Ngôn Niệm
- Vân tự vô tâm
- Quân hướng Tiêu Tương, ngã hướng Tần
- Vạn phương đa nạn
- Đê đầu tư cố hương
- Cựu quốc kiến thanh sơn
- Bạch vân vô tận thì
- Nghĩa tình
- Chu Văn An, thơ chữ Hán
- Nguyễn Trãi, thơ chữ Hán
- Nguyễn Du, thơ chữ Hán
- Vũ Hoàng Chương
- Với niên trưởng
- Với bạn văn
- Với cộng đồng
- Hình ảnh
- Hình ảnh 2
- Trao đổi ý kiến
- Xướng Họa với Thân Hữu
- Hạt Cát - Bạch Vân
- Ngôn Niệm Ôn Kỳ
- Ngô Thế Vinh
- Nguyễn Duy Chính
- Nguyễn thị Mỹ Ngọc
- Trần Hữu Thục
- Phạm Xuân Hy
- Trần Mạnh Toàn
- Trịnh Y Thư
- Trúc Chi Tôn Thất Kỳ
- Việt Dương
- Trần Từ Mai
- Trang mới
Friday, February 28, 2025
Wednesday, February 26, 2025
Doãn Cẩm Liên: Trịnh Y Thư: Đằng sau trang sách
Tôi
gấp sách lại ở “Phần IV – Thơ” quyển “Trịnh Y Thư – Văn chương Nghệ thuật và Những
điều khác”. Dừng lại để ngẫm xem những gì còn đọng lại trong đầu kể từ chương I
cho đến hết chương III.
Vì
đọc sách là đọc tâm tư tác giả, tôi biết vậy nên mới đoán mò xem ông ấy là người
như thế nào? Nhưng cái biết đó có thể sai lệch vì nó đã bị bẻ cong qua lăng
kính của mình, tôi biết đấy chứ. Tuy thế, tôi vẫn ghi xuống cái gì mình nghĩ một
cách chân thành. Hy vọng rằng cái “chân” thì dễ chấp nhận hơn bất kỳ cái “tay”
nào khác.
Đọc Trịnh Y Thư là phải đọc chậm rãi và kỹ lưỡng, vì Trịnh Y Thư không là người phàm! Ông thâm trầm cả từ nội tâm đến bề ngoài. Câu chuyện của ông không phơi bày trần trẫn ra cho độc giả thấy ngay trên mặt giấy. Nó ẩn mình đâu đó trong suốt nhiều trang giấy khiến người đọc phải vận não. Với truyện ngắn Đôi mắt của bóng đêm, ông dắt độc giả đi từ cảnh này rồi qua cảnh khác, màn một sang màn hai, màn ba, nói theo ngôn từ điện ảnh, và để rồi màn cuối cùng thì mới toang ra một kết cục. Cảnh tàn khốc đến đau lòng. Nhân vật chính của câu chuyện nhận lãnh một “nghiệp quả” đau đớn, thế mà giọng văn ông vẫn cứ êm êm, máy quay vẫn rè rè kêu và ống kính thì vẫn lia chầm chậm cận cảnh này sang cận cảnh khác. Độc giả cảm nhận được cả tính cam nhẫn của nhân vật trong chuyện.
Cái tài của Trịnh Y Thư là thế. Ông hẳn phải hiểu tâm lý của người đàn ông khi yêu, tâm lý người đàn bà khi được yêu để rồi tả ra ánh mắt của đôi tình nhân khi yêu nhau ra sao nữa kìa!
Đọc Trịnh Y Thư để còn thấy ngôn ngữ ông dùng tuyệt hảo vì tính gợi hình. Một danh từ mới được ông đặt cho đúng chỗ, đúng lúc, đúng ngữ cảnh thì nó làm tròn chức năng minh họa. “Ảnh tượng” của đuôi con mắt tạo thành cái lườm cái nguýt mắt. Trịnh Y Thư bảo đó là điểm duy nhất còn lưu lại cho tình yêu của đôi nam nữ. Quả đúng, nó giống như “bỏ tiêu cho ngọt, bỏ hành cho thơm” vào món ăn tình yêu cho dậy thêm mùi vị, vậy đó!
Ở một bài nhận định về cuốn tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, những cụm từ như “Đồ tể lợn”, “Tể tướng người”, “chúa tể”, “lợn-người” được Trịnh Y Thư đem ra làm hình ảnh những người thuộc giai cấp bần cố nông “Bolshevik” trong thời cộng sản thanh trừng, càn quét, đấu tố giai cấp tiểu tư sản để củng cố quyền lực. Nó ghê tởm đến lợm giọng khi ông tả con “lợn Bò” chuyên ăn sách, sách càng nặng ký về tư tưởng nó càng thích ăn và càng thấy ngon. Rồi nó trở nên phè phỡn to phềnh khi cộng sản lên ngôi bá chủ.
Có gì trường tồn mãi mãi đâu, vì cái gì khi đến điểm cực đại thì phải quay trở lại điểm cực tiểu. Quả lắc đong đưa, hết cực này thì trở về cực kia cho đến khi gia tốc bằng không thì nó dừng. Cộng sản quốc tế cũng vậy, năm 1989 “tiếng cười của quỷ sứ tắt ngúm”, bức tường Bá Linh tan vỡ, cộng sản không còn đất sống ở Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc, ở những nơi con người hiểu thế nào là tự do.
Với cộng sản Việt Nam thì sao? Thì “nó” lì lợm hơn cộng sản Đông Âu, còn là vì “nó” chưa hiểu hết thế nào là “tự do”. Cho nên “nó” có hai “trận đấu cười”, một năm 1955 “Nhân Văn-Giai Phẩm” và một năm 1986 “Cởi trói văn nghệ sĩ”, cả hai đều do văn nghệ sĩ Việt Nam chủ động đứng lên “cười”. Thế nhưng guồng máy “lợn-người” có vẻ “lợn” thắng thế hơn “người” nên cả hai “trận đấu cười” đều về con số không. “Xôi hỏng bỏng không” Việt Nam vẫn còn nguyên cái “đuôi con cáo”, chỉ có phần “nó” khéo ngồi để che giấu cái đuôi mà thôi!
Trịnh Y Thư còn là một tây ban cầm thủ. Hẳn vậy vì trong tiểu sử của ông ghi rõ ràng là ông chơi guitar, sáng tác nhạc cho guitar, cho piano và ca khúc. Nhạc khúc của ông có ai được nghe chưa? Chắc là có nhưng không thấy phổ biến cho quần chúng lớn, nên phải chờ đến ngày nào đó được nghe thì mới biết ca khúc ông sáng tác hay hay dở?!
Trịnh Y Thư một nhà Tôn giáo học. Tính nhị nguyên, phần cốt lõi của Phật giáo, được ông nêu lên bàng bạc trong các bài viết. Ông còn đề cao tập tục thờ cúng ông bà của người Việt. Là một con người thì có hai phần, phần xác và phần hồn vía. Phần hồn vía còn gọi là thần thức hay tâm thức. Khi con người chết đi chỉ chết phần xác mà thôi. Còn phần tâm thức chẳng bao giờ mất đi mà kết tụ thành thức thứ tám “A lại gia thức” của đời đời con cháu về sau. Do vậy, hình ảnh con cháu xì xụp lễ bái trước ban thờ ông bà là một hình “ảnh đẹp và nhân bản” mà người Việt Nam đã tạo dựng được. Khi lễ ông bà là lúc người trở về hòa nhập với cái “biết nguyên thủy” của vạn pháp. Lúc đó con người chỉ còn cái tính “bản thiện” nổi bật lên rõ ràng nhất. Nó dẹp tan những ganh đua ghen ghét tị hiềm hung ác trong tâm mà con người vì cuộc sống đã để nó lên ngôi và che mờ tính bản thiện muôn thuở này.
Trịnh Y Thư con người thật của ông đã hiện rõ ràng ở truyện ngắn Tự truyện của kẻ đi tìm quá khứ và tùy bút Một kẻ lạ trên phố phường Hà Nội. Ông là người có chiều hướng đi vào nội tâm để tìm hiểu mình là ai. Và rồi ông viết xuống công trình đi tìm này nên độc giả được dịp trở về quê hương làng xã tỉnh Hà Đông, huyện Chương Mỹ, các làng xã Quảng Bị, Đầm Mơ, Chúc Sơn, Chúc Động, Tốt Động, vùng giữa hai con sông Hồng và sông Đáy. Ông giúp cho người đọc ngửi được mùi không khí “man mát” lạnh của tháng 10, mùi phân trâu bò, mùi của vùng chiêm trũng lầy lội nơi vua Lê Lợi khởi binh cứu nước. Quá khứ ùa về tâm của Trịnh Y Thư, nay cũng tràn qua tâm của người đọc. Xem rằng cái quá khứ của một người có đồng điệu với quá khứ của người đọc hay không? Chắc chắn rằng không ít thì nhiều người viết cũng làm rung động ít nhiều cái quá khứ của người kia. Vì rằng thì là mà… quá khứ một khi đã đi qua rồi thì đi mãi đi mất tiêu, nhưng hồn thiêng của nó vẫn còn đọng lại ở đâu đó gọi là “hồn thiêng sông núi, lũy tre, miếu chùa…” mà chỉ có người cầu mong mới nhìn ra được “nó”.
Hà Nội, Huế, Sài Gòn ba thành phố lớn làm nên ba đặc tính rất Việt mà người Việt Nam nào cũng muốn nhận lãnh. Thế nhưng Hà Nội dường như nổi trội hơn hết vì tính bề dài lịch sử của nó. Đó là tính cổ lịch sử của trống đồng, tượng Phật đồng đen; tính lãng mạn của các văn nghệ sĩ còn vương vấn đâu đây. Họ đã thổi vào bát phở, đĩa bánh cuốn, tô bún ốc, chiếc bánh tẻ… và đã làm nên nỗi bối rối mà “kẻ lạ trên phố phường Hà Nội” phải thẫn thờ!
Ha haaa… nhờ thế mà độc giả mới mày mò ra được một tí gì gọi là “Trịnh Y Thư”.
Trịnh
Y Thư! Trịnh Y Thư!… cứ bị gọi tên liên hồi trong đoạn văn ngắn này, chắc cũng
khiến ông nhảy mũi hắt xì liên tục. Nhưng yên chí cái nhắc nhở này chỉ là một
“quả lành” ông nhận lãnh, vì cái nhân ông làm ra toàn là nhân tốt đẹp thì cớ gì
có thể tạo ra được quả xấu cho được!?
Chúng
ta đều đồng ý như vậy, đúng không ạ?
(California, ngày 17 tháng 2, 2025)
Để mua sách, xin bấm vào một trong hai đường dẫn sau:
Hoặc
liên lạc với tác giả qua địa chỉ email sau để mua sách có chữ ký của tác giả:
Thursday, February 20, 2025
Trần Mạnh Toàn: Phương Bối, cánh gió theo chân
Nhớ những ngày cạn kiệt niềm tin. Bên giá sách trống trải như lòng, cuốn sách ấy như ngọn đèn khuya, đánh thức cùng soi tỏ con đường tìm về với chính mình, về với những giá trị, những rung động bị bỏ quên trong tẻ lạnh, âm thầm và gió chướng.
Nẻo Về Của Ý ( Nhất Hạnh, Lá Bối, Sài gòn,1967), trước hết là bản tường thuật kinh nghiệm làm người sau lúc ước mơ bị đánh
mất, đồng thời thay mặt tác giả, giới
thiệu với mọi người, quen hay không, thân hay sơ, một thực tại người vừa tìm
thấy, chính xác, đáng mến hơn cái thực tại người vừa sống với và khiến bị tổn
thương. Không thất vọng, hay bi quan theo đúng nghĩa, mà là nụ cười của sự phục
sinh nở trên môi người tỉnh thức.
Khởi viết và đăng
trên Giữ Thơm Quê Mẹ tập 2 ( tháng
8.1965) và tạm dừng vào đêm trước ngày tác giả rời xứ cho một cuộc vận động
chấm dứt chiến tranh (02.5.1966), được in trên số áp chót tạp chí ( số 11, tháng 5.1966.)
Nẻo Về Của Ý, không chỉ thể hiện tâm trạng người thất bại
nghiền ngẫm một nỗi đau về dự phóng chưa thành mà còn được viết ra khi người
tăng nhân đã có được thời cơ thực hiện 3 ước nguyện trong cuộc canh cải tôn
giáo và xã hội đề ra trước đây. Phương Bối Am không còn là địa chỉ “chữa lành những vết thương rướm máu “ ( Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 2, tháng 8.1965,
tr. 93) mà là chứng tích một chặng đường phát triển tư tưởng, đứng lên bằng
chính nhận thức và ý thức mới của người tỉnh thức.” Chỉ có một con đường phải đi – con đường của sự tranh đấu bền bỉ và
gian khổ.” (, Giữ Thơm Quê Mẹ,
tập 4, tháng 10.1965, tr. 94.)
Nẻo Về Của Ý ( Lá Bối xuất
bản thành sách năm 1967) khác hơn một truyện dài đầy dữ kiện lôi cuốn, mà thực
chất là một hồi ký ghi nhận tâm trạng, suy tư và hành động của tác giả ngay tự
bước đầu xây dựng nơi an dưỡng cho tâm hồn bị thương vì chí lớn bị ngăn trở
trước khi có hoàn cảnh để tái tục thực
hành chí nguyện. Khó khăn xuất hiện không chỉ thuộc lãnh vực vật chất, tài
chính mà còn là những trăn trở, băn khoăn đột khởi trong tâm như màn đêm dăng
mắc. Tầm mức ảnh hưởng của những suy tư, gợi ý trong sách đã vượt ra ngoài ranh
giới mà đến với những người trẻ đi theo,
có thể dang dở hoặc tình cờ, bằng những khơi dậy tế vi len nhẹ vào lòng người
như những tác nhân có hiệu ứng.
“ Ánh lửa đốt ban chiều bây giờ không còn lách tách reo
vui nữa, Chúng đang “cháy” trong yên lặng. Tôi đang nằm im ở đây không trở
mình. Các bạn tôi đang yên lặng ngắm vòm trời đầy sao sáng. Tất cả đang trả lại
hoàn toàn sự yên tĩnh cho Phương Bối Am. Chỉ có sự thanh tịnh là đáng quý. Quay
cuồng cho lắm rồi cũng là hư ảo; mình sẽ
không bao giờ gặp lại mình nữa; bởi cái “tôi bản thể” đã lui về để nhường chỗ
cho cái “tôi hiện tượng” đầy ố bỉ ? Càng lớn lên càng chìm sâu vào sự u tối cái
“tôi bản thể” mà tôi nghĩ chắc nó trong sáng lắm.” Đêm Blao lạnh quá. Hồn
thiêng của núi đồi đang chừng như u uất hẳn. Tôi đang nằm trong lòng ánh sáng
bạch lạp. Tôi muốn đem ánh sáng của ngọn nến soi vào sâu thẳm của núi rừng. Tôi
đã thất bại, bởi bên trong một trở mình, trong một khoảnh khắc đổi hướng đời,
tôi cũng đủ vừa mất ánh sáng đó mà giờ đây là nguồn sáng đã chết. Ánh sáng 100
watts của thị thành chỉ làm tôi chóa mắt. Đem nó đến đây nụ trà sẽ không thơm
nữa, núi đồi, sẽ trơ trẽn và chúng tôi sẽ không cùng nhau yên ổn đứng nhìn vòm
trời đầy sao sáng.” ( Hằng Hà Sa, Huy Hoàng Trường Cửu,
Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 6, tháng
12.1965, tr. 20,24)
Đoạn văn trên cho thấy là kết quả một cuộc thực
tập trao truyền mà vầng sao vằng vặc trên trời là hình ảnh của bản thể con
người cần giữ gìn, tránh để ngoại giới làm nhầm lẫn. Đó là “ trăng sao trên trời những đêm rằm “ mà
Nhất Hạnh nhắc đến trong bài thơ khai từ sự ra đời của tạp chí. Và, sau này là
khi cần nhắc nhở sự trau dồi nhận thức vững vàng trong việc gầy dựng thân tâm. “ trăng tròn đêm nay, xin gọi hết muôn sao
về cầu nguyện” ( Nhất Hạnh, Quán Tưởng, Giữ
Thơm Quê Mẹ, tập 5, tháng 6.1965, tr. 8.)
Người ta có thể nhận ra cái nhìn về trăng đêm của
người “đồng sự” Hằng Hà Sa nói trên là
sự dẫn xuất từ nhận thức về sự ngự trị của trăng khuya mà Nhất Hạnh đã “ngộ” ra
vào một đêm nào tại cùng một địa điểm an trú là Phương Bối Am.
“ Có một
bữa, ham viết cho đến một giờ khuya, tôi không biết rằng Thanh Tuệ đã thức giấc
và đang đứng lặng yên sau cửa sổ nhìn ra khu rừng tẩm ướt ánh trăng. Tôi cũng
tắt ngọn đèn bát đi, và lại đứng gần bên Thanh Tuệ. Cả trăng cả rừng đều huyền
bí, đều mầu nhiệm, và cùng tạo nên một khung cảnh mà chúng ta chưa hề thấy bao
giờ trong đời, trừ ở Phương Bối. Trăng tuyệt đối im lặng và rừng cũng tuyệt đối im lặng. Nhưng mà trăng với
rừng quả là đang nói chuyện với nhau, nói chuyện bằng thứ ngôn ngữ gì chúng ta
không thể nào biết được. Trăng và rừng trong lúc này không phải là hai mà chỉ
là một. Thí dụ ta lấy trăng đi, thì rừng cũng mất. Hoặc giả nếu ta lấy rừng đi,
thì trăng cũng tan biến. Vì chính chúng tôi nữa, chúng tôi là gì lúc ấy ? Chúng
tôi có thể hiện hữu bên nhau sau khung cửa sáng ấy không, nếu một trong hai thứ
trăng rừng kia không hiện hữu ?” ( Nhất Hạnh, Nẻo Về Của Ý, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 3, tháng 6.1965, tr. 85.)
Phương Bối, mảnh đất của nội cỏ mây ngàn, đã trở
thành nơi hội tụ và xuất phát tinh thần một cuộc vận động trước hết, cho chính
bản thân. Ánh sáng trí tuệ bừng lên như thể tiếp nối ngọn lửa trại hầu tàn giữa
rừng khuya, và được đem theo cùng với tia nắng mới của một ngày khi họ chia tay
trở về thành phố.
Hằng Hà Sa có lẽ, không phải là người duy nhất
chứng nghiệm kết quả một nhận thức được tô bồi nhưng thuộc về số người ít oi
đặt chân vào cuộc vận động ý thức như bước đi mở đường cần thiết cho mọi nỗ lực
đi tới. Cuộc vận động ý thức để khai mở đúng đắn hướng đi vì xây dựng được nhận
thức đúng đắn về thực tại và sự vật.
tôi sẽ là một con chim như những con chim khác
suốt đời
chỉ tìm tới chốn suối ngọt cây lành
hãy là
chuyển luân thánh vương
ngọn bút
nội tâm em sẽ ký sắc lệnh đầy khổ đau
ra ngoài
vòng hiện hữu
và gọi về
từ muôn phương tản mác nào hoa, nào bướm
cho chồi
non, tuổi xanh căng nhựa sống,
vũ trụ cười
khi hai mắt em cười
( Nhất Hạnh, Duy Thị Nhất Tâm, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 5, tháng 6.1965, tr. 11.)
Trước hết, Nẻo
Về Của Ý có vóc dáng và diện mạo bản phúc trình một công cuộc cống hiến cho
tha nhân dưới khía cạnh triết lý nhập thế của tôn giáo. Con người, đời sống cá
nhân và gia đình phải được chiếu cố, lưu tâm trong tương quan nghĩa vụ với xã hội
được tác giả đặt trong phạm trù “công quả”
với ý nghĩa “ việc chùa là việc
lợi ích chung cho tất cả mọi người .“
Việc đặt công tác xã hội trong ý nghĩa “công quả”
không là sự lạm từ khi công việc mang phúc lợi xã hội đến cho người dân phát
xuất từ một hướng đi tôn giáo. Công tác xã hội trở thành nỗ lực chính của
chương trình nhập thế do bởi tính chất thiết thực của chúng, thu hút sự chú ý
và cộng tác của dân chúng đồng thời khích lệ tinh thần hoạt động của các
tác-viên.
Nẻo Về Của
Ý khởi
đầu bằng sự nuôi dưỡng một nỗi đau thất bại bằng việc ca ngợi nó, theo cách
riêng của người tăng sĩ. Không có bằng chứng việc tác giả đã để cái đau nguyên
sơ ấy dàn trải trên giấy mà trái lại là sự nhiệt thành của người bắt tay vào
một chuyến đi mới. Việc xây dựng giang sơn cho chuyến đi này không kém hăng say
khiến cho người đọc có cảm tưởng tác giả đã hồi phục được niềm tin. Và, nỗi
niềm thất bại năm xưa đã thuộc hẳn về một dĩ vãng.
Phương Bối trong Nẻo Về Của Ý ngay từ khi được khởi công, đã là điển hình của ý thức
đứng dậy trong khó khăn và không hề mặc cảm. Sự xây dựng Phương Bối là hình ảnh
của sự tái thiết tâm hồn thay vì cho một đài tưởng niệm sự thất bại nếu như tác
giả còn mang tâm trạng kẻ thất thế. Những trang viết về việc xây dựng một cơ ngơi,
cả về mặt tinh thần, biểu lộ ý chí về sự phục hồi và tiếp theo đó, những bước
tiến của nhận thức. Phương Bối và thiên nhiên thay mặt nó, được chào đón nồng
nhiệt như người thân. Người tìm thấy đất như một niềm tin mới và không hoài
nghi. Người đến với đất như gặp một tri âm. Đó chính là cái tình mà Nhất Hạnh
đã gửi vào quê nhà, không phải là cái
tình của kẻ hài lòng với một chỗ nương tựa
nhất thời. “ Bởi vì chúng ta sẽ không thể làm được gì
nếu vẫn phải sống mãi cái đời ăn gửi, nằm nhờ.” ( Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 2, tháng 8.1965, tr. 93.)
Những trang đẹp nhất về phương diện văn chương,
không nhằm mô tả sự khám phá kỳ thú vẻ đẹp thiên nhiên, mà chính là sự tương
thông kỳ diệu giữa những đối tượng tương tri. Đây là kinh nghiệm của một lần
“giao tiếp.” “ Tôi và Nguyên Hưng đã chạy
xuống đi lại gần giải mây. Tới gần thì không thấy giải mây đâu. Chúng ta thất
vọng, bởi vì chúng ta đã muốn đứng sát một bên giải mây. Nhưng khi trèo lên lại
lan can nhìn, thì giải mây vẫn còn đó, tuy đã biến hình và loãng dần ra.” (
Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 2, tháng 8.1965,
tr. 99.)
Và có thể lần duy nhất,vì nặng lòng tương tri,
người tăng nhân không khỏi nhẹ tình với nhân thế, cái mà vẫn được xem là chủ
thể cho hướng đi nhập thế. “ ...chưa ai
biết rằng ẩn mình trên rừng núi Đại Lão, Phương Bối đã xòe những cánh đồi hoang
vu và êm dịu như một chiếc nôi lớn – một chiếc nôi lót bằng bông đá, hoa dại,
cỏ rừng – chào đón chúng tôi. Ở đây chỉ
có cây rừng, có chim có vượn, Ở đây chúng tôi sẽ xa được trong một thời gian
tất cả những xấu xa nhỏ mọn của cuộc đời.” ( Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 2, tháng 8.1965, tr. 101.)
Những cái mà ta xem là hiện tượng thiên nhiên –
rành mạch như hiện tượng vật lý- nhưng dưới mắt Nhất Hạnh lại chứa đựng sự mầu
nhiệm của sự tương thông nơi đất trời Phương Bối. Đêm, bình minh, mây sáng, mưa
chiều ... đều là những khúc vinh ca được Nhất Hạnh dành cho cuộc gặp gỡ với
thiên nhiên, và khai mở nhận thức mới. Không phải chỉ là cái đẹp tiềm ẩn trong
khung cảnh quen thuộc mà Nhất Hạnh nằm trong số ít người khám phá mà ngược lại,
có thể nghĩ, chính những hiện tượng trên đã đánh thức được mạch suy tưởng, nhận
thức của không chỉ con-người văn-nhân nơi Nhất Hạnh, cho dẫu điều dưới đây chỉ
là hồi tưởng. “ Từ hồi bé thơ tôi đã bị
những trận mưa đầu mùa quyến rũ rồi. Hồi ấy tôi còn ở đồng quê. Tiếng sấm động.
Trời sa sầm xuống thấp. Những giọt nước to nặng đầu tiên rơi lộp độp trên mái
ngói. Vài ngọn gió thổi tới đập các cánh cửa sổ ầm ầm. Tôi đã bị kích động ngay
sau những hiện tượng đó. Thật giống như prélude của một bản hùng ca vĩ đại. Thế
rồi sau một tiếng sấm long trời lở đất, mưa trút xuống rào rào như thác đổ.
Những lúc như thế, đố mà tôi ngồi yên cho được. Tôi phải chạy ra, vén màn, dán
mắt vào cửa kính. Những đọt cau xa oằn oại, trong lúc trời đất thét gào. Vũ trụ
rung chuyển. Những chiếc lá to bị gió hất mạnh vào cửa sổ và vách tường. Nước
trút xuống ào ào và chảy ồ ồ ngoài sân, trước rãnh. Trong màn mưa bạc, có những
con chim quật cánh chống lại với với
mưa. Trong bản hùng ca đó, tôi cảm nghe rất rõ rệt tiếng gọi của hồn vũ
trụ...”
( Giữ Thơm
Quê Mẹ, tập 3, tháng 9.1965, tr. 90.)
Bên cạnh bút pháp tả cảnh trữ tình này, người ta
có thể nhận ra một tâm hồn trẻ thơ hướng về thiên nhiên để hòa nhập. Không đến
với tinh thần khai dụng, hưởng thụ thiên nhiên. Con người muốn sánh vai với
thiên nhiên trong suy nghĩ và hành động.
Một nội dung quan trọng không kém trong Nẻo Về Của Ý là thực tại và nhận thức
đúng đắn và đầy đủ về nó. Đây là tiền đề cho nỗ lực dấn thân theo tông chỉ nhập
thế theo quan điểm tôn giáo mà còn là sự khuyến dụ đối nghịch mạnh mẽ với xu
hướng nhuốm màu bi quan xuất thế vốn quấn quít với cái nhìn về thiền môn từ
hằng thế kỷ nay. Hạnh phúc tìm thấy nơi trần thế cần vượt ra ngoài cái nhìn
quen thuộc nhưng sai lệch và nông cạn. Hạnh phúc sẽ là kết quả tự thân và tự
nhiên đến với thực tại mà ta nhận chân được.
Nhất Hạnh từng minh thị điều mà ít ai dám xác định
sự đúng sai. “ Không, tôi không muốn rời
bỏ chốn này để đi về cực lạc hay thiên đường.” ( NVCY, tr. 218). Lời nói dường như muốn chối
bỏ cái chân lý thường được những người truyền giáo vun đắp. Thực ra, người chỉ
muốn chỉ ra cái sai lầm nguyên khởi phát xuất từ cái nhìn với thực tại. Cái
nhìn sai lầm đã khiến con người xem nhẹ hay đến mức ruồng rẫy thực tại đang có
trong tay. Hình ảnh đứa bé với bát cơm trong tay, vừa ăn vừa ngắm mưa có sức
thuyết phục của một bài giảng về sự có mặt của thế giới thực hữu và hạnh phúc
dung dị có được.” Tôi ngồi cách nó chừng
mười thước, nhưng tôi có thể biết được đứa bé đang ăn cơm với trứng vịt chan
nước mắm. Những miếng trứng vịt nhỏ xíu chôn dưới đáy bát. Nó lấy đũa moi lên
và ăn từng miếng với cơm một cách dè sẻn. Vừa ăn nó vừa ngắm mưa một cách thích
thú vô cùng và cũng bình tĩnh vô cùng. Tôi ngắm nhìn nó và theo dõi nó trong
từng cử chỉ từng cái nhìn. Thân hình nó vẻ rắn chắc, mạnh khỏe. (...) Bỗng tôi
thấy nó đưa mắt về phía đầu đường. Tôi thấy hai đứa trẻ đẩy một chiếc xe mây có
bốn bánh gỗ đi lại, trên xe có em bé
ngồi. Tất cả đều ở truồng. Và cả ba đều nô đùa thích thú trong mưa.
Những chiếc bánh xe gỗ lăn mau, thỉnh thoảng gặp những vũng nước trên đường bắn
tung tóe ra hai bên. Tôi nhìn trở lại đứa bé đang ăn cơm. Nó ngừng hẳn công
việc ăn và theo dõi trò chơi của ba đứa trẻ ngoài đường. Hai mắt sáng như
sao.Tôi không biết hai mắt tôi lúc đó có phản chiếu đôi mắt nó không, nhưng có
một điều tôi biết rõ là lúc đó tôi cũng sung sướng cực kỳ... “ ( Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 9, tháng 3.1966,
tr. 97.))
Một phần không nhỏ trong bốn chương cuối sách vốn
được viết khi tác giả đã rời xứ, trở lại Hoa Kỳ ( chương XI-XIX) dành trình bày
cho người bạn Mỹ một số nỗ lực phát triển văn hóa, giáo dục, xã hội trong thời
gian qua tại quê nhà, vốn đều nằm trong ước mộng ấp ủ từ đầu thập niên 50 nhằm
cải thiện cái thực tại hiện hữu.
Là tác phẩm then chốt tường trình về thành tựu của
một hướng đi của một tăng nhân, nhưng chỉ riêng về mặt văn chương, Nẻo Về Của Ý còn là điển hình của một
cách xây dựng tác phẩm nghệ thuật tự những điều giản dị nhất. Bên cạnh cách
mượn cảm hứng từ bài giảng pháp để minh họa cho chính những bài giảng này,
người dựng truyện còn lưu lại cảm hứng không kém sâu xa cho những người, tình cờ
hay hữu ý, tìm gặp tác giả trong trang sách.
Hơn nửa thế kỷ qua đã làm phôi pha những cảm xúc lẫn suy tư nơi những
người cùng chung hoàn cảnh và vận nước, nhưng dường như cách dẫn dắt vào thực
tại của Nhất Hạnh vẫn còn tính cách mời gọi như thuở nào. Ngập ngừng hay hăm hở
đều là cảm giác ban đầu của người đọc đến với tác giả nhưng không hoài nghi sự
chân thực đẳm thắm trong từng trang sách.
Nẻo Về Của
Ý còn
cho thấy phó thác một sự cưu mang. Thói thường, từ sách, người viết muốn trao
hết những điều gửi gắm cho ít ra là một thành phần người đọc. Nơi Nẻo Về Của Ý, việc trao truyền những suy
tư hay mong muốn khơi dậy nơi người đọc nhiệt lượng cần thiết vào việc cống
hiến cho mục đích chung, công việc ấy không khó khăn với người cầm bút Nhất
Hạnh. Dường như, điều tác giả muốn đặt vào xa hơn là sự tiếp nối vai trò của
thế hệ được thừa kế trọng trách.
Ở một nghĩa nào đó, người ta thấy tác giả muốn thay thế chuỗi chuyển hóa nhân duyên bằng
chu trình bất diệt của tình thương.
Hiểu theo cách riêng, tình thương sẽ tiếp tục luân lưu như một nguyên tố cấu
thành tương quan trong vũ trụ. “ Ngày mai, nếu chúng tôi có cháy thành tro
bụi thì tro bụi ấy cũng sẽ là tình yêu. Chúng tôi, lúc đó là tro bụi, sẽ thấm
vào lòng đất, sẽ làm chất bón tươi tốt cho một loài hoa, nở những bông hoa cho
loài người , những bông hoa không biết oán thù là gì. Chúng tôi sẽ luân hồi trở
lại bao nhiêu lần, hoặc là hoa, hoặc là cỏ, hoặc là chim, hoặc là mây, hay
trong cứ trong hình thái nào, hiện tượng nào.” ( NVCY, tr. 336-337)
Niềm xác tín ấy bàng bạc trong tác phẩm như hương
vị sự có mặt nơi trần thế, như bầu khí của một môi trường vô nhiễm.
Bốn chương cuối, thực tế viết trong hoài niệm dù
quá khứ chưa xa, còn đông đặc hình ảnh và cảm xúc của cuộc tận hiến nửa chừng cho hoài bão phần nào trở nên
hiện thực. Cuộc vận động cho một xã hội tiến lên cho bằng người mà người tăng
nhân cưu mang như hiện nghiệp.
Nẻo Vế Của
Ý là
hành trình của tình thương và sự kết nối với tha nhân, song hành với cuộc hành
trình của nhận thức về thực tại trước mắt. Người đến với tình thương mà hành
động thực thi là sự thể hiện việc bừng nở trong trí ánh sáng của nhận thức mới
về thực tại quanh mình.
Hiển nhiên là những trang khiến người người say
đắm về văn chương chính là thực tại, trong đó có thiên nhiên, đã được xiển
dương dưới ý thức được tài bồi. Trăng đêm, rừng khuya, mây núi, nắng sớm, kể cả
việc chứng kiến một niềm vui nhỏ nhoi, đều là thực tại tái sinh sau một chặng
đường tư tưởng. Những người đến với Phương Bối sáng lòng như nhận được ơn
thiêng, trong khi chính họ là người gầy được ánh lửa khi nắng mai chưa đủ xua
đi bóng tối. Nhất Hạnh thường nhắc đến quyền
uy của rừng thiêng dưới màn đêm ( Giữ
Thơm Quê Mẹ, tập 3, tháng 9.1965,
tr.85) cũng như sức thu hút mạnh
mẽ của rừng khuya, phải chăng muốn ám thị nỗi khó khăn để vượt thoát khỏi màn
vô minh dày đặc để thấy được chân lý ban mai và thuộc về chân lý ấy.
Đây cũng là nhận thức nơi những người đến với
Phương Bối và còn trăn trở về một thực tại có trong tay mà chân diện chưa được
minh tường. “ Phương Bối là một thực tại
rồi đó, nhưng mà, cũng như chiều hôm trước, chúng ta vẫn không chắc là nó có
thực. Nó hiện hữu như một cái ráng trời. Ta có thể nghĩ rằng nó muốn tan biến
đi lúc nào thì nó tan biến. “ ( Giữ
Thơm Quê Mẹ, tập 3, tháng 9.1965, tr. 87.)
Hơn là một thực tại, Phương
Bối còn là mẫu của thực tại cần được nhận chân, cũng là qua đó, là con đường
dẫn đến một thực tại cần được sống với. Ít ra là hơn một thế hệ cần nuôi tinh
thần đến với nơi này khi mà tình thương cần hơn bao giờ như một thực phẩm không
thể thiếu nơi trần thế.
Những người cảm thấy xung khắc với bạo lực, khi
trá, hoài nghi, cảm thấy ngay rằng Nẻo Về
Của Ý là một gợi ý quyến rũ cho một thái độ mặn mà với đời sống, một ý thức
bao dung với những điều nghiệt ngã vây quanh hay khuyến khích sự mở rộng tâm
hồn bằng việc nhân lớn những rung động tinh tế.
Thật thế, có lẽ chưa có văn chương nào hàm xúc
điều mời gọi đến với thực tại cho bằng Nẻo
Về Của Ý đã làm hôm qua, hôm nay nơi những người tìm đến dù không có kinh
nghiệm làm người trong trắc trở. Hôm nay, người ta không còn đến với Phương Bối
với tâm trạng và hành lý của người mang thương tích hay mong đợi hàn gắn một
tổn thất. Nhưng Nẻo Về Của Ý vẫn là
hình ảnh một bóng mát dành cho người cảm thấy sự cần thiết của một chốn nghỉ
trên đường, một giếng nước không vơi giữa mùa hạn kéo dài trên đất sống.
Nẻo Về Của
Ý là
hình ảnh một hằng-đẳng-thức đáng nhớ với một hằng số duy nhất là tình thương.
Tình thương hay những từ ngữ gợi ý tương tự chiếm hữu không gian của Phương Bối
và làm nên kiến trúc tinh thần của Phương Bối trong tình cảm mỗi người. Tinh
thần ấy tồn tại nơi những người còn tin tưởng nơi những giá trị mà Phương Bối
đề cao và dù chưa một lần đặt chân, nên hơn năm mươi năm đã qua, Phương Bối
chưa hề bị xem như di sản. Tương tự như bầu khí, như mây trời, như sương khuya,
như nắng sớm, như ngàn thông nội cỏ, Phương Bối hiện diện bên ta, bên người,
hôm qua, hôm nay, và ngày mai như một thực tại. Cho dẫu là trong quá khứ, Phương Bối đã coi như vượt khỏi tầm tay của
chúng ta trong một thời gian. (NVCY, tr. 105)
Điều còn lẩn khuất trong tâm hồn người đọc mà Nẻo Về Của Ý đem lại, hôm qua và hôm
nay, là sự gợi ra mãnh liệt về ý thức đóng góp cho thực tại đương thời. Thực
tại dù cay đắng hay bất như ý nhưng vẫn là thực thể không thể từ chối
hay xem nhẹ dù dưới hình thức nào. Con người khi nhận chân ý thức đóng góp sẽ
tự xa rời cõi cô đơn, bơ vơ hay thế giới
vị kỷ vây quanh để đến với tha nhân
trong mối tương quan đúng nghĩa.
Đây chính là ý nghĩa thời đại của tác phẩm khi mà
thực tại xã hội thời chiến đương thời là hoàn cảnh thuận lợi cho sự phát sinh
và dung dưỡng những tác nhân làm suy giảm hay triệt tiêu những giá trị nhân
bản. Không còn là hình ảnh của ước mơ hay viển vông khi nhìn dự phóng của công
cuộc cải thiện và xây dựng xã hội mà tác giả cưu mang. Chính vi hoàn cảnh bức
bách đặc biệt của cuộc tranh chấp đã đẩy con người vào thế cùng để tự tồn, tự
xem nhẹ những giá trị hằng gìn giữ. Văn chương đương thời đã ghi nhận, chẳng
hạn điển hình trong Mèo Đêm về hoàn
cảnh sa cơ của cô gái hành nghề bán thân xác cho
lính viễn chinh ( Nguyễn thị Thụy Vũ,
Hồng Đức, Sài gòn, 1965) hay hình ảnh con người trở nên bơ vơ, bị ruồng rẫy
trong nghi kỵ của thời chiến trong truyện ngắn Dọc Đường ( Thanh Tâm Tuyền, Nghệ
Thuật, số 47, 10.9 – 16.9.1966 .) Hoặc, nhìn thực tại xã hội suy đồi gần
như toàn diện dưới con mắt nghiệt ngã hơn trong một truyện ngắn của Phan Du ( Hang Động Mới, Tin Văn, số 1, 6.6.1966.)
Nhưng dường như văn chương chưa được ghi nhận đúng mức của sự báo động và báo
nguy, chưa kể không có mối liên quan “biện chứng” giữa con người hành động với
con người thưởng ngoạn văn chương thuần túy.
Ý nghĩa thời đại của tác phẩm sẽ hiển lộ khi chính
một thành phần của xã hội đương thời có những dấu chỉ khao khát về một hướng đi
hay dù mới chỉ là ý thức về sự bế tắc tinh thần nơi họ, đó là chưa kể nỗi bực
rọc cùng cực với thực tại khiến có lúc nhà thơ thời danh của tình yêu không
ngại xem cái chết là sự giải thoát
Diễn đã
chết, Diễn đã chết
Chúng tôi
nhảy múa hò reo
Như những
người da đen
Chúng tôi
nhảy múa hò reo
Thế là nó
thoát, thế là nó thoát !
( Nguyên Sa, Đám Tang Nguyễn Duy Diễn, Nghệ Thuật, số 2, 8.10 – 15.10.1965, tr.
25)
Vun xới nỗi bực dọc ấy có lúc trở thành thói quen
tinh thần của những người cảm thấy không thể làm gì khác. Ý thức lâm vào thế
bất động khiến cho người quay vào việc tự dằn vặt và dường như lấy làm cách an lòng
tặng cho em
một xe plát-tích
xe
plát-tích nổ giữa phố đông
giữa phố
đông nổ tung từng mảnh thịt
đó là đời
ta em biết không
( Trần Dạ Từ, Tặng Vật Tỏ Tình, Văn, số 40, 15.8.1965, tr. 75-76)
Cảm giác của kẻ như bị phong tỏa tinh thần, không
thể định hướng dường như là trạng thái tâm hồn chung của bao người, đặc biệt
nơi những người trẻ gắn bó với, như người lữ hành gửi niềm tin vào ốc đảo bên
đường có thể làm vơi nhẹ niềm thất vọng
mỗi chúng
ta là một niềm hối tiếc
của giọng
sương mai im lìm bốc hơi
mỗi chúng
ta là một hành tinh lạnh lẽo
tự quay
quanh quỹ đạo chính mình
và quay
quanh một mặt trời xa lạ
trong
khoảng không mênh mông...
( Đynh Hoàng Sa, Kinh Cầu, Nghệ Thuật, số 55, 5..11 – 11.11.1966, tr. 18)
Dẫu sao, ý thức được như trên đã là bước đầu để đi
xa hơn trên chặng đường nhận thức.
Nẻo Về Của
Ý trở
thành ngọn gió đưa ý thức tiến lên phía trước, tiến gần đến một lộ trình. Mầu sắc
tôn giáo của tác phẩm chỉ là khía cạnh của một công cuộc mang tính chất phổ
quát của cả cộng đồng, liên quan đến việc thảo-chương giải quyết một vấn đề lớn
trong xã hội hiện hành.
Hiển nhiên là Nẻo
Về Của Ý còn hàm chứa một thái độ hành động của tác giả đối với cuộc xung
đột khốc liệt đương thời. “ ... chiến
tranh đã tàn phá đức tin, tàn phá hy vọng, tàn phá mọi chương trình kiến thiết
lâu dài.” ( NVCY, tr. 254.) Nghĩa là có thể đe dọa nghiêm trọng đến số phận
những gì mà chương trình tác giả kỳ vọng và theo đuổi và ngay cả yếu tố mà công
cuộc xem là điểm tựa. Nhưng, một cách tích cực hơn, Nẻo Về Của Ý đã mời gọi sự lên đường với một kế hoạch rõ rệt, thay
vì dừng lại ở việc “ đóng cửa tĩnh tâm,
nhập từ bi quán để cầu nguyện cho sự vượt thắng” ( NVCY, tr. 293.)
“ Cuộc đời
không phải chỉ là quá khứ. Nó còn là hiện tại và tương lai. Chúng ta phải nhìn
về phía trước mặt.” ( NVCY, tr. 297) Dường như đây mới là ý nghĩa thời đại đích thực của tác
phẩm khi mà thực tại khốc liệt đã và đang dồn đẩy con người vào việc lãng quên
hay xem nhẹ, bằng nhiều hình thức, và dưới nhiều khía cạnh, những giá trị nhân
bản của cuộc sống hiện tại.
Sự lên tiếng của tác giả về thái độ của chúng ta
đối với quá khứ là điều cần đặt ra vì phải chăng trong thực tế con người luôn
đặt mình dưới sự bao bọc của quá khứ, và trong không ít trường hợp, sống trong
cái mà họ xem là hào quang của dĩ vãng.
Ý nghĩa của nhận định trên có thể xuất phát từ
phản ứng của tác giả đối với xu hướng bảo thủ, xem trọng cựu truyền và thường
tỏ ra đối nghịch với quan điểm cải cách của tác giả. Nẻo Về Của Ý ra đời trong bối cảnh sau-cuộc-bất-đồng giữa hai xu
hướng và mở đầu cho thời cơ hoạt động của xu hướng đổi mới về nhiều mặt của tổ
chức nhà Phật. Câu phát biểu “phải nhìn
về phía trước” hàm ý một tuyên ngôn hành động. Phổ quát. Nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa trong
nội dung làm việc. Và tuy rằng mới chỉ được giãi bày bằng ngôn ngữ của thơ và
bằng rung động của trái tim người thi sĩ
trong bóng
đêm
địa cầu quê
hương tôi đã mòn mỏi trông chờ
giờ mầu
nhiệm để vô biên hé mở
cho bóng
tối tan đi với niềm lo sợ
cho hội
Long-Hoa về
để pháp âm
tiếp nối bằng lời ca
tiếng hát em thơ
....
..... đêm
nay cầu cho khổ đau kết trái, hoa thành
cho sinh
diệt đi ngang dòng pháp thân bất diệt
cho suối
tình thương chảy tràn trên vạn lòng tha thiết
để loài
người học nói tiếng chân như
để tiếng
nói trẻ thơ thành giọng chim ca.
( Nhất Hạnh, Đêm Cầu Nguyện, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 7&8 (1&2.1966, tr. 4.)
Rõ rệt hơn là tấm lòng của người trong cuộc, xem nhẹ
gian nguy, hướng về nghĩa cả. Có thể nghĩ một nội dung quan yếu của chương
trình hành động chính là thông điệp về việc xây dựng lòng tin vào con đường đi
tới
đứng nhìn
bên khung cửa sổ sáng nay của cuộc đời
tôi thấy em
ngã xuống rồi em đứng dậy mỉm miệng cười
cầu nguyện
cho em đường để thân em lấm bụi thẹn thùng,
đừng để tên
em mang mặc cảm cô đơn vụng về yếu đuối
môt lần ngã
là một lần vùng dậy
để trưởng
thành
để cuộc đời
nhường một bước đứng lên
( Nhất Hạnh, Dựng Tượng Tuổi Thơ, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 6, tháng 12.1965,
tr. 3)
Nẻo
Về Của Ý, Lá Bối Sai gòn xuất bản, 1967, in lần thứ nhất, 352 trang, bìa của
Hiếu Đệ
Tình thương, ngoài ý nghĩa của thứ tình cảm quen
thuộc được khơi dậy, còn trở thành một động lực hầu như duy nhất được xem có
khả năng hóa giải được xung đột, sau khi triệt tiêu được mâu thuẫn nội tại nơi
mỗi cá nhân. Phải lạc quan đến mức nào mới có thể đạt được niềm tin rắn rỏi như
Nhất Hạnh. “ Chúng tôi nhất quyết không
thù ghét con người, dù con người có tỏ ra ác độc đến mấy đi nữa. Kẻ thù của
chúng ta không phải là con người; kẻ thù của chúng ta là vô minh, là cừu thù .”
( Nẻo Về Của Ý, sđd. tr. 304)
Dẫu sao, giữa dòng xã hội ngày một sớm tỏ ra xa
rời những nguyên tắc căn bản của sự phát triển cộng đồng, bỏ quên nhiều giá trị
nhân bản, Nẻo Về Của Ý, gần như ở vị
trí đơn độc giãi bày thành khẩn một niềm tin vào một giá trị đã phôi pha hoặc
bị thử thách gay gắt. Trong sáng và giản dị như sương mai - những yếu tố cổ
điển làm nên giá trị văn chương của tác phẩm, một lần nữa, làm mối mâu thuẫn nội tại thêm rõ ràng nơi con người đặt
hết lòng tin vào sự cách tân, vào việc tiến về phía trước.
Trần Mạnh Toàn
Tuesday, February 18, 2025
Tom Fawthrop : Đập Sanakham gây nỗi sợ hãi và lo lắng Dọc theo biên giới Thái Lan – Lào
Tom Fawthrop là nhà báo, nhà hoạt động môi sinh người Anh, người bạn đồng hành bấy lâu với Nhóm Bạn Cửu Long. Anh đã tường trình về sông Mekong trong 12 năm qua với tư cách là nhà nghiên cứu và diễn giả tại các đại học ở Singapore, Thái Lan, Cam Bốt, và Việt Nam. Các bài viết của anh về lưu vực này đã được phổ biến rộng rãi trên các tạp chí Economist, The Diplomat và The Guardian. Tom cũng là nhà sản xuất cuốn phim tài liệu “Where have All the Fish Gone” về thảm họa trên sông Mekong. Anh Tom vừa gửi cho chúng tôi bài viết mới nhất của anh đăng trên tạp chí The Diplomat ngày 14.02.2025 về dự án đập thuỷ điện thứ sáu trên dòng chính hạ lưu sông Mekong: Dự án Sanakham dọc theo biên giới Thái Lan và Lào được cho là đầy rủi ro, đang gây ra bao nỗi lo âu cho cư dân hai nước trong vùng xây đập. Cám ơn anh Tom Fawthrop đã đồng ý cho phép phổ biến rộng rãi bài viết này trên các diễn đàn tiếng Việt hải ngoại và trong nước. Ngô Thế Vinh
https://thediplomat.com/2025/02/sanakham-dam-sparks-fear-and-anguish-along-the-thai-lao-border/
Một dự án đập gây nỗi lo sợ từ lâu ở phía biên giới Lào đang được tiến
hành, bất chấp sự phản đối của cư dân địa phương.
Tại huyện Chiang Khan, một thị trấn du lịch đẹp như tranh của Thái Lan giáp với sông Mekong, sang năm mới đã mang đến những điềm báo ảm đạm về một dự án thủy điện dự kiến sẽ được xây bên phía nước láng giềng Lào chỉ cách đó 2 km.
Thanusilp
Inda, người đứng đầu làng Ban Klang ở huyện Chiang
Khan, đã bày tỏ sự lo lắng về tương lai. "Đập Sanakham sẽ là một thảm
họa đối với hệ sinh thái và cá, nó sẽ gây ra lũ lụt tồi tệ hơn", ông
nói với tờ Diplomat.
Ngay
trước Giáng sinh, Văn phòng Tài nguyên nước Quốc gia (ONWR) của chính phủ Thái
Lan thuộc Văn phòng Thủ tướng đã thông báo rằng quá trình tham vấn của Ủy ban
Sông Mekong MRC sẽ diễn ra, bất chấp cảnh báo từ Ủy ban Nhân quyền
Thái Lan (THRC) yêu cầu phải
thận trọng.
Trong một
bức thư gửi cho Thủ tướng Thái Lan Paetongtarn Shinawatra vào tháng 11 năm
2024, THRC đã khuyến cáo không nên hành động vội vàng cho đến khi hoàn thành
đánh giá kỹ lưỡng về tác động xuyên biên giới đối với người dân Thái Lan và
sinh kế của họ.
Báo cáo
nêu ra nhiều tác động, bao gồm lũ lụt và xói mòn bờ sông, sẽ gây thiệt hại cho
hai địa điểm du lịch quan trọng ở Thái Lan: Kaeng Khut Khu ở huyện Chiang Khan
và Phan Khot Saen ở tỉnh Nong Khai.
Hình 2: Toàn cảnh
biên giới Lào-Thái Lan, nhìn từ phía Thái Lan qua sông Mekong đến Lào. [ Ảnh của Tom Fawthrop.].
Ủy ban sông Mekong MRC liệt kê đây là đập thủy điện thứ sáu ở hạ lưu sông
Mekong do chính phủ Lào đề xuất. Hai trong số sáu dự án đã hoàn tất và hiện đang hoạt động phát điện [ *ghi chú của người
dịch: Xayaburi và Don Sahong ] và dự án
thứ ba, đập Luang Prabang, đang được xây dựng.
Chính phủ Lào đang phải gánh khoản nợ khổng lồ tuyên bố rằng việc xây dựng đập
của họ sẽ thúc đẩy nền kinh tế bằng cách xác định
Lào là một "bình phát điện của khu vực", bán điện sang các nước láng giềng.
Tuy nhiên, các nhà khoa học và chuyên gia về nghề
cá sông Mekong cho biết các con đập sẽ ngăn chặn dòng chảy tự nhiên của dòng sông, làm suy yếu sự
đa dạng sinh học phong phú của nó.
Hình 3: Bản đồ các đập dòng chính trên
sông Mekong đang hoạt động (màu đỏ) và đang được quy hoạch (màu vàng). [ Nguồn: International
Rivers.]
Thái Lan đóng vai trò quan trọng trong việc tài trợ hầu hết các con đập trên dòng chính hạ lưu sông Mekong. (Riêng Trung Quốc đã hoàn thành 12 con đập trên sông Lan Thương, là khúc thượng nguồn sông Lancang-Mekong.)
Gulf Energy là nhà đầu tư lớn của Thái Lan vào các đập
Sanakham và Pak Beng trong hạ lưu
sông Mekong, công ty này liên doanh
với Datang Overseas Investment của Trung Quốc.
Các Xã hội dân sự đấu
tranh giành tiếng nói
Vào ngày
21 tháng 1, 2025 chính phủ
Thái Lan đã tổ chức vòng tham vấn thứ ba theo thủ tục PNPCA của Ủy ban sông Mekong. Tại
khách sạn Sunee ở
Ubon Ratchathani, các tổ
chức phi chính phủ và xã hội dân sự với quan điểm bảo vệ môi sinh đã xung đột với nhóm lợi ích
của chính phủ Thái Lan trong việc khai thác tài nguyên nước của sông Mekong.
Các nhóm Ubon Flood Watch và Mekong River
Network (MRN) đã đặt phòng tại cùng một khách sạn, với hy vọng tổ chức được một diễn đàn song song. Các quan chức chính phủ
Thái không chấp nhận cuộc
cạnh tranh này và đã ra lệnh cho ban quản lý khách sạn hủy đặt phòng của MRN cho diễn đàn về đập Sanakham.
Giáo sư Kanokwan Manorom, giám đốc Trung tâm nghiên cứu xã hội Tiểu vùng Sông Mekong Mở rộng (GMS) tại Đại học Ubon Ratchathani, đã tham dự diễn đàn
ONWR. Bà nhận thấy sự thiếu sót các dữ liệu cụ thể và rất hời hợt khi đề cập tới tác động môi trường đối với người dân Thái Lan.
Như Manorom đã nói với Transborder News, "Đập
Sanakham sẽ gây ra những tác động nghiêm trọng đến thủy văn, sinh thái, xã hội,
kinh tế, văn hóa và sinh kế". Ngoài ra, bà lưu ý rằng "68 ngôi
làng ở tỉnh Loei và 47 ngôi làng ở tỉnh Nong Khai, với dân số 70.000 người, sẽ
bị ảnh hưởng nặng nề nhất vì chúng nằm trong vòng bán kính 15 km vùng dự án. Nhưng điều này đã không được diễn đàn ONWR
làm rõ và minh bạch".
Cả Văn phòng Tài nguyên nước Quốc gia / ONWR và Gulf Energy đều
không trả lời yêu cầu bình luận từ tạp chí The
Diplomat.
Sau khi diễn đàn xã hội dân sự song song bị hủy bỏ, khoảng 200 nhà hoạt động từ tỉnh Ubon Ratchathani đã tổ chức một cuộc biểu tình ôn hòa bên trong
khách sạn, mặc áo sơ mi xanh và mang theo những tấm biểu ngữ với nội dung như “Ngưng xây đập sông Mekong” và “Ngưng tham
vấn giả tạo”.
Hình 4: Một cuộc biểu tình phản đối
xây đập bên ngoài trường Mekong ở Chiang Khong, bên bờ Thái Lan của sông
Mekong. [ Nguồn: Nhóm Bảo tồn Chiang Khong. ]
Diễn đàn ONWR thứ tư và cũng là cuối cùng được lên lịch tại Bueng Kan
vào ngày 14 tháng 2, sẽ mở
đường cho các Diễn đàn những bên liên quan trong khu vực của Ủy ban sông Mekong / MRC. Tuy nhiên, các tổ chức phi chính phủ than phiền rằng tất cả các diễn đàn này đều hạn chế tranh
luận và không cho phép đặt câu hỏi về lý do tại sao cần có con đập này, ai được
hưởng lợi và liệu dự án có nên bị hủy bỏ hay không.
Di sản đập thủy điện Xayaburi
Nhiều người phản đối con đập mới Sanakham, họ chỉ ra sự thiệt hại
do đập Xayaburi đã gây ra ở
Lào kể từ khi bắt đầu hoạt động vào năm 2019. Đập nằm cách biên giới Lào-Thái khoảng 200 km về phía thượng nguồn tại huyện Chiang Khan.
Người đứng đầu Nhóm ngư dân huyện Chiang Khan, Prayoon Saen-ae, nói với The Diplomat,
“Khi
Xayaburi vận hành [năm
2019], chúng tôi đã phải chịu những tác động rất lớn. Sự lên xuống thất thường
của mực nước,
những biến động đã gây ra sự hỗn loạn cho các loài cá”.
Hình 5: Đập Xayaburi được hoàn thành
vào năm 2019. [ Ảnh do Công ty Thủy điện Pöyry cung cấp.]
Đập Xayaburi công suất 1.285 MW là con đập dòng chính đầu tiên được xây dựng ở hạ lưu sông Mekong, với chi phí 4,5 tỷ đô la. Đập được tài trợ bởi bốn ngân hàng lớn của Thái Lan và 95 % lượng điện được xuất cảng sang Thái Lan kể từ khi bắt đầu hoạt động.
Channarong thúc giục diễn đàn do ONWR tổ chức tại huyện Chiang Khan: "Chúng ta phải có báo cáo đầy
đủ về tác động của đập Xayaburi đối với người dân Thái Lan và nếp sống của họ
trước khi chúng ta xem xét tới một con đập mới". Ông không nhận được bất kỳ câu trả lời nào.
Tuy nhiên, chúng ta biết rằng tác động của nước
đọng (backwater impact) đã gây ra quá nhiều xói mòn bờ sông xung
quanh Khu Di sản Thế giới Luang Prabang đến mức cần phải có một dự án
phục hồi do Ngân hàng Thế giới tài trợ theo yêu cầu của UNESCO.
Hình 6: Một ngư dân huyện Chiang Khan.
Lượng cá đánh bắt đã giảm ở khu vực này kể từ khi đập Xayaburi hoàn thành.
Người dân địa phương lo ngại tác động tích lũy của đập Sanakham. [ photo by Saranya Aey Senaves
]
Người nghèo Thái
liệu có thể ngăn cản kế hoạch của giới chức năng lượng ở Bangkok?
Đáp lại những lời chỉ trích, Chính phủ Thái và các
nhà phát triển đập đã bảo vệ việc đầu tư vào các đập trên sông Mekong như một
phần của “Chính sách
Carbon
thấp / Low Carbon Policy”, nhằm cung cấp
các giải pháp thay thế "xanh và sạch" cho nhiên liệu hóa thạch.
Kế hoạch năng lượng quốc gia (NEP) của Thái Lan,
một bản thiết kế cho chiến lược năng lượng của đất nước từ năm 2023-2037, tuyên
bố mục tiêu chính của kế hoạch là tăng cường sử dụng năng lượng sạch, tái tạo
và mở rộng năng lượng mặt trời và năng lượng gió.
Tuy nhiên, việc chính phủ Thái bảo vệ thủy điện
như một nguồn "năng lượng tái tạo sạch" đang bị thách thức bởi
nghiên cứu về biến đổi khí hậu của Liên Hiệp Quốc cho thấy các đập lớn cũng thải
ra khí Methane có hại không kém. [*ghi chú của người dịch: Khí
Methane là nguyên nhân gây ra khoảng 30% sự gia tăng nhiệt độ hâm nóng toàn cầu
hiện nay.] Tại COP29, hội nghị về biến đổi khí hậu của Liên Hiệp
Quốc vào năm 2024, 159 quốc gia đã ký vào Cam kết khí Methane
toàn cầu. Duy có Thái Lan
và Lào đã từ chối tham gia.
Nikkei Asia Review đã mô tả Sarath Ratanavadi, Tổng
giám đốc điều hành của Gulf Energy, là một doanh nhân thành đạt được mệnh danh là "ông vua năng lượng" của Thái
Lan. Theo Forbes, ông ta có tài
sản trị giá 14,4 tỷ
đô la. Công ty của ông là nhà đầu tư chính vào cả hai đập Sanakham và đập Pak Beng.
Những người đánh cá nghèo và nông dân thu nhập thấp của Thái Lan có cơ hội nào để
tác động đến việc ra quyết định về một con đập có thể gây thiệt hại cho mùa
màng, làm giảm sản lượng đánh bắt cá và làm suy kiệt sinh kế của họ?
Hình 7: Các con đập
ở thượng nguồn đã làm giảm đáng kể lượng cá đánh bắt được, buộc nhiều ngư dân
phải tìm việc làm ở thị trấn. [ Photo by Tom Fawthrop.]
Brian Eyler, tác giả của “Những ngày cuối cùng của dòng sông Mekong
hùng vĩ”, thừa nhận rằng cuộc đấu tranh chống đập
Sanakham là một cuộc ganh đua rất
không cân sức. “Đây thực sự là câu chuyện David đấu với Goliath, nhưng chúng
ta đều biết câu chuyện này đòi hỏi lòng dũng cảm, sự thách thức và sức mạnh của
kẻ yếu. Dù có công bằng hay không, thì đây vẫn là cuộc chiến xứng đáng để đấu tranh”.
Brian nói thêm, “Không thể có lợi ích thống nhất
của Thái Lan [quốc gia] đối với con đập này hay bất kỳ con đập nào, nơi có
những khác biệt và xung đột lợi ích”.
Trang web của Gulf Energy chỉ ra một giải pháp khả thi để tránh xung đột. Nhà
cung cấp năng lượng lớn nhất của Thái Lan tuyên bố “Gulf Energy là công ty dẫn đầu trong lĩnh vực năng lượng mặt
trời”. Công ty
này nắm giữ trực tiếp cổ phần tại các trang trại năng lượng mặt trời và gió ở
Việt Nam, với tổng công suất là 245,8 MW. Họ cũng nắm giữ 50% cổ phần trong một
dự án năng lượng mặt trời tại Borkum Riffgrund, Đức với công suất là 464,8 MW.
Giáo sư danh dự về Địa lý Nhân văn Tiến sĩ Philip Hirsch đã kết luận sau 40
năm nghiên cứu về sông Mekong rằng "Các đập lớn đã lỗi thời. Có rất nhiều lựa chọn cho
năng lượng thay thế rẻ hơn. Không có lý do gì để xây dựng một con đập trên sông
Mekong hay bất kỳ con sông nào ngày nay".
Nhưng Premrudee Daoroung, điều phối viên của Dự án Sevana Mekong về Văn
hóa và Môi trường, không lạc quan rằng các
lập luận và phân tích hợp lý sẽ giành chiến thắng. Theo bà, "Có quá đủ
khoa học và trí tuệ để chứng minh thiệt hại nghiêm trọng từ những tác động
xuyên biên giới này, nhưng lại không đủ ý chí chính trị để áp dụng khoa học
nhằm ngăn chặn các con đập".
TOM FAWTHROP
The Diplomat, 14.02.2025
[Bản tiếng Việt của Tâm Bình]