm của mình.

Về mặt kỹ thuật xây cất, tôi không biết ngói thường và ngói bảng nặng nhẹ khác nhau ra sao khi ông cân nhắc, lựa chọn giữa hai thứ. Nhưng về mặt nghệ thuật, chắc chắn là ông đã sống với nét nhẹ nhàng của mái xám "vươn lên" khoảng không khi vẽ kiểu cho ngôi trường. Cái nét mà ngay khi chưa tốt nghiệp ngành kiến trúc, con người nghệ sĩ Ngô Viết Thụ đã cảm được, đã thấy. Tôi viết con người nghệ sĩ Ngô Viết Thụ vì khi ngắm vẻ đẹp của ngôi trường, trí tưởng tượng và cái nhạy cảm bẩm sinh đã cho anh thấy ngay cái thanh thoát của sắc màu. Không phải ai cũng "bắt" được cái nhẹ của.... gạch ngói đâu!

 

Tại sao khi trùng tu người ta không xem trọng nguyên bản đồ án của Paul Moncet? Khó mà nghĩ rằng ngói bảng đắt tiền hoặc đặt mua từ bên Pháp có thể lâu và vận tải cũng rắc rối. Vì cách đây gần 100 năm, hồi khởi công xây trường Yersin, xe lửa lên Dalat còn phải dùng móc sắt. Xe tải thời ấy còn nhỏ hơn bây giờ. Đường đèo không phải đoạn nào cũng tráng nhựa. Vậy mà vật liệu vẫn "bò" lên đến Dalat. Còn ngân khoản dành cho ngói bảng? Tôi nghĩ thà chờ khi có được ngói rồi hãy tu bổ nếu ngân sách không tiên liệu khoản đó. Tại sao? Vì toàn bộ cấu trúc trường Yersin đã được Hiệp Hội Kiến Trúc Sư Quốc Tế đưa vào vào danh sách 1.000 kiến trúc độc đáo được xây trong thế kỷ XX. Có nghĩa là nó có giá trị mỹ thuật và nghệ thuật của nó, không chối cãi được.

Tôi không rõ lý do nào đã khiến cho cơ quan phụ trách tu bổ trường Yersin quyết định lợp ngói đỏ thay vì dùng ngói bảng. Nhưng mà đàng nào thì đó cũng là một hành động tuỳ tiện, võ đoán, không đếm xỉa chi đến giá trị nghệ thuật của một tác phẩm hi hữu.

Sực nhớ lại một kinh nghiệm tương tự, một lần ngỡ ngàng, khi cầm trong tay một quyển tiểu thuyết hàng đầu trong thời kỳ cực thịnh của Tự Lực Văn Đoàn, khoảng thập niên 30 thế kỷ trước: quyển Hồn Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng.

Tôi mua quyển này cùng với vài tác phẩm khác của Nhất Linh, Thế Lữ, trong nhà sách Khai Trí cũ, đường Nguyễn Huệ (tôi không nhớ tên mới của hiệu sách ) cách đây đã nhiều năm, trong một chuyến về nước. Sách thuộc loại khổ nhỏ, do Nhà Xuất Bản Văn Nghệ, Thành Phố Hồ Chí Minh xuất bản (1999). Tôi mừng vì mấy quyển tương đối nhẹ, không cộm, dễ xếp vào va-li. Tôi không xem ngay vì lu bu nhiều việc trong mấy hôm ở Saigon. Mua vì cái cố tật ham bê sách về nhà thôi!

Về đến Mỹ, lúc lật đi lật lại quyển Hồn Bướm Mớ Tiên vài lần để tìm đoạn tả chùa Long Giáng ở Bắc Ninh, một đoạn tiêu biểu cho biệt tài tả cảnh của Khái Hưng, tôi sửng sốt vì tìm không ra. Không thấy đâu cả, tuy sách không thiếu một trang từ đầu đến cuối. Không một chữ về tác giả. Không cả một lời giới thiệu tác phẩm. Cũng không có lấy mấy chữ " bản rút ngắn" ở ngoài bìa. Bàn tay của Nhà Xuất Bản Văn Nghệ quả có thô bạo khi cắt xén! Kể như vô tội vạ, không ngó ngàng chi đến cái đẹp của tác phẩm, chưa nói đến chuyện tôn trọng tác quyền. Cầm quyển Hồn Bướm Mơ Tiên lúc ấy tôi đã nghĩ thà đừng tái bản còn hơn.

Và bây giờ, nhìn cái mái mới của trường cũ qua tấm hình mà người bạn học gửi từ Nha Trang, chợt nghĩ đến số phận của những trái đào tiên, những tác phẩm trong nhiều bộ môn nghệ thuật khác, khi chúng bị tay phàm tu bổ sau tháng Tư '75.

Đã đành, tôi tiếc mái xám cũ trên trường Yersin vì một lý do cá nhân, chủ quan: nó ấp ủ cả một khung trời hồi tưởng của chính tôi.

Nhưng mà tự thân nó, cái mái xám cụ thể ấy là một nét không thể thiếu của một vẻ đẹp... nay đã bị xoá.

Đáng tiếc thật!

 

Tiếc lắm anh Thụ ơi!

Trúc Chi

4/21

*trong bài viết này, tác giả cố ý giữ chính tả cũ của các địa danh Dalat, Langbian, mong gợi lại một vài nét của thời 1940-50.

 

Tuesday, December 7, 2021

MÂY, áo mùa thơ / Trần Mạnh Toàn

Mây, tên gọi một tập thơ ( Đời Nay, 1943) và cũng là cõi mà thi nhân nhập mộng. Cái say dường như dừng lại ở tập thơ đầu, để cho tâm hồn người vươn lên cao cuối cơn tận-túy. Có thể nghĩ, Mây còn là cõi trời không chỉ dành cho tinh-anh người tụ kết. Chốn mà sương mai thăng hoa mang theo ước vọng của mỗi mùa.

Mây có thể có khởi nguyên từ mối tình, quê hay tỉnh, tùy theo nơi dừng chân của mộng. Có thể là Tố của Hoàng chốn kinh kỳ Hà-nội, hay nàng Vân gái-làng -trên Dương Ổ, Bắc-ninh.

Ở một khía cạnh, có lẽ tất cả, chỉ là hình bóng của nàng thơ một thời dan díu. Bằng chứng là thi nhân chỉ thủy chung với một cuộc tình và suy tôn thành một thứ tín ngưỡng mới, đạo Thơ.

Như thế, Mây cũng chỉ là thêm một chặng dừng của Thơ trước khi được lên ngôi, từ sự mặc khải quyền năng mà thi nhân chỉ là người được phó thác trao lời chúc tụng.

Mây trở thành chốn dâng cao lời ước nguyện khi thi nhân còn lưu lạc nơi cõi người, nơi đất trích của một tâm hồn lúc sơ sinh đã ly khai tục cảnh. Những mảnh tình nhân thế thi-nhân tạo cho đời còn là cách tạ ơn giấc mơ không ruồng rẫy, không phụ người.

Em Vân rồi, em Vân muội của anh ! (1) Câu cuối của kịch thơ Vân Muội, cũng có ý nghĩa tái xác nhận tính chất hư ảo của cuộc đời và thi nhân nối lời nhắc nhở.

Từ ý nghĩa này, có thể nghĩ, Tố hay Kiều-Thu, Vân muội đều bước ra từ trong tranh để nhập mộng cùng thi nhân. Những bước chân thiên cổ làm nên quan niệm nhân sinh, cuộc thế.

Nhưng, Mây không còn lang thang khi nhận lời Vũ gửi gắm. Khi được tượng hình trong lòng chiếc nậm rượu (2), Mây là sứ giả của cõi Thơ, mượn men say làm hành lý lên đường.

Vũ cùng Mây lênh đênh từ thuở cùng nhớ về một kiếp trước xa xôi. Bừng thức tiền thân choàng cảm giác ( Giang Nam Người Cũ) để giận cho cái bẽ bàng của hiện kiếp. Hoa phai thề ước lá tàn yêu.( Ngoài Ba Mươi Tuổi.)

Như đã nói, cuối cơn say mới là phút nhập thần của thi-nhân, gia nhập vào cõi hư vô của tham vọng và cảm giác. Mây ở cuối cơn Say. Say gắng say hề lên tận độ.Gắng say hề cho tỉnh nhé Ta ơi ( Bài Hát Cuồng.) Thần trí tâm linh bừng sáng. Con người ý thức được những gì là hiện tượng đang dăng bẫy, những gì là  bản chất bị che khuất bấy lâu. 

Cõi Thơ của thi nhân hình thành ở những tập sau, kể tự Rừng Phong (1954) được xây dựng bằng tri thức nhiều hơn là cảm giác, mà Mây đã hé lộ chút hành tung. Say tới Vô Vi hề Ta đó Ta ơi ( Bài Hát Cuồng.) Hay, được chính thi nhân phác họa bằng vai trò người truyền giáo. Hiểu như một tín đồ hiểu lẽ Đạo.(3) Hoặc, được người nữ tín đồ thứ nhất chứng tỏ mức độ giác ngộ với Thơ. Ngỡ ngàng vẫn nét chân thân. (4)

Mây, thực ra, vẫn là những chuyến vãng lai đi về giữa hai cõi thực và mộng của  thi nhân. Người trích tiên chọn trần gian làm đất biếm đã sống với giả thân như một loài ốc mượn hồn. Đây là hình phạt cao nhất dành cho trích tiên bằng việc đặt họ trong tình trạng mâu thuẫn thường xuyên và gay gắt. Trầm luân hồn tỉnh giữa chiêm bao ( Giang Nam Người Cũ.)

Ngoài ra bóng dáng liêu-trai trong Mây, chỉ là nét cách điệu của ước mong được trở về nguyên xứ. Liêu-trai không đối lập với cõi trời của Thơ mà trái lại, duy trì sự vĩnh cửu của tình như cách cứu chuộc nguyên tội. Tương tư nối đuốc thâu canh đợi. (Đời Vắng Em Rồi.) Liêu-trai không là chỗ cuối một con đường cùng mà là nơi khởi đầu một giấc mơ không tàn lụi. Bởi vì  sự chờ đợi người trong sách là sự trông mong có tâm tín, không thất vọng. Không có thất bại trong trông chờ, vì nó không phải là khoảng thời gian vô nghĩa của người trích tiên chờ đợi được triệu hồi. Ta nhớ tiền thân phòng lại ngỏ / giấc hồ thơm tóc gái Liêu Trai. ( Cảm Thông.)

Nhưng, liêu-trai nên được hiểu là sự thể hiện ước muốn trùng phùng lớn nhất của trích-tiên khi đường về cõi trời còn xa thẳm. Người bị biếm trích chỉ mong, qua liêu-trai, gửi về một nỗi nhớ của người trần. Tình yêu là giá-trị tự-nhiên chung giữa hai cõi thực mộng. Truyện Tú Uyên là bằng chứng của mệnh giá tình yêu mặc dầu bị người đứng đầu cõi ngăn cản. Tương tư có nghĩa gì non ải ( Cảm Thông.)

Liêu-trai là con đường duy nhất của kẻ trích-tiên tương thông với đời cũng là một cách để khuất phục thực tại. Vì liêu-trai ở giữa mộng và thực. Xá chi ngoài Thật với trong Mơ ( Tình Liêu-trai.)

Phá bỏ biên giới giữa hai cõi thực-mộng và không đứng về phía nào, trích-tiên đã lập thuyết bằng hành động của người tình muôn thuở tình chung. Em nghìn thu cũ gái Giang Nam (Giang Nam Người Cũ.)

Liêu-trai là giấc mộng kép của người thi sĩ. Gọi là giấc-mộng-nhân-hai vì liêu-trai là sự sống dậy của tiềm thức khi giấc mộng cuộc đời chưa qua. Thi nhân khó có thể lay tỉnh giấc liêu-trai vì tính cách không-thực không-mộng của cõi đã dan díu. Kiếp trước đời sau tình vẫn một ( Giang Nam Người Cũ.)

Liêu-trai cũng là tình trạng để thi nhân thoát ra khỏi ảo tưởng về cuộc sống thế nhân, và là nơi  thi nhân biếm trích. Ảo tưởng là cái nhìn sai lạc về một đối tượng trong chiều hướng có lợi cho mình. Thi nhân đã dễ dàng chấp nhận xem cuộc sống thế nhân là tạm bợ, là hư ảo để hư vô hóa hoàn cảnh kẻ bị biếm.

Thi nhân quay về đầu tư vào liêu-trai như cách sống của người trần trong minh triết . Giữ được sự gắn bó với tình mà không phải là kẻ lụy, vì tình liêu-trai là vốn dĩ là sản phẩm của hồ nghi. Quỷ với người chung một mái nhà ( Cảm Thông.) Tình vốn đặt trên sự cảm thông, sự giao cảm nghĩa là rung động thuần lý.

Nhưng, liêu-trai đã hiến cho thi nhân tặng vật tuyệt diệu của trần thế. Sống với hư ảo mà không phiền muộn hay thất vọng, vẫn tiếp tục đợi chờ  như điều sẽ đến trong tương lai. Và, sự đợi chờ trở thành một phần quan trọng trong ý nghĩa của cuộc đời mà thi-nhân đóng vai kẻ bị biếm. Rún rẩy hoa đèn rung ngọn bấc. Không gian đàn mãi tiếng giầy ai ( Nửa Truyện Hồ Ly.)

-Miếu nguyệt vườn sương gặp gỡ nhau

" Dăm gã thư sinh vừa lạc đệ

Mươi nàng xuân nữ sớm chìm châu

Cảm thông một phút bừng ân ái

Miếu nguyệt vườn sương gặp gỡ nhau." (5)

( Cảm Thông, Mây)

Bài thơ đầu tập là tư tưởng chính dẫn đường của cuộc hành trình đến với Thơ, được thi nhân mệnh danh là Đạo. Sự cảm thông hình thành giữa hai cõi đối nghịch âm-dương góp phần hóa giải xung đột trong lòng người và xóa đi những mầm mống của dị biệt.

Thi nhân khởi sự từ dự phóng đặt trên liêu-trai nay đã là trang sách ước. Nhân vật hiển linh trong nguyện ước của người đọc để trở thành hiện thân của giấc mộng khôi vĩ đắm say. Hỡi ơi dâu bể mòn thương nhớ. Gỗ đá còn trơ gỗ đá thôi. Nỗi nóng lòng chờ đợi người trong sách hiện thân chỉ là cách làm hồi sinh đường dây giao cảm khi cõi dương ấm dần lên vì sự sống. Lòng thi nhân hướng về âm cảnh, nơi người trong sách lui về, nên vì mối duyên nẩy nở, thi nhân gần  như đi ngược với lòng người nơi cõi thế. Khí thiêng chừng sớm lìa nhân thế. Dương thịnh rồi chăng Âm đã suy.

Sống nơi cõi trần mà lòng thuộc cõi âm là tâm trạng của người đợi chờ gặp kỳ duyên với người tiền kiếp. Vũ đã sống như thế không phải nuôi lòng lập dị với đời, mà là muốn gửi đi một huyết thư chống lại áp lực thanh nghị của xã hội về cách sống thực với bản thân.(6)

Dẫu thế nào, Mây là bầu trời thủy tinh, từ cái nhìn lạc quan dành cho một thế giới tuyệt đối an lành  cho sự hòa hợp. Trong đó, cảm thông là thứ dung môi cho phép xóa đi khoảng cách thời gian lẫn không gian. Quỷ với người chung một mái nhà.

Tiếc nhớ thời hoàng kim của cảm-thông. Lớp lớp biên cương thời chật hẹp. Mùa xưa thông cảm đã qua rồi, thi nhân hiểu được giới hạn của ước mong về một cõi không biên cương. Qua liêu-trai, thi nhân vừa thể hiện ước-mơ vừa cho biết tương lai hiện-thực của ước-mơ.  Cảm-thông giữa hai cõi thực và mộng vẫn là khao khát chung của con người từ nhiều kiếp, trong đó, thi nhân dành quyền thay mặt cho hiện kiếp.

Vũ đã sống trọn vẹn với liêu-trai. Điều này cần thiết vì liêu-trai không đòi hỏi cách của người đọc sách thông thường, kể cả việc tìm thấy trong liêu-trai cách ứng phó với đời thực.

Vì tuyệt thông với đời thực, Vũ tìm đến liêu-trai vì  nơi đây tha thiết  khao khát sự cảm thông.

Vũ không ngờ vực mối tình thực ngay từ kiếp trước. Ta nhớ tiền thân phòng lại ngỏ. Giấc hồ thơm tóc gái Liêu-Trai.

Ở một khía cạnh, với thi-nhân, liêu-trai cũng là một chuyến lên đường đầy ắp ước mơ, dự phóng. Là chuyến ra khơi với cánh buồm căng gió Đông. Khác với cái Say khởi đầu cho nghiệp kẻ tài-lụy, vừa muốn giũ sạch thân thế kẻ đốt đời trên bấc lụi.

Mây tự định một hướng đi cho chiếc thuyền Say, mượn được từ trang sách cũ.

 

-Hận kẻ ôm thuyền khóc lứa đôi.

" Ai thấy não nề trên lá thắm

Buồn ai cung nữ lạnh chia phôi

Nào ai linh cảm màu sông trắng

Hận kẻ ôm thuyền khóc lứa đôi."

( Cảm Thông, Mây)

Thi nhân nghĩ đến mối cảm thông cần thiết để xóa đi mọi tuyến ngăn cách mà nhắc đến trường hợp của người đề thơ trên lá thắm trôi ngược vào cung cho người gửi, như mối thiên duyên tiền định, không hẹn mà nên.  " Tằng văn diệp thượng để hồng oán, diệp thương đề thi ký dữ thùy ? " ( Từng nghe hờn oán của khách má hồng đề trên lá, không biết trên lá đề thơ gửi cho ai ?) (7)

Thi nhân biện hộ cho mối tình liêu-trai bằng việc xem sự cảm thông giữa đôi tâm hồn, dù thuộc hai cõi âm-dương khác biệt, vẫn là điều hợp đạo lý. Như thế, mối duyên tình, dù nơi đâu, vẫn cần sự hòa hợp giữa hai trái tim cùng nhịp.

Thi nhân, kẻ tìm ra đầu mối của cuộc kết hợp cũng phải là người khám phá nguyên ủy của mối tương quan giữa hai thế giới âm-dương vốn chỉ được đại diện bằng những người hẩm hiu hơn cả. Người thư sinh lạc đệ, người thục nữ hủy mình, nằm trong số những người thay mặt xứng đáng.

Thế giới mà thi-nhân tìm về không thuộc cõi được sủng ái, trông chờ, bởi vì những người đợi chờ đều là người lỡ chuyến. Qua rồi thuở ấy tình sâu nặng. Người nặng lòng dan díu với ngày xưa, với quá khứ chính vì lý do này. Thế gian vốn hiếm người "ôm thuyền khóc lứa đôi " khi sự thông-cảm đòi hỏi là điều khó khăn ngay cả trong đời thực.

Dường như chỉ có Tạ Tỵ là không xem cách thi-nhân sống như-sống-với-tiền-kiếp là sự tự hủy.

Ông thấy nơi mắt bạn, tia sáng "lóe lên giống như tia chớp rồi vụt tắt giữa màu mây nặng chĩu hơi mưa " trong buổi gặp gỡ lần đầu dưới ánh sáng duy nhất của "ngọn dạ đăng ma quái" vào lúc thơ Mây vừa ra đời.(8) Đây có thể là ánh sáng của tiềm thức ló rạng khi nhận thức sai lầm theo lòng trần mà tiêu tán nơi đỉnh cuối cơn say. Xụp đổ bóng đêm hề năm đường cảm giác. Tiềm thức bừng lên hề muôn ánh sao mai.(9)

Có lẽ chỉ có Tạ Tỵ, cũng bằng trực giác, ám-nhận được tâm trạng của thi-nhân nhưng là lúc chưa thoát ra khỏi sự vây hãm của thực tại. Chiếc nôi bằng tơ người làm thơ bước vào mà người họa sĩ muốn ám-chỉ, là " hai bàn tay sắt bọc nhung nâu " bên ngọn đèn say trường dạ. " Trong cõi mông lung của tiềm thức, từng hình ảnh xa lìa, khắc khoải đã bám riết lấy suy tư, xiết chặt thân phận. Vũ vào chiếc nôi bằng tơ có móc đầy gai nhọn. Sự lìa bỏ bản thân, lìa bỏ thực tại phải được coi như chứng tích." (10)

Thi-nhân chẳng hề hồ nghi về thế giới liêu-trai được gửi gắm và sự cảm-thông giữa những thân phận hẩm hiu được ký thác trong quạnh quẽ.

Chỉ có hiểu biết và xót thương lẫn nhau mới là cách rời bỏ thực tại hữu hiệu theo ý nghĩa hào phóng của từ ngữ này.

Nói cho cùng, liêu-trai cũng chỉ một cách nói, một ám chỉ, một hoán dụ của cái cõi mà thi nhân tán dương lẫn mong chờ.

-Gỗ nào danh sĩ đá thuyền quyên

" Âm Dương kề sát bên bờ suối

Vạn nhịp cầu tơ chắp ý duyên

Xao xuyến muôn lòng thơm nhạc sống

Gỗ nào danh sĩ đá thuyền quyên."

( Cảm Thông, Mây)

Mười hai khổ thơ dành cho mối tình liêu-trai như là giấc mộng dài, thi nhân lui về với cõi riêng khi mối tình trần thế mới thực là ảo mộng. Thực và mộng nhiều phen đã đánh đổi cho nhau nên lần này dan díu với liêu-trai, thi-nhân mong muốn lấy mộng làm thực, xem giả là chân. Mà thực ra, cái thực chỉ là mong ước, trông chờ.

Phép tu từ đã cho phép người biến điều được khẳng định thành ý nghĩa của điều bị phủ nhận, nghĩa là biến có thành không, như cái nhìn về thực tại trước mắt. Âm dương hai ngả gặp nhau bên suối vắng, tơ lòng là vạn nhịp cầu làm rung động lòng người thì lẽ nào danh sĩ với giai nhân ( =thuyền quyên) lại thản nhiên như gỗ đá. Âm dương kề sát bên bờ suối. Vạn nhịp cầu tơ chắp ý duyên. Xao xuyến muôn lòng thơm nhạc sống. Gỗ nào danh sĩ đá thuyền quyên.

Điều này cũng nằm trong ước vọng về quá khứ tương-tri giữa những kẻ lụy-tài mà trang sách cũ để ngỏ hằng đêm đã thay cho lòng định ước. Người gửi mộng từ bóng tối trong gian nhà cổ, nhờ tia sáng của ngọn đèn say không đủ tỏ mặt người là cách gần nhất để giục giã người từ mộng bước ra.(11) Có thể cũng trong bóng tối đủ sức tạo hình những ước mơ nên Tạ Tỵ đã nghĩ đến những sự hóa thân từ bóng tối đông đặc quanh ngọn đèn leo lét. " Vũ có thể tâm sự trực tiếp với "gỗ danh sĩ", "đá thuyền quyên" như thủa nào trái đất mới hình thành mầm sống." (12)

Chính sự nồng nàn được gửi vào mong ước nên tình liêu-trai có tính chất thực của giấc mơ không cần đến giải huyền. Là tình yêu thực giữa những con người buộc phải hóa thân để có nơi đến với con người. Người trích tiên, trong trường hợp này, đã chấp nhận cõi trần, qua mối tình giữa người đồng điệu. Tương tư có nghĩa gì non ải. Gác trọ phòng thuê một nỗi hàn.

Tình liêu-trai không còn như chiếc bóng bên tường của ngọn đèn không đủ sức vùi dập một tâm hồn. Khối tình không cần bất hoại để chứng tỏ sự tin cậy của trái tim nhưng còn nguyên khối như chưa hề rung động. Gỗ, đá vô tri nhưng có thể được mượn để thay lời. Như mối tình liêu-trai bước ra từ sự tin cậy vào cái không thể mất nơi con người đích thực.

-Nằm hấng thơ mưa độc vận bằng

" Ngõ nhớ hoa vàng gác nhớ trăng

Chiêm bao giợn tuyết gối ngờ băng

Sương vây bể xám lòng hoang đảo

Nằm hấng thơ mưa độc vận bằng

Phới gót mùa say về ẩn hiện

Giữa đôi hàng chữ sách Khiêu Đăng

Xôn xao vò nậm bừng hương cúc

Thu nhập hồn men cựa đó chăng."

( Xem Truyện Quỷ, Mây)

Bài thơ là một trong những bước đi tới việc nhập mộng, dù còn ý thức về thực tại được chuyển di. Khi ý thức nhường chỗ cho tiềm thức, là lúc thi nhân trở về với con người đích thực của mình để cất lời tình tự. Ước vọng như trang sách mở bên song dưới con trăng chưa xế, nghĩa là còn chờ đợi ngóng trông. Mưa đưa thơ lại cho người như cách làm quen và thay lời ngỏ ý.

Nhưng, khác với những lần giở sách trước, lòng người chưa được ấm lại  vì đợi chờ. Sương vây bể xám lòng hoang đảo. Nằm hấng thơ mưa độc vận bằng. Rồi đây mùa say lại về theo men thơ và men lòng dậy dưới ánh đèn đọc sách.

Xem truyện quỷ là cách, trước hết, cảm được thế-giới-thực rùng mình trước khi để lại cái giả hình. Cõi liêu-trai chưa tới mà đã lắm điều tiên triệu về một thế giới  thi nhân mơ lai vãng. Xôn xao vò nậm bừng hương cúc. Thu nhập hồn men cựa đó chăng. Trong men dẫn vào mộng, lại có thêm mùa thu dẫn lối.

Ngần ấy cảm giác khi xem truyện, mới là những rung động cần thiết như dây tơ hòa điệu. Thi nhân đã từng "say giữa hai tờ Liêu-Trai" (13) như trạng thái cảm được ý thức phiêu lãng. Ai cũng hiểu việc xem sách cũng như nâng chén chỉ là hoán dụ chỉ tiền-cảm-giác. Xem truyện quỷ là khao khát con đường dẫn từ chân đến hư, từ thực vào mộng. Từ đó, Tạ Tỵ cho rằng, " Ma quỷ, hồ ly đối với Vũ như những người bạn chí thiết. Vũ trao đổi tâm sự với chúng như trò chuyện với các  danh nhân, cao sĩ. Vũ mặc áo linh hồn cho gỗ, đá, cỏ, cây." (14) Thực ra Vũ nhập mộng không phải như tục nhân say giấc điệp. Giấc mộng của thi nhân đồng nghĩa với hướng siêu thoát mà Vũ tìm tới, khi cõi trần khiến người phải bận lòng. Cõi mộng của thi nhân không chỉ có liêu-trai tuy rằng liêu-trai là hướng mời mọc hơn cả.Vì còn có bên, những trang tình sử của nàng Thôi. Song sa nắng xế dần ân ái. Lạnh cả mùa xưa nguyệt Mái Tây.(15)

Đọc truyện quỷ, với Vũ, đã mang ý nghĩa của một quan niệm sống. Điều mà Tạ Tỵ nghĩ rằng, " Vũ vượt lên, thoát mình vào ảo giác, trộn lẫn cái " Còn", cái "Mất", cái "Có", cái "Không" để đi vào quan niệm bi thương, giận dỗi, Vũ vùng vẫy trong mớ hư ảnh do cố nhân để lại " (16) chỉ có tính chất của một phản ứng. Bằng chứng là Vũ đã phân biệt cái còn-mất, có-không trước khi xem tinh thần nhị nguyên là nguyên nhân của hận thù, đổ vỡ. Vũ đã cải hóa cả giấc mơ thiên cổ của người xưa khi giật mình tỉnh thức bên mái Tây Phổ-Cứu. Gót sen chùa cổ đêm trăng ấy. Vọng thấu luân hồi nhạc mỏng manh.(17)

Đọc truyện quỷ mới chỉ là một cách quan niệm về cuộc sống. Thi nhân không còn hành động như kẻ buông xuôi thân thế, mà từng bước, bước vào cõi tìm về như người bình thản đến với chân lý.

-Nửa truyện Hồ Ly trang sách giở

" Ai đó - phải chăng hồn cỏ cây

Mộ vắng lầu hoang ngơ ngác sợ

Cùng đêm nương về đây

Cùng mưa nương về đây

Nửa truyện Hồ Ly trang sách giở

Lung linh tiếng giầy."

( Nửa Truyện Hồ Ly, Mây)

Truyện đọc một nửa nghĩa là quan niệm mới nửa chừng. Người đọc sách chưa kịp ngả lòng như để ngỏ trang giấy ố. Thi nhân có đủ hoàn cảnh để giãi lòng với cổ thư như người mơ chờ đợi giấc liêu-trai. Giàn dưa mưa lất phất. Mênh mông sầu xứ đêm dài. Ngọn đèn đã hao, chỉ thấy màu xiêm y của khói và màu chiếc hài của ngọn lửa hồng. Người của cõi thiên thu chưa thấy về nên tiếng giầy thấp thoáng phải chăng hồn cây cỏ về nương trong đêm.

Đọc truyện một nửa như đi được nửa đường đã phải dừng. Chưa được gặp người trong mơ ước. Chưa được sống như mơ ước. Đọc nửa truyện hồ ly là một nửa ước mơ. Nhưng một nửa ước mơ chưa thực là ước mơ nên thi nhân chỉ gặp một linh hồn cô đơn. Không phải người thục nữ sớm chìm châu nào khác mà chỉ là linh hồn cây cỏ chung quanh, nhưng không đến vì trang sách đọc dở dang.

Thi nhân hài lòng với khám phá trong cuộc gặp gỡ bất thành như bao lần. Hồn cỏ cây cũng đáng gặp như mảnh đời không may của người thục nữ. Thi nhân đã không ngại sỗ sàng gọi họ như thế - nhân thường gọi. Đây chỉ mang ý nghĩa để con đường đến với Mộng thêm nét thăng hoa.

Nhưng, bên trang sách cổ, không phải Vũ " đứng ở vị trí tiếc thương quá khứ với giấc mộng đẹp đi qua không bao giờ trở lại ..." (18) Vũ đã làm mới cuộc hành trình bằng cách tái tạo giấc mơ không có ý nghĩa phục hồi.

Trong công việc mang ý nghĩa tái thiết tâm hồn, Vũ đã xem cuộc gặp gỡ giữa hai tâm hồn thuộc hai cõi âm-dương đem lại sự hồi sinh với đầy đủ ý nghĩa. Người con gái "chìm châu" không còn phải giữ mãi kiếp âm. Bể sâu kìa lúc trăng lên. Hồn ai Tinh vệ níu thuyền chưa tan. Riêng đây chùa vắng canh tàn. Không gian hỗn hợp Thời gian đại đồng. (19)

Điều gọi là "cảm-thông" giữa hai tâm hồn Bãi Phương-thảo đã chặt đứt vòng luân hồi của quan niệm liêu-trai. " Đêm nay, sau lúc đón nhận môi tình thiêng-liêng của anh trọn gửi, da thịt em dần ấm lại từng mảng, và phút này sợi ly-hồn lưu lạc bấy lâu đã trọn vẹn trở về được nơi nương-náu thuở tiền-sinh rồi !..." (20)

Quá khứ, nếu có, như dung mạo bên ngoài của một tấm nhan sắc. Còn thì liêu-trai chỉ là nét vay mượn của một cách ký danh cho một quan niệm sống giữa cuộc đời.

 

-Em nghìn thu cũ gái Giang Nam.

" Bừng thức tiền thân choàng cảm giác

Ai nghìn thu cũ gái Giang Nam

Ta nhớ rồi - Em hồn lẫn xác

Em nghìn thu cũ gái Giang Nam."

( Giang Nam Người Cũ, Mây)

Trong cuộc hành trình tìm lại mình, thi nhân đi tìm người đồng điệu, gái liêu-trai, hay gái giang-nam, cũng là cách tìm gặp lại tâm hồn bấy lâu lạc loài nơi đất trích. Nhắc đến tiền kiếp theo Lão Trang, chỉ để củng cố cái nhìn xuyên thấu của thi nhân qua cuộc đời trần thế. Như Tạ Tỵ từng nhận ra trong phút nhập Mộng của thi nhân nơi căn nhà cổ tiếp nối với nơi sinh một kiếp sống nữa của liêu-trai. Hình bóng của giai nhân thuộc thế giới hư này là chân ảnh của cõi mà thi-nhân hằng vọng tưởng. " Cái gì đang phơi phới trước mắt anh kia ? Một vạt áo chăng? Hay một vầng trán ? Một suối tóc thề tha thướt ? Hay một chiếc khăn lụa phất phơ ? Có lẽ tất cả ! Nhưng tất cả những thứ ấy đã được xếp đặt khác hẳn với lề lối thông thường. Chúng hiện lên đột ngột trái hẳn với nếp nghĩ quen thuộc của mọi người, sai hẳn khớp với cái khuôn tưởng tượng nghìn xưa đã sẵn đúc. Thực vậy, ngay giữa vạt áo tung bay, Nguyễn nhìn thấy một nụ cười trinh bạch vô hạn. Trong suối tóc yêu kiều, Nguyễn trông thấy ẩn hiện mờ ảo một đôi mắt sóng trôi. Bên trên vầng trán tuyết sương,, Nguyễn linh cảm thấy một bàn tay đang xòe ra những ngón  búp măng trắng  hồng mát rượi. Mùi hương chợt dậy lên, tỏa ra. Để rồi bàn tay ngã nghiêng vào đuôi mắt. Để rồi vạt áo lênh đênh trên vầng trán. Và để rồi suối tóc lẩn nép sau nụ cười..." (21)

Đó là cái nhìn siêu thực hay đúng hơn một nhan sắc được lọc qua ánh sáng của tiềm thức trỗi dậy sau cơn tận túy. Cái trực cảm của thi nhân từ đấy là một phát giác về một thế giới nằm giữa thực và mộng, nằm giữa cõi trần của thi nhân là một trích tiên với đất đứng của liêu-trai mà thi nhân nhiều phen tưởng như đứng ngoài ngưỡng cửa. Và, người thiếu nữ đền Bà Kiệu là một trong những hiện thân. " Tôi chợt nghĩ những nàng trinh nữ tóc xõa vai tuổi chưa mười sáu trước ngày Hà-nội gập cái loạn năm Tuất mới đây. Có thể  rằng châu chìm ngọc nát trong khói lửa gươm đạn vô tình. Lại rất có thể  rằng giữa một ngôi nhà hoang nọ xác ai trinh bạch còn đang ngậm ngùi bi phẫn dưới nắm đất vùi nông." (22)

Có thể người thiếu nữ đền Bà Kiệu là một hiện thân của giang-nam người cũ. Như những người con gái có tiền thân, chung một nòi tình và tìm nơi tri ngộ

Cô hàng xóm nhỏ chớm si mê

Trầm lạnh Tây Sương lỡ giở thề

Kiếp trước đời sau tình vẫn một

Thời gian xuôi gửi tiếc thương về

Người cũ giang-nam cũng như cô gái liêu-trai đều là chân diện của giấc mơ mà thi-nhân thú nhận từng lỗi hẹn. Người con gái giang-nam của kiếp nào trở về như đã đi qua trong giấc mơ thiên cổ của những người tài-lụy.

-Niềm giang hồ tan tác lệ Giang Châu

"Rồi mai đây Chàng rong ruổi

Thuyền buộc sông mưa

Ngựa dừng trăng khuyết

Tình nhân thế chua cay người lịch duyệt

Niềm giang hồ tan tác lệ Giang Châu."
( Dâng Tình, Mây)

Là khúc ca diễm lệ mời mọc tâm hồn vốn theo đuổi những giá trị nằm ngoài trần thế. Nhưng, tình phải chăng là ngoại lệ khi thi-nhân đã từng bắc một nhịp cầu cho sứ giả của tình vào tận chốn của cõi trần trong hiện kiếp. " ... anh dấn bước với một ý định mang hồn say hòa lẫn cho tận nhập hẳn vào mùi hương vô danh kia." (23) Mùi hương vô danh là mùi hương của đóa dị hoa, thác thân của một người con gái chìm châu sau ngôi nhà đổ đền Bà Kiệu. Cái chiếm đoạt lòng người không phải là mùi hương dẫn lối dị kỳ mà là người có thế-thân là mùi hương dại.

Bài thơ quả là một khúc dâng tình đắm đuối tưởng như đã bỏ lại được mọi phiền muộn nơi cõi thế. Có nàng tiên má hồng nâu. Giúp đôi cánh biếc dâng sầu lên khơi. Nhưng ý của thi nhân, cái say không diệt được sầu, và cuộc đuổi bắt làm tăng thêm đe dọa cho người lấy cái Say làm chìa khóa đến với Mơ.

Tình đến, lấy cõi trần tráng lệ để làm tin trong việc níu bước thi nhân. Nhưng, việc giữ chân người bằng thanh sắc không hẳn là ý muốn của những người tìm đến nhau bằng cảm thông

Thi nhân ôi xin dừng bước lại

Đây Hàng Châu thường mơ ước đêm Hoa Đăng

Đêm Hoa Đăng đường xanh bóng trăng

Đêm Hoa Đăng đèn quanh lối xóm

Đây cầm ca người mộng gái xưa Kim Lăng.

Và, chỉ thấy người người giang-nam đón khách thơ bằng những thứ mơn trớn cảm giác

Rượu dâng nồng đây son phấn mười phương

Khói lên biếc và đây hồn tứ xứ

Trên  cánh Nhạc đê mê Chàng hãy ngự

Đàn tơ mây theo phách gỗ trầm hương

Nhịp lời ca lơi lả bóng Nghê Thường

Âm điệu sẽ ru Chàng say đến cuối.

Bên cạnh tình đời đen bạc, cuộc hành trình của thi nhân sẽ còn là cuộc thực nghiệm với gió sương ( thuyền buộc sông mưa, dừng chân trên thuyền trong mưa gió trên sông; ngựa dừng trăng khuyết, trải qua đêm trên lưng ngựa.) Liệu thi nhân có vì thế mà đổi ý quay về với những người cùng một lứa bên trời lận đận.

Dâng Tình là một tân khúc tỳ-bà dành cho những người lận-đận tìm kiếm khách tình chung. Cũng không nên đi xa trên đường tìm kiếm một cõi trời dành cho Thơ như Vũ muốn truyền rao như một tôn giáo và khuyến khích người sống đạo.

Tân khúc tỳ-bà được xướng lên hôm ấy như là lời mời mọc thay vì giãi bày nỗi lòng người con hát. Dẫu sao, lòng thi nhân đã nguội lạnh trước những bữa tiệc thịnh soạn của trần gian. Nửa cuộc trần gian lợm yến diên. (24)

Cứ nghe lũ chúng em ca nhi cạn lời thuyết phục thì cũng thấu được nỗi băn khoăn của thi nhân trước chén khuyên mời.

-Đất trích Tầm Dương quạnh tiễn đưa

" Đàn rưng rưng lệ phách dồn mưa

Tiếng hát tàn rơi hận thủa xưa

Bụi nhuốm Thiên Thai nhòa hứng rượu

Đời sau say giúp mấy cho vừa

Cô đơn men đắng sầu trăng bến

Đất trích Tầm Dương quạnh tiễn đưa

Nhịp đổ càng mau nghe ríu ríu

Tê rời tay ngọc lúc buông thưa."

( Dựng, Mây)

Dựng tỳ-bà, cũng như sa-mạc tỳ-bà, hát tỳ-bà, chầu-văn, kể-chuyện, trống-quân ...là giọng hát được chuyển đổi tùy theo mỗi bài mà thay đổi cung bậc thanh âm làm nên đặc thù của bài ca.

Dựng, như thế, cũng được xem là cách thi nhân góp tiếng bên nhịp phách dòn như mưa dưới tay ngà.

Tiếng đàn, khổ hát cũng góp phần trong cơn Say chuyển Mộng của thi-nhân. Và, riêng khúc Dâng Tình ( bài thứ 7 trong tập) có thể xem là lời mời mọc đắm say nhất mà thi-nhân thay lời những người chung kiếp lận-đận gửi cho nhau. Nhưng, mượn tâm sự của người con hát giang-nam hay tầm-dương cũng chỉ là cách để việc giãi lòng được cạn ý. Cái Say ẩn sau cung đàn tiếng hát đã hàm chứa sự chia sẻ nỗi cay đắng không phai nhạt. Đàn rưng rưng lệ phách dồn mưa. Tiếng hát tàn rơi hận thủa xưa. Nghe hát để chung vào vốn bất bình của một lớp người chịu thiệt thòi trong định mệnh, thi-nhân đã có một thái độ không phải của người đến để nghe hát. So với lần nghe hát những năm trước. Canh khuya đưa khách lời gieo ngọc. Mơ gái Tầm-dương thoảng áo xiêm. (25) Lần này, đến nghe tiếng hát là để lòng gần gũi với người đồng cảnh ở nỗi lụy vì tài.

Bài thơ có thể xem là lời đáp cho khúc Dâng Tình của người kỹ nữ giang-nam. Đến với thanh sắc chỉ là muốn tìm kiếm sự an ủy và an ủy người trong bơ vơ. Cô đơn men đắng sầu trăng bến. Đất trích Tầm-dương quạnh tiễn đưa. Có thể trong chốn của âm thanh đàn hát, thi-nhân cảm thấy rõ hơn thân phận người và chính mình. Như con chim giọng quí không thể bay cao, hoa có hương thơm không sống đời vĩnh cửu. Đẹp linh hồn nên dung mạo xấu xa. (26)

Quy luật tạo hóa như con dấu sắt nung trong tâm người nghệ sĩ. Vũ vào đời, nhập vào chốn khói Say cũng như nơi thanh-sắc vừa để tìm kiếm mình, vừa để nhận mặt người muốn tìm kiếm. Như Nguyên Sa đã nghĩ đến tâm trạng của người vùng vẫy trong lưới cô đơn. " Có người thi sĩ nào không vào đời như kẻ cô đơn. Nó cất tiếng của kẻ xướng ca, hòng tìm cho được tiếng ca đồng điệu, có lần nào không bắt gặp sự hoang vắng bao la. Anh nhớ không, anh đã cất tiếng. Anh đã cất tiếng xác nhận sự lạc loài ấy căn cứ vào những dữ kiện rõ rệt, anh đã truy tầm được nguyên nhân của nỗi bất hạnh vô cùng và đề ra phương pháp giải quyết. " (27)

Chính vì nỗi cô đơn của Vũ không phải nỗi đau siêu hình (28) nên không dễ bỏ lại theo thời gian như thứ thời thượng. Có thể nghĩ, Vũ dan díu với khói Say, với thanh-sắc ca trù, như cách tìm kiếm một lối thoát, không phải trong một hố sâu. Cái lối thoát trong tâm tưởng và tư tưởng là sự huyền diệu của cõi Thơ mà Vũ nói rõ trong Rừng Phong, sơ khởi.

Trong một đoạn văn đầy hình ảnh, Nguyên Sa viết, " Mùa xuân đang trôi anh ( VHC) nghe nhạc trên bến Tầm-dương, kịp đến khi mùa hạ chưa tới anh đã ngồi gẩy khúc Hồ xang trên giòng sông nơi quê hương của tác giả Giấc mộng lớn." (29) Thực thế, trong cuộc truy tầm mối tương lân, Vũ có đôi mắt của người đi săn và ngón tay của người điều chỉnh dây đàn. Thời gian không ảnh hưởng gì đến mùa hái trái của thi-nhân khi Thơ người đã dự phần vào việc điều hành thế giới của những người chung một nỗi lênh đênh. Bụi nhuốm Thiên Thai nhòa hứng rượu. Đời sau say giúp mấy cho vừa.

-Gặp gỡ chừng như truyện liêu trai

Gặp gỡ chừng như truyện liêu trai

Ra đi chẳng hứa một ngày mai

Em ơi lửa tắt bình khô rượu

Đời vắng em rồi say với ai ?

 ( Đời Vắng Em Rồi, Mây)

Người trích-tiên của phương đông đã nhìn về cõi Tây để nhớ đến một tiền kiếp. Một mối tình nào đó thoảng qua như giấc bướm. Hai ngả đông-tây bỗng gần lại nhau vì  một mối duyên, hay nói khác, tình tri ngộ đã xóa tuyến địa dư phân cách. Vũ, người thứ nhất phủ định biên giới của mối lương duyên, mà ngót hai mươi năm sau, thi-nhân mới mượn được Ysabel để gieo lời vàng đá. Hai phương sẽ hết lạnh lùng. Đêm vào một  giấc mơ chung với ngày. Xá chi mười chín giờ bay. Mà không liền cánh chim này tương tư. (30)

Không hẳn bài thơ là sự tiên tri về mối duyên tri ngộ sau này với người thục nữ bên trời Âu, mà có lẽ, thi nhân chỉ giở lại trang sách ước của kiếp trước, như nay để ngỏ cuốn truyện liêu -trai bên song. Thực hay hư, không là chuyện của thi nhân, nhưng đúng là duyên giữa hai kẻ tài hoa này không thể thu gọn trong hiện kiếp.

Có thể nào Vũ đã viết trước cho Ysabel của năm 1959 vào lúc nàng chưa có mặt trên đời. 

" Đời Vắng Em Rồi " của tập Mây (1943) xem ly biệt là kết quả tất nhiên của cuộc hội ngộ giữa hai người lận đận,  "trai lỡ phong vân gái lỡ tình",  là cái khuôn định mệnh dành sẵn cho kẻ tài hoa.  Nên, lần thứ nhất, thi-nhân nói đến sự vô dụng của cơn say. Cái Say từng dẫn đến con đường tỉnh thức.  Em ơi lửa tắt bình khô rượu. Đời vắng em rồi say với ai.

Nói cho cùng, người thiếu nữ trời Âu chiếm giữ lần này, vị trí của người trong trang sách liêu-trai, là giấc mộng thi-nhân một lần nhường lối cho giá trị tương tự phương tây như một cách ghi nhận khéo léo. Duyên gặp gỡ chỉ thêm để lại bẽ bàng. Mà đây lòng trắng một mùa đông. Khác với nỗi lòng người chờ đợi liêu-trai. Nỗi khát khao như lò nung lửa nấu. Lòng cháy yêu đương tự bấy giờ.

Trong cuộc gặp gỡ từ hai phương trời song đối, thi nhân đã thông tri một trường hợp thất bại, lửa tắt bình khô rượu, một trường hợp tuyệt thông, phương Âu mờ mịt lối quê nàng. Người tình-nhân-trong-tâm-tưởng không vinh ca sự chờ đợi như đã làm với người trong sách liêu-trai. Với người thiếu nữ trời Âu, duyên tri ngộ phải được ghi nhận và tiếp nối bằng gặp gỡ.

Hiển nhiên người ta có thể tin rằng đây là một trong những hình bóng thoáng qua trên những chuyến tàu đời ngược xuôi trong thời gian giang hồ theo lộ trình thiết-lộ của Vũ trong mấy năm được phép rong ruổi. (31)

Sự gặp gỡ làm nên thành tựu một mối duyên nhưng cũng gây chia lìa hai phương cách-biệt. Vũ không xếp chung những người trắc-trở  vào trong chiếu bạc-mệnh nhưng phải nhận cảnh lòng vò-võ hướng về một phương. Duyên Tây tình Đông là hướng của một trái tim dễ chao lòng vì những dao động mơ hồ.

Thật thế, cuộc gặp gỡ trên một chuyến tàu giữa hai kẻ chung kiếp lênh đênh, trai lỡ phong vân, gái lỡ tình, làm nên trang tình sử tân thời. Không phải liêu-trai.  Vì bản chất của tình liêu-trai là sự tin tưởng, đợi chờ vĩnh viễn. Là sự xóa nhòa tính chất của một thế giới riêng biệt trong đó thời gian, không gian là yếu tố chính.

Lần này, Vũ đã có được tình yêu như đứa trẻ có được trong tay con diều tuổi nhỏ. Nhưng cũng như để làm được như kẻ thả diều lên cao, thi-nhân phải trả lời tương tự thách thức này. Tuyết xuống phương nào lạnh lắm không. Mà đây lòng trắng một mùa đông. Thi-nhân không ngại một đời, nhiều kiếp, làm việc của kẻ canh giữ hải đăng. Chứng minh sự thùa thãi cần thiết của bóng đêm bằng việc giữ gìn ánh sáng.

-Tiếc thương lẻn khói vào tâm trí

" Tiếc thương lẻn khói vào tâm trí

Mưa gió tàn đêm lộng quán sầu "

( Một Phút Ngừng Say, Mây)

Với thi nhân, kể từ lúc có lời thề nhập Mộng, Say đã là chuyến viễn du dài một đời mang theo cả tâm hồn cùng nguyện ước. Say không là trạng thái không tỉnh thức. Trái lại, là lúc thi nhân vươn dần lên trong ý thức lẫn đam mê. Chỉ trong cơn Say, Vũ mới nhận ra sự tranh chấp quyết liệt với hư vô. Thứ vô nghĩa như chính cái nhàm chán, vô vị nhuộm thấm đời Vũ từ lúc thanh xuân. Chới với hư vô hề ném xa hồn Người ( Vũ Hoàng Chương, Bài Hát Cuồng, Mây, 1943)

 Như đã nói, cái Say mở ngõ lên cao, giúp người phát hiện chân thân. Cuối cơn Say gần như tiệm cận với giác ngộ. Ta có là Ta chăng hề Ai chứ là Ngươi.

Có người, lúc tận-túy còn là sự xung đột giữa ý thức với tham vọng tiềm ẩn, làm sống dậy bản ngã toan bị chôn sâu. Mênh mang một tiếng cười dài. Hồn lay bốn vách Dạ-Đài cho tan ( Đinh Hùng, Thần Tụng, Mê Hồn Ca, 1954).

Như thế, ngừng say là dấu hiệu của một biến cố, một ngã rẽ khiến lòng chưa biết ngả về đâu. Bởi vì, việc ngừng say có thể khiến chuyến hành trình một đời phải khởi sự lại từ đầu, cũng như người lên đường phải chuẩn bị lại tâm hồn như lần đầu cất bước.

Ngay cả trong chuyến viễn hành của Say, thi-nhân cũng dành quyền ấn định lộ trình. Kẻ đi chẳng những không buông xuôi thân thế mà còn thường xuyên đem theo một trái tim canh thức. Người đã dừng lại bên đường như muốn vời lại mảnh trăng khuya, chứng vật của tình đã tan tác. Dạo ấy người ơi xa lắm đâu. Rõ rệt là cái Say không thể là cái Quên vĩnh viễn. Cái Nhớ đã khiến gợi ra cái Tiếc bẽ bàng. Chớm nụ tiếc cho tình quá ngát.

Phút ngừng say của thi-nhân là sự thử thách nỗ lực tìm quên đằng đẵng của người sống giữa hai bờ thực-mộng. Tương tự cái nhìn Orphée ngoái nhìn lại người yêu mà không phải vì nghi ngờ lời giao ước. Vũ, lòng chẳng muốn rời giấc Say nhưng không thể không muốn, giây phút để hồn tìm lại giấc mơ xưa. Chàng, cũng như Orphée, đều mang trong lòng, hình ảnh một giấc mơ không thể chôn vùi, một thực tại không thể làm khuất lấp

Hãy đắm đuối. Chàng Orphée si dại

Đừng ngoái nhìn. Đừng ngoái nhìn. Bờ bụi

Tủa gai, vườn hoang phế. Bóng ảnh nàng

Trôi tan tác trong hành lang thẳm tối.

 

Cửa ngó chết, nỗi mù dằng dặc

Hoa trông vời khéo niềm riêng nghi hoặc.

Đừng ngoái nhìn. Đừng ngoái nhìn. Chàng ơi.

Trăng ngỡ sáng. Trăng ngậm sương trầm mặc.

 

Mùa ngã độc. Nhà nín hơi lẩn lút.

Đồi sượng sần. Cây lìa cành, lá trút

Đừng ngoái nhìn. Phơ phất khói sương thu.

Đừng ngoái nhìn. Trăng khỏa thân xanh mướt.

 

( Thanh Tâm Tuyền, Ngôi Nhà Đỏ, Trăng Hồng, biến khúc 6, giai phẩm Văn, 27.11.1972, tr. 23-24)

 

Còn Vũ, lòng không thể chỉ vỏn vẹn hai chữ thương-nhớ và tuy rằng không để bộc lộ, làm phiền muộn đến chuyến Say. Tiếc thương lẻn khói vào tâm trí. Mưa gió tàn đêm lộng quán sầu.

Lần thứ nhất trong đời, thi-nhân đã thử trắc-nghiệm sức phản kháng của tình trước một nỗ lực tìm quên hay biến thể. Ngừng say chính là giây phút thử thách của chính thi-nhân vừa để cân nhắc lại sức nặng của lời vàng đá. Bấc trĩu hoa đèn nhựa úa nâu. Phải say nằm khóc nhựa ban đầu.

Khác Đinh Hùng, người từng nhìn nhận uy lực phi phàm của cánh khói và sức thu phục con người cả  hồn, xác lẫn thân thế không chỉ trong hiện kiếp

Hồn thấu đáo phong trần lục địa

Hồn cảm thông tình nghĩa năm châu

Mê Hồn ai phụ Hồn đâu ?
Cười trên nghìn cuộc bể dâu, thương đời !

( Đinh Hùng, Thần Tụng, Mê Hồn Ca, 1954)

Riêng Vũ, vẫn tìm kiếm nơi cánh khói, một niềm an ủy, một phương tiện thần diệu, hơn là sự khiếp sợ mãnh lực hay mê hoặc. Vũ cam tiếp tục chén sầu như hình phạt của phút ngừng say và dường như không phải là lần duy nhất.

Sự chung thủy với lòng đã khiến Vũ tìm kiếm một vị trí an lành vĩnh cửu cho giấc mơ đầu, tuy tan tác nhưng toàn vẹn trong trinh. Phút ngừng say trong cuộc nhập Mộng, chỉ tái xác định vị thế không dời đổi của tình, và để bước đầu, thi-nhân tìm ra đường giải thoát cho tâm tư lẫn nghịch cảnh.

-Rượu chẳng ấm mưa hoài chăn chiếu lạnh

" Rượu chẳng ấm mưa hoài chăn chiếu lạnh

Chút hơi tàn leo lét ngọn đèn khuya "

( Lá Thư Ngày Trước, Mây)

Bài thơ thứ 18/25 trong tập mới nhè nhẹ lấy ra kỷ vật hiếm hoi của giấc mơ đầu. Có thể phút ngừng say vừa qua cũng là phút nhập thần của thi nhân khi đối diện với di tích của trái tim. Yêu một khắc để mang sầu trọn kiếp. Tình mười năm còn lại mấy tờ thư. Thi-nhân buồn vì chứng tích không đủ sức nặng để tình giữ được thế quân bình trong cuộc đối kháng với men nồng của cánh khói.

Lá thư trở thành loại chứng từ có ngôn ngữ riêng không dành cho kẻ tục lụy. Cõi mộng để chứng thư trên có thể lưu hành, đã ở bên ngoài trong phút ngừng say. Thi nhân với mấy lá thư còn lại trong tay, trở lại thế giới của bao người tình lụy. Cõi thơ mộng năm nào nay nhuốm mùi ẩm lạnh của nhà mồ. Rượu chẳng ấm mưa hoài chăn chiếu lạnh.  Chút hơi tàn leo lét ngọn đèn khuya. Giấc cô miên rùng rợn nẻo hôn mê. Gió âm tưởng bay về quanh nệm gối.

Chính cuộc Say đã thăng hoa một giấc mơ tan vỡ. Thu vào lòng những mảnh vụn, cả hương sắc tàn phai. Thi-nhân bấy lâu chiêm ngưỡng mối tình non yểu như dâng lễ trước một tượng đài. Ngừng cuộc Say dù chỉ một phút, cũng đủ để giấc mơ xưa trở lại với xác phàm. Những tiếc cùng thương trở lại níu  bắt thi-nhân đòi trả lại tấm tình. Yêu sai lỡ để mang sầu trọn kiếp. Tình mười năm còn lại mấy tờ thư.

Lòng tiếc nhớ lê thê kéo dài trong 44 câu tám chữ như không dứt được mạch buồn. Giấc mơ xưa trở lại như cơn mộng dữ đã từng chế ngự cõi lòng người thơ một thuở. Đêm nay đây hồn xế nẻo thu tàn. Khóc chia lìa ai níu gọi than van. Ta chỉ biết nằm nghe tình hấp hối.

Nhà thơ trong cơn mộng du đã nhắc đến người cũ như gọi tên một oan hồn. sau khi đặt lên một tấm thạch bia, Mười Hai Tháng Sáu.

Lá thư ngày trước là những trang truyện tình như thơ, kết thúc như khép lại câu chuyện không thiếu  mùi cay đắng. Trăng nào ngọt với duyên nào thắm nở. Áo xiêm nào rực rỡ ngựa xe ai. Những dòng chữ ngây thơ đương độ, gây thêm thương tích cho người gìn giữ bấy lâu. Tuổi lên mười của tình không làm thi-nhân già dặn hơn khi tiếc nuối. Tình mười năm còn lại chút này thôi.

Vũ đã cạn lời thương tiếc với nỗi lòng, khi phạm sai lầm một mình trở lại khu vườn tâm sự đầy cạm bẫy nhớ thương. Chỉ có nguồn Say mới giúp thi-nhân khơi nhẹ được tâm hồn, cải hóa được nỗi sầu và những ràng buộc phi lý với cuộc đời đa đoan hiện tại.

-Tố của Hoàng nay Tố của Ai

" Men khói đêm nay sầu dựng mộ

Bia đề tháng sáu ghi mười hai

Tình ta ta tiếc cuồng ta khóc

Tố của Hoàng nay Tố của Ai."

( Mười Hai Tháng Sáu, Mây)

Thời  Lê mạt, người minh nhiên khóc cho mối tình trắc trở chỉ có Phạm Thái, bằng tình ý cảm được thiên thu khi vượt qua giới hạn thời đại cho phép giãi bày. Thời lãng mạn của văn học, ta có Hai Sắc Hoa Ti-Gôn, truyện ngắn của Thanh Châu, là hồi quang của những rung động được phép phản chiếu nơi người nhận với sức truyền của phép hội tụ.

Trước hết, Mười Hai Tháng Sáu cùng thời, có vẻ là tiếng khóc lạ kỳ vì dành cho cách tự điếu của một linh hồn bằng lời bia đặt trên mộ một vết thương lòng. Thi-nhân, người tự dẫn một linh hồn khổ ải, cất  tiếng chuộc tội cho tình bằng việc xoay chuyển hướng vọng cầu. Trăng của nhà ai trăng một phương. Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường. Ờ đêm tháng sáu mười hai nhỉ. Tố của Hoàng ơi hỡi nhớ thương. Chỉ trên mộ bia mới ghi những hàng rành rọt như thế để xác nhận một sự thực vĩnh cửu và cũng là sự mất mát khôn cùng. Và, rượu đắng cùng mưa đêm là khẩu phần được cấp cho  kẻ khốn cùng trong những ngày đọa lạc.

Để trở thành tiếng đưa tiễn một linh-hồn được đời truyền tụng - một khúc dẫn linh - bài thơ đã chứng kiến sự u ám của một cuộc đời hòa lẫn trong bóng tối của vực sâu tự hủy. Chân-giả của một mối đoạn trường đã là một vết thương có thực trong lòng mà không ít người tự xem như thứ huy chương dành cho người tình lụy. Ít ra là ba lần Vũ thốt như điệp khúc, " Tố của Hoàng ơi Tố của Anh, " Tố của Hoàng ơi Tố của Tôi", và " Tố của Hoàng ơi Tố của Ai", là những lần cần thiết, hướng về đám đông để tìm người tri âm. Như thể Vũ muốn tìm kiếm hồi âm từ chính những nạn nhân của tình phụ.

Như thế, bài thơ Mười Hai Tháng Sáu không chỉ là khúc truy hồn mà còn là bài hát vong tình. Ca ngợi một vết thương chẳng thể lành mà còn gây thêm di chứng.

Nhưng, hãy tưởng tượng thi-nhân từ nơi cõi riêng hướng về sinh phần trong đó có nấm mộ lòng vừa đắp nhân ngày 12 tháng 6, hát bài gõ-chậu, như cách để nối liền hai cõi thực-hư. Cái cách không phải noi gương Trang, mà để giục lòng mình tự hư vô hóa.

Ngoài tiếng khóc, Vũ đã có ý định QUÊN từ giây phút đó. Giây phút có thể gây ngộ nhận cho đời, cho người, khi Tạ Tỵ gặp Vũ lần đầu trong bóng tối và khói nâu nơi gian nhà cổ sau đền Bà Kiệu ( Hà-nội), năm 1943.  Lúc đó, Vũ gõ nhịp cho tiếng khóc chia lìa của bài thơ này , " đôi mắt nhắm lại như không muốn thấy sự vật chung quanh. Tôi biết Vũ đang trở vào giấc ngủ mười năm lỡ dở." (32)

Tiếng gõ của Vũ có dáng như tiếng sênh chấp hiệu cho sự an táng một tâm hồn đang tìm nơi an hưởng với cái đau đã trở thành vĩnh cửu, bất tuyệt trong cõi văn chương.

Có thể nghĩ, thi-nhân đã tiến tới tâm trạng trên. Điều mà Nguyễn Mạnh Côn đã hiểu theo cách riêng rằng " mối tình với Kiều Thu mà sự tiếc thương có vẻ "thơ" hơn có vẻ "thật." (33)

Văn chương đã cải hóa nỗi đau thành tương tự một ân sủng thiêng liêng nơi cõi riêng của văn chương ngự trị. Đó là trường hợp của Mười Hai Tháng Sáu.

Bởi vì ngoài một nỗi đau, và nỗi đau được biến thể thành một ước vọng siêu thoát, thi nhân đã tiến gần hơn với giấc mộng khi tận hiến cho Thơ.

Dặn người yêu xưa hãy " nghiêng chân rốn bể mà xem lửa bùng ", để thấy tại nơi thăm thẳm nhất của lục địa này, nỗi buồn thương của thi-nhân, theo ý thức mới, đã hỏa thiêu cùng tro bụi.

Thi nhân đã tỉnh thức cùng với khúc ca, và như thế, tiếng khóc cho tình đầu của thi-nhân chỉ còn là tiếng vọng hồi tưởng của một quá trình.

Âm vang của tiếng-thơ-thay-tiếng-khóc rền rĩ trong gian nhà cổ tựa như tiếng vọng tự nghìn thu, thi-nhân có thể tự hào đã khiến người xưa lắng nghe được lời mình thổn thức. Chuyện lòng dù lành hay vỡ đều là chuyện thế nhân, trong lúc người-làm-thơ đều muốn lời tình là lời thiêng có sức huyền nhiệm đi nhanh của nhiều năm ánh sáng.

Đã đến lúc, người tình là người bỏ đi son phấn cũ để nhận một vai tình nhân của liên cõi hành tinh và không chỉ là hiện kiếp. Người đại diện mọi giá trị của trái đất này cũng là người đi tìm ý nghĩa nỗi buồn của từng kiếp người bởi vì buồn cũng là một giá trị, là niềm vui bị phế bỏ.

Người Em của thi-nhân không còn là "Tố của Hoàng", là Kiều Thu của "lửa đốt tơi bời Mái Tây",  hay của người có "bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên."

Em tự ngàn xưa chuyển bước về

Thuyền trao sóng mắt dẫn trăng đi

Những dòng chữ lạ buồn không nói

Nét lụa bay dài giấc ngủ mê

 

Em đến, mong manh vóc ngọc chìm

Tàn canh hồn nhập bóng trăng im

Ta van từng đóa sao thùy lệ

Nghe ý thơ sầu vút cánh chim

 

Mười ngón tay dâng lửa nguyện cầu

Hỡi ơi! Hồn chuyển kiếp về đâu ?

Ta xin giữ trọn lòng trinh bạch

Ngưỡng vọng Em như Nữ Chúa Sầu.

( Đinh Hùng, Gặp Em Huyền Diệu, Mê Hồn Ca.)

Những người đã liệu định cho họ những mối tình không còn dấu vết của hữu hạn nơi trần thế.

Tình yêu, như thế hẳn sẽ xuất hiện trong mối tương quan mới khi những bên liên quan không còn ngại đến mất mát hay tổn thất.

Mười Hai Tháng Sáu, có thể, là bài thơ sau cùng, có ý nghĩa của việc than khóc một vết thương tâm do tình yêu, than cho ánh trăng sầu không còn giữ vai trò làm chứng. Bài thơ chấm dứt mối sầu, tưởng như muôn thuở, của người tình-lụy. Chấm dứt một cách trọn vẹn và diễm lệ, thông điệp đau buồn được nhiều thế hệ và kiếp người luân lưu.

Ở một khía cạnh, Mười Hai Tháng Sáu, còn là niềm trắc ẩn được giả trang dưới nỗi đau của người chịu nạn. Người chịu khổ hình là người chọn yêu thương một người, trong khi lẽ ra, dưới cái nhìn chung của thi nhân, đối tượng được yêu thương phải là sự thu hẹp của thế nhân.(34)

Sai lầm của Vũ không hẳn đã là sai lầm của riêng thi-nhân khi người trích-tiên khó khước từ được những ràng buộc với đất trích. 

Mười Hai Tháng Sáu là một bi kịch với đời, với người. Nhưng, với thi nhân, là món nợ cần thiết đối với người bị biếm. Vì món nợ mà thi-nhân ở lại với đời. Dẫu cho trả xong, thi nhân vẫn chưa hoàn toàn giải trừ khỏi trách nhiệm người thụ trái. Thi nhân mang theo món nợ nhiều kiếp.

Thương cho xác bướm hai lần mộng ( Đinh Hùng, Gặp Em Huyền Diệu, Mê Hồn Ca.)

 Mười Hai Tháng Sáu đã mở ra hướng trang trải với đời, qua người bị tình phụ. Khoảng thời gian gậm nhấm nỗi buồn hay để cho nỗi buồn dằng xé đã qua dù không ai giục giã. Sầu cao ngùn ngụt mấy đường tơ khô. Lòng thi nhân đã sẵn sàng cho giấc mộng giải thoát. Không phải ly dị với đau khổ, tiếc nhớ. Nỗi buồn như men cay. Não lòng người rồi cũng tan vào khoảng không. Không lâu, người đã hé lộ về sự chuyển-hóa không chỉ lòng sầu. Kể cả thất tình sáu cõi. Bẩy dây tình hề thiêu trên lửa ngời. (35)

Sau này, thi nhân còn tiết lộ cuộc vận-động giải-thoát của đau buồn ngay chính trong từng chặng văn chương, liên can với nhau trong tương quan nhân quả

... ngàn sau tìm Bướm hỏi Say

tìm Oanh hỏi Lửa tìm Mây hỏi Rừng

thơ ngâm váng cả hai vừng

tưởng như gió bụi chưa từng nổi cơn. (36)

Nguồn cơn để giải hóa nỗi buồn thân thế và tình cảm được giãi bày trong Mây có thể tìm được trong tập kế tiếp Rừng Phong. Cái nhìn buông xả đã có từ người tuổi chưa đầy 40. Cái nhìn ấy tự hào có thể lay động cả nhật nguyệt, và thu về một cõi an bình.

Từng với nỗi đau lớn hơn một người có thể nhận được, thi-nhân dọn đường băng qua khổ đau để tiến về cõi an lạc không khác con đường của đạo giải thoát.

Mười Hai Tháng Sáu, hơn là tiếng ca đẵm lệ của tình sầu. Nó là khúc mở đầu diễm tuyệt báo hiệu tin-lành đến từ trời Thơ trăm cõi.

-Ôi ta đã làm chi đời ta

" Ôi ta đã làm chi đời ta

Ai đã làm chi lòng ta

Cho đời tàn tạ lòng băng giá

Sương mong manh quạnh chớm thu già."

( Đời Tàn Trong Ngõ Hẹp, Mây)

Nếu xem lời than dài trên nằm trong một chuỗi sầu muộn của người làm thơ, thì cộng thêm với với cái não nề của người vừa đặt tấm mộ bia lên cõi lòng băng giá, người ta có thể hiểu tất cả là lời biện minh cho sự lựa chọn của thi-nhân về một hướng đối đãi với đời. Lời than trên không phải là buột miệng do nỗi trắc trở giữa đời. Cuộc sống êm ấm trong nhung lụa không đủ sức vỗ về một giấc mơ quen thuộc đến mức bình thường nơi một tâm hồn sớm hoài nghi và gần gũi cô đơn. Vũ cảm thấy chung cuộc của đời mình khi không ít người cùng một vị trí,  hồn nhiên an hưởng. Giữa những người đang tiêu phí đời mình, Vũ là hình ảnh của ý thức hủy thể. Hủy diệt tháng ngày chỉ vì thời gian đồng lõa với sự kéo dài vô nghĩa cuộc đời . Ta đã làm chi đời ta. Ta đã dùng chi đời ta. Cả hai câu hỏi đã nêu lên đều chứa đựng một lúc câu trả lời của Vũ. Một đời người có thể hình dung bằng chính bối cảnh được hình thành. Chiều mưa rồi đêm mưa. Gió lùa ngang gác xép.

Người ta có thể nghĩ thi-nhân chọn cách sống như chuộc tội với đời. Đời Tàn Trong Ngõ Hẹp là khúc ăn năn của người đãng tử. Không từ chối mộng lành, cũng chẳng cưỡng cầu công danh. Thi-nhân ngả cuộc đời xuống canh bạc cuối nhưng không phải với thái độ hào phóng. Chiêm bao mờ thoáng hương thừa. Tan rồi mộng đẹp. Sự ngập ngừng là điểm thành thực hơn cả của thi-nhân khi không dấu lòng trong một quyết định gần như chuyện sinh tử.

Như thế, người ta mới hiểu tại sao, Vũ làm ngơ trước con đường dẫn đến công danh, kể cả chút ràng buộc để dẫn đến cuộc sống tương đối ổn định, để được sống như kẻ tiếc công bỏ lỡ.

Ở một khía cạnh, thi-nhân mang tâm trạng của thiên thần đầy ải. Nhận lấy nghiệp không may để bù với tài trời phú. Càng tài cao và Nghệ Thuật tót vời. Càng thua thiệt với đời, thua mọi thứ. (37 )

Nhưng đây là điều thi nhân lấy làm  an ủy và gần như một triết lý thực tiễn, khi sánh với Kiều và những người tài hoa không may khác.

Nỗi buồn của thi-nhân là nỗi buồn của người tài lụy. Vũ không quên rằng, " buồn quá vì mình thấy cái đời thật và cái đời mình tạo nên đều đổ vỡ." (38)

Tạ Tỵ nghĩ rằng:" Thực phẩm trần gian quá đắng cay, Vũ phải ẩn nấp vào trời MÂY để tìm hương vị ngọt ngào cho cuộc sống riêng tư." (39) Thi-nhân không ngừng tái thiết cuộc đời cho chính mình trong niềm tin vững chắc về cõi một cõi an lành và không chỉ Mây là biểu tượng.

Đời Tàn Trong Ngõ Hẹp là nhân sinh quan của thi-nhân hình thành như một phản ứng trước xã hội bị xem là ruồng rẫy. Khép lòng lại thường là cách để mong tìm lấy bình an thay vì đề kháng. Thi-nhân lựa chọn phương thức này như cách sống ngay cả trước những đổi dời lịch sử. Nhưng trong cái lặng lẽ tưởng là tìm thấy, là nỗi chán nản ghê gớm hiện ra với nanh vuốt không kém. Ngao-ngán là chiếc bóng của Vũ, không chỉ lúc bên ngọn đèn thủ mệnh, mà còn như  dấu tay trên căn cước. Chẳng trùng hợp, không biến đổi.

Ngao-ngán là tiếng khóc chào đời của thi-nhân, được chọn lựa không nghi ngờ cho người phải lụy vì tài dù tài chưa dùng đến.

Giấc mơ phú quý. Cờ biển nhịp mơ màng. Đường hoa son phấn đợi. Chỉ là ảo ảnh của một giấc mơ. Giấc mơ được mộng thêm lần nữa trên gối. Hình ảo được nhân đôi nếu lọt được vào cơn mơ hiếm hoi của người-làm-thơ cô độc.

Về mặt luận lý, Nguyên Sa từng đặt vấn đề rằng, nhà thơ đã " sống đầy đọa thế nào trong cuộc sống để phải kêu lên " đời tàn trong ngõ hẹp", để phải hát lên " Ôi lòng ta sao buồn không nguôi. Niềm u uất dâng cao hề tháng ngày trôi xuôi. Há vì cơm áo chẳng no lành. Há vì đời không ai mắt xanh."(40) Nhưng, truy nguyên lý do cũng chỉ là cách xác nhận lỗi lầm của mỗi bên, trong lúc người làm thơ không nghĩ đền bồi, chỉ mong giấc mơ còn toàn vẹn.

Vũ, người thay thế-hệ lên tiếng, không xem việc mình làm là lời khiếu tố. Nỗi bất bình chất chứa như sương muối sót lòng, chỉ cần được thốt nên lời. Lần này Vũ không bơ vơ, vì không phải đợi đến 300 năm, đã có người trắc ẩn, bất bình. Như Nguyễn Du đã làm cho Tiểu-Thanh và cho những tiểu-thanh.

Nhiều năm sau sự bộc lộ của thi-nhân thay lời cho ít nhất một thế-hệ đương thời, không ít người vẫn đòi hỏi người-làm-thơ một nghĩa vụ của người-đứng-trong-hàng, hơn là tìm cách đến gần lại với người có can đảm và thành thật giãi lòng như trước tòa giải tội. (41)

Thi-nhân không ngại nói với đời dù đời ruồng rẫy. Phải chăng đây cũng là mâu thuẫn lớn nhất của thi-nhân khi phải nói cùng người bội tình lời chân thật.

-Ai khóc đời ai trên bấc lụi

" Nằm say nhựa tỏa cánh xiêu xiêu

Giường thấp nghe trời xuống tịch liêu

Sự nghiệp nào đâu trưa nắng xế

Hoa phai thề ước lá tàn yêu

Ngoài ba mươi tuổi duyên còn hết

Một ván cờ thua ngả bóng chiều

Ai khóc đời ai trên bấc lụi

Đây mùa thu sớm lửa dần thiêu."

( Ngoài Ba Mươi Tuổi, Mây)

Thi-nhân thốt lên lời chán nản như thế năm chưa được hai mươi tám tuổi. Như thế, ngoài ba mươi là tính đến tương lai trong vài năm nữa. Cái mốc vị lai thường lệ đánh dấu việc lập thân theo quan niệm xưa nay.

Bài thơ tiếp nối ý thơ Đời Tàn Ngõ Hẹp gợi ra hình ảnh nắng chiều hiu hắt trên mái tóc còn xanh mầu. (42) Khi triệt thoái khỏi cái Say, là lúc con người thực trở về, dù bối rối hay không, không thể còn tâm trạng của người thế chấp cả cuộc đời vào canh bạc cuối. Đây là lúc người đang tìm cách băng bó vết thương của người tài lụy bằng sự thành thực. Không nhạo cười. Không thách đố. Ngay cả phép đối trong bốn câu thực-luận cũng xin phép miễn trừ.

Toàn bài là tiếng thở dài không dứt vì không có điểm dừng. Nỗi buồn chán miên man rồi mênh mang tan lẫn vào không, không ngập ngừng và không vướng bận. Chán nản là ý thức sâu đậm nhất về vị nhạt nhẽo của cuộc đời, về sự vô nghĩa của sự có mặt lẫn hành động để chứng tỏ có mặt.

Chán nản, có lẽ là dư vị của cái Say nửa vời, của phút ngừng say, và là cái vị ban đầu của sự tỉnh táo.  Cái giá phải trả khi ý thức trở về, buộc người phải đối đầu và vượt thắng. Nhưng, nhiều lắm là Vũ giữ được thế hòa để tiếp tục những chuyến Say như những cuộc đi vào viễn mộng ngắn hạn.

Không nên xem như tâm bệnh, chán-nản có lẽ là bản-ngã của thi nhân, do miễn nhiễm với đời, với ngoại giới. Một phản ứng phụ của kháng thể giúp thi nhân thoát khỏi ma lực của cám dỗ cuộc đời. Điều mà Nguyễn Mạnh Côn cho rằng thi-nhân giữ cho mình " không tham lam bất cứ thứ gì ở đời " như ảnh hưởng đáng kể của tư tưởng  Trang Lão Phật. (43) Và dường như cũng chỉ có Nguyễn Mạnh Côn dừng lại ở tâm trạng chán nản đặc biệt của Vũ, không hẳn để truy tầm uyên nguyên mà để xác nhận một suy nghĩ riêng của mình liên quan khả năng tiếp tục sáng tác của Vũ, điều mà ông nghĩ có thể dẫn đến tâm trạng như thế củaVũ.

" Một đời người có đến hai đời thơ ",  khiến nhận định trở thành lời an ủy.

Thật thế, ở  thập niên 70, thi-nhân có lúc xem cái chết như sự giải thoát. " Tôi bây giờ chỉ chờ ngày chết thôi. Lắm lúc muốn tự tử. Thơ không viết nữa, giá viết cũng không có người đọc. Vợ con thì không có gì ràng buộc mình..." (44)

Đặt bên cạnh Ngoài Ba Mươi Tuổi, người ta có thể nghĩ đến đường đi tất yếu của một nỗi chán chường đã có tuổi, hay chỉ là nghĩa tối của tinh-thần một thông-điệp-mới lẽ ra viết bằng thơ. Bởi vì cùng lúc, thi-nhân đã đưa Thơ tới đỉnh cao của siêu thoát, của việc tiến tới giá trị vĩnh hằng, cũng như thăm dò được ngưỡng cửa của ý thức và trực giác.

Đi ngược đường như thế cốt để có thể dự cảm tâm hồn và tâm trạng thi-nhân khi thốt nên lời chán chường cay đắng đến thế.

Hay cũng như người xem thơ là thấu kính vạn hoa, phóng lớn nhiều triệu triệu lần một tế bào trong ý muốn làm thành hiện-thực con người theo suy nghĩ. Và Vũ đã làm như thế, không phải với ý định của người truyền rao điều huyễn hoặc, mà là dự cảm được cả cái đau chung, nỗi chán nản quen thuộc của mọi người. Vũ từng nhìn nhận chẳng biết gì khiêu vũ nhưng đã Say với thế hệ mượn cái say trong vũ nhạc  để quên. Không hào với rượu nhưng chứng tỏ đã quen nỗi lòng người đập chén.

-Vớt lại trần ai một chút Ta.

" Nâng chén mời anh thưởng vị trà

Đừng quên tan tác mấy đời hoa

Cạn từng hớp nhỏ cho sen đượm

Vớt lại trần ai một chút Ta."

( Quá Áng Hương Trà, Mây)

Dường như thi-nhân qua mấy vần thơ muốn thế nhân để mắt tới cống hiến của một lớp người tận tụy như mang kiếp nhả tơ, những kẻ cát bụi lầm thân vẫn cố giữ lòng băng tuyết mua vui cho đời.  Những người con hát bến tầm-dương đánh đổi phận mình lấy chút tin cậy vào cái đẹp của tâm hồn qua tiếng hát. Một cuộc trao đổi bấp bênh vì xã hội luôn luôn từ chối sự ngã giá sòng phẳng.  Ca quán rồi bến vắng, là chốn buộc họ phải dừng chân, cắm chiếc sào xuống dòng đời chẩy xiết những tủi cực, bất bình. Trong cái lân tài, không ngập ngừng, Vũ nhận ngay họ làm tri âm. Chén đã vơi mà ngập gió sương. Men càng ngây ngất ý Tầm Dương. (45) Người kỹ nữ có lẽ chưa từng dám nhận là tri kỷ. Nên nỗi xót thương của người chung lận đận, một lần nữa, lại được giãi bày.

Thi nhân nhân nâng chén trà mà nghĩ đến người phận mỏng ngồi bên. Nhấm nháp vị thơm mà nhớ tới loài hương dâng mình cho nhân loại dù trong phút giây tiêu khiển.

Bài thơ là một cung đàn giao cảm và tiếng tơ là niềm trắc ẩn cho những tài hoa thiệt thòi. Bên điều không may, họ cảm thấy gần nhau hơn như gã học trò lạc đệ với gái tủi phận chìm châu. Sự cảm thông chỉ là cách để chỉ việc mở lòng không nghi kỵ.  Nghe đàn ta đã chạnh buồn. Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy hồi. Cùng một lứa bên trời lận đận. Gặp  gỡ nhau lọ sẵn quen nhau. Từ xa kinh khuyết bấy lâu. Tầm-dương đất trích gối sầu hôm mai. ( Ngã văn tỳ bà dĩ thân tức. Hựu văn thử ngữ trùng tức-tức. Đồng thị thiên-nhai  luân -lạc nhân. Tương phùng hà tất tằng tương thức. Ngã tòng khứ niên từ Đế-kinh. Trích cư ngọa bệnh Tầm-dương thành.) ( Tỳ Bà hành, bản Thê Húc, trong Bài Hát Tỳ Bà, Nam Việt, Sài gòn, 1952.)

Gần như nương theo tinh thần của khúc tỳ-bà, thi-nhân đứng về phía người con hát để nói lên sự thực khó lên tiếng bấy lâu. Thi nhân không cần đỡ lời cho nhau, chỉ thay lời người con hát nêu lên hoàn cảnh bạc bẽo của thứ dùng để mua vui. Dễ đâu bướm thỏa lòng khao khát. Trinh bạch toàn thân kiếp đọa đày.

Lòng người con hát, từ trước đến nay không khác chiếc bến đợi chờ. Nhìn thuyền như vô tâm đi qua, chỉ biết ngỏ với lòng. Trọn đời làm kẻ đưa thuyền khách. Thuyền chẩy, trơ vơ đứng với song  (Thế Lữ, Bên Sông Đưa Khách trong Mấy Vần Thơ.)

 Đến người thương-nữ bến Tầm-Dương năm nào, nỗi lòng cũng chẳng khác. Thuyền không đậu bến mặc ai. Quanh thuyền trăng giãi nước trôi lạnh lùng ( Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền. Nhiễu thuyền minh nguyệt giang thủy hàn.)

Thuở ấy, thương nữ thường là chiếc bóng để thi-nhân thốt lời "năn nỉ" ( sớm năn nỉ bóng đêm ân hận lòng. Kiều, câu 1784.) Nguyễn Du, sau ngần ấy cuộc bể dâu, khi trở lại Long thành đất Bắc, cũng chỉ còn biết lấy sự tiều tụy cùng cực của người ca kỹ làm chiếc gương soi cuộc thế. Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong. Ca vũ không di nhất nhân tại ( Tây Sơn cơ nghiệp thảy tiêu vong. Chỉ có một người ( ca múa) còn sót lại. ( Nguyễn Du, Long Thành Cầm Giả Ca ( Bài Ca Người Gảy Đàn Đất Long Thành)

Những kẻ tài hoa cùng một phường lận đận. Nên Vũ ở tuổi chưa đến ba mươi đã sớm tìm đến bến Tầm-dương soi trên mặt nước sông tìm bóng dáng mình.

-Vỡ mộng buông câu hề kho trời gió trăng.

" Quẩn gót thế nhân hề như đàn quạ kia chăng

Hay như mây cao đơn chiếc hề cánh chim bằng  

Ấp úng cân đai hề trói giam tài năng

Vỡ mộng buông câu hề kho trời gió trăng."

( Túy Hậu Cuồng Ngâm, Mây)

Bài-hát-cuồng-sau-cơn-say mới là câu nói tự đáy lòng thốt lên khi men-say-mới làm người tỉnh thức. Người thanh niên tuổi chưa đầy 30 ấy sau những phút tự đốt đời mình trên ngọn lửa Say dường như đã tìm được phần nào câu giải thích cho thái độ của mình mà đa số đã khước từ nói trắng. Không hẳn nỗi buồn mênh mang nhưng dễ dãi đã làm nguyên ủy như câu ca. Ôi lòng ta sao buồn không nguôi. Niềm u uất dâng cao hề tháng ngày trôi xuôi. Há vì cơm áo chẳng no lành. Há vì đời không ai mắt xanh. Thi nhân ý thức hơn ai về sự có mặt của mình nên càng ý thức rõ hơn khi sự có mặt vô nghĩa.

Thực tế, Vũ đã nhanh chóng khước từ con đường dẫn đến công danh trước đã. Như thế, điều mà thi-nhân gọi là trạng thái u-uất tâm hồn diễn ra trước khi có những khó khăn, trở ngại trong đời. Những ám ảnh vụng về của sai lầm, thất bại đã buộc thi nhân tìm cách biện hộ cho thái độ của mình. Bóng tối không hẹn đã thường xuyên làm u ám cái nhìn về phía trước. Lòng thi-nhân không dễ rộn ràng với nắng sớm nhưng sớm ủ ê trước cái chiều tàn tạ, hay một thực tại mong manh. Vũ quay vào lòng tự vấn khi giãi bày cái Say như cách nhận tội đã tìm Quên. Nhưng, với tâm hồn nhạy ứng như Vũ, Say lại trở thành một khía cạnh của bản ngã. Non sông chuếch choáng biết dừng nơi nao (46) hay, mặc trôi về đâu đó nước non say. (47) Cái say trở nên vô hiệu như thi-nhân từng thú nhận. Có ai say để quên sầu. Lòng ta lảo đảo càng sâu vết buồn. (48)

Say không trở thành ngông như Tản Đà, mà có thể nói là con đường dẫn thi-nhân đến tỉnh thức. Men đã cất hồn thi-nhân thành một thứ mỹ tửu của ý thức. Nào có cơn say nào giục được người bừng sáng ý người xưa như rửa sạch được lòng còn tràn mê muội. Đọc truyện cổ nhân hề lòng ta quặn đau. Gió bụi xôn xao hề thương vay người sau. Sau cơn tận-túy là thức giác về thực tại, dấy lên bi phẫn như gió lớn báo hiệu cơn dông chuyển hóa. Ý thức ấy nằm trong bài hát kế, bài hát cuối, cùng một cái tên - Bài Hát Cuồng - như chung khúc của người đến với Trang trong sự hoài nghi mọi lẽ và là tiền đề của Bài Ca Siêu Thoát trong Rừng Phong (1954.) Đáy sông bừng dựng Lầu Thơ. Giấc mơ Hồ Điệp chẳng mơ cũng thành. Có thể giấc mơ Trang được tượng hình nên dễ quyến rũ thi nhân trước khi có tác động của ý thức, như Nguyễn Mạnh Côn nghĩ. (49) Nhưng, với thi-nhân, việc đến với Lão Trang chỉ là việc tiếp nối với nguồn mạch phương đông quen thuộc ngay từ tuổi thơ như sự bừng dậy tự nhiên của tiềm thức.

Khoảng cuối của cơn say là khoảng dừng của thi-nhân trước khi nhảy qua hố thẳm. " Phải yêu đời đến nước nào mới có đủ can đảm khước bỏ mọi lạc thú ở đời." (50) Vũ không tự hào khi từ khước cái vui và cũng không hãnh diện của người dám nói lên sự thực.

Khoảnh dừng này, đánh dấu bằng Túy Hậu Cuồng Ngâm, là sự chói sáng bất ngờ của ý thức như tia chớp báo hiệu sự va chạm giữa nguồn năng lượng âm dương, tương tự sự giao thoa giữa cái định chìm sâu và điều muốn thăng hoa. Nhưng, nơi thi-nhân không có sự dằng co mà tuần tự như diễn biến trong một tiến trình. Cơn tận-túy không dẫn đến hủy-thể hay đổ vỡ. Nó chỉ là chất ngất nghìn trượng lên cao, con người tưởng như đã vượt qua sức hút của vòng kiềm tỏa thế-nhân nhưng ý thức vẫn còn đây, nỗi buồn còn nguyên khối. Rượu hề rượu hề giùm quên nhé ngươi. Sao lòng ta đêm nay buồn không thể nguôi. Niềm u uất dâng cao hề tháng ngày trôi xuôi.

Từ một khía cạnh, Tạ Tỵ cho rằng:" Vũ muốn dìm chết dĩ vãng trong Trời-Quên-Lửa-Khói, nhưng sau mỗi cơn say tự dưới đáy vực, Vũ cảm thấy tâm hồn mình càng lún sâu xuống Địa-Ngục-Quá-Khứ. Nó quật ngã Vũ lúc nào nó muốn. Nó là định mệnh. Nó bám riết lấy Vũ với dằn vặt triền miên, với hờn thương vô độ." (51) Nhưng, nếu theo dõi từng cơn tận túy của thi-nhân, người ta có cảm giác Vũ nâng niu quá khứ và nỗi buồn hơn là có ý định chôn vùi. Nâng niu gượng nhẹ để chúng ngủ yên trong lòng, bởi vì quá khứ, dù cay đắng bất bình vẫn là một phần đời sống Vũ. Nâng niu quá khứ và nỗi buồn để chúng bớt gây dằn vặt như thể đã dày vò, và trong cơn tận túy, dường như chỉ còn thân thế nổi trôi và cuộc đời bị đời ruồng rẫy là những cái phải chạm trán mạnh mẽ. Càng xót thân mình vô dụng. Thiên hạ chê bai hề lạc nẻo sang giàu.

Nguyên ủy của nỗi niềm u uất chính là điều Vũ xem là việc sinh bất phùng thời, một quan niệm trút trách nhiệm cho khách quan như cách biện bạch cho thái độ bất hợp tác với cuộc sống và được xem như một thứ triết lý thực tiễn của một lớp người

Nhớ thuở xưa chưa có ta hề đường đi thênh thênh

Kịp tới khi có ta hề chông gai mông mênh

Cuồng vọng cả mà thôi bốn phương hề vướng mắc

Ba mươi năm trên vai hề trống không bình sinh   ( Túy Hậu Cuồng Ngâm)

Giọng có phảng phất cái Ngông nhưng là diện mạo tâm hồn của kẻ tài hoa, không cam lụy vào đời nên cho đến tuổi lập thân vẫn nhẹ gánh, dù trái với lẽ thường.

Hãy tưởng tượng người thanh niên không chút mặc cảm bên ngọn đèn tự hủy, khi tự nghĩ không  dối lòng rằng đây không phải là thời gian chìm đắm. Ý thức được việc sa lầy là đã thoát ra được nửa đường. Người từng thốt nên " ai đốt đời ai trên bấc lụi " là đã đổi được ngọn đèn bên mình thành ngọn lửa sám hối. Tia mắt Vũ bên ánh dạ đăng của ngọn đèn Say trong lần gặp mặt thứ nhất với Tạ Tỵ, không phải là cái nhìn của người chịu sự khuất phục của đam mê. Hay ánh mắt thay mặt cho tội lỗi. " Đôi mắt ấy toát ra làn ánh sáng kỳ lạ. Nó lóe lên giống tia chớp rồi vụt tắt giữa màu mây nặng chĩu hơi mưa." (52) Có thể ánh mắt của người đang chìm vào mộng đã được đặt dưới cái nhìn quen thuộc của một thứ nghệ thuật. Nhưng chắc chắn, ánh mắt như tia sáng đem theo tín hiệu như trên không thể gần gũi với thứ nghệ thuật suy đồi.

Khúc hát ở cuối đường hẳn phải mang ý nghĩa của kết quả chuyến đi.

Khúc-hát-cuồng-sau-cơn-say là tiếng hát người bại trận nếu xem việc diệt sầu muộn u uất là mục đích tối hậu của mỗi chuyến Say. Nhưng, điều thi-nhân mong muốn không chỉ là sự vong sầu và cách thực hiện không phải là phương thức mầu nhiệm.

Khúc hát ấy cũng không phản chiếu trực tiếp một trạng thái tâm hồn, nỗi thất vọng của người ra khỏi cơn say, như Nguyễn Mạnh Côn dựa vào nguyên tắc trên để cố tìm nhân sinh quan thực sự của Vũ thời của Say và Mộng.(53)

Đây là khúc hát của thi-nhân sau một thời rong ruổi, cố giữ lấy vẻ ung dung dù buông tiếng não nùng. Tiếng hát khiến người say lòng mà nhìn lại cảm thương, và không hề nhằm xác nhận một sự thực hay tâm trạng.(54)

Thi-nhân quả là người trung gian giữa cái bất bình, khổ đau, phiền muộn với cái thế giới để lên tiếng. Trời Thơ của thi-nhân chẳng hề xa cách với người đời vì làm lồng lộng thêm tiếng gửi cho đời của người thi sĩ.

Cho dẫu Túy Hậu Cuồng Ngâm là khúc hát cuối đường lữ hành của người dừng lại với ý định ghi lại nhật ký hành trình, người ta vẫn thấy cái hào sảng của người lên đường không ngại đến việc thành bại, thiệt hơn. Ánh sáng tâm hồn vẫn như tia chớp giữa khuya, vẫn gợi nhớ giá trị thanh cao đột khởi như đóa hoa hiếm giữa gió mưa hay nắng hạn.

 -Ý ngát hoài chăng hề tuổi chớm ba mươi

" Đời họ bỏ ta hề riêng gì kẻ ấy

Tình trót lầm trao hề Ta hỡi Ta ơi

Đốt lửa mà lên hề về đâu chẳng vậy

Chới với hư vô hề ném xa hồn Người."

( Bài Hát Cuồng, Mây)

Say là chuyến đi dằng dặc. Là cuộc hoán đổi tuổi và thời gian lấy dư vị của bữa tiệc trần gian. Dư vị cũng như hương thừa không phải là ân sủng hay hạnh phúc. Nhưng, với thi-nhân, là cách đọa lạc để tìm ra được cái chính mình ở cuối đường. Kìa thoáng chân thân vừa hiện đó. Nụ cười say hoan lạc đến vô tình. (Bài Ca Tận Túy, Rừng Phong)

Tiếp nối Túy Hậu Cuồng Ngâm, bài Bài Hát Cuồng là màn cuối của khúc tự tình trước khi đập chén. Con người bấy lâu bị chuyện đời và cả cơn say làm chìm đắm, ở tận cuối đường Say mới bộc lộ con người thực đã bị son phấn đời trang điểm. Thi nhân từ chối con người này như khước từ sự dối trá.

Như thế, trước hết, bài cuồng ca là một bạch thư, đặt vào tay người một hình ảnh thực với diện mạo đích thực. Ý nghĩa bạch thư là tố giác điều giả trá hay ngụy thiện. Nơi bài hát cuồng này, hay túy-hậu-cuồng-ngâm, là thứ ngụy hạnh-phúc được đời trao cho mà ngỡ là báu vật trong tay

Xuân đã lại rồi ư Mùa Xuân nào đấy nhỉ

Mà ta cũng mang mang lòng hoa úa hoa tươi

Khoáng dã hề thâm lâm - ngự viên hề u cốc

Đầy vơi đấy chắc đâu hề ý ngát không hoài thôi

Chính cái đau u uất vì lường gạt hay bội phản đã khiến con người thức giác. Say chỉ là phương tiện, hay một cách dẫn đường dù bị ngộ nhận. Như nhầm lẫn ngón tay với mặt trăng. Như lòng giếng lẫn với mặt người soi bóng.

Vũ, trong những phút phiêu du theo cánh khói trong ngôi nhà cổ sau Đền Bà Kiệu, có thể nhìn thấy ánh mắt ái ngại từ đâu đây, đã chỉ ra cái đích thực muốn tìm kiếm. Không phải là mùi hương quái ảo phía sau đền, mê hoặc họ như một thứ bùa kinh dị. Một thứ hương " không nồng đắng như hương huệ. Cũng không mát ngọt như hương lan. Không dai dẳng xâm chiếm như hoa dạ hợp. Mà cũng không thoáng lén mờ phới như hoa quỳnh." (55) Và người mê say mùi hương nghĩ đến mùi của thứ hoa màu như san hô và là hương vị của thứ mỹ tửu được ướp. Nhưng, khi tìm được đến gần, men trong người đã nhạt hẳn, mới thấy mùi hương đêm tản mác giữa một nhan sắc giai nhân, và gần ngôi nhà đổ sau đền là thứ loài hoa, " màu nó như san hô ! Cánh nó nhỏ xinh và nhọn hoắt. Không có nhụy, cũng chẳng có đài. Ngửi thì mùi nó tanh khét sặc lên đến óc." (56)

Thứ hoa quyến rũ bước chân người và cả hồn người có thể mang theo cả chút tinh anh vương vấn đời của " nàng trinh nữ tóc xõa vai tuổi chưa mười sáu trước ngày Hà-nội gặp cái loạn năm Tuất mới đây." (57)

Cảm giác về mùi hương của một thứ hoa làm mê đắm người là thí dụ rõ rệt về thứ quê nâu mê- hoặc người tương tự. Mê hoặc không phải là cách nhận diện của chân thân. Con-người-đích-thực chỉ được tìm ra trong tỉnh táo và ngoài ánh sáng ban mai.

Nói thế, bài hát cuồng cũng như túy-hậu-cuồng-ngâm chứa đựng một lời biện bạch phải chăng ? Tưởng hơn hết, thi-nhân là người thành thực hơn ai, nhiều lần nhắc đến cái Say như một giấc mơ giải thoát. Giấc mơ chấp nhận mọi thứ ngoại trừ khi trá. Điều muốn nói là thi-nhân đau cho mình và còn thương cho cái đau của bao người nữa. Khúc ca cuồng của thi-nhân, như thế, không chỉ là khúc hát của riêng người viết ra. Nỗi đau đã được phân chia như nghĩa vụ chung.

Khúc ca còn dung túng cả ước muốn xoay chuyển phận người như cuồng vọng được phát tiết

Mê thiên hạ vào một đêm hồng phấn để ta quên nửa giấc u hoài

Gọi sinh linh sang từng cuộc truy hoan, cho người tránh nghìn năm oan khốc

Nhờ men phá hoại, xót giang sơn cười ngả cười nghiêng

Mượn bút tung hoành, lỗi thời thế xoay ngang xoay dọc

( Đinh Hùng, Thần Tụng, Mê Hồn Ca,1954)

Ở cuối cơn Say, thi-nhân vẫn gặp nhau nơi cái hào khí của người không tiếc mọi việc thế sự, bỏ đi ràng buộc của thế-nhân, sống thực với chính mình, như cách rũ sạch lòng trần trước khi cập bờ giác

Ta hát mà chơi, ta sống đó tuy hư lại thực, giữa chợ đời vất vưởng bóng sầu nhân, thì bán rẻ linh hồn cho Quỷ, tìm Hỉ Thần kết bạn tâm giao.

Người cười cho thỏa, người ở đây dẫu ác mà hiền, gần cửa mộ lạc loài hồn dị khách, hãy nhập chung tinh thể với Người, dùng độc dược thử lòng thế tục.

( Đinh Hùng, Thần Tụng, Mê Hồn Ca,1954)

Nào có khác gì cái tiêu sái của người gần tới biên giới của vô-vi

Một giấc mơ hề dìm trong đáy chén

Bẩy dây tình hề thiêu trên lửa ngời

( Vũ Hoàng Chương, Bài Hát Cuồng, Mây)

Nhận thức của Trang có thể chỉ là một trong những bến tâm hồn sau khi tới được cơn tận-túy. Thi nhân đã khám phá quy luật thịnh suy, tương tự nắm được trong lòng tay quy luật sống

Ta thấy trước đời ta rồi, đêm nào tận túy

Thanh sắc chiêm bao về một hội phù sinh

...

Hán Nguyễn hưng suy là mầu trôi hoạt họa

Gió ngủ trăng bay là nét đứng u minh

( Vũ Hoàng Chương, Bài Ca Tận Túy, Rừng Phong)

Khúc cuối bài hát là điểm đến của cuộc hành trình, là lúc tâm linh hội tụ được với điểm sáng tự chân tâm. Trong một ý nghĩa, thi-nhân đã đạt được Đạo của Thơ, hay ít ra đã tiến tới cái chân, thiện, mỹ của một chuyến đi dằng dặc bất trắc.

Nơi cõi cao nhất của hồn Thơ, cảm giác và lòng trần tan biến, kể cả ý niệm về thực tại quen thuộc chung quanh. Tất cả nhường chỗ cho tiềm thức ngự trị dù xác phàm còn đó. Cái Ta bây giờ không còn là cái Ta của giây phút trước. Thời điểm ấy có thể sánh với thời điểm " tận lậu minh" của bậc hiền triết. Tâm sáng như tấm gương không còn vương hạt bụi của trần thế, không còn tà kiến, thành kiến bấy lâu ngăn trở.

say gắng say lên hề lên tận độ

gắng say hề cho tỉnh nhé Ta ơi

điên đảo Thời Gian hề linh đài vụt sáng

lẫn lộn Không Gian hề trần tâm sẽ vơi

xụp đổ bóng đêm hề năm cảm giác

tiềm thức bừng lên hề muôn cánh sao mai

đâu đó tà dương hề treo ngọn bấc

đâu đó cuồng phong hề reo đáy chai

mùa chi ngày chi hề tuổi bao rồi nhỉ

quanh chiếu rộn tang thương hề tinh anh ngoài đời

xác bỏ trống trơ hề trí vào mê loạn

say tới Vô Vi hề Ta đó Ta ơi.

Giây phút giác ngộ tương tự, còn có thể tìm thấy lần nữa trong Bài Ca Siêu Thoát ( Rừng Phong)

xác định cái nhìn thoát ly trần cấu nơi một thanh niên tây học trong ngoài ba mươi tuổi

khoảnh khắc tơi bời thế sự

ta nghe tiềm thức trăng sao

trời vô tâm hiển linh về nét chữ

thuyền chiếc phiêu du hề đôi cánh tiêu dao

hương quen mùi nhớ xôn xao

lòng thoát ra ngoài sống chết

- Ôi Lý Bạch Trang Chu ! đường chim nẻo nguyệt

đời họa còn ta là theo vết Ngươi xưa

Điều gọi là ý niệm "giải thoát" của thi nhân như Tạ Tỵ nghĩ " Vũ đi tìm vùng an nghỉ cho tâm linh. Vũ muốn được giải thoát bằng quan niệm siêu hình, bằng cách phóng hồn vào hư không tuyệt đối." (58) Nếu có, phải là nội dung cuộc vận động ý-thức quan trọng nhất của Vũ. Nhưng, cuộc đời Vũ là cuộc sống của người làm thơ và của Thơ. Ý thức hiện diện như sự hòa hợp cần thiết khi được cái rung động tâm hồn khởi xướng. Vũ tìm được nơi suối nguồn tư tưởng Đông phương đặc biệt Lão Trang, cảm hứng và tình cảm của một chốn tìm về đích thực cho một tâm hồn cần được an dưỡng. Vũ không làm công việc khám phá hay khai quật. Người đã có nguồn cảm hứng bên mình từ khi thơ ấu ngoài bình sữa mẹ. (58)

Như thế, có thể nghĩ, lòng thi-nhân vẫn ở cạnh Lão Trang và sự chán nản do cái nhìn về xã hội đương thời đã giục thi-nhân gần thêm với Đông-phương thay vì tìm kiếm.

Không riêng gì Vũ, cái Say không phản bội người, vì ít ra với người-làm-thơ, tỉnh-thức đến từng phần như cơn mê dần xa. Họ hiểu rằng sự gắn bó với cái say men khói là cái nghiệp tử-sinh mà tránh được nghiệp dĩ phải là sự đoạn tuyệt

ta gọi hồn chơi vơi  ngọn lửa

ta cầu hồn nức nở bài kinh

tờ mờ trong cõi U minh

nghe ta Hồn hỡi có linh thì về

mắc sinh tử, ước thề khó diệt

tàn thịt xương, mệnh kiếp khôn soi

....

hồn sầu bên cửa dung nhan

ta thiêu thể phách giải oan hồn về

( Đinh Hùng, Thần Tụng, Mê Hồn Ca, 1954)

Như thế, khúc ca cuối của cơn say không hề dẫn đến đường cùng. Trái lại, Vũ đã viết ít nhất bốn khúc ca cho chặng chót có ý nghĩa tương tự khúc khải hoàn ( Túy Hậu Cuồng Ngâm, Bài Hát Cuồng, Bài Ca Tận Túy, Bài Ca Dị Hỏa)

Trong cái nhìn riêng của thi-nhân, người đã vượt được cái Say trong tinh thần của người vượt qua hố thẳm. Ngôn ngữ của nhà thơ đã thuyết phục điều tìm thấy như ánh trăng vằng vặc ngày rằm. Bài Hát Cuồng đi hết con đường đã định của bài ca, chấm dứt một chặng đường xây dựng và theo đuổi ước mơ bằng cách của người tự hủy. Nhưng, thi-nhân không phải là kẻ sống sót vì sự lựa chọn hay tình cờ. Người tỉnh táo hơn ai trong cơn đọa lạc và bắt gặp được chính mình giữa nguồn cơn mê đắm. Đến nỗi, có thể nghĩ, những lúc Vũ than trong tâm trạng kẻ "chết nửa vời", là lúc thốt lên lời cảnh cáo cho chính mình. Cảnh cáo sự sa lầy với những người đồng cảnh.

Bài Hát Cuồng cũng như những khúc cuối cơn say, như thế, và ở một khía cạnh, có ý nghĩa của lời ca tự thắng. Thắng được cái si-mê đắm đuối để hòa hợp với nguyên lý tự nhiên, nghĩa là thắng được tâm vị kỷ, phân biệt

ta say, ta đốt

ta nằm, ta quên

và ta nhớ, thuở lòng ta lẫn một

với âm dương, đằm thắm ý giao duyên

( Vũ Hoàng Chương, Bài Ca Dị Hỏa, Rừng Phong)

Những khúc ca cuối-cơn-say là những khúc ca cuồng của người tỉnh thức. Đời có thêm ý nghĩa nhờ những khúc ca vì thi-nhân không cự tuyệt đời bằng cuộc sống người tự hủy.

 

                                                                                                                                                     Trần Mạnh Toàn

                                                                                                                                                                                                                    

 

Chú thích:

(1)  Kịch thơ Vân Muội của Vũ Hoàng Chương viết trong thời gian ngắn trước khi tập thơ Mây được nhà xuất bản Đời Nay ấn hành và xuất bản như một giai phẩm nghệ thuật, năm 1943.

(2) Theo hồi ký, Vũ Hoàng Chương mô tả việc ra đời tập thơ Mây, và tấm bìa tập thơ như sau:" Tuy nhiên, Mây chẳng chịu xuống trần là "chẳng chịu" lúc bấy giờ thôi. Sang đến mùa thu năm sau, tức là năm Quý Mùi, Tây lịch, 1943, nó đã xuống tà tà, theo lời gọi âm binh của họa sĩ phù thủy là Tô Ngọc Vân. Mây với Vân có duyên với nhau từ cái thời xa xưa chữ Nho gặp tiếng Việt. Cho nên lời gọi phát xuất từ cây bút của nhà danh họa kia đã được đám mây giang hồ hưởng ứng, bằng lòng tự thu nhỏ lại trong một cái bầu rượu, xuống nằm bất tử ngay trên bìa sách của Hoàng. Bầu rượu và đám mây đều màu nâu, bìa sách thì màu vàng rực rỡ, trong khi những chữ nhà in sắp tên tác giả và tác phẩm thì in bằng mực đen trên một cái nền nhỏ hình vuông, cũng màu nâu và đặt ở khoảng trên, bốn phía lại đóng khung đen, giống như khung ảnh. Chiếc bầu rượu này, chẳng hiểu có phải Tô Ngọc Vân đã chiêm bao nhặt

được ở tận Đông Hải, do Lý Thiết Quài đại tiên bỏ quên hay không. Chỉ biết hình thù nó mập tròn, nét vẽ đậm, và đặt chênh chếch tưởng đâu sắp té ngửa đến nơi, và té ra ngoài...bìa sách. Nó nghênh ngang quá, chướng quá, mà cái chứa của nó lại là đám mây, nên càng chướng, càng nghênh ngang; át hẳn Con Phượng, huy hiệu của nhà xuất bản Đời Nay đặt về phía tay trái, đối diện với nó..." ( Vũ Hoàng Chương, Ta Đã Làm Chi Đời Ta, (Sài gòn: cơ sở xuất bản Trương Vĩnh Ký, 1974, nxb Hội Nhà Văn, tái bản, 1993)  tr. 48-49.

(3)  Vũ Hoàng Chương, Ta Đã Làm Chi Đời Ta, phần đăng tải trên  giai phẩm Văn (số ra ngày 26.10.1972), tr. 15.

(4) Thơ Tuyết Khanh, trong Ta Đã Làm Chi Đời Ta, sđd. tr.25.

(5) Cảm Thông còn là nhan đề một tập thơ dịch của Vũ Hoàng Chương, nhan đề  Communion, gồm 7 bài thơ Việt, các bản dịch Anh ngữ của Nguyễn Khang, và 3 bài dịch Pháp ngữ của Simone Kuhnen de la Coeuillerie ( Vườn Hoa Bể Bắc, Bài Ca Dị Hỏa, Công chúa Paris) kèm theo 4 phụ bản của họa sĩ Bỉ Ysabel Baes. Ysabel, 15 tuổi, đại biểu của Bỉ tại hội nghị quốc tế về thơ năm 1959, và là bạn thơ của Vũ khi tham dự hội nghị này.

(6)  " Với Mây, Vũ Hoàng Chương đã chịu ảnh hưởng nặng nề của Liêu trai, và ở ngoài đời anh cũng muốn sống luôn theo kiểu nhân vật của Bồ Tùng Linh nữa. Tôi vừa khám phá được ở họ Vũ một đặc tính nữa: sự lập dị." 

( Bàng Bá Lân, Kỷ Niệm Văn Thi Sĩ Hiện Đại, cuốn I ” ( Sài gòn:  Xây Dựng, 1962),  phần viết về Vũ Hoàng Chương được in lại trong Văn Học, số 96 (11/1969) tr. 41.

 để minh chứng cho cách giải thích, tác giả viết:" Gặp anh, tôi ngạc nhiên vì không nhận ra. Chất ma túy đã tàn phá cơ thể anh mau chóng. Chàng thanh niên khá khỏe mạnh lanh lợi, có vẻ ăn chơi của Thơ Say không còn nữa. Trước mặt tôi, là một người thân hình gầy nhom, nét mặt hốc hác, xúng xính trong bộ nam phục nhàu nát ( áo dài kép bằng nhiễu tam giang, quần chúc bâu vàng khè, bít tất nhăn nhúm, giầy gia định trắng bụi.) Nhất là cái đầu, tóc dài lòa xòa che kín cả gáy lẫn tai càng làm cho gương mặt thêm choắt cheo ốm yếu..." ( Bàng Bá Lân, sđd, tr. 41.)

(7) Theo điển tích, Hàn thị, người cung nữ đề thơ vào lá thắm thả theo ngòi nước,và Vu Hựu, nhặt được đề thơ trả lời, Sau, họ thành hôn với nhau khi người cung nữ được phép xuất cung về nhà cùng với 3000 cung nhân. Trong lễ kết hôn, họ đưa ra lá thắm nhận được.

(8) Tạ Tỵ, Vũ Hoàng Chương Tiếng Thở Dài của Phương Đông Trầm Mặc “ trong Văn Học, số 96 ( 11/1969) tr. 112.

(9) Vũ Hoàng Chương, Bài Hát Cuồng” trong Mây, 1943.

(10) Tạ Tỵ, sđd, tr. 31.

(11)  Đây là thời gian Vũ trú ngụ tại căn nhà thuê của Đinh Hùng và người chị là Thục Oanh. Căn nhà thuê từ đầu năm 1943, nằm tại một hẻm có tên Ngõ Bò trên đường Bạch Mai, Hà-nội, được Vũ gọi là "Hoàng ngưu hạng," Đây cũng là thời gian Vũ ngày ngày đến đọc bản vỗ tập thơ Mây tại nhà xuất bản Đời Nay.

" Nhà năm gian lợp ngói, cửa bức bàn, hiên rộng tới ba thước có thể trải chiếu ngồi nhìn ra cây ổi và giàn hoa ngoài sân; nếu hội họp để uống rượu ngâm thơ thì hai mươi người ngồi vẫn còn thừa chỗ. Chỉ phải cái nhà hơi tối,vì chẳng có một cửa sổ nào; lại ở vào một ngõ không được hưởng tiện nghi điện lực, nên ban ngày cũng mờ mịt hư ảo như một thạch động thời tiền sử... ( Vũ Hoàng Chương, Ta Đã Làm Chi Đời Ta, (Sài gòn:1974), nxb Hội Nhà Văn, tái bản, 1993 tr.53.)

(12) Tạ Tỵ, Vũ Hoàng Chương Tiếng Thở Dài của Phương Đông Trầm Mặc”, trong Văn Học, số 96, (11/1969)  tr. 105.

(13) Vũ Hoàng Chương, Nửa Truyện Hồ Ly” trong Mây, 1943.

(14)  Tạ Tỵ, Vũ Hoàng Chương Tiếng Thở Dài của Phương Đông Trầm Mặc”, sđd.  tr. 103.

(15) Vũ Hoàng Chương, Đậm Nhạt”  trong Mây, 1943.

(16) Tạ Tỵ, Vũ Hoàng Chương Tiếng Thở Dài của Phương Đông Trầm Mặc, sđd. tr. 103.

(17) Vũ Hoàng Chương, Đậm Nhạt” trong  Mây, 1943.

(18) Tạ Tỵ,Vũ Hoàng Chương Tiếng Thở Dài của Phương Đông Trầm Mặc  trong Văn Học, số 96 (11/1969) tr. 104.

(19)  Vũ Hoàng Chương, Cô Gái Ma trong Loạn Trung Bút, ( Sài gòn: Khai Trí, 1970) tr.20.

(20) Vũ Hoàng Chương, “ Cô Gái Ma”,  sđd, tr. 24.

(21) Vũ Hoàng Chương, Mùi Hương Quái Ảo trong Loạn Trung Bút ( Sài gòn: Khai Trí 1970) tr. 45-46.

(22) Vũ Hoàng Chương, Mùi Hương Quái Ảo”, , sđd, tr. 47-48.

(23) Vũ Hoàng Chương, “ Mùi Hương Quái Ảo” trong Loạn Trung Bút ( Sài gòn: Khai Trí, 1970) tr. 43)

(24) Vũ Hoàng Chương, Chờ Đợi Hoài Công” trong Rừng Phong ( Sài gòn: 1954)

(25) Vũ Hoàng Chương, Nghe Hát, trong Thơ Say, 1940.

(26) Vũ Hoàng Chương Trương Chi” trong Vân Muội, tập kịch thơ, ( Sài gòn: Nguyễn Đình Vượng, 1960)

(27) “ Sự cô đơn của anh không phải là sự cô đơn siêu hình đó mà chỉ là niềm cô đơn nhuốm sắc thái lãng mạn, sự cô đơn của con người không tìm được sự cảm thông trong tập thể, của lớp người " bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh", của lớp người có " hồn giản dị" nên không được dung dưỡng trong cõi đời kiêu bạc." Nguyên Sa, Một Đoạn Thư Gửi Vũ Hoàng Chương trong Văn Học, số 96 (11/1959) tr. 26-27.

(28) Nguyên Sa, s đd. tr. 26.

(29) Nguyên Sa, sđd, tr. 23.

(30)  Bài thơ Mộng Chim Liền Cánh của Vũ Hoàng Chương đề tặng Ysabel Baes, được in trong tuyển tập thơ văn Nhân Chứng 50 khuôn mặt tổng hợp văn nghệ hiện đại ( Sàigon : 11/1967 ) tr.17.

Ysabel Baes là thi sĩ, 15 tuổi, đại diện Bỉ tại Hội Nghị Lưỡng niên quốc tế về thơ tổ chức tại Bỉ tháng 9.1959 và trở thành bạn thân của Vũ. Ysabel đã đóng góp phụ bản, tranh cho 2 tập thơ dịch của Vũ : Cảm Thông ( Communion) in năm 1960, Thi Tuyển ( Poèmes Choisis) in năm 1963.

(31) Vũ làm Phụ tá Kiểm Soát viên tập sự ( Contrôleur-adjoint à essai) Hỏa xa Đông-dương năm 1939, nhưng sau 2 năm tập sự và được bổ nhiệm làm Kiểm soát viên chính thức thì ông xin thôi việc năm 1941 ( Vũ Bằng, Đi Xâu Vào Tâm Sự Vũ Hoàng Chương”  trong Văn Học, số 97 (11/1969) tr. 11.)

(32) Tạ Tỵ, Vũ Hoàng Chương Tiếng Thở Dài của Phương Đông Trầm Mặc” trong, Văn Học, số 96 (11/1069) tr. 113.

(33)  Nguyễn Mạnh Côn, Nửa Thế Kỷ Làm Thơ Vũ Hoàng Chương, Văn, số 150, 15.3.1970, tr. 81.

(34)  Vũ Bằng, Đi Xâu Vào Tâm Trạng Vũ Hoàng Chươngtrong Văn Học, số 96 (11/1969), tr. 15.

 (35) Vũ Hoàng Chương, Bài Hát Cuồng, Mây, 1943.

(36) Vũ Hoàng Chương, Nối Lời Ca Dao ( viết xuân Quý Sửu)

(37) Vũ Hoàng Chương, Trương Chi, kịch thơ, 1943.

(38) Vũ Bằng, Đi Xâu Vào Tâm Sự Vũ Hoàng Chươngtrong Văn Học, số 97 (11/1969) tr.17.

(39)  Tạ Tỵ, Vũ Hoàng Chương Tiếng Thở Dài của Phương Đông Trầm Mặc, Văn Học, sđd, tr. 115.

(40) Nguyên Sa, Một Đoạn Thư Gửi Vũ Hoàng Chương”  trong Văn Học, sđd. tr. 24.

(41)  " Nếu tập Mây có tác dụng độc, hại phần nào vì lan tràn cái ảnh hưởng không hay của nó khiến nhiều thanh niên lấy đó làm điều để ăn chơi trụy-lạc thì, trái lại, nó đã đánh dấu tâm-hồn một thế-hệ, sự thực đau thương của một thời đại và làm cho con người giật mình khi phải nhìn thấy sự lun bại của tư tưởng vô-định hướng bày ra một cách chán chường." ( Nguyễn Văn Xuân, Điểm sách Hoa Đăng, Bách Khoa, số 64 (1.9.1959) tr.49.

(42)  Nguyễn Mạnh Côn tả lại đường đến ngôi nhà nhân vật Hoàng ( tức là Vũ ) tá túc một thời gian kể từ trước khi in tập thơ Mây (Đời Nay, 1943). Ngôi nhà do Đinh Hùng và người chị là Thục Oanh thuê. "  Hoàng rủ Trọng về nhà anh, ở thật sâu trong  Ngõ Bò, một ngõ hẹp quanh co thuộc ngoại ô Bạch Mai. Hai người bạn ngồi chung một xe tay xuống quá đoạn đường tầu điện tránh nhau ngay dưới dẫy phố 24 gian. Họ xuống xe, rẽ vào con đường đất ăn ra vỉa hè tay trái. Trọng lẩn thẩn tính: đi thẳng, quẹo tay trái, đi thẳng, đến ngã ba rẽ tay trái, đi thẳng men theo bức tường mầu xám đen của một hãng chế tạo sà-phòng nội hóa, nhẩy qua rãnh đầy nước bùn đen, đến ngã ba, rẽ tay phải. Hoàng nói: sắp đến. Trọng nhìn bên kia rãnh có những túp lều lợp ra và có những ngôi nhà tường gạch mái ngói đã phủ đầy rêu xanh. Nhà cửa lộn xộn, cái nọ đâm đầu vào gian giữa cái kia. Sự nghèo túng hiện lên rất rõ. Nhưng xóm bên này có vẻ phong quang hơn. Hai ba căn nhà gạch liền vách cùng mở cửa ra lối đi. Rồi đến một bức tường quét vôi vàng cũ, trên đầu tường có những giây leo đầy hoa mầu tím. Trọng nghĩ đây là  một nhà giàu. Hoàng đứng lại ngay trước cánh cửa gỗ mở nơi cuối bức tường ấy.

- Nhỏ ơi, nhỏ ? Mở cửa !

Một tiếng dạ thât lớn, trong trẻo, trả lời Hoàng. Hai then cửa kéo ngang lịch kịch." (Nguyễn Mạnh Côn, 1945 Lạc Đường Vào Lịch Sử” ( Sài gòn: Giao Điểm,1965) tr. 152)

(43) Nguyễn Mạnh Côn, Nửa Thế Kỷ Làm Thơ Vũ Hoàng Chương, trong Văn, số 150, 15.3.1970, tr. 82.

(44)  Nguyễn Mạnh Côn, Nửa Thế Kỷ Làm Thơ Vũ Hoàng Chương”, sđd, tr. 94.

(45)  Vũ Hoàng Chương, Đà Giang”  trong Thơ Say, 1940.

(46)  Vũ Hoàng Chương, Con Tàu Say, Thơ Say, 1940.

(47)  Vũ Hoàng Chương, Chết Nửa Vời, Thơ Say, 1940.

(48)  Vũ Hoàng Chương, Chén Rượu Đôi Đườngtrong Thơ Say, 1940.

(49)  Nguyễn Mạnh Côn, Nửa Thế Kỷ Làm Thơ Vũ Hoàng Chương” trong Văn, số 150 (15.3.1970) tr. 82.

(50)  Bùi Giáng, Đọc Rừng Phong” ( Sài gòn:Thẩm Mỹ, 1954) in lại trong Văn, số 150 (15.3.1970) tr. 48.

(51) Tạ Tỵ, Vũ Hoàng Chương Tiếng Thở Dài của Phương Đông Trầm Mặctrong Văn Học, số 97 (11/1969) tr. 110.

(52) Tạ Tỵ, Vũ Hoàng Chương Tiếng Thở Dài của Phương Đông Trầm Mặc, sđd, tr. 112.

(53) Nguyễn Mạnh Côn, Nửa Thế Kỷ Làm Thơ Vũ Hoàng Chương, sđd, tr. 82.

(54) Trong bài viết trên, Nguyễn Mạnh Côn ghi rằng bài thơ "Đời Tàn Ngõ Hẹp" được Vũ sáng tác trong thời gian trọ tại nhà Lan Sơn để dạy học tại Hải Phòng. Nhà chật, trời ẩm thấp vì mưa dầm, hơn nữa Lan Sơn là nhà giáo không thành, suốt ngày than thở. Nguyễn Mạnh Côn ghi rằng " anh ( Vũ) xác nhận suốt đời anh không có điều gì như anh đã viết." ( bđd, tr. 80.)

(55)  Vũ Hoàng Chương, truyện ngắn Mùi Hương Quái Ảo, trong Loạn Trung Bút, ( Saigon, Khai Trí,1970) tr. 41-42.

Truyện viết năm 1951 tại Hà-nội.

(56) Vũ Hoàng Chương, Mùi Hương Quái Ảo, sđd, tr. 48.

(57)  Vũ Hoàng Chương, Mùi Hương Quái Ảo, tr. 47.

(58) Tạ Tỵ, Vũ Hoàng Chương Tiếng Thở Dài của Phương Đông Trầm Mặc” trong Văn Học, số 97 (11/1969) tr. 111.

(59)   Vũ Hoàng Chương cho biết, ông học chữ nho từ 5 tuổi, "thơ phú chữ nho ảnh hưởng rất mạnh đến đầu óc tôi... Hiện giờ tôi vẫn đọc và viết chữ nho và tinh thần tiết ra trong những vần thơ vẫn bàng bạc triết học Đông phương nhiều hơn là Tây phương." ( Vũ Bằng, Đi Xâu Vào Tâm Sự Vũ Hoàng Chươngtrong Văn Học, số 97, (11/1969) tr. 14.)