Nên viết "dòng" hay "giòng" ?
Chúng ta cùng biết các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn viết “giòng sông, giòng nước”:
Nhất Linh: Giòng sông Thanh Thủy
Tú Mỡ: Giòng nước ngược
Thạch Lam: Theo giòng.
Các nhà văn, trí thức lớp sau viết “dòng sông, dòng nước”:
Doãn Quốc Sỹ: Dòng sông định mệnh (1959)
Phùng Khánh & Phùng Thăng: Câu chuyện của dòng sông (dịch cuốn Siddhartha của Hermann Hesse) (1965)
Nhật Tiến: Tặng phẩm của dòng sông (1972)
Đằng Phương Nguyễn Ngọc Huy: “Dòng nước sông Hồng” (viết 1945, in vào thi tập 1985)
Ngô Thế Vinh: Mekong, dòng sông nghẽn mạch (2007).
Vậy chúng ta nên theo các nhà văn lớp trước hay lớp sau?
1) Trước hết, ba cuốn tự điển Việt ngữ có thẩm quyền nhất của VN cho tới hiện nay:
--Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (trang 155),
--Tự điển Việt Nam của Lê Văn Đức & Lê Ngoc Trụ (quyển Thượng, trang 376),
--Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của (quyển I, trang 243)
cùng viết là “dòng.”
Cuốn Việt ngữ chánh tả tự vị do nhà ngữ học Lê Ngọc Trụ biên soạn cũng viết “dòng” (trang 141).
2) Các tự điển do những học giả có uy tín khác biên soạn như:
--Vietnamese-English Dictionary của Gs. Nguyễn Đình Hòa (trang126),
--Giúp đọc Nôm và Hán Việt của Lm. Trần Văn Kiệm (trang 388)
cũng viết là “dòng.”
Hầu hết các tự điển Việt ngữ xuất bản ở trong nước hiện nay và tự điển chữ Nôm (ở trong nước cũng như ở hải ngoại) cùng viết “dòng”:
Tự điển chữ Nôm trích dẫn (Westminster, CA, 2009): trang 299.
Tự điển chữ Nôm dẫn giải (Hà Nội, 2012): trang 452.
3) Các nhà biên soạn tự điển có lý do để viết “dòng” (với D).
Trong chữ Nôm. chữ ấy được viết như sau: 𣳔
Phía trước là bộ Thủy 氵(nước) để cho biết có liên quan đến nước.
Phía sau là chữ Dụng 用 (dùng) để chỉ cách phát âm.
Vậy đó là một chữ “có liên quan đến nước,” và phát âm giống chữ “dụng” (trong chữ Nôm đọc là “dùng”)
Vì phát âm giống “dụng” và “dùng,”chúng ta cùng thấy âm “dòng” gần và tự nhiên hơn.
Khi phát âm là “dòng,” thì viết với D là đúng.
Vì
lẽ đó, những ai thường tra cứu tự điển hoặc biết qua chữ Nôm (các Gs.
Doãn Quốc Sỹ, Trần Trọng San … và những người tốt nghiệp Đại học Văn
khoa sau các ông) có khuynh hướng viết “dòng.”
Gs./nhà văn Doãn Quốc Sỹ là con rể nhà thơ Tú Mỡ. Là một giáo sư Quốc văn, từng dạy và viết sách biên khảo về Tự Lực Văn Đoàn (Khảo luận về Tự Lực Văn Đoàn), ông biết rất rõ nhạc phụ đã viếtGiòng nước ngược (cũng như Nhất Linh, Thạch Lam đã viết Giòng sông Thanh Thủy, Theo giòng) nhưng ông không theo. Trong cương vị một nhà giáo, ông viết Dòng sông định mệnh, vì
nghĩ rằng như thế đúng hơn. Nhà văn Nhật Tiến có giao tình thân với văn
hào Nhất Linh. Ông là người đọc lời vĩnh biệt khi hạ huyệt trong tang
lễ Nhất Linh ở Sàigòn ngày 13-7-1963. Tuy biết rất rõ Nhất Linh đặt tên
cho tác phẩm cuối đời của mình là Giòng sông Thanh Thủy, năm 1972 Nhật Tiến vẫn đặt tên cho một tập truyện của ông là Tặng phẩm của dòng sông.
4) Các học giả Việt Nam viết ra sao?
--Gs. Dương Quảng Hàm:
Trong các tác phẩm văn học được liệt kê trong Việt Nam thi văn hợp tuyển và Quốc văn trích diễm, Gs. Dương Quảng Hàm luôn luôn viết “dòng”:
- Sông Lục đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng (Ca dao)
- Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước (bản dịch Tỳ bà hành)
--Các học giả Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim:
Khi phiên âm Truyện Kiều, hai học giả Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim
cũng viết “dòng”:
- Nao nao dòng nước uốn quanh (câu 55)
- Đem mình gieo xuống giữa dòng trường giang (câu 2636)
--Học giả Đào Duy Anh:
Trong Từ điển Truyện Kiều, học giả Đào Duy Anh cũng viết “dòng” như hai học giả Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim.
--Gs. Hoàng Xuân Hãn:
Trong Chinh phụ ngâm bị khảo, Gs. Hoàng Xuân Hãn cũng viết “dòng”:
- Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt (câu 17)
- Dòng nước sâu ngựa nản chân bon (câu 70).
Các học giả của Miền Nam trước 1975 như Gs. Trần Trọng San trong cuốn Văn học Trung Quốc đời Chu Tần, cũng luôn luôn viết: “ngược dòng, xuôi dòng, dòng dõi…”
Trong
các nhân vật lỗi lạc của Miền Nam trước 1975 có một vị viết “giòng.” Đó
là Lm. Cao Văn Luận, Viện trưởng Viện Đại học Huế. Cuốn hồi ký xuất bản
năm 1971 của Linh mục có nhan đề: Bên giòng lịch sử: Hồi ký 1940-1965. Không rõ có phải vì Linh mục chịu ảnh hưởng các
nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn?
5) Tại sao các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn viết “giòng”?
Khi các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn viết Giòng nước ngược và Theo giòng,
tuy Tự điển Việt Nam của Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ cùng Việt ngữ chánh tả tự vị của
Lê Ngọc Trụ chưa ra đời, nhưng hai bộ tự điển của Huỳnh Tịnh Của và Hội
Khai Trí Tiến Đức đã xuất hiện (1895 và 1931). Rất có thể các vị không
lưu tâm đúng mức đến bộ tự điển của Huỳnh Tịnh Của (xuất bản ở trong
Nam), nhưng nhiều phần vì các vị có thành kiến với Hội Khai Trí Tiến
Đức. Báo Phong Hóa đã đăng rất nhiều thơ văn giễu cợt, châm biếm
Hội này. Trong hoàn cảnh ấy, việc theo những đề nghị về phương diện
chính tả do tự điển Khai Trí Tiến Đức nêu lên khó xảy ra.
6) Tự Lực Văn Đoàn cũng có những sai lầm khác về phương diện chính tả.
Khi xuất bản lần đầu năm 1936, tập truyện ngắn của Khái Hưng mà nay chúng ta gọi là “Dọc đường gió bụi” được in với nhan đề Giọc đường gió bụi:
Thời nay chúng ta cùng biết rằng viết như thế là sai. Câu đầu bài “Chí làm trai” của Nguyễn Công Trứ vẫn được phiên âm là:
Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc.
Tự
Lực Văn Đoàn có những đóng góp rất quý giá về phương diện văn học và xã
hội. Về văn học, đóng góp của TLVĐ cho nền văn xuôi VN (và cho cả Thơ
Mới) rất đáng kể. Nhưng cách viết chữ quốc ngữ ở thời TLVĐ chưa hoàn hảo về phương diện chính tả. Đọc lại báo Phong Hóa, chúng ta thấy lỗi chính tả khá nhiều.
Vì những lẽ ấy, tuy vẫn nên viết tên các tác phẩm của Nhất Linh, Tú Mỡ, Thạch Lam là Giòng sông Thanh Thủy, Giòng nước ngược, Theo giòng (đó là những danh từ riêng, tên các tác phẩm đã có địa vị trong văn học sử), chúng ta vẫn nên viết “dòng” (dòng nước, dòng dõi, dòng tu …) trong những trường hợp khác.
Góp ý của nhà văn Nhật Tiến, California:
Dĩ
nhiên ta tôn trọng các tác phẩm đã in thành sách như của Nhất Linh
(Giòng Sông Thanh Thủy), Tú Mỡ (Giòng Nước Ngược) ..., và biết ơn công
trình làm mới văn chương của Tự Lực Văn Đoàn từ giữa thế kỷ trước,
nhưng phải nói rằng trong hai cơ quan ngôn luận của Văn đoàn này, tờ Phong Hóa và tờ Ngày Nay hãy còn chứa đầy rẫy lời văn thô sơ hay lỗi chính tả. Như một số mục chính trên tờ Phong Hóa đã dùng những từ mà cho đến nay không còn ai dùng nữa như Chuyện ngắn thay vì Truyện ngắn, Từ Nhỏ đến Nhớn thay vì Từ Nhỏ đến Lớn, Hạt đậu Dọn thay vì Hạt đậu Nhọn, tòa soạn quảng cáo :“Xem Phong Hóa số Tết, 20 trang. In mùi, có bìa giấy trắng” thay vì “Xem Phong Hóa số Tết, 20 trang. In mầu, có bìa giấy trắng” ..v..v…
Cho
nên tôi hoàn toàn đồng ý với những nhận định xác đáng của anh Trần Huy
Bích về việc viết chữ "dòng sông," thay vì viết "giòng sông."
Góp ý của Bác sĩ Hà Ngọc Thuần, Brisbane, Úc châu:
Bài viết của Anh Trần Huy Bích có thể gọi là "tường-tận": tường là nói rõ ràng, và tận là đã nói tới cùng. Có hai hệ-luận như sau: một là
trong tương-lai chúng ta nên nhất trí viết "dòng", nhưng vì Việt-Nam
không có Hàn-lâm-viện để quy-định chính-tả nên việc này tuy dễ mà khó.
Vả lại trong văn chương chẳng nên có sự bức-bách, bắt người viết phải
theo ý-kiến mình, dù đó là ý-kiến của số đông.
Cũng
không nên có sự chê-trách vội-vã đối với một bài văn vì một vài "lỗi"
chính-tả mà quên đi ý-tưởng của toàn thể bài viết. Việc này
thường đưa đến những mối bất-hòa không cần thiết. hai là sau này
khi tái-bản chúng ta có dám, hay có nên, thay đổi tựa đề của tác-giả mà
in là "Dòng Sông Thanh Thủy" (Nhất Linh), "Theo Dòng" (Thạch Lam) và
"Dòng Nước Ngược" (Tú Mỡ), hay là chúng ta bắt buộc phải tôn-trọng các
tác-giả và giữ nguyên tựa-đề như đã viết trong quá khứ.
Góp ý của Nha sĩ Nguyễn Thị Mỹ Ngọc, Columbus, Ohio:
Bản thân tôi nhiều khi cũng lúng túng vì chữ "dòng sông" và "giòng sông."
Cám
ơn anh Huy Bích đã tra cứu và giảng giải rất cặn kẽ. Từ nay
tôi sẽ dùng chữ "dòng" mà không còn phải lưỡng lự gì nữa.
Còn
chữ "giòng" coi như chữ cổ, vì ngôn ngữ theo thời gian có thể
đọc khác đi một chút, như "ông trời" ngày trước ta gọi là "ông
giời" vậy.
Góp ý của nhà văn Huy Văn Trương, Bellflower, California:
Tôi
thường viết "dòng sông, dòng dõi, dòng họ" vì tôi dựa theo tự điển của
Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ do nhà sách Khai Trí xuất bản năm 1970 tại
Sài Gòn.
Trong
cuốn tự điển này không có chữ "giòng"nào hết. Tôi dùng cuốn tự điển này
vì tôi thấy nó tạm đủ so với nhiều cuốn khác. Tuy vậy trong đó cũng có
nhiều chữ, theo tôi nghĩ vẫn còn trong vòng tranh cãi, như người ta
thường viết là "chia sẻ" thì trong tự điển Lê Văn Đức viết là "chia
xẻ"…
Từ
trước tới giờ tôi viết "dòng sông" vì theo tự điển nhưng vẫn thấy lấn
cấn thế nào đó. Cho đến khi đọc bài viết: Nên viết "dòng hay "giòng"
của anh Trần Huy Bích xong, tôi không còn thấy lấn cấn nữa, mọi thắc mắc
đã được giải toả. Đề nghị anh đăng bài viết của anh lên nhiều tờ báo để
mọi người cùng được đọc.
Góp ý của cô Nguyễn Thị Ngọc Dung,
cựu giáo sư Trung học Võ Tánh, Nha Trang:
Xin cảm ơn anh đã gửi một câu chuyện thú vị về văn chương, ngôn ngữ VN, cách viết chữ "Giòng" hay "Dòng."
ND cũng xin mạo muội chen vào, bày tỏ một vài ý kiến riêng, nho nhỏ:
1. ND cũng quen với chữ "Dòng" để chỉ "dòng sông" hay "dòng đời," và chữ "Giòng” để chỉ "giòng dõi."
2. Tuy nhiên, theo thiển ý, dù viết "giòng đời" hay "dòng dõi" cũng vẫn được. Điều quan trọng là KHÔNG SAI về ý nghĩa.
3. Riêng về chữ "dòng" hay"giòng," nếu suy từ chữ Nôm (dùng chữ "Dụng" thêm bộ "Thuỷ") thì “dòng" nghe có lý hơn là "giòng."
Góp ý của nhà biên khảo Phạm Xuân Hy, Paris, Pháp:
Cám
ơn anh đã cho đọc một bài viết hay, công phu, cặn kẽ, sáng sủa. Tôi
cũng xin được đồng ý với anh, quý anh, quý chị, là muốn tìm "nghĩa và
âm" của một chữ quốc ngữ ABC ngày nay, thì người ta có thể (chứ không
hoàn toàn tất cả), dựa vào chữ Nôm đã được tổ tiên chúng ta bỏ công lao
cấu tạo nên; như trường hợp chữ "dòng"𣳔.
Nhà
biên khảo Phạm Xuân Hy có nhã ý gửi cho chúng tôi một trang chữ Nôm với
chữ “Dòng.” Đó là trang đầu của bản Nội quy dành cho một dòng nữ tu
Công giáo Việt Nam mà ngày nay chúng ta quen gọi là “Dòng Mến Thánh
Giá.”
Những
chữ Nôm ở trang này là: “Phép Dòng Chị Em Mến Câu Rút Đức Chúa Giê Su”
(Chữ “Câu Rút” được phiên âm từ chữ La Tinh “Crux,” có nghĩa là Thánh
giá). Chữ “dòng” 𣳔 là chữ thứ hai của hàng chữ Nôm phía sau, với bộ Thủy 氵đứng trước chữ Dụng 用.
|
Phép Dòng Chị Em Mến Câu Rút Đức Chúa Giê Su
(Tài liệu của các nữ tu Dòng Mến Thánh Giá)
http://tranhuybich.blogspot.com
|
Nên viết “sử dụng” hay “xử dụng” ?
Trong cuốn Ngữ
vựng tiếng Việt đầu tiên (Westminster, CA, 2017), nơi trang 6, Giáo sư Trần
Ngọc Ninh cho biết theo nhận xét của ông, “trong
số các nhà văn nhà báo, có chừng 50 phần
trăm viết ‘sử dụng’ và áng 50 phần trăm viết ‘xử dụng’.” Nhân thấy hai
phía “tương đương,” Gs. Ninh không tỏ ra thiên về phía nào. Ông dẫn lời một nhà
làm tự điển, “thói quen là vua trong ngôn
ngữ” (sách đã dẫn, cùng trang).
Khi
cho học sinh viết chính tả, một cô giáo dạy Việt
ngữ không được nhiều tự do như thế mà cần có một ý niệm rõ rệt, dứt
khoát hơn.
Giữa hai cách viết “xử dụng” và “sử dụng,” nên hướng dẫn học sinh chọn
cách
nào, và tại sao lại nên chọn như thế ? Bài này được viết theo đề nghị
của hai
người bạn. Một người bạn trẻ, dạy tiếng Việt ở một Trung tâm Việt ngữ.
Người bạn
thứ hai lớn tuổi hơn, một bác sĩ y khoa quan tâm tới đất nước và những
vấn đề mang tính cách ngôn ngữ, văn hóa, nêu câu hỏi sau khi đọc xong
cuốn sách vừa kể của bác sĩ
Trần Ngọc Ninh.
Trước hết, “xử” (viết với X) là một từ khá thông dụng
trong tiếng Việt. Chúng ta nói “phân xử, xét xử, khu xử, xử trí, xử thế…” Xử cũng
chỉ lối sống của một kẻ sĩ ở ẩn, không chịu ra làm việc đời (Xử sĩ, Xưa nay xuất xử thường hai lối—Nguyễn
Công Trứ). “Xử nữ” cũng đồng nghĩa với “trinh nữ.” Trong khoa chiêm tinh Tây
phương, cung Virgo trong Zodiac được dịch sang tiếng Pháp là Vierge và tiếng Việt
là Xử nữ. Nhân từ “xử nữ,” có thêm từ Hán Việt “xử nữ mạc” (màng trinh). Vì sự
thông dụng của từ “xử,” khi cần diễn ý “xử dụng/sử dụng” với nghĩa “sai khiến,
dùng vào một việc gì,” nhiều người đã viết “xử dụng” (với X) một cách tự nhiên. Đó cũng là lựa chọn của người
viết những dòng này trong gần suốt thời gian ở Trung học, nghĩ rằng mình đã viết
đúng.
Hai chữ “xử” và “sử” đều là từ Hán Việt, có gốc chữ
Hán. Nếu từ “xử” trong “phân xử, xử thế, xuất xử” có gốc chữ Hán là 處 (cũng được đọc là “xứ”
như trong “xứ sở, xuất xứ”), thì từ “sử” với nghĩa “sai khiến” có gốc từ chữ 使. Trong Hán văn, để diễn ý “sai
khiến, dùng vào một việc gì,” người ta viết
使 hay 使用 (“sử” hay “sử dụng”).
Trong các tự điển Khang Hi và Từ Hải (biển các
từ), chữ 使
được cho biết là 从音史“tòng âm sử” (theo âm “sử,” phát âm như chữ "sử" 史với nghĩa lịch sử). Trong
The Pinyin Chinese-English Dictionary
do Gs. Wu Jingrong (吳景榮 = Ngô Cảnh Vinh) thuộc
Viện Ngoại ngữ Bắc Kinh làm chủ biên, thì chữ 使 có âm là “shĭ”
(“shi,” phát âm theo thượng thanh).
Trong các tự điển Hán-Việt, chữ ấy được ghi âm là
“sử” (viết với S, giống chữ “sử” trong “lịch sử”):
Hán Việt tự điển
của Thiều Chửu: trang 21;
Hán Việt từ điển
của Đào Duy Anh: trang 213;
Hán Việt tự điển
của Trần Trọng San: trang 20;
Từ điển Hán Việt
của Trần Văn Chánh: trang 152;
Từ lâm Hán Việt tự điển
của Vĩnh Cao và Nguyễn Phố: trang 62.
Trong
các tự điển Việt ngữ được coi là “có thẩm quyền,” hai chữ “sử dụng” cũng được
viết với S:
Tự điển Việt Nam
của Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ: trang 1321, quyển Hạ;
Đại Nam quấc âm tự vị
của Huỳnh Tịnh Của: trang 312, quyển 2.
Để
làm thí dụ, xin được trình bày phóng ảnh những đoạn về cách viết chữ ấy trong các tự
điển:
--Của Trần Trọng San:
--Của
Vĩnh Cao & Nguyễn Phố:
--Của
Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ:
Nhà
biên soạn tự điển Trần Văn Chánh còn dùng từ “sử dụng” trong lời văn của chính
ông:
“Sử” với nghĩa “sai khiến” là một từ khá thông dụng
trong cổ văn. Trong Luận ngữ, Khổng tử
từng trả lời một câu hỏi của Lỗ Định công về liên hệ vua tôi như sau: “Quân
sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung” (vua sai khiến bề tôi với lễ, bề tôi
phụng sự vua với lòng trung) :
(Luận ngữ, Thiên “Bát dật,” tiết 19).
Ở một đoạn khác
trong Luận ngữ, Khổng tử khuyên những
người trị nước muốn dùng sức dân (bắt dân làm những việc tạp dịch) phải “sử dân dĩ thời” (sai khiến dân đúng thời,
ngụ ý tránh những lúc dân đang bận vì các việc cấy gặt, đồng áng):
(Luận ngữ, thiên “Học
nhi,” tiết 5).
Trong một bài Đường thi khá được phổ biến (bài “Thục tướng,” vịnh
Thừa tướng nhà Thục Hán), Đỗ Phủ bày tỏ niềm thương tiếc Khổng Minh bằng hai
câu:
出師未捷身先死
長使英雄淚滿襟
Xuất sư vị
tiệp thân tiên tử
Trường sử
anh hùng lệ mãn khâm
(Ra quân chưa thắng thân đã thác
Khiến cho khách anh hùng nước mắt đầy vạt áo)
Tất cả các
nhà dịch thơ chúng ta biết đều viết chữ “sử” ấy với S:
Trần Trọng
Kim:
Trần Trọng
San:
Khi phổ biến
bài "Thục tướng" trên Net, tất cả các trang mạng được nhiều người biết tới cũng dùng
S để viết chữ “sử”:
Trên thivien.net:
Trên hoasontrang.us:
Trên saimonthidan.com:
Chữ “sử” 使 trong “quân sử thần dĩ lễ,” “sử dân dĩ thời,” “trường sử anh hùng
…” chính là chữ “sử” 使 trong động từ “sử dụng” 使用. Theo các tự điển, chữ ấy cùng âm với chữ “sử”
史 trong
lịch sử, sử ký... Khi ta dùng S để viết “lịch sử, sử ký, Quốc sử quán, sử quan,
sử gia …,” đương nhiên ta cũng nên dùng S để viết chữ “sử” trong “sử dụng.”
Trong
Việt ngữ, khi dùng làm động từ, chữ ấy được đọc là “sử,” nhưng khi dùng làm danh từ, sẽ được
đọc là “sứ.” Chúng ta có từ “sứ giả” (người được sai đi). Từ đó có thêm những từ
“đi sứ, sứ thần, sứ quán, ông Đại sứ …” Vì cùng một gốc chữ Hán 使, cách đọc những chữ ấy phải giống nhau. Không lẽ chúng
ta viết “sứ giả, sứ thần” với chữ S nhưng lại đổi dùng X để viết “sử dụng”
thành “xử dụng”?
Hiện nay số người viết “sử dụng” có vẻ mỗi ngày một nhiều hơn.
Đó là lối viết được ghi trong các tự điển.
TRẦN HUY BÍCH
Từ Hán-Việt nào để chỉ cha mẹ chồng