Tuesday, April 18, 2023

Trần Mạnh Toàn: SAO TRỞ VỀ NGÔI (thơ nhị thập bát tú của Vũ Hoàng Chương)

 - Mỹ cảm phương đông

- Hơi thở dân tộc

- Bóng tối khoa học

- Nét đẹp tự thân

- Viễn ảnh tâm cơ

- Tìm một ánh sao

- Hiện thực đầy vơi

- Thay hồi Vĩ Thanh

 

Tạp chí Văn học, số 97, tháng 11.1969

 

Tiền thân còn thoáng hương mơ...

Giấc mơ tiền kiếp vẫn đeo đẳng và ám ảnh người như một vết thương kể từ khi người làm quen với trang sách cổ. Người thiếu nữ mà người trông đợi bước ra vẫn để lại lời nhắn với hoa đèn.

Rún rẩy hoa đèn rung ngọn bấc  / không gian đàn mãi tiếng giầy ai. (Nửa Truyện Hồ Ly)

Vũ như chìm sâu trong giấc mơ huyền hoặc. Không phải lãng quên thế giới chung quanh mà vì chàng mải nấn ná với mộng vàng chưa kịp hái. Giấc mộng bấy lâu dường như chưa kịp đặt tên nhưng cũng đủ để thi nhân quên cả đường về, mặc cho sông núi chuyển mình như nhắc nhở. Vũ trở thành người hiếm hoi từ chối bữa tiệc đời nồng hậu dành cho, khi tự thâm tâm đã thấy khắc khoải về những ngày có mặt với đời. Nỗi chán nản tỏa ra tự trong vần điệu đã làm lao đao người yêu thơ chàng. Dù người làm thơ chẳng nghĩ tới việc chinh phục lòng người bằng việc phô bày điều chàng cho là không may cho thân thế.

Vũ sớm ý thức được sự tự hủy ngay cả trước khi thế hệ chàng còn hồn nhiên lỡ bước. Lời chàng càng thiết tha khi ngọn lửa canh thức hầu tàn trong đêm vắng. Một ván cờ thua ngả bóng chiều.

Có thể nghĩ, thi nhân đã lấy đi một phần sinh lực để thắp vội ngọn đèn bên mình. Chưa từng thấy lần nào thi nhân không bùi ngùi khi đốt lửa. Ai khóc đời ai trên bấc lụi. Ngọn đèn trở thành ánh lửa làm chứng cho thân phận không chỉ cho chính chàng.

Thơ trở thành điều trần-tình cho cả thế hệ có mặt chàng. Cho ý thức chung về những điều cần ngã giá. Thơ không đồng lõa với bản năng mà ngay thẳng bộc lộ điều cần thố lộ. Phơi bày chân thực một nỗi lòng trống trải và khao khát niềm tin tuyệt đối ở mức độ mà con người thường gửi theo tín lý.

Những người từng giáp mặt Vũ bên hoa đèn hẳn nhận ra nỗi chán chường lẫn hiu quạnh vây quanh Vũ  cùng với văn chương được phó thác như nhữrng con tin. Sao chiều xuống chênh song hề còn đau thân thế  / còn tủi bình sinh hề khi gió lên đầy trời (Bài Hát Cuồng)

Cái bất bình của lớp tuổi luôn bị nhìn dưới ánh mắt xa lạ, hoài nghi và thiếu cảm thông. Tưởng như lòng người đã tan rã sau mỗi cơn say. Cái say của một người biết rằng cái tỉnh đã khắc nghiệt dày vò mình như thù hận. Sao lòng ta đêm nay buồn không thể nguôi  / niềm u uất dâng cao hề tháng ngày trôi xuôi (Túy Hậu Cuồng Ngâm.)

Say không là giải pháp đối với chàng, mà thực sự chỉ là phản ứng của một trái tim không chịu điều kiềm tỏa. Say là hoàn cảnh khó có thể chối từ khi chàng nghĩ chỉ có bên mình con thuyền sắp đắm. Khó ai có thể nắm vững lời giải cho bài toán dành cho thế hệ mình. Và, cái cách mà thi nhân có thể làm được cho chính mình là dành cơ hội cho văn chương mở cõi.

Quẩn gót thế nhân hề như đàn quạ kia chăng  / hay như mây cao đơn chiếc hề cánh chim bằng (Túy Hậu Cuồng Ngâm.) Tuyệt nhiên không là lời cao ngạo của thi nhân, khi người chỉ muốn tỏ nỗi lòng trước hoàn cảnh và khi người đi sau muốn hiểu được nguồn cơn của nỗi bất bình.

Vũ không giấu điều không dễ dàng an hưởng trong ưu đãi của hoàn cảnh mà định mệnh đã dành cho.  

Say trở thành bản ngã nhà thơ. Việc thi nhân tự nhận là Chàng Say khiến không ít người ngỡ rằng chàng cũng ngang tàng như kẻ, bước đã cuồng phong rắc đáy chai (bài Cảm đề tập Đời Vắng Em Rồi Say Với Ai, 1971.) Thơ đã khiến thi nhân có thái độ minh triết hơn người, nhập vào lớp cao sĩ thường có mặt vào buổi suy vi. Bụi trần hay bụi thị phi vẫn chẳng để người bận lòng. “Ta van cát bụi trên đường / dù nhơ dù sạch đừng vương gót này  / Để ta tròn một kiếp say

Cao khiết không phải là lánh xa đời. Nhưng thi nhân muốn được vững lòng với cơn say trường dạ. Với người, say trở thành phương tiện đến gần hơn với giấc mơ chưa vĩnh cửu như ước mong  và dẫu còn đem lại nỗi xót xa gia trọng lúc tàn canh, khi tỉnh rượu. Thi nhân đã có kinh nghiệm của một nhà hiền triết khi chỉ ra lẽ sắc không trước sự diễn ra bao trò dâu bể,

Năm ra đời của Hoa Đăng không hẳn là sự dự báo rõ rệt một sự chuyển mình trong tư tưởng khi nhà thơ chỉ để lộ nét diễm lệ cố hữu của ngôn từ. Người không đi xa hơn sự trầm trồ trước những giá trị được tán thán, những chiến tích được vinh danh, những hoàn cảnh trở thành những bước đi mới. Có thể cũng chỉ vì thực tại chưa lay động tới tầng cảm giác vốn thăm thẳm của nhà thơ , hay thời gian vẫn có thói quen làm khó bước chân vốn dè dặt trong việc làm quen với cảm xúc mới.

Trong thời gian Hoa Đăng chờ đợi ra đời, như những người đồng cảnh, thi nhân không khỏi chịu sự dằng co mãnh liệt giữa lòng nhớ quê xưa và cảm tình gắn chặt với tương lai về một vùng đất mới. Cái yêu mới không thể  gạt bỏ hay làm suy giảm cái nhớ xưa hay ngược lại. Nhưng để tồn tại, thi nhân đã phải xử sự ra sao khi quê cũ đã cưu mang những năm tháng người sống trọn vẹn hơn cả với ý nghĩa của nó.

Như thế, Hoa Đăng chưa có đủ hoàn cảnh xoay chuyển rõ rệt một hồn thơ. Cõi thơ vừa chiếm cứ chưa đủ để một thi tài như người bộc lộ hết. Hoa Đăng giữ vai trò tương tự một sứ mệnh chuyển tiếp, giao thời. Cần thiết, và tất yếu do hoàn cảnh. Hoa Đăng là khoảng dừng chân trước một lộ trình mới. Điều mà nhiều người xem Hoa Đăng như một dự phóng, thực ra là do không thể đoán trước được cõi thơ mà thi nhân đạt tới sau tác phẩm giao thời này (*)

 -------------------------------------------

 LỜI CHÚ (*) “ Trước, ông dám tiền phong nhất trong sự lột trần nỗi đau khổ của một lớp người thời-đại, cho nên lời ông thấm thía đến tâm-can khiến người ta cũng theo ông tìm lối thoát trong “miếu nguyệt, vườn sương” hay chỗ “mươi lăm nhà riêng chiếm một thiên thai.” Còn bây giờ về trữ tình, tình cảm, ông chỉ khéo lặp lại phần nào những tình ý cũ. Còn hùng tráng của ông chỉ là hùng tráng Hình Thức...” (Nguyễn Văn Xuân, Điểm Sách Hoa Đăng, Bách Khoa, số 64, 1.9.1959, tr.50.)

 --------------------------------------------

 Hoa Đăng được thừa hưởng một phần vẻ diễm lệ trác tuyệt của ngôn từ khiến người ta có thể quên lưu tâm đến đòi hỏi tiến trình của hồn thơ, của một cõi tiêu biểu cho thơ trong một giai đoạn mới. Hoa Đăng hứa hẹn một tiếp nối ngay tự khi ra đời, vì tiềm năng và khả năng tìm kiếm nơi thi nhân. Người làm thơ đã nhìn thấy phương xa dù có khác phương trời lênh đênh mà người từng nguyện theo như nghiệp dữ của người trai thuở cánh buồm say trôi dạt trên bến vong thân.

Vài năm sau, nhân cuộc Âu du với hội thơ quốc tế, nhà thơ đánh dấu cuộc tái khai mở hồn thơ bằng thi hứng mới và với khuôn khổ diễn đạt mang ý nghĩa khác xưa. Với sự gợi ý từ phương Tây trong vai trò đề xướng, Thơ sẽ là nhịp cầu giao cảm giữa hai cõi Đông Tây mà thi nhân là người được giao việc thông suốt chiếc cầu từ thuở khuyết sử cho đến thời đại nguyên tử ngày nay (*)

 --------------------------------------------------

 LỜI CHÚ (*) Theo Phạm Việt Tuyền (Tôi  Đọc Thơ, Phong Trào Văn Hóa xb, 1973, tr.12-13)  Tâm  Tình Người Đẹp được tác giả làm ra để “giải đáp luận đề của hội nghị Quốc tế Thi ca lần thứ 5 tại Knokke-le-Zoute năm 1961.”

 --------------------------------------------------

 Thơ cũng mang chiếc áo mới được trao, nhị-thập bát-tú là tên gọi gợi ra hình ảnh hai-mươi-tám vì sao hội tụ trong bữa tiệc trăng rằm mừng hội ngộ. Cõi thơ nối liền hai châu Âu Á chỉ bằng chùm sao định hướng hai-mươi-tám ngôi cho thấy hoài  bão của người dụng công đặt vào ngôn ngữ sức chuyển phi thường của hóa công. (*)

 -----------------------------------------------------

 LỜI CHÚ (*)  “ Về nội dung, bài thơ (thơ nhị thập bát tú) cần phải diễn đạt một tư tưởng hay môt xúc động nào liên quan đến những thắc mắc của thời nay hoặc của con người muôn thuở, lại phải nói những tình ý đó ra bằng một hay nhiều hình ảnh trang nhã kín đáo, và thi vị, có tác dụng gợi cảm vừa tức khắc vừa xâu xa.” (Mai Trung Tĩnh – Vương Đức Lệ, Đọc Trời Một Phương, Văn, số 150, 15.3.1970, tr. 62.)

 -----------------------------------------------------

 Thơ là đàn nhương-sao nơi ngôn ngữ ứng chiếu với hai-mươi-tám vì tinh tú. Cõi thơ mới như mở ra một tinh cầu truyền tín hiệu bằng tinh túy trí tuệ của hồn thơ. Thơ thành một cõi truyền kỳ, mỗi câu truyện mang vóc dáng của trí tuệ được phân gửi trong từng hơi thở của bóng cây, ngọn cỏ.

Thơ kết cấu 28 chữ đầu tiên được ký thác trong tập Tâm Tình Người Đẹp, tên một bài thơ được chọn để hài danh, là hiện thực của một huyền truyện lẫy lừng. Nhan sắc ấy là một thiên tai chờ thời gây họa cho con người, là miệng hỏa sơn dấu dưới vẻ đôi hồ mộng nước xanh rờn.

Thơ 28 ngôi sao được dành cho một đề tài thơ, phản chiếu mức ưu tư thời đại trong đó trí tuệ đã giành quyền chi phối sự khám phá và trầm tư trong tương quan với ngoại giới.

Với thể loại mới này, người làm thơ, phần nào, đã thay đổi diện mạo tâm hồn, khi biết tự kiềm chế xúc cảm để có cái nhìn “quán chiếu” phong phú trước ngoại vật mà tìm thấy mối tương quan, không cần đến cái trực cảm của kẻ nghe được tiếng thở dài than vãn của loài đá dãi dầu nơi cổ tích.

Thơ là cách biểu hiện những nếp nhăn trên vầng trán mất ngủ vì đợi chờ. Là những rung động bỏ đi trước khi có mặt của hàng luận lý.

Thơ 28 chữ trở thành sự khai sinh một thể loại thơ xây dựng trên mối quan tâm về dự cảm mong manh của nền văn minh duy lý. Tưởng như thơ không còn khả năng xâm chiếm, mở rộng cõi hằng ngự trị khi nó trở nên thận trọng hơn trước khi trở thành đối tượng của suy tư.

Người làm thơ sẽ thành người suy tư hơn là người mơ mộng như trước đây. Và thơ, trong trường hợp này, có thể là sự ly khai với thơ, theo cái cách của loại văn chương đã được thành hình.

Cõi thơ có thể bát ngát hơn xưa nhưng dung lượng đặt vào ngôn ngữ sẽ là gánh nặng làm oằn vai người gánh vác. Thơ thành cuộc thử sức giữa cơ hội người làm thơ có được và ngôn ngữ có trong  tay. Thơ không còn là chiếc nôi hay gối mộng của tâm hồn duy ngã. Người làm thơ suy nghĩ, xúc cảm thay cho mọi người trong giới hạn không gian của họ.

Cũng thế, ngôn ngữ người có trong tay không còn là kết quả của sự hóa thân hay xuất thần mà tuỳ thuộc vào cơ hội của bạn hữu chúng, của hai mươi-tám chữ, chờ đợi khi giáng thế.

Thơ mang định mệnh của người làm thơ trong một tương quan nhân quả. Cái định mệnh nghiệt ngã như trong mọi trường hợp khám phá, kiếm tìm cái mới.

Thơ hai-mươi-tám chữ khơi dậy sự hoài nghi như trước bất cứ sự ra đời nào khác. Hoài nghi cả cái chưa ra đời, cái sẽ ra đời hay như  cái không thể ra đời vì non yểu. Mối hoài nghi rõ rệt là kích thước mới của thể loại thơ và sức chứa được trí tưởng tượng gửi gắm.

Cái mới nhân đôi trong Tâm Tình Người Đẹp không chỉ là thử thách với người muốn trắc nghiệm một niềm tin mà nhìn xa hơn, là viễn ảnh đặt nơi những người hoài bão vào nhịp cầu giao cảm giữa Đông Tây qua thứ ngôn ngữ đáng tin của họ.

Nhìn lại về sau, niềm tin mà người đề xướng thể thơ nhân một thi tứ toàn cầu, tự nó kết tinh thêm vững chắc trong suốt ngần ấy năm kể từ ngày ra đời của Tâm Tình Người Đẹp, năm 1962.

Những Cành Mai Trắng Mộng (1969), Ngồi Quán (1972) đều mang dấu chân qua của Tâm Tình Người Đẹp, như cách       xác nhận bản sắc của một làn hương, của những làn sóng biển rời tâm ngày một xa giữa lòng nước mênh mang.

Thể phách của Tâm Tình Người Đẹp không thu gọn trong một tập thơ, lại không riêng chọn nơi này làm kiểu mẫu của khám phá, tuy rằng nó giữ vị trí đầu nguồn. Từ đấy gợi ý rằng, một cuộc hành trình trở ngược lại nguồn cũng là chuyến ngược dòng tìm về con đường nhận thức và cảm thức của thi nhân giữa mùa thơ sai trái.

Thơ trong Tâm Tình Người Đẹp lên đường như Xuân Thu Nhã Tập, Thơ tự-do đã lên đường không chỉ bằng thái độ hay lời rao. Không ít người đã quên sự ra đời của một thể loại thơ như đã quên khả năng tồn tại của một loài hoa đã có mặt trong khói lửa và bụi hồng.

Thơ hai-mươi-tám chữ vẫn vằng vặc như bầy sao trên trời cao. Những ngôi văn tinh vẫn quây quần sau bao dâu bể, tưởng như đã phôi pha cùng bao sự nghiệp lớn nhỏ ngày nào.

Thơ hai-mươi-tám chữ không mang ý thức đổi mới hay phá xiềng, Nó chỉ thúc đẩy một lối đi đem lại sự cảm thông hơn nữa giữa con người khác biệt nguồn gốc, địa lý, nhân văn nhưng cùng chung một giấc mơ xóa đi dị biệt, bất đồng bằng ý thức khai phóng.

Thơ bình-định tà kiến và cái ngã hẹp hòi, mở rộng giang san cho ý thức nâng cao tầm vóc con người dù là dân nhược tiểu. Riêng trong Tâm Tình Người Đẹp, cảm thức của thi nhân mở ra với ngoại giới đồng thời cho ta thấy nét sắc sảo hiếm có của một tâm hồn. Sự ràng buộc của thể loại thơ mới này, nếu có, chẳng thể làm vướng víu trái tim và mỹ cảm của người thơ, như người làm thơ từng chứng tỏ, hoặc trái lại, như có người đã nghĩ.” Phá bỏ khuôn sáo cũ để tự do đi tìm những gì mới lạ, chán rồi lại tự giam mình vào những khuôn khổ bó buộc như xưa. Âu cũng là cái vòng luẩn quẩn muôn đời của con người vậy.” (Bàng Bá Lân, Vài Kỷ Niệm Về Mấy Văn, Thi Sĩ Hiện Đại, quyển I, Xây Dựng, 1962, tr. 131.)

Hơn nữa, thơ nhị-thập bát-tú trong Tâm Tình Người Đẹp là tiếng thơ đáp ứng, là hồi âm tâm huyết cho thế giới văn chương trong cái nhìn, những điều lưu tâm cũng như những cảm xúc cưu mang được thi nhân biểu lộ bằng trái tim và suy tư của một người Việt.

Lời mời gọi từng được cất lên mấy năm trước, như tiếng gọi đàn. Vũ, được xem như  một trong những đáp ứng đầu, có thể chứa đựng không thiếu những điều mà con người dồi dào, đằm thắm tâm tư như thi nhân có thể giãi bày như điều từng nặng lòng chất chứa. Ít nhất là từ Tâm Tình Người Đẹp, một phần tâm hồn văn chương bộc lộ một cách nghệ thuật, chân thực và thiết tha, được mở ra giữa bầu khí toàn cầu. Văn chương nếu từng được tự hào là nhịp cầu giao cảm giữa  tâm hồn muôn phương thì Tâm Tình Người Đẹp hội đủ thành tố của tấc lòng mời gọi cảm thông và hiểu biết lẫn nhau trong bao dung, hòa hợp (*)

 “Văn sĩ là người độc nhất phải cho đồng bào của họ tự hiểu, không  những chỉ riêng cho dân tộc họ mà cả cho các dân tộc các nước xa xôi nữa. Đấy là trách nhiệm lớn của nhà văn:khả năng diễn tả những cảnh huống có thể rung cảm tâm hồn những người sống hoàn toàn khác họ.

Thật là khó khăn cho một văn sĩ một nước nhược tiểu đã thấu đáo các tác phẩm của các tài năng rất khác nhau như Đỗ Phủ, Lý Bạch, Racine, Voltaire. Shakespeare, mỗi khi cầm bút viết. Họ cảm tưởng rằng tất cả những gì có ích lợi cho loài người đều đã được viết rồi, họ sinh trưởng trong một thế giời cũ quá và ở vào một nước nhỏ quá. Tuy nhiên vẫn còn có cái gí có  ích lợi lớn lao cho nhân dân  mà không Racine, không Shakespeare nào diễn tả  nổi, chỉ có ở Việt Nam mà không một ai khác có thể nói cho thế giới nghe, đó chính là bản ngã của các bạn” (Diễn từ của Văn Hào Kelvin Lindemann, trong buổi tiếp tân ngày 26.11.1957 tại trụ sở nhóm Bút Việt, Đặc San Bút Việt, VietNam P.E.N  Bulletin, số mùa xuân Mậu Tuất, 1958, tr. 22.)

 ------------------------------------------------

  LỜI CHÚ  (*) “Tác phẩm mà chúng ta có thể thưởng thức cái thú văn nghệ và vẻ đẹp ấn loát này đã thành hình do những ngày Vũ Hoàng Chương lưu trú tại Knokke hồi 1959 (khi qua đây dự Hội Nghị Quốc Tế Thi Ca.) Một cách kỳ diệu, ông đã gián tiếp đề cập tới đề tài của Hội Nghị lưỡng niên hiện nay.” Bản dịch bản tin của hội nghị Quốc tế thi ca lần thứ 5 tại Knokke-le-Zoute năm 1961, dẫn theo Phạm Việt Tuyền, Tôi Đọc Thơ, Phong Trào Văn Hóa, Sài gòn, 1973, tr.12.)

 -----------------------------------------------

 Mỹ cảm phương Đông.

 Hồn thơ Vũ đã thuộc về phương đông ngay tự tập thơ đầu. Từ thuở Chàng Say ôm vũ trụ  / thu trong bầu rượu một đêm trăng (Chân Hứng, Thơ Say, 1940). Như thế, sự gợi ý của hội thơ bên Hắc-Hải năm nao chỉ là dịp để thi nhân nâng niu thi hứng không chỉ cho riêng mình. Phương Đông của người từng làm nên sự nghiệp Thơ, khi bàng bạc, lúc chan chứa, trước và sau sự ra đời của Tâm Tình Người Đẹp. Dòng suối ngọt huyền diệu này từ thượng nguồn cho đến lúc ra khơi là tượng hình của nguồn  cảm thức lẫn tư tưởng mang tên họ Vũ. Vòng luân hồi đã ngược chiều quay  / ma thôi vất vưởng, trời thôi lưu đày (Tin Xuân, Chúng Ta Mất Hết Chỉ Còn Nhau, 1974.)

Hồn phương Đông là giấc mộng lớn của thi nhân không chỉ vương vấn hình bóng của người thiếu nữ bước ra từ trang sách cổ, của người thương nữ sông Đà, âm ba của tiếng đàn nơi bến Tầm dương hiu hắt. Nó còn là tiếng vọng cổ bồn của Trang khi vùi lấp mối tình. Là giấc mộng công danh lỡ làng của kẻ buông trôi thân thế.

Tâm Tình Người Đẹp, tự nó đã thú nhận không gian chiếm lãnh hồn người bằng men nồng của quá khứ. Trong Tâm Tình Người Đẹp, cảm thức phương Đông, với thi nhân, không là sự trở về bến cũ. Mà là sự phát giác một linh hồn xưa ẩn nấp quanh ta

Mây sớm mưa chiều miệng hỏa sơn   

Chứa đôi hồ mộng nước xanh rờn 

Đáy sâu cặp mắt xanh Thần Nữ /

Lửa khói đang chờ dịp bốc cơn

(Tâm Tình  Người Đẹp, Tâm Tình Người Đẹp.)

 Điều được gọi là huyền cảm, chính là dòng hải lưu ẩn mật chảy qua quê hương như một tình cờ. Tình cờ như chính câu chuyện đầu môi mang nguồn gốc của dấu chân giao thoa văn hóa.

Người làm thơ hôm nay còn đưa ra cách giải cứu việc ly cách dẫu ngàn trùng. Thơ từng phá vây, làm tan rã lòng người. Thơ nay sẽ là nhịp cầu gặp gỡ, tương phùng. Xóa đi huyền thoại của chia ly xuất phát tự phương đông từng theo thời gian, kiên cố như lời nguyền của đá.

Bút thơ guồng lấy sợi tơ vàng 

 Dệt lấy buồm trăng để quá giang   

Thi sĩ đêm nay lòng Ả Chức   

Sông Ngân vèo một chuyến sang ngang

(Chẳng Đợi Cầu Ô, Tâm Tình Người Đẹp.)

Phương đông từng xây dựng bao huyền thoại quanh các hiện tượng thiên nhiên như thể đặt con người vào vòng vây huyền nhiệm của đất trời, cái cách khuyên nhủ con người sống an hòa với thiên nhiên, với đất trời luôn mở lòng cho nương tựa. Mưa ngâu dằng dặc là cơ hội để thi nhân làm công việc dỗ lòng người trước thử thách không còn là điều hiếm hoi. Dường như con người sẵn mở lòng để nghe chuyện làm vơi nỗi u uất tháng ngày. Chức Nữ bên guồng tơ, năm năm là người chịu tội thay cho nạn nhân của mối duyên cách trở

Ả Chức guồng mây se chỉ khâu 

Cho lành tâm sự vết thương sâu   

Ai hay một mũi kim vừa phóng   

Là phóng theo ra một huyết cầu

(Bí Mật Cung Thiềm, Tâm Tình Người Đẹp.)

Trước sau Đông phương vẫn để lại nét diễm lệ trong thơ Vũ. Không chỉ như món trang sức lộng lẫy mà còn là một thâm cung tư tưởng không khám phá hết. Bầu khí Đông phương chính là không gian thơ Vũ, tự nhiên như hơi thở.

Vẻ huyền nhiệm đông phương cũng từng là nhan sắc của tâm hồn người thơ hòa điệu với văn chương. Đông phương không chỉ riêng cho thi nhân nhưng đã được người làm thơ cao điệu hóa như mẫu mực vàng son của nghệ thuật. Đông phương đã ở lâu trong Mơ gái Tầm Dương thoảng áo xiêm. Trong Ta chẳng mò trăng như Lý Bạch. Trong Nửa truyện Hồ Ly trang sách giở. Trong Mặt giếng thêu vàng xác lá ngô. Trong Đây Hàng Châu thường mơ ước đêm Hoa Đăng.

Vũ đã chiêu nạp Đông phương vào hồn như Trang mơ xác bướm. Vũ đã chuyển kiếp cho Đông phương không chỉ bằng Thơ và không chỉ khi đặt phương Đông đối diện với phương Tây trong cuộc giao thoa tư tưởng. Quả là trong trường hợp này, thi nhân đã thắp sáng cho Thơ trí tuệ của một tâm hồn.

Sức Máy hàng trăm triệu tấn băng 

Tư Duy chết cứng bẹp thăng bằng  

Thơ đâu ...hãy thắp vào cây sậy   

Ánh lửa mười phương Nhật Nguyệt Đăng

(Lửa Cháy Băng Tan, Tâm Tình Người Đẹp.)

Hồn phương Đông không là nguyên dạng hình mẫu nơi xuất phát mà là hình tượng hay tư tưởng gần gũi với thi nhân và từng được chọn để sánh vai trong bao rung cảm. Việc thi nhân dốc chén từng được nâng thành bản ngã, so với người xưa, để đo lường mức độ chung thủy với cái say. Say không còn là điều lảo đảo thần trí, ruồng rẫy ý thức, mà để bày tỏ lòng tin tuyệt đối vào giấc mơ siêu thoát Lý Bạch đã làm khi ôm vầng trăng bạch dưới đáy sông. Thơ là bè lau đưa người đến cõi tiêu dao.

 Cỏ gọi lên cành lá gọi chim   

Cánh chim bay khắp lưỡng gian tìm

Thơ ai thả đó bè mây trắng  

Nổi trắng đầy sông vớt nguyệt chìm

(Lý Bạch Còn Chăng, Tâm Tình Người Đẹp.)

Cái say Đông phương di lưu rõ rệt hơn cả trong thơ và nơi nhà thơ họ Vũ, cái say mẫu mực nơi thi thần mang ý thức phản kháng mạnh mẽ với thực tại, thể hiện niềm khát khao an lạc của bao người. 

Lấy rượu làm binh khởi thế công   

Bầu trời tan dưới gót thi ông

Men vàng dốc nguyệt đêm quăng chén

Một nước thanh bình mở giữa sông

 ( Hồn Thơ Họ Lý, Cành Mai Trắng Mộng)

 Hơi thở dân tộc.

Tâm Tình Người Đẹp là cuộc trở về khơi dậy tình tự mang bản sắc quê hương mà đến năm 1965 mới có cơ duyên quy tụ bao quát và rộng rãi trong một cuộc vận động văn hóa được phó thác trong tạp chí Giữ Thơm Quê Mẹ.

Thơ hai-mươi-tám chữ nơi đây như bầy sao trên trời quê, nâng đỡ mảnh trăng non chứa đựng giấc mộng ngủ yên của thôn làng và tiếng vọng câu hát hòa trong gió như bài âu ca thuở trước.

Hơi thơ quê hương tìm thấy trong mối dây thắt buộc tình yêu đôi lứa, trong cái nhìn về ánh trăng thề còn ngời sáng đêm nao tìm nơi chứng giám.

Thơ giãi bày quan niệm của đại chúng về Trời, vừa là nguồn an ủy vừa là đấng phán xét con người trong một niềm tin hồn nhiên và nhiều cảm tính. Ông Trời của chúng ta xa mà gần. Sách ước phải chứa đựng những điều nhân nghĩa

Trời mỗi đêm bày mỗi vẻ sao

Thiên thư một cuốn mở dần trao

Lời vàng lấp lánh khuôn xanh ngắt

Ta ngẩng đầu vâng lĩnh ý cao

 (Lĩnh Ý Vâng Lời, Tâm Tình Người Đẹp.)

Thơ 28 chữ vinh danh tấm lòng thiết thạch của gương xưa vốn được văn chương làm tỏ rạng. Trái tim u uất của chàng ngư phủ làm lay động lòng người dường ấy mà vẫn không vượt qua được sự lạnh lùng của thời gian và không gian. Thi nhân đã lau lại gương xưa để chỉ ra cái kiêu bạc của con người duy lý. Sự thật phải vượt qua chặng đường tư duy dài thăm thẳm, nhưng cũng không dài bằng thời gian nỗi thương xót ra đời nơi người thiếu nữ đài trang. Mối tình kia được cải trang thành ngọc khối kết tinh nghĩa là đã định được thời gian hoàn táng. Thi nhân viết lại trang cổ tích bằng vào mối nghi ngờ con người thời đại đa đoan. Bản mới truyện xưa là tiếng thở dài não nuột trong thơ khi chén ngọc còn nằm nguyên trên khay trà mỗi sáng

Sao vỡ từ muôn thế kỷ nay 

Hàn quang mới tới Địa Cầu đây

Tình si kết ngọc còn nguyên khối

Cô gái đài gương đâu đã hay

 ( Đường Dài Thăm Thẳm, Tâm Tình Người Đẹp)

Một lần nữa thi nhân lại lấy kinh nghiệm truyện lòng mình khi cần chứng minh lòng thành cho điều cam kết. Đó cũng là sự can thiệp của trăng làm người chứng ngay thật như lời nguyền, nhưng chẳng thể khi trăng thề chỉ là nửa mảnh. Trăng thề là linh hồn kẻ tình si sau khi làm chứng nhân cho lời nguyền của bao thế hệ. Với Vũ, trăng đã từng chỉ thuộc về một phương. Trăng của nhà ai trăng một phương. Nơi đây rượu đắng mơ đêm trường. Đến nay, trăng chỉ xoay về một hướng duy nhất, hướng của thi nhân. Vũ, có lẽ là người duy nhất gắn thân phận mình với một con trăng không toàn vẹn, con trăng bất động sau khi làm chứng cho người. Đôi khi, trăng đã vì người mà hàm oan. Vầng trăng yêu dấu của quê xưa vẫn là tinh cầu chịu nhiều oan khuất.  Mảnh trăng non của nhà thơ vẫn chỉ là trăng vò võ một phương

Ngọn móc vàng treo lửng sợi mây

Kéo đi nhằm một hướng Đông Tây

Đầu trăng cuối nguyệt thư tình đến

Em trả lời anh sao được đây

 (Trăng Không Đổi Hướng, Tâm Tình Người Đẹp.)

Không chỉ là thi hứng mà quan niệm dân tộc chấp nhận rằng con người và vạn vật, thiên nhiên được an bài trong hòa hợp.  Hạnh phúc chưa từng xuất hiện ở nơi trời đất và con người xung khắc, đối nghịch nhau. Thế giới ước vọng của con người minh triết là tiểu ngã của cá nhân hòa nhập được với đại ngã của vũ trụ. Cái tan loãng vào hư không còn là gợi ý về một cảm giác kỳ thú rất người mà cũng thật thanh cao. Để ta tròn một kiếp say  / Cao xanh liều một cánh tay níu trời. ( Nguyện Cầu, Rừng Phong.)

Với thi nhân, quan niệm hòa hợp trên trở thành chiếc đũa ngà đưa Thơ lên hàng tuyệt đối. Trời đất  không ngăn bước chân người mà còn nguyện hóa thân giúp đỡ. Vì Thơ đến lúc nguyên hình Mộng  / Uy lực Không-gian đã hết rồi ( Công Chúa Mười Lăm, Cành Mai Trắng Mộng.)

Tương quan giữa Thơ (hay thi nhân) với Đất Trời là mối tương quan nhân quả nên Thơ và Đất Trời cùng chung phận lênh đênh.

Có phải ngàn thu mây đầu thai

Chung quanh Trái Đất lang thang hoài

Vần theo một bóng thơ nào đó

Mà kéo lê chân tận cuối trời

 (Nối Kiếp Phiêu Linh, Tâm Tình Người Đẹp.)

Lẽ phải nhắc đến trước tiên, sự có mặt của tình cảm ruột thịt của thi nhân đối với với người mẹ trong đời. Nói không ngoa, cũng là người khai sinh ra cả hồn thơ Đông phương của Vũ. (*)

 ------------------------------------------

 LỜI CHÚ (*) “ tôi học chữ nho từ 5 tuổi, thơ phú chữ nho ảnh hưởng rất mạnh đến đầu óc tôi. Đến năm 12 tuổi, tôi mới học chữ Pháp cho nên văn chương, văn hóa Pháp chỉ ảnh hưởng hời hợt ở trên, chớ không xâu xa như chữ nho. Hiện giờ, tôi vẫn đọc và viết chữ nho và tinh thần tiết ra trong những vần thơ vẫn bàng bạc triết học Đông phương nhiều hơn Tây phương.” ( Vũ Bằng, Đi Xâu (sic) Vào Tâm Sự Vũ Hoàng Chương, Văn Học, số 77, tháng 11.1969, tr.14.)

 ------------------------------------------

 Tiếng khóc của Vũ là tiếng mẹ trong trinh, tiếng suối chảy tự uyên nguyên không lẫn tạp âm nơi cõi tục vương vấn. Tiếng khóc trở về nguồn để lấy lại âm tự tinh khôi. Hai-mươi-tám chữ  là trầm tích, là tinh anh của tiếng khóc trong thơ dài 59 câu, mở đầu bằng sự trách cứ khả năng của ngôn ngữ được người làm thơ tinh luyện bấy lâu. Ngôn ngữ trần gian túi rách  / Đựng sao đầy hai tiếng “Mẹ ơi !” ( Tiếng Gọi Mẹ, Trời Một Phương, 1962)

Tiếng khóc mẹ của Vũ mới thực là tiếng mẹ tự ngọn nguồn, chắt lọc được khi trời, đất, người chung một niềm đau.

Tiếng khóc mẹ của Vũ đã bỏ lại phong vị quen thuộc, giàu sang hương sắc của thơ người. Trong tiếng khóc chân phương, chỉ  thấy ước vọng tiếp tục làm con trong kiếp lai sinh. Bằng tiếng khóc này, Vũ đã chặn nẻo luân hồi những mong hiện thực thêm một lần đoàn tụ. 

Tiếng khóc của Vũ mang trọn vẹn âm hưởng về một ước vọng mới được khai sinh. Thay vì một cõi an nhiên tịch mịch lâu dài cho người đã qua, mà là sự tồn tại vĩnh cửu của tình thương như một thành tố của hiện hữu

Bước giật lùi đi trước áo quan

Về cho tới phút mẹ sinh con

 Mẹ vào lòng Đất – nhưng lòng Mẹ

 Con cũng vào đây - Mẹ chớ buồn

(Tái Nhập Bào Thai, Tâm Tình Người Đẹp.)

 Bóng tối khoa học

Cái nhìn đượm ưu tư của Đông phương trước sự phát triển của khoa học và tinh thần duy lý nơi xã hội Tây phương là điều dễ hiểu.

Cái nhìn dè chừng như thế dường như có chỗ đứng tại Đông phương khi họ chú trọng nhiều hơn đến khía cạnh tiêu cực của nền văn minh vật chất. Ưu tư trên được phản chiếu rõ rệt qua văn chương khi con người trầm ngâm với cuộc đời và thế giới chung quanh. Ý thức về sự hữu hạn của kiếp sống có thể đè nặng tâm hồn như một thất bại vĩnh viễn. Thơ đến như làn gió lạnh đột ngột khiến người bất giác thẫn thờ trước điều phát giác. Phản ứng của họ sẽ ra sao nhưng chắc chắn là điều bất lợi không chỉ với chính họ. Điều chắc chắn là trước đây, khi ý thức được về sự bất lực của bản thân trước sự bế tắc chung của xã hội và thế hệ thanh niên, thi nhân Vũ đã phản ứng bằng cả cuộc sống phó mình vào cơn say sinh tử của kiếp người. Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị / Thuyền ơi thuyền xin ghé bến hoang sơ.

Nhưng sau, trong một hoàn cảnh đổi khác, cái nhìn đã khác xưa không chỉ về quan niệm với cuộc đời mà với vạn vật cũng tỏ ra trầm tĩnh, chín chắn. Tâm Tình Người Đẹp trở thành cuộc trắc nghiệm trước nhất với thi nhân, trước khi báo hiệu nét suy tư sâu sắc nơi tâm hồn người thi sĩ. Phài chăng để đạt được như thế, sự rung cảm của tâm hồn thơ phải nhường bước phần nào cho sự suy tư. Trước ý thức mới trên, thi nhân đã đứng trước một thử thách lớn cho hồn thơ khi cùng lúc dâng hiến hồn cho hai lực tác động, cảm xúc đơn thuần và suy tư  trước đối tượng theo đuổi.

Trước hết, Vũ nêu lên mối quan ngại mạnh mẽ về sự dị biệt sâu sắc giữa hai xu hướng duy cảm và duy lý của Đông Tây. Cái thắng thế của một bên theo sự biện giải của nhà thơ chỉ diễn ra trong tiến trình của tranh luận. Thực tế, sự khác biệt tư tưởng sẽ khơi dậy hiềm khích, tranh chấp, xung đột, nếu không có nỗ lực hòa giải. Và, văn chương đã, đang và tiếp tục góp phần vào tiến trình cảm thông, xây dựng

Sức Máy hàng trăm triệu tấn băng

Tư Duy chết cứng bẹp Thăng Bằng

Thơ đâu, hãy thắp vào cây sậy

 Ánh lửa mười phương Nhật Nguyệt Đăng

 (Lửa Cháy Băng Tan, Tâm Tình Người Đẹp)

Thứ nữa, nhà thơ cũng như bao người duy cảm khác, nghĩ đến giới hạn của khoa học trước những vấn đề đặt ra trước mắt. Bằng chính huyền thoại về ước mơ được đặt vào nàng Hằng Nga của mọi tâm hồn khao khát mộng. Cái nhìn của thi nhân trước một kỳ tích của ngành khoa học không -gian không là bước ngăn chặn đà phát triển tất yếu. Thi nhân chỉ xem việc con người đặt chân đến mặt trăng, ít nhiều  là sự phá vỡ một huyền thoại không chỉ thu gọn trong một kiếp người. Con người không thể không có ước mơ, khước từ giấc mộng giải thoát giữa cuộc đời đa đoan nhiều lẽ.

Với thi nhân, trăng còn là bạn lòng của bao người. Là nguồn rung cảm đời đời của người thi sĩ phương đông. Vũ từng xem trăng dự phần vào sự đổ vỡ. Trăng của nhà ai trăng một phương. Là nhan sắc tiều tụy của trái tim đầy thương tích. Buồn mưa trăng lạnh nắng hoa gầy.

Cũng là nơi nhờ cậy gánh vác cuộc tình. Trăng mới cuồng si nụ bán khai.

Với thi nhân, chiếc nguyệt xa đáp xuống mặt trăng đồng thời báo hiệu sự tan vỡ một huyền sử lớn nhất  thuộc về con người. Con người trơ trọi hơn, hiu quạnh hơn, khi bi tước hết những che chở tinh thần bấy lâu kiều dưỡng

Hỏa tiễn đưa Hoàng Tử đến nơi

Hằng Nga xác lạnh đã muôn đời

Mũi tên Hậu Nghệ xuyên đầy ngực

Gọi tỉnh làm sao được hỡi ơi

(Khoa Học Chậm Chân, Tâm Tình Người Đẹp.)

Thi  nhân cảm thấy, trong thời đại khoa học, con người bị chi phối chặt chẽ bởi các ứng dụng khoa học, kể cả việc phải khép mình trong kỷ luật do nếp sống khoa học đòi hỏi. Theo nhà thơ, nếu con người sống và suy nghĩ theo quan điểm cực đoan cảm tính hay lý tính, họ đều là những người mất mát. Cuộc sống chiết trung mới khiến con người không là kẻ vong thân. Thi nhân đã sớm nhận chân sự bế tắc nếu chỉ tiếp tục ôm ấp giấc mơ xưa. Giả thân nằm đối chân thân / Nửa đêm giữa cuộc phong trần cười vang. ( Cười Vang Giữa Cuộc, Trời Một Phương, 1962.)

Tiếng cười tỉnh thức là đây. Giấc mộng hoang đường hay thiên đường cõi thế đều là ảo giác của người say

Ngửa mặt đi hoang bước thật dài

Cúi đo từng bước tính không sai

Người Thơ mất Đất người Khoa Học

Trên nẻo huyền vi cũng mất Trời

 (Hai Kẻ Bạn Đường, Tâm Tình Người Đẹp.)

 

Nét đẹp tự thân

Nhị-thập-bát-tú còn giới thiệu  với phương Tây một tâm hồn mẫn cảm trước vẻ đẹp đất trời một cách tuyệt diệu. Nhà thơ đã trao cho vạn vật trái tim dễ dàng rung động và thiên nhiên cũng cảm động không kém trong hồi khúc hoan ca. Thi nhân là kẻ mai nhân giữa trời đất với con người. Làm trung gian trong tương quan giữa những tâm hồn thấy cần bỏ ngỏ ý thương yêu. , hơn là một băng nhân, thi nhân diễn đạt cho đời sứ mạng gắn liền vòng tay tình tự. Người thi sĩ mở cửa tháp ngà, lầu say, bước ra với đời, với trái tim người truyền giáo ân tình. Giác quan người để dành cho cái đẹp, cái lành đứng chờ bên. Tiếng thơ  người vâng theo ý của vạn vật mở lòng trước nắng vàng và gió ấm. Thơ nghe lung linh tiếng nhạc giao hòa từ muôn hướng. Thi nhân với bàn tay tạo hóa  trao cho đời, cho muôn loài, linh hồn của kẻ trở về dâng chén ngọt từ nay

Một tiếng chim rơi nước hiểu ngầm

Rung theo ngàn vạn ngấn đồng tâm

Truyền đi bốn phía bờ lau lách 

Buổi hẹn đầu tiên cặp thủy cầm

 (Uyên Ương Chắp Cánh, Tâm Tình Người Đẹp.)

Tâm hồn người làm thơ đã tan loãng vào khoảng không  tương tự chuyến viễn du của thơ vào nhạc. Linh giác của nhà thơ là giác quan của mọi vật lẫn đất trời. Trong cùng một hoàn cảnh ra đời, thơ đã là sự báo động  ra đời của mối tương quan thuần cảm giữa những đối tượng sống quanh người. Thi nhân đã làm quen với mùi hương giấc cỏ, tiếng hót hồn chim để bắt gặp tình yêu nào đang tránh nắng trong giấc trưa.

Thơ  đã là sự giục giã hóa thân của cảm giác, đánh thức giấc mơ bằng ánh mắt kẻ trầm tư. Tan vào không gian như thế phải chăng là sự tận hiến ý thức về cuộc sống

Tận đáy mùi hương giấc cỏ chìm

Đỉnh cao tiếng hót  đậu hồn chim

Lá thư tình đợi trời xa tắp

 Dưới bóng nào đây ngủ trái tim ?

(Giữa Mùa Nắng Gắt, Cành Mai Trắng Mộng.)

Người làm thơ tiếp tục công việc làm tai mắt cho thiên nhiên,  cất lời thay cho vạn vật bằng trực cảm của một đấng sáng tạo tài hoa. Thơ 28 chữ của người vãng lai bất định trong thế giới tân tạo của cảm giác đợi chờ, tâm hồn như hòa đồng với thiên nhiên trong niềm cảm thông tuyệt đối. Thi nhân như thoát xác theo với thiên nhiên đến cõi vô cùng, Hồn người tan loãng vào đại ngã và đi xa hơn sứ mệnh văn chương đặt định cho người. Hãy nghe người kể chuyện hình bóng của muôn loài  để nhận ra cái duyên tao ngộ, trùng phùng

Hoa đợi trăng lên trả bóng  mình

Kìa hoa run rẩy bóng rung rinh

Vầng trăng hiểu ý lên cao mãi

 Đẩy bóng về hoa nhập với hình

 (Giây Phút Đoàn Viên, Tâm Tình Người Đẹp II trong Thi Tuyển – Poèmes Choisis -1963)

Thơ có lúc là cuộc dò tìm vào chính lòng mình và xúc động mãnh liệt hơn cả là sự phát giác một sự thật ngủ quên  trước mắt. Kiếp người vô thường, ngắn ngủi khiến mọi dự phóng cần đặt trên nền tảng đó. Sự thật đã thay đổi cái nhìn thuở còn gieo mình trong cái say và cái trống không của kiếp sống. Nhưng khác trước là thi nhân thốt lên trong thi tứ dạt dào, còn nay, trong Tâm Tình Người Đẹp, gần như là sự thú nhận trước sự t;hắng thế của nhận thức. Hai-mươi-tám chữ của một thể loại thơ gần như sự nhìn nhận sự bất lực cá nhân và của cả cái say trong việc giải quyết một công án tử sinh

Con sâu đo lá chợt vươn mình

Từng đốt nhoài qua mép tử sinh

Bắt gặp bề sâu nhìn mãi xuống

Đo trong thăm thẳm cái nguyên hình

 (Kích Thước Chân Thân, Tâm Tình Người Đẹp)

Nhưng có lần quán chiếu ánh trăng, hồn thi nhân  bỗng rạng tỏ trong một cuộc tao ngộ với đất trời, lòng như được rửa sạch hồng trần. Cuộc trở về với chính mình là sự thăng hoa, là sự vươn lên những giá trị vĩnh cửu. Tâm hồn người thật gần với phương Đông, nơi quy hướng về cái đẹp, cái lành ẩn khuất trong tinh thần như loài hoa quý trong rừng sâu. Lần này, thi nhân như hướng về phương Tây mà bộc bạch. Người nhớ về kẻ ôm trăng để giữ lại cái đẹp thiên lương, cái cao khiết của một tâm hồn không vì men say chuếch choáng

Trăng náu đài mây gọi nước lên

 Sông xuân giáp mặt gái tròn duyên

 Cành hoa chợt cúi đầu  khuôn cửa

 In bóng vào tâm sự Trích Tiên

(Trăng Sáng Lòng Quê, Thi Tuyển.)

Cũng thế, trở về với lòng và buộc phải đối diện với chính mình và chiếc bóng phủ dài theo định mệnh. Thi nhân thành kẻ tư lự như nhà hiền triết. Những ẩn số chi phối từng bước đi cuộc đời khiến phận người không còn tùy thuộc ở chính mình. Định mệnh là chiếc bóng của mỗi người và không  thế lực nào có thể tách rời chiếc bóng.  Quan niệm sống vì thế, đặt trọn trong khuôn chiếc bóng. Điều này, thi nhân, một lần nữa, hướng về phương Tây mà giãi bày. Không oán trời cũng chẳng trách người. Cái đạo sống Đông phương được gián tiếp lặp lại trong thơ phảng phất như lời trong thiên thư của thời loạn

Đo màu mây sớm nét mưa chiều  

Đo cả hơi đàn lẫn tiếng tiêu

Con số ra tay đè nén mãi  

Con Người phận mỏng đến bao nhiêu  

(Phương Trình Số Phận, Thi Tuyển)

Trầm tư và chỉ có trầm tư, con người đã vượt được muôn loài nhưng cũng vì thế  phải ôm phận của loài biết suy tưởng. Hơn nữa, thi nhân, người một đời chìm nổi trong những giấc mộng lớn nhỏ,  lại là người biết trưng cầu tâm hồn để tự hào thu lượm chút đắng cay. Mộng vá trời không chỉ của riêng ai vì chẳng ai muốn từ bỏ giấc mộng lớn hơn cái có được trong tay. Giấc mộng trở thành nghệp dữ mà không ai từ chối.  Huyền sử của kẻ đội đá vá trời đã thành giấc mộng của bao người kể cả người chỉ biết trầm tư về cuộc đời vỏn vẹn

Đá nhập mình cây, hồn nở tươi   

Hồn cây vào hát ngọt môi cười   

Sao người chuyển kiếp về thân đá   

Hồn vẫn khư khư mộng vá trời

(Tự Thân Tác Nghiệp, Cành Mai Trắng Mộng, 1968.)

Thực tại là hòa âm của thực tại với lý tưởng. Nghĩa là thiên nhiên có mặt trong thực tại như một sức mạnh nội tại hiển nhiên, dung  hợp và  làm nên sự thăng hoa cái mới ( Hoàng Châu Thanh, Thiên Nhiên Trong Thi Ca Holderlin, Thế Kỷ Hai Mươi, số 6, 12.1960, tr. 55.)

Cảm xúc phương đông, nói chung, của thi nhân, bắt nguồn từ sự chiêm nghiệm thiên nhiên. Tuy không  dựng  cho mình một triết lý, Vũ đã lắng nghe để bắt gặp quanh mình, thái độ, suy tưởng của muôn loài rồi thay lời chúng bằng ngôn ngữ của thơ . Nói cách khác, Vũ đã trao hồn cho thiên nhiên để thiên nhiên cùng con người chung khúc ưu tư

Khi xuống mình hươu ngủ hết sao 

Mắt nai tơ cũng nguyệt rơi vào 

Rừng  xanh khắc khoải : cây hoa lửa    

Còn mọc lên chăng ? Mọc hướng nào ?  

(Mối Lo Truyền Kiếp, Thi Tuyển.)

 

Viễn ảnh tâm cơ.

Người làm thơ thành người mạo hiểm ra khơi, mỗi lần tung lưới là một lần chơi trò sinh tử. Hoặc là chiếc lưới không đủ sức thu về. Hoặc là người ra khơi đánh đổi lấy phận mình thay cho lưới cá. Viễn tượng của thi nhân dường như đi ngược chiều với tiến trình đầy ngạo mạn của khoa học nơi những người hết lòng tin tưởng nó. Sự bất đồng có nguy cơ trở thành cuộc xung đột, dù chỉ trên phương diện tinh thần giữa Đông-Tây, và có thể chỉ thu hẹp giữa những giá trị đặt trên tinh thần khoa học, duy lý và những giá trị duy cảm, siêu nhiên mà thi nhân thường được xem là đại biểu.  Con người sống giữa thiên nhiên thuần phác như thi nhân cảm thấy bị tước đoạt nếp sống cũ khi thốt lời thương nhớ ngày xưa. Người chắt chiu tình gom góp mộng /  Trái tim vô số vẫn chưa vừa. Và thi nhân đã tiên đoán một định mệnh mới dành cho mình và tất cả. Tự tìm đến rơi vào  đáy vực  / Mà vực có đây không ? hỡi tâm hồn công thức ( Tận Diệt, Trời Một Phương, 1962.) Dự cảm của người thơ vốn nằm bên cạnh thiên thư cũng như giấc mộng người từng là một trang trong sách ước. Trực giác của người thơ đã dựng lên sơ đồ của một sự thực sắp thành hình và thi nhân là người sớm hơn ai chỉ ra một hướng đi có vẻ cực đoan nhưng tựu chung là để nhắc nhở sự khác biệt, cần hành động sao cho phù hợp với lòng.

Máy vặn lên Người chẳng xót thương

Cung đàn cạn máu phách trơ xương

 Có ai theo bướm sang vườn mộng

 Chờ mở đài hoa đón sóng hương

( Đài Hoa Nhạc Mộng, Cành Mai Trắng Mộng.)

Thi nhân vẫn tỏ ra khăng khít với thế giới Thơ hoa mộng ngày nào. Ngỏ lời với phương Tây cũng là dịp để  người giãi lòng chung thủy với giấc mơ vẫn trong trinh như huyền thoại.  Thế giới mà thi nhân đắm đuối tuy chỉ được phác họa bằng mấy nét mơ hồ, vẫn là chốn người quyến luyến. Ánh trăng khuya nhợt nhạt bóng người vẫn quyến rũ hồn thơ người hơn là chốn tràn ngập ánh sáng điện khí tân kỳ. Hồn đông phương dường như đã cố giữ chân người ngày một thưa trên nẻo vắng. Thi nhân cực tả nỗi lòng trong bầu khí giao thoa đông-tây. Người thường nhìn về phía của dĩ vãng cũng như  năm xưa đêm đêm chờ đợi giấc liêu trai. Ta nhớ tiền thân phòng lại ngỏ  /  Giấc hồ thơm tóc gái Liêu Trai ( Cảm Thông, Mây.)

Không hẳn người quyết cự tuyệt cái tân kỳ mà kỳ thực lòng người đã hoàn toàn thuộc về quá khứ, vốn chập chờn nửa thực nửa hư.

 Nhân loại đêm nào tới Ngã Ba

 Rẽ sang giòng Điện, lối sao sa

 Chừ... sao nhiễm độc tan thành bụi

 Có tiếc giòng Thơ, nẻo suối Hoa ? 

( Giòng Kia Hẳn Đẹp, Cành Mai Trắng Mộng)

Công cuộc đô thị hóa dẫn đến những đổi thay lợi hay hại về nhiều mặt, cũng từng là cảm hứng cho thi nhân. Còn dự cảm nào bén nhạy hơn khi vấn đề môi trường trở nên mối quan tâm thời sự như hiện nay sau ngần ấy năm quên lãng. Thi nhân chỉ cất lên một tiếng thở dài kín đáo không chỉ dành cho thân phận rừng thiêng và màu xanh của chiếc nôi êm ả.

Cánh  tay đô thị vươn dài

Báo hoa cọp gấm tàn phai mộng rừng 

Một thời hương sắc trên lưng 

Đổ theo dòng suối rưng rưng bóng tà

( Rừng Hết Mùa Thiêng, Thi Tuyển- Poèmes Choisis, 1963.)

 

“... chúng ta muốn phụng sự nhân loại bằng những con đường thênh thang hơn ( may thay lại chỉ có những con đường đó cho các nhà văn) trên đó tư tưởng viết ra và những kẻ sáng tạo ra nó có thể phụng sự nhân loại bằng cách dùng văn học làm sợi giây liên kết xứ này với xứ khác và cố gây lại không khí thân hũu cho cái thế giới tẻ lạnh như kẻ hấp hối này” ( John Galsworthy, Đặc San Bút Việt, P.E.N. Bulletin, số Mùa xuân Mậu Tuất, 1958, tr.10)

Một cách không trực tiếp, đông phương đã ủy thác cho Vũ, công việc của người làm văn chương trong việc thuyết phục người ở phương đối diện rằng tâm hồn họ không hề đóng kín như ai tưởng, và rằng thế giới họ mơ về không hề vay mượn tự nơi nao tuy đôi lúc mang biểu tượng bên ngoài của cái đồng dạng. Vào thế kỷ đương đại,  Miếu Nguyệt Vườn Sương của Vũ, Cõi Nguyện Xuân của Bùi Giáng, tiếp đến  Tuyết Xưa của Trần Ngọc Ninh... đều là phản chiếu thế giới trong trinh, vô tranh, vô ngại trong mơ ước không chỉ riêng của những người sáng tạo nên chúng. Mỗi người đều có thể tìm kiếm trong mô hình phổ quát đó, một mẫu thích ứng cho riêng mình như cách mà những người đọc Kiều trong mọi giới, tìm ra được trong đó góc cạnh tâm hồn mình được phóng chiếu. Không chỉ tập đầu Tâm Tình  Người Đẹp mà loại thơ nhị thập bát tú của Vũ, nên được nhìn từ sứ mệnh được giao phó đối với phía trời Âu để thấy vai trò người sứ giả đơn độc  mà nhiều trọng trách. Vai trò đó ngày một nặng thêm khi tình thế ngày một nghiêng về thế tương tranh quyết liệt và dứt khoát. Tâm trạng thi nhân lâm vào cảnh bứt rứt, bất an. Ít nhất, trong tập thơ gần như  sau cùng của Vũ, mối băn khoăn trước hiện tình đã là điều trằn trọc thường xuyên của thi nhân, không kém những trường hợp tiệm cận với khói lửa. Người trong cuộc cũng hiểu rằng thế giới mơ ước thường hằng của bao người mà văn chương làm hiển lộng đã bị thực tại đẩy ra xa vời và cách trở. Mơ ước vẫn còn dù nhạt nhòa bên cạnh mối trằn trọc về thực tại bên mình. Dẫu rằng, trong bom đạn, cánh nàng tiên gẫy rồi ( Tìm Lại Chiều Cao, Ngồi Quán) tâm hồn thơ vẫn tìm cách vươn lên cao cùng với tiếng gọi đàn để trọn kiếp mây trên quê hương bất hạnh . Âm thanh từng bậc trèo lên đỉnh trời. ( Một Sợi Giống Nòi, Ngồi Quán)

Hầu hết nội dung của thơ 28 chữ trong tập cuối này được dành cho thực tại đau thương, một thực tại mà năm xưa Vũ chỉ hình dung bằng nét cách điệu qua cõi cao điệu của người.

Thơ nhị-thập-bát-tú của người đã ôm vào lòng thực tại xót xa và tiếng nói thi nhân đã chìm trong lạc giọng. Những Bao Năm Lạc Tiềng, TròVui Thế Kỷ, Sự Thật Hiển Nhiên, Ác Mộng Nào Hơn, Vỡ Mộng Liêu Trai, Giới Hạn Con Người, Chữ Ký Thẳng Hàng, Thời Gian Ở Đây, gần như là thứ nhật ký bằng thơ, trong đó hoa bướm nắng mưa của tình và mộng được thay bằng nỗi xao xuyến thực sự của tâm hồn vốn đã ôm lòng xa lánh thế sự từ lâu. Thực tại đã thâm nhập và toan phá hủy giấc mơ dày đặc của người bằng sức mạnh phi nhân. Thật là mỉa mai khi sau cùng, thông điệp hồi đáp của người cho một phương Tây của thế giới trong tâm nguyện tiến đến tương tri lại kết thúc bằng việc gửi ra gần như là lời kêu cứu của lương tri hiện cố thủ trong tình thương và tuyệt vọng. Ôi kiếp người trong giấc ngủ ngày  / Bùn ngâm sặc óc máu loang tay ! ( Ác Mộng Nào Hơn) Người thơ của hoa và mộng khi buộc phải phô bày thực tại hãi hùng trên đã phải qua nỗi thử thách tâm lý dữ dội chừng nào trước khi gọi đến văn chương. Thế giới tưởng như vĩnh cửu của người đã đứng trước cơn bão lửa. Không gian ba chiều mà có thời người chỉ nhận trăng có một phương, nay chỉ giang sơn của những cái bất hạnh, tận cùng. Máu mặt trời loang mặt biển chiều ( Thời Gian Ở Đây.) Thiên đường người đã bốc cháy, sau phút trầm tư. Lửa còn cháy những lần người nhìn lại như nhìn lại giấc mộng chưa tàn.

Thi nhân đã báo trước nhiều năm như đã không thể can thiệp vào một định mệnh được an bài. Nếu hiểu như thế, người sau sẽ thấy ân hận biết bao khi tiếng hót bi thương của con chim sằp mất chỉ được nghe trọn vẹn khi cuộc thế đã tàn như một giấc mộng sót.

 

Tìm một ánh sao.

Hồn người cùng hồn thơ đều hướng lên cao nơi có ngàn sao hội tụ. Hội thơ mệnh danh hai-mươi -tám ngôi còn là hình ảnh ngôn ngữ đắc vị trên trời cao đem theo mơ ước của người muốn lánh xa tục lụy. Tinh tú từ nay còn mang theo bản mệnh của ngôn từ hay nói rộng ra, là sự phản chiếu tâm tư người vọng cầu nơi quê đất. Từ thuở mượn Trang để ký thác ước vọng một đời, vẻ như Vũ đang tìm kiếm cho mình một nhân sinh quan thích ứng không cần sự tá danh người đi trước. Và, người ta có thể hiểu được phần nào quan niệm của thi nhân qua thái độ người bày tỏ bằng giọng hào sảng không kém

Bốn phương trên ngựa làm anh hào

Trên gối mơ làm bướm được sao ?

Hỡi kẻ trên sông làm khói sóng

Làm mây trên núi mới là cao !

(Làm Chi Cho Phải, Cành Mai Trắng Mộng)

Sống tiêu dao phóng dật mới là sự nuôi dưỡng tâm hồn. Dường như là kết luận không  mấy khó khăn của người  để rồi nhiều năm sau còn tiếp tục trầm ngâm về cách lựa chọn cho mình trong sự tự hào của con người minh triết. Say nằm trước ngõ là tiên / Hoặc say nằm cát ngoài hiên mới hào ( Đá Mở Lời Xuân [Khai Xuân Thạch Vấn], Nhà Văn, số Tết Ất Sửu, 1975)

Trong sự trầm tư, thi nhân đã phác họa diễn biến một quá trình tư tưởng không phân biệt, bao gồm các phạm trù khác biệt nhau. Trong đó thi nhân xác định Thơ là cái mốc phải có trên con đường giác ngộ. Dường như thi nhân đề cao vai trò trực giác của người làm thơ, tương tự  trường hợp người đốn ngộ chân lý. Thơ cũng là một hình thức chân lý của ước mơ hay dự phóng. Thơ cũng cần một hình thức đốn ngộ nào đó để ra đời và để được đời tiếp nhận thiết tha và nuôi dưỡng như hơi thở

Đi hết đường Gươm, sẽ hiện ra

Đường Tơ cao thấp gió mưa sa

Bên kia rừng biển đường Tu đấy

Vượt dốc Thơ về đỉnh Thích-Ca

( Đường Về  Đỉnh Giác, Ngồi Quán)

 

Hiện thực đầy vơi

Năm 1961, có thể là lần đầu, Vũ nghiêng mình xuống  thực tại để nhắn lời với đầy đủ nỗi cái ưu tư của người trong cuộc.(*)

 -----------------------------------------------

LỜI CHÚ (*) Vũ cùng 29 người cầm bút trong nước  ký tên vào bản lên tiếng đề ngày 02-11-1961 chống lại âm mưu lợi dụng diễn đàn Hội nghị các nhà văn Á-Phi họp tại Đông Kinh ngày 27 và 28 tháng 3 -1961 để tuyên truyền cho chủ trương “ nô dịch văn hóa, giới hạn quyền tự do của văn nghệ sĩ” ( Bách Khoa, số 117, ngày 15.11.1961, ttr. 119.)

------------------------------------------------

 Sau đó, Vũ trở về với thực tại  không chỉ khởi từ ý thức về thảm kịch ngày một khốc liệt trên quê hương mà là những lúc thực tại gây bất bình nơi người làm thơ  vốn hồn nhiên trong mơ ước. Hơn nữa, ý thức trở về  không chỉ bắt nguồn từ tập thơ giao cảm đông-tây - Nhị Thập Bát Tú, mà là tiếng nói tiềm tàng của cảm tính khi cần.

Với thi nhân, thực tại không là thứ ngục tù so với thế giới hoa mộng trong Thơ được người chắt chiu như hơi thở. Chỉ vì cõi Thơ là chốn cần được kiều dưỡng. Thực phẩm trần gian, trong hoàn cảnh  này, chỉ làm cách biệt thêm giữa hai cõi vốn có điều kiện sống riêng. Dẫu giải thich ra sao, thực tại, với người, không là lỵ sở của  điều ràng buộc, phiền toái, Sự hoài thai hay ra đời của Bài Ca Sông Dịch, Bài Ca Bình Bắc,Trả Ta Sông Núi... ngày nào, là thực tại hiển hiện trong tim, trong hồn người thi nhân của miếu-nguyệt-vườn -sương độ nọ. (*)

  ----------------------------------------------------

LỜI CHÚ (*) Trả lời phỏng vấn của Nguiễn Ngu Í, Vũ Hoàng Chương cho biết “ Bài thơ bình Bắc” nói về Quang Trung, tôi mang nặng trong thời kháng chiến ở hậu phương, mà mãi đến khi hồi cư về Hà nội, tôi yêu một người, thế là thơ được khai nguồn, bài thơ thành hình” ( Nguiễn Ngu Í, Các Nhà Văn, Nhà  Viết Truyện, Nhà Soạn Kịch Sáng Tác Như Thế Nào ?, Bách Khoa, số 102, 01.4.1961, tr.101)

Bài Ca Bình Bắc được in trong Hoa Đăng ( Saigon, 1959)

 ----------------------------------------------------------

 Tuy vậy, thực tại hiển hiện trong Thơ người không chỉ là một biến cố văn chương khi chính nó liên can đến vận mệnh tâm hồn người thi sĩ. Từ nay bên cõi cao khiết của thơ và hồn thơ của thi nhân còn có sự có mặt của thực tại quê nhà đang hoạn nạn. Cõi thơ người trở thành nơi tỵ nạn của quê nhà. Hay nói cách khác, thơ người còn là chốn của lương tri nương náu

Hai phương đào mãi xuống bề sâu

Hai kẻ lưu đày bỗng gặp nhau   

Ở điểm sáng chưng, lòng Trái Đất

Cơn cười nẩy lửa vết thương đau

 (Đáy Lòng Nhân Loại, Cành Mai Trắng Mộng)

Dưới đây là cái nhìn tuyệt đối của con người rắp tâm đứng ngoài cuộc. Một quyết định thật khó khăn vì thi nhân lại là người có trái tim vô số. Thi nhân lại là người sớm nhận ra bản chất cuộc tranh chấp nên cái nhìn của người chi nhằm giúp soi tỏ một lối đi. Điều mà lịch sử thường cho thấy cần nhiều thế hệ sau mới có được công tâm.

Trò Chơi Thế Kỷ là ý thức được minh nhiên  giãi bày giữa lúc tình thế  đi ngược với những điều được ý thức. Chính nghĩa trở thành mục tiêu tranh giành và xương máu là chiến lợi phẩm để kiêu hãnh.  Bài thơ chứa đựng đủ đắng cay để người làm thơ buộc phải thốt nên lời. Sâu như vết- buồn-hôm-nay /  Dài như bất tận cơn-say-máu-người ( Trước Sau Gì, Ngồi Quán.)

Trận đánh không người được kẻ thua

Biết ai là giặc, biết ai vua !

Chiều hôm Thế-kỷ trò vui mới

Tiếp máu triền miên cuộc chạy đua

(Trò Vui Thế Kỷ, Ngồi Quán)

Với những người quen ẩn trong tháp cao, thực tại đôi khi đem lại tác dụng của đòn cân não. Với người làm thơ của chúng ta, thực tại tuy không mang bản chất của ước mơ vẫn là khoảng cách cần thiết để ước mơ có thêm ý nghĩa.  Ác mộng hôm nay của thi nhân chính là thực tại được nhận chân từ một trái tim nhân bản. Người ngồi quán hôm nay đã không còn tâm trạng kẻ đốt đời trên bấc lụi ngày nào khi cơn ác mộng giữa ban ngày không khác thực tại đang diễn ra ngày đêm trước mắt. Ác mộng hôm nay không chỉ là sự đe dọa đè nặng tiềm thức. Nó là hiện thân của việc chống lại con người đồng thời hủy diệt  ước mơ của họ. Hôm nào ta còn nghe vang vang lời tâm huyết của thi nhân trong đêm trừ tịch tết Quí Sửu 1973, hãy “giữ mãi hồn Thơ... .để lắng mình vào giòng cảm hứng Thơ, bất chấp mọi biến thiên lịch sử ..... bản chất của Thơ là hòa-hài, bản thể của Thơ là nhất quán...  ( Vũ Hoàng Chương trả lời cuộc phỏng vấn truyền thanh cùa đài Tiếng Nói Tự Do, Bách Khoa, số 389, 02-4-1973,tr.77.)

Ôi kiếp người trong giấc ngủ ngày

Bùn ngâm sặc óc máu loang tay 

Đêm đêm vẽ lại vòng hương phấn   

Chưa ngớt màn run cánh bướm say

(Ác Mộng Nào Hơn, Ngồi Quán)

Chiến tranh đã lan tới đô-thành vào một ngày đầu xuân và đã làm tan vỡ hai lần mộng: giấc mộng liêu-trai  và Liêu-Trai mà chính nó là giấc mộng một đời của người thi sĩ. Liêu-Trai, trang sách úa để ngỏ bên đèn đợi người hằng đêm chính là mộng mà người dan díu. Lấy mộng đổi làm thực, chính vì mộng thuộc về một tiền kiếp. Và Vũ xem cuộc đời mình như thuộc về môt tiền kiếp. Vì thế, Vũ cảm thấy bao quanh là mối cô đơn dày đặc, nhân thế dửng dưng vì ngay cả nơi người  không tìm được mối cảm thông cần thiết. Lòng cô đơn cay đắng họa dần vơi. Nguyên ủy của nỗi buồn vì vậy không nằm trang sách triết phương tây, không hề chỉ ra tha nhân là địa ngục,

Niềm u uất đã thành bản ngã của thi nhân. Còn tủi bình sinh hề gió lên đầy trời. Biến cố mùa thu không đủ đưa người ra ngoài giấc mộng bình sinh. Mà, trái lại, từ một cứ điểm trong bản ngã, thi nhân xây cao mộng liêu-trai bằng việc dựng lại vở diễn Vân Muội tại Khuốc (làng Cổ Khúc), một cách để chứng tỏ việc thủy chung với tiền kiếp.

Nhưng rồi hiện thực cuộc tranh chấp tương tàn đã giục người phải tạm xa tiền kiếp. Thi nhân đã vỡ mộng liêu trai khi ngoài đời đã mất một mùa xuân trước mắt. Liêu-trai đã vắng xa và thi nhân thực đã lênh đênh với hồn thơ trong một hiện kiếp hãi hùng . Quê hương của thi nhân vốn theo người nằm trong tiền kiếp, trong giấc mộng hai lần được đặt định. Hiện thực được thi nhân nhắc đến nằm trong một hiện kiếp người mới ghé chân. Quê đất đồng nghĩa với chiến tranh, với tương tàn được chép muộn trong thơ dẫu khi giấc mộng chưa tàn

Ma sợ cung vôi chạy vọt lên

Người thơ giữa lúc mở bầu men    

Khai Xuân chưa kịp vui cùng khách    

Đạn rớt trời cao đã nổ  rền

(Vỡ Mộng Liêu Trai – Tết Mậu Thân - Ngồi Quán)

Quê hương là xứ sở mà nhật-sáng nguyệt-đêm đều phải mang thương tích và bệnh hoạn. Thời gian mỗi ngày hăm bốn tiếng là khoảng cách chia đều của bất hạnh, khổ  đau. Chiếc đồng hồ của Vũ trở thành cách báo hiệu sự có mặt thường xuyên và đều đặn của thần chết và á thần bệnh hoạn chế ngự quê nhà. Kể cả mảnh trăng ước nguyện ngày nào cũng bị tai ương chiếm cứ. Màu hoàng đảm của ánh trăng đã kéo dài nỗi kinh hãi trọn ngày và tiếp nối bằng nắng mai lưu huyết.

Chẳng nơi nào đất có bình an. Để gã say Thơ gửi xác tàn ( Trầm Tư Trên Giường Bệnh, 1971) Cái đau quê nhà không đo lường được lại nhân hai trên một thân xác đã tiêu mòn vì cơn bệnh trầm kha của đất nước. Vũ đã viết lên những lời đau xót khác thường như thể chúc thư cho đời vào lúc trời đất sắp vào xuân (xuân Tân Hợi, 1971.) Cơn bệnh của quê nhà và con người hầu như  chung một nguyên do.

Máu mặt trời loang mặt biển chiều   

Một ngày thương tích đã trôi theo...  

Trăng lên nữa đó ! trăng vàng vọt   

 Đối diện cùng đêm bệnh hiểm nghèo

(Thời Gian Ở Đây, Ngồi Quán)

Chữ ký của định mệnh thẳng như nét dao hàng chữ trên trang tư nhật báo là dấu tay thê thảm và rõ nhất của tuổi trẻ việt-nam trên từng trang huyết sử. Khi trước, dấu vết của thế hệ chán chường để lại là vũ trụ thâu trong cái ngáp dài vô tận hay trong câu nói tưởng như bâng quơ mà não lòng người sau, ta đã dùng chi đời ta chưa. Định mệnh đương thời gắt gao và chặt chẽ hơn xưa rất nhiều nên nhiều lá thư chưa gửi đã mang danh di chúc của một kiếp lỡ làng.

Hậu phương mấy hãy đợi xem thư”    

Anh dặn tôi trong buổi tạ từ   

Đâu biết tin anh về quá sớm   

Đen ngòm nhật báo góc trang tư

( Chữ Ký Thẳng Hàng, Ngồi Quán)

Cũng liều nhắm mắt đưa chân ( Kiều, câu 1115) Trong chút tương đồng của định mệnh, con người thời đại đặt bước vào dấu chân kẻ sa cơ một cách tình cờ. Khách đến, người kỹ nữ, và cả tiếng nhạc đồng lõa đều chung một duyên phận. Đây cũng là thực tại ngày nay, tất cả đều bước vào vòng hương phấn như kẻ nhắm mắt đưa chân. Đây là tâm trạng người ở cuối đường. Không còn lựa chọn. Khác với chàng Say năm xưa, Đứng bên lề mà vẫn còn chút khẳng khái của người ngang tàng thân phận. Bể vô tận xá gì phương hướng nữa / Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh ( Phương Xa, Thơ Say)

Cả một xã hội đều bị đặt vào hoàn cảnh lỡ làng nên xét nghĩ cũng là trường hợp giảm khinh đối với những người ngồi quán.  Ước mơ của họ đã ngả xẫm màu. Đáy ly từng giọt bơ vơ  / Theo nhau rụng xuống giấc mơ đen dần. Lẫn trong màu của tiếng nhạc xiềng hồn người trong vực thẳm cuồng âm. Nốt đàn nghe toàn màu đen ( Ngồi Quán.)

Tâm trạng của Vũ năm xưa liệu có tái diễn nơi những người ngồi quán ngày nay. Những người được Vũ ngỏ ý bùi ngùi như từng nghĩ năm tháng lênh đênh trên cánh buồm nâu. Tuổi hoa ngồi rũ Quán Chùa  / Đường ngang dọc những lá bùa rủ rê. ( Ngồi Quán)

Tâm trạng Vũ năm ấy là tâm trạng chung của ít nhất một thế hệ tự nhận lỡ làng. Còn tâm sự lứa trẻ ngồi quán  đương thời không thể không mang chân diện tâm hồn của những người trẻ tìm kiếm điều gì trong bóng tối kia để lấp đầy tháng ngày trống rỗng.

Những người từng ngồi quán, dưới nhiều cách khác nhau, trước có Vũ, sau là Mai Thảo, có lẽ tự ủy nhiệm cho mình để cùng lên tiếng về cách đốt thời gian của thế hệ đương thời bằng âm binh của giọt đắng và âm thanh của mê sảng. Nơi Vũ, thơ còn cho phép thấp thoáng chút ái ngại lẫn bối rối pha trộn như sương muối đầu đông. Nơi Mai Thảo là hàng hàng cự tuyệt gắt như lửa nồng giữa hạ

“... Tôi lắng tai nghe, tịnh không thấy nổi lên một tiếng cười nào. Chỉ thiếu những ngọn nến lung linh, và những tiếng kinh cầu,  anh có thể lầm nơi chốn này vời một giáo đường thu nhỏ. Và thần thánh ở đây chỉ là một số người trẻ tuổi kỳ lạ. Đám người trẻ này, ngồi chụm đầu thành từng chùm sầu hay những nhánh đau, hay xếp hàng, vai sát vai, suốt dọc hai chiều tường, tới đây tự lúc nào không hay, nhưng hết thảy đã biến thành những pho tượng. Không một người nào nói thừa... Không ai nhìn ai. Kẻ bên ta một đời xa lạ. Không ai nói với ai một lời nào. Tha  nhân là địa ngục. Bằng những mái tóc cúi thấp, bằng những vai gầy nghiêng nghiêng, bằng những tròng mắt lim dim bằng những cặp chân duỗi dài mệt nhọc, rất hư vô và rất bóng hình, đám người trẻ tuổi  của thế kỷ hoa hồng này, ngồi  đó, im và bất động, nhạt nhòa dưới  một trận mưa không tiếng và vô hình lướt thướt ...”

“ Tôi lắng tai, cố gắng theo dõi, nhưng chịu không tài nào thấu hiểu được ý nghĩa lời dẫn nhập cho ca khúc sắp hát đang được cái nhành đau, cái khối sầu cuối đáy phòng kia đọc kính cẩn và run rẩy từng lời như những lời kinh. Cái cõi ngôn ngữ quái đản ấy là những chùm gai không hình thù lãng đãng trôi trên một biển sương mù. Tôi sắp hát cho đời nghe đây, một ca khúc tuổi trẻ, người hát nói. Nhạc chúng ta đau, sầu và đau. Đi tới một cuối đường kia, ta bắt gặp cuộc tình không bao giờ thấy mặt. Chúng con đã trở về đây, giữa lòng quê hương tan nát, hỡi cha hỡi mẹ, hỡi anh, hỡi em, chúng ta đen, chúng ta đau, chúng ta sầu và mười ngón tay gầy hãy đưa lên, làm mặt trời, che cho kín khắp phiên buồn mười sáu. Đại khái như thế ! vô nghĩa, mê loạn, đồng thiếp và mộng du như thế, lời dẫn nhập kỳ dị...” ( Mai Thảo, Quán Bệnh, Khởi Hành. số 19, 04.9.1969, tr.16.)

Người nhân chứng không xa của một thời “ngồi quán” ghi lại góc tối của tuổi trẻ đương thời  như  giục lòng đừng lau lại tấm gương bụi bặm xưa. Buông trôi theo và mặc cho bản năng bồng bềnh phiêu dạt chính là cơn gió lốc đưa họ sa vào vũng lầy đầy cám dỗ.  Tưởng như người chứng đang ngây người đăm đăm nhìn vào dĩ vãng của mình, lục trong bóng tối để hình dung lại vẻ ma quái như lá bùa mê hoặc  (*)

------------------------------------------------------------------

(*) TRÍCH DẪN “ Ánh đèn tranh tối tranh sáng gợi nhớ lại những xó gió tỏ tình kín khuất của những vũ trường hồi sàn nhẩy còn toàn thịnh với bầy vũ nữ yêu thương mang đầy tay những bùa ngải mê ngất lượn lờ giữa những hàng ghế, và thành phố về đêm chưa giới nghiêm. Ở đây, thanh tịnh và trang nghiêm, trầm tư và mơ màng, không có một hình bóng vũ nữ nào. Cũng không, tuyệt nhiên không, những bàn tay lơi lả lợi dụng bóng tối và kiếm tìm trong bóng tối. Trạng thái đèn lửa chập chờn sáng tối ở đây cũng như chỉ có, vì và cho một mục đích duy nhất: nhận chìm đi những hình ảnh, cho nổi bật những hình bóng đánh nhòa  những bề mặt rạng rỡ cho phảng phất một chiều sâu buồn rầu, nỗ lực tạo dựng bằng được một thứ không khí; chìm đắm bất thường không đối tượng.  Đêm tháng tám bên ngoài bát ngát sao. Trong những lùm cây xôn xao, gió múc những thuyền đầy.” (Mai Thảo, Quán Bệnh, Khởi Hành, số 19, 04.9.1969, tr. 16.)

------------------------------------------------------------------

 Thưa hơn và lác đác trên vầng trán sớm nhăn và nụ cười sớm héo là phảng phất cái bồng bềnh của một số chữ nghĩa trong trang sách chưa kịp đọc trọn. Tư tưởng chưa kịp với đã nhanh chóng nhập vào giấc mộng nửa vời. Hàng chữ trong trang sách dẫu có xô lệnh cũng là cách làm dáng thặng dư cho bên lề tâm hồn  người trẻ ngồi quán. Phạm công Thiện góp thêm vào một tâm hồn kẻ ngồi quán khá điển hình nếu không dẫn chứng hơi hướm phương xa và có vẻ quen thuộc với cái khuôn mặt ẩn chứa một nỗi lòng chưa thể lên tiếng

“ ... như nhân vật Tommy Wilhelm nhìn thấy nét mặt của người chết xa lạ để làm cái cớ mà khoác lên tấn kịch TRỞ NÊN, TRỞ THÀNH (becoming) của con người và đón nhận cái là LÀ như “sự thành tựu” của nhu cầu tối thượng của con tim “ (toward the consummation of his heart’s intimate need) câu cuối trong quyển Seize the Day. Hay như nhân vật Joseph trong quyển The Dangling Man sau cùng phải chấp nhận những gì không thể tránh được: anh đâm đầu vào trại lính, vì anh thấy rằng anh không thể chống lại số phận của mình, nhưng anh có thể chọn lựa cách giải thích số phận mình; thế là chấm dứt cái đời sống “lêu bêu” mà anh vốn là “kẻ lêu bêu” (the dangling man), đi lính chỉ là một cớ để nhốt mình lại trong giới hạn của mính không thể tránh được, nhưng mình có thể chấp nhận với tất cả sáng suốt, quả quyết, dứt khoát để không còn “bấp bênh trôi nổi lêu bêu vất va vất vưởng” và từ đây chấp nhận nhà tù nhưng chính sự chấp nhận sáng suốt này sẽ được  giải thích như là cái đê ngăn chặn sự điên loạn và canh giữ cho tâm lính khỏi lêu bêu sụp đổ ( and for the supervision of the spirit) và sau cùng bài viết này cũng chỉ là một cớ để tôi thấy rằng mọi sự đều có cớ và khi thấy rằng như vậy thì đồng thời tôi cũng thấy rằng chỉ có một cái không có cớ và đó chính là cái cớ: chỉ có cái cớ là không có, vì thế mọi sự không hẳn là có cớ. Cái cớ chỉ là một ý nghĩa mà mình đặt lên trên cái vô cớ của đời sống mình: một đóa hoa đặt lên trên sự hỗn loạn. Giống như hoa phong lữ thảo đặt lên sự nổi loạn của một tách cà phê đen ở giữa vùng thị tứ Saigon đầy “âm thanh và cuồng nộ” (Phạm Công Thiện, Quán Cà Phê Lâu Đời Giữa Vùng Thị Tứ Mới Qua,, Khởi Hành, số 60, 02.7.1970, tr. 15.)

Vẻ như dưới cái nhìn thiếu thiện cảm của người này ( Mai Thảo), ái ngại của người khác (Vũ Hoàng Chương) thuộc thế hệ đàn anh, ngồi quán trở thành một thái độ, một cách bày tỏ dưới khía cạnh tâm lý xã hội hay triết lý khiến gây chú ý với không  ít người xung quanh.  Do đó, kẻ ngồi quán vốn lẩn khuất trong đám đông, trong bóng tối, bỗng bị đưa ra ngoài ánh sáng chói chang để nhận diện, phân tách dưới con dao giải phẫu. Tuổi trẻ bị đưa ra trước lời cáo tố dằng dặc những cấm điều. Tuổi trẻ phải thụ hình, dẫu cho việc tập làm con người suy tư, thật sự không phải là điều lầm lỗi. Tuổi trẻ đương thời bị chiến tranh cắt ngắn, bách đoạt, thế chấp bằng ước mơ úa tàn sớm. Có người nêu tên một loạt những quán-ngồi như tên người trên bia mộ của thế hệ ngày ấy. “ ... nhung  nhúc những Lạc Sơn, Tôn, Danh Danh, Rừng , Đồ Long ở Huế ... những Ngọc Anh, những Cuội, những Hạ, quán  Tre, quán Rách, quán Nghèo, Từ Thức, Chiều Tím ở Đà Nẵng... những Thằng Bờm, những Hầm Gió, Mây Hồng, Quạt Mo, Mây Mùa Thu, những Chiều, những Nắng Sớm,.. ở Sài gòn...” ( Đông Trình, Những Cái QuánTa Thường Ngồi, Khởi Hành, số 93, 25.2.1971, tr.9.)

Và, với những người trẻ có mặt mang dáng dấp tội nhân mang linh hồn tàn tật trong một buổi đọc thơ trong quán    Cùng với không khí trầm mặc được thắp lên, những tiếng động dần dần chìm khuất và cuối cùng đã có nhiều mái đầu gục xuống  trên hai cánh tay vòng lại. Không ai nhìn ai. Người đọc thơ không nhìn thấy thính giả, và ngược lại. Đọc cho nhau mà  như đọc một mình.” ( Nguyễn Kim Phượng, Nghĩ Về Những Sinh Hoạt Của Quán, Khởi Hành, số 55.)

Nhưng, người ngồi quán không hẳn cùng mang đồng phục tâm hồn. Có người không thích mang một tâm trạng tiền chế trước cuộc đời dập sẵn một khuôn.  Họ giữ kín bưng tâm sự như kẻ đầu cơ và buộc người nghe phải đọc giữa hai hàng chữ. Người thám sát có thể tìm ra manh mối của nỗi lòng cũng như ánh lửa dấu trong ngôn ngữ. Họ ngồi quán mà lòng rong ruổi những chỗ nhiễu nhương và tháp tùng với người tòng phạm. Họ có ngôn ngữ riêng với ý tứ cách điệu tựa như mật ngữ của sự trá hình

Mỗi ngày chúng ta từ phía nhiễu nhương mà tới

ngồi gần nhau lần biết rõ từng người

tuy có một điều gì vô tận

rơi hờ hững trong lòng

rơi từ khung cửa sắt từ những cành lá lay động

bởi vì quanh ta đêm phong tỏa bốn phía

.... ...

bởi vì quanh ta còn có đoàn người tòng phạm

vội vã đi tắt trong bóng đêm

giữa cuộc âm vang của thời đại

chúng ta có trái tim và bộ óc chia lìa

chúng ta có lẽ phải ở xa và ghế bàn ly tách ở gần

chiều hôm qua những hí trường xưa mở cửa lại

những đám giả hình biểu dương

đó đây từng nhóm người học tiếng nói mới...

( Lê Văn Ngăn, Quanh Quẩn Trong Một Quán Cà Phê, Khởi Hành, số 91, 11.2.1971, tr.5.)

Người ta quên đi trong những người trẻ ngồi quán có bao nhiêu người mang tâm sự bơ vơ, khát khao tặng phẩm của đời, tâm trạng của người thấy ngày xanh ngắn dần theo ước mơ tản dần theo khói thuốc. Kẻ ngồi quán hay những thương nữ thời đại đều là những người phải nhận vai trong  tấn bi kịch dài bằng cuộc  đời. Kịch đã kết thúc nhưng các diễn viên không thể  rửa sạch lớp son phấn tâm hồn của vai trò đã nhận

Kèn rung vặn nát tấm thân tơ 

Đèn chuyển màu quanh vệt khói mờ...  

Ai biết rồi đây ngừng nhịp điệu  

Xác phàm thương nữ chỉ còn trơ ?

(Nhắm Mắt Đưa Chân, Ngồi Quán)

Bài thơ 28 chữ dưới đây là điếu văn soạn trước cho quê hương, là trực cảm về kiếp chung được tiên liệu cho ba chốn kinh đô của đất nước. Cố đô không chỉ là thân phận cuối của một địa danh mà còn là mốc suy tàn của một giai kỳ khởi phát. Qua cố đô ta thấy sự dịch chuyển của lẽ tồn vong, và một cái tương tự địa danh, mang trên lưng gánh nặng của lịch sử huy hoàng và bi thảm. Cố đô không biểu thị việc đánh dấu sự hạ bệ một uy quyền cho bằng cái huyền sử chạy quanh thứ bị bỏ quên được trờ thành giá trị của lòng hoài cổ và thương xót.

Thi nhân không  ngại nói ra điều trực cảm như định mệnh dành sẵn cho đô thành phương nam nhiều đời.  Định mệnh xưa nay vốn lạnh lùng như ánh thép của một thứ vũ khí tùy thân. Định mệnh không phân biệt trắng đen, tà chính mà chỉ cốt không thoái chuyển. Định mệnh vốn không chừa một ai, và nay dưới mắt thi nhân, lại dành cho cả một dân tộc vốn cả tin vào khuôn định từ trời cao. Và cũng do định mệnh mà thi nhân là người thấy điều mình trực cảm thành sự thực. Bến Nghé trở thành cố đô như  một vì sao đi lạc. Như Kiều vốn là tù nhân lý tưởng của định mệnh nên không thể bước ra ngoài cảnh bèo trôi sóng vỗ mười lăm năm.

Người làm thơ  như Vũ thường hết lòng tin cậy vào ma lực ngôn ngữ và từ lực của vũ trụ thơ. Vai trò của định mệnh còn được duy trì như sức mạnh an bài, khi thi nhân từng ca ngợi quyền năng sáng tạo của Thơ như năng lực của đấng Hóa Công. Ôi vạn vật hoài sinh trong thi tứ ... Thơ ta làm nên Không Gian ( Khai Sinh, Trời Một Phương.) Cũng như Thơ người đã từng tái tạo quỹ đạo tình yêu bằng sự phá vỡ quy luật an bài của tạo hóa. Phó cho hiện kiếp xuôi đường thẳng. Mà đẩy Thời gian ngược khúc quanh ( Giấc Mơ Tái Tạo, Trời Một Phương)

Long thành đâu nhỉ ? Phượng thành mô ?

Lê, Nguyễn, hai giòng lệ cố đô !   

Lệ chảy...chảy xuôi...tràn bến Nghé;   

Giật mình ! Nam hải sóng lô xô...

( Đường Xa Nghĩ Nỗi, Cành Mai Trắng Mộng)

 

Mục “Thơ và Thi Nhân” trên nhật báo TỰ DO.

 

Thay hồi Vĩ Thanh                                                                           

Thơ hai-mươi-tám chữ đã sống trọn một đời Thơ kể từ lúc chính thức nhận vai trò sứ giả của cảm thông và trao đổi. Thơ nối tay người với người, giữa đại dương với đại lục, từ buổi tìm gặp nhau trong tâm hồn, trong suy tưởng kể cả lúc đắn đo trước từng nghi vấn của cuộc đời. Cuộc gặp gỡ giữa Đông Tây, dẫu thu hẹp trong phạm trù chữ nghĩa, đã gợi ý cho khách văn chương viễn ảnh chiếc cầu vồng nối hai chân trời. (*)

  -------------------------------------------------

(*) LỜI CHÚ: đây là cách mệnh danh của nhà văn Nhất Linh, người đã tham gia vào tổ chức Văn Bút Việt Nam từ tháng 12.1957  trong Ủy Ban Chấp Hành Lâm Thời ( Đặc San Bút Việt, Viêt Nam P.E.N Bulletin, số mùa Xuân, 1958, tr. 4.)

--------------------------------------------------

 Thơ hai-mươi-tám chữ nằm trong cõi văn chương của Vũ, và chung thủy theo người hệt như người theo đuổi  vầng Trăng. Cùng ngần ấy chữ nhưng không là thơ tứ tuyệt, thơ 28 chữ của Vũ đòi hỏi nội dung, sinh lực của một thể loại độc lập, “ biểu dương lối cảm nghĩ và lối nói thuần túy Việt-nam”  (Mai Trung Tĩnh & Vương Đức Lệ, đọc Trời Một Phương, Văn, số 150, 15.3.1970, tr. 63.) thế, thơ 28 chữ có hành trình riêng để theo đuổi con đường được vạch ra trong cảm thức người làm thơ. Cõi thơ dành cho 28 chữ thành hình ngay từ khi  loại thơ ra đời  một thứ lầu vọng nguyệt, nơi mà thi nhân và những người yêu chuộng có thể tìm được qua đường dây giao cảm, sự khám phá mối tương quan huyền diệu giữa con người với thế giới chung quanh. Thơ đã hoài thai và khai sinh cuộc đời và vũ trụ, như  cách nói của người thi sĩ.  Thơ đã mang lại linh hồn, suy nghĩ cho từng ngọn cỏ lá cây. Và, thơ 28 chữ đã là hiện thân của khả năng diễn đạt sức mạnh của Thơ trước từng mỗi bước chân khoa học đến gần. Một thời nguyên tử đã đi qua  /  Khiến mặt trăng đầy nét rỗ hoa ( Viễn Tượng Kinh Hoàng, Tâm Tình Người Đẹp.) Thơ không ngăn bước khoa học nhưng không thể không  nói lên âu lo, đặc biệt là khi khoa học  đặt bước lên cung Hằng như sự thành tựu giấc mơ của con người duy lý.

Vũ, trong tiếng nói trước nhất trao đổi với phương Tây, đã nhắc đến sự hủy diệt một nguồn mơ ước huyền diệu nhất của đông phương nhân nỗ lực chinh phục mặt trăng đã thành hiện thực. Có ít nhất hai bài trong tập được đưa ra như  cố gắng tuyệt vọng của nhà thơ trong cơn hấp hối của một huyền thoại của Ước Mơ. Hỏa tiễn đưa Hoàng tử đến nơi  /  Hằng Nga xác lạnh đã muôn đời ( Khoa Học Chậm Chân, Tâm Tình Người Đẹp.)

Cái cách nhận diện cô Hằng của khoa học đã trở thành mối ám ảnh không nguôi nơi người làm thơ. Tiếng thở dài đến tám năm sau còn làm não lòng người từng chọn Trăng làm chứng cho lời thề buổi ấy. Thi nhân tiếc cho cô Hằng và khóc cho Trăng như khóc hồn thơ đã úa. Người đã lên Trăng đã trở về  / Nàng Thơ đã sớm bỏ Trăng đi  ( Sao Cho Tròn Ước, Bách Khoa, số 302, 01.8.1969)

Thi nhân xem sự can thiệp của khoa học thuần túy là sự xâm phạm đến nàng Trăng. Thái độ của thi nhân là sự cảm thương trước mất mát, là đau xót trước chia lìa. Hỡi bao thiên thể còn vô nhiễm  / Lệ rỏ vì Trăng hãy một lần ( Di Chúc Nguyệt Cầu, Bách Khoa, số 302, 01.8.1969.) Thái độ đó hướng về phương Tây nhiều hơn, như thể buộc phải chấp nhận thực tại khi giấc mộng của thi nhân và bao người vẫn chỉ là hư ảo.

Vũ hầu như là người duy nhất ôm giữ Trăng như canh giữ hồn thơ và nguồn mộng không chỉ cho riêng mình. Người đã nhân danh  tâm hồn phương đông và nhìn về phương đối diện  để giãi bày tâm trạng người nhược tiểu, thúc thủ trước sự vô tình của khoa học ngày nay

Thuyền bay từ Đất tới buông neo

Trăng đón Người ...toan ngả bóng theo

Chỉ thấy bàn tay ai lượm đá

Thôi rồi đã uổng ngấn vàng gieo

(Sự Thật Phũ Phàng, Bách Khoa, số 302, 01.8.1969)

Thơ 28 chữ có mặt bên thi nhân cho đến lúc Thơ được thong dong về cõi. Thơ đã được định vị trên trời cao cùng trăng xanh, nguồn mộng của nhiều đời thi sĩ. Với trường hợp thơ 28 chữ, thi nhân đã định trước một định mệnh cho thơ. Ứng chiếu với bầy tinh tú trên trời, thơ họp đàn mỗi khi  cùng người hội ý.

Tập thơ đầu còn mang lời ngỏ ý với mảnh trăng non, Ngọn móc vàng treo lửng sợi mây ( Trăng Không Đổi Hướng, Tâm Tình Người Đẹp.) Bầy sao của Tâm Tình Người Đẹp đã có duyên quy tụ bên trăng dâng lời vàng đá. Phương Tây là nơi dành cho nhịp cầu giao cảm, nay cũng là hướng để trông chờ.

Trăng từ lúc bị tước đi huyền thoại có còn lưu lại trong lòng người phần nào mộng vàng của ước mơ xưa.

                                                                              Trần Mạnh Toàn