Tuesday, December 1, 2020

ĐGH Francis: Hãy mở lòng ta trước cái đau của tha nhân trong cơn đại dịch / TRÙNG DƯƠNG chuyển ngữ

 


Tác giả: Pope Francis
Nguyên tác:
Pope Francis: A Crisis Reveals What Is in Our Hearts

 Trong năm nhiều đổi thay vừa qua, tim óc tôi tràn ngập những người. Những con người tôi nghĩ tới và cầu nguyên cho, và đôi khi cùng khóc với họ, những người với cả tên tuổi và mặt mũi, những người chết mà không nói được lời giã từ với người thân yêu, những gia đình trong cơn khó khăn, cả đói khát, vì không có việc làm.

Đôi khi, nếu nghĩ sâu rộng hơn, ta có thể bị tê liệt: Có quá nhiều nơi hiển nhiên ngập trong cuộc xung đột vô tận; có quá nhiều khổ đau và nhu cầu. Tôi thấy thật hữu ích nếu chỉ chú tâm vào các hoàn cảnh cụ thể: ta thấy những khuôn mặt khao khát sự sống và tình thương trong thực tại của mỗi cá nhân, của mỗi dân tộc. Bạn thấy hy vọng hằn sâu trên từng chuyện của mỗi quốc gia, vinh quang bởi vì đấy là câu chuyện của cuộc tranh đấu thường nhật, của những mảnh đời gẫy đổ vì hy sinh chính mình. Do đấy thay vì để bị tràn lấp, ta hãy suy ngẫm và đáp ứng với niềm hy vọng.

Đây là giai đoạn trong đời sẵn sàng cho sự đổi thay và hoán cải. Mỗi người trong chúng ta thảy đều có lúc phải ngừng lại theo cách riêng, hay nếu ta chưa tới đó, một ngày nào đó ta sẽ tới: qua bệnh hoạn, thất bại trong một cuộc hôn nhân hay thương nghiệp, một nỗi thất vọng lớn lao hay sự phản bội. Như trong tình trạng cấm cửa bởi đại dịch Covid-19, những lúc này thường dẫn tới sự căng thẳng, một cơn khủng hoảng giúp biểu lộ những gì chứa chất trong tim ta.

Trong mỗi “Covid” riêng tư, tạm gọi như thế, ở mỗi lúc ngừng lại để suy ngẫm này, cái mà tim ta bộc lộ là cái ta cần thay đổi: Sự thiếu sót tự do nội tại, những thần tượng ta vẫn thường tôn thờ, những ý thức hệ ta vẫn gắng sống theo, những liên hệ ta đã tỏ ra thờ ơ.

Khi tôi bị ốm nặng ở tuổi 21, tôi đã trải nghiệm cái giới hạn của mình, sự đau đớn và niềm cô đơn. Nó đã thay đổi cách tôi nhìn đời. Trải qua nhiều tháng trời, tôi không còn biết tôi là ai hay tôi sẽ sống sót hay sẽ chết. Các bác sĩ cũng không biết là tôi có thể qua khỏi. Tôi nhớ đã ôm lấy mẹ tôi và nói, “Hãy cho con biết có phải con sắp chết không.” Hồi ấy tôi đang học năm thứ hai để trở thành linh mục tại một chủng viện ở Buenos Aires.

Tôi nhớ đó là ngày 13 tháng 8, 1957. Tôi được một vị quận trưởng đưa tới nhà thương khi ông nhận ra bệnh của tôi không phải là một trường hợp cúm có thể điều trị bằng thuốc aspirin. Ngay lập tức họ rút ra nguyên một lít rưỡi nước từ trong phổi của tôi, và tôi tiếp tục phấn đấu cho sự sống trong tôi. Tháng Mười Một kế đó họ giải phẫu và cắt đi một phần trên của lá phổi bên phải. Tôi hiểu phần nào cảm giác của bệnh nhân Covid-19 phấn đấu qua máy trợ thở.

Tôi đặc biệt nhớ tới hai y tá trong thời kỳ này. Một là bà trưởng khu trị bệnh, một nữ tu Dòng Dominican đã từng dậy học ở Athens trước khi đổi tới Buenos Aires. Sau này tôi được biết là sau khi bác sĩ khám tôi đi khỏi, vị nữ tu này bảo các y tá dưới quyền tăng gấp đôi số thuốc bác sĩ cho – đúng ra chỉ là thuốc penicillin và streptomycin – vì bà biết, theo kinh nghiệm, là tôi đang chết. Và Dì Cornelia Craglio đã cứu mạng tôi. Bởi vì, qua sự tiếp xúc thường nhật của bà với các bệnh nhân, bà hiểu cái họ cần hơn cả viên bác sĩ, và bà đã có cái can đảm hành xử qua sự hiểu biết của bà.

Một y tá khác, Micaela, cũng đã làm tương tự khi thấy tôi bị cơn đau cùng cực hành, đã bí mật cho tôi thêm thuốc trị đau. Các bà Cornelia và Micaela nay đã ở trên trời, song tôi vẫn còn mang nợ họ thất nhiều. Họ phấn đấu cùng với tôi tới phút cuối, cho tới khi tôi phục hồi. Họ đã dậy tôi tin dùng khoa học song đồng thời nếu cần vượt lên khi cần. Chính căn bệnh hiểm nghèo mà tôi đã trải qua dậy tôi tin tưởng vào lòng tốt và sự hiểu biết của tha nhân.

Chủ đề giúp đỡ tha nhân này đã theo tôi những tháng vừa qua. Trong dịp cấm phòng vì đại dịch tôi thường cầu nguyện cho quý vị đang tìm mọi cách để cứu mạng sống của bao người khác. Quá nhiều y tá, bác sĩ, nhân viên y tế đã trả giá bằng tình thương, cùng với các linh mục, các vị giáo sĩ, dân thường mà thiên hướng là phục vụ. Ta đáp lại tình thương ấy của họ bằng tiếc thương và vinh danh họ.

Dù họ ý thức hay không, sự lựa chọn của họ nói lên một niềm tin: đó là thà sống một đời ngắn ngủi phục vụ tha nhân hơn là có một đời sống lâu dài chống lại với lời kêu gọi đó. Vì vậy mà, tại nhiều quốc gia, dân chúng đã đứng bên cửa sổ hay trên thềm nhà hoan hô họ với lòng biết ơn và nể trọng. Họ là những vị thánh bên hàng xóm, những người đã thức dậy trong tim ta một điều quan trọng, khiến thêm một lần nữa những giảng dạy đã gieo rắc trong ta là sự tín cậy.

Họ chính là kháng thể chống lại con vi khuẩn thờ ơ. Họ nhắc nhở ta là đời sống là một tặng phẩm và ta trưởng thành qua việc cho đi chính chúng ta, không phải là bảo tồn chính mình mà là quên mình trong phục vụ.

Với vài ngoại lệ, các chính phủ nói chung đã nỗ lực tối đa để đặt lợi ích của dân họ lên trên hết, đã hành động quyết liệt để bảo vệ sức khỏe và cứu vớt mạng sống. Vài ngoại lệ gồm các chính phủ đã bỏ ngoài tai dữ kiện số người chết ngày một chồng chất, mà hệ quả đau thương không tránh được. Tuy vậy phần lớn các chính quyền đã hành xử với tinh thần trách nhiệm, áp đặt các hạn chế nghiêm ngặt để giữ không để bệnh dịch lây lan.

Vậy mà vẫn có những nhóm chống đối không chịu mang khẩu trang, họ diễn hành chống lại các hạn chế di chuyển – như thể việc các chính quyền phải đặt ra những hạn chế vì lợi ích của tha nhân là một tấn công chính trị vào sự tự trị hoặc quyền tự do cá nhân! Nhắm cái nhìn vào lợi ích chung quan trọng hơn tất cả những cái tốt cho riêng cá nhân. Có nghĩa là quan tâm tới mọi công dân và tìm cách đối phó hữu hiệu nhu cầu của những kẻ thiếu may mắn.

Thật dễ dàng cho một số người sử dụng một ý tưởng -- ở trường hợp này, chẳng hạn, là sự tự do cá nhân – và biến nó thành một ý thức hệ qua đó họ dùng để phán xét mọi sự.

Cơn khủng hoảng Covid đặc biệt vì nó ảnh hưởng tới phần lớn loài người. Song nó chỉ đặc biệt ở chỗ nó hiển hiện trước mắt ta. Hiện có hàng ngàn các cuộc khủng hoảng khác cũng ghê gớm nhưng ở khá xa nhiều người trong chúng ta nên ta có thể coi như chúng không hiện hữu. Hãy nghĩ, chẳng hạn, đến những cuộc chiến rải rác đó đây khắp thế giới; đến việc sản xuất và buôn bán vũ khí; đến hàng trăm ngàn dân di cư trốn chạy nghèo khó, đói khát và thiếu vắng cơ hội; đến nạn khí hậu thay đổi. Những thảm kịch này có thể xa xôi đối với ta, là một phần của bản tin hàng ngày mà, đáng buồn thay, chúng không xúc động ta được để thay đổi chương trình và các quan tâm hàng đầu của ta. Thế nhưng, cũng như khủng hoảng Covid-19, chúng ảnh hưởng tới toàn thể loài người vậy.

Hãy nhìn lại chúng ta lúc này: Chúng ta mang khẩu trang để che chở mình và tha nhân khỏi con vi khuẩn mắt ta không nhìn thấy. Thế còn bao nhiêu những con vi khuẩn khác mà ta không thấy song cần tự che chở khỏi chúng thì sao? Làm thế nào để đối phó với những cơn đại dịch tiềm ẩn đó đây trên thế giới, cơn đại dịch của đói khát và khí hậu thay đổi?

Nếu ta sẽ thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng dịch bệnh hiện tại như những con người bớt ích kỷ so với lúc ta mới rơi vào nó, ta cần để lòng mình xúc động trước mối đau của tha nhân. Trong cuốn “Hyperion” của [thi sĩ, triết gia Đức] Friedrich Hölderlin có câu này đã khiến tôi nghĩ là trong cuộc khủng hoảng hiện tại sự nguy hiểm không bao giờ là trọn vẹn hết, rằng luôn luôn có một lối thoát: “Ở đâu có nguy hiểm, ở đó có mãnh lực giải thoát.” Đó là thiên bẩm của lịch sử nhân loại: ta luôn có cách thoát ra khỏi sự tàn phá. Nơi nhân loại hành động chính là nơi đây, ngay trong chính sự đe dọa; chính đó là lúc cánh cửa mở ra.

Đây là lúc ta mơ giấc mộng lớn, suy ngẫm lại các ưu tiên của mình – cái chúng ta trân quý, cái chúng ta mong muốn, cái chúng ta tìm tòi – và quyết tâm hành động trong đời sống hàng ngày để thực hiện điều ta mơ ước.

Thượng Đế thách thức ta sáng tạo nên cái mới mẻ. Chúng ta không thể trở về với những an toàn giả tạo của các hệ thống chính trị và kinh tế trước khi xẩy ra cuộc khủng hoảng hiện nay. Chúng ta cần những nền kinh tế cho phép mọi người cùng với tới kết quả của công trình sáng tạo, để ai cũng đạt tới các nhu cầu căn bản về đất đai, nơi trú ẩn và việc làm. Ta cần các thể chế có thể hợp nhất và đối thoại với giới nghèo, những con người bị gạt ra ngoài lề và các kẻ cô yếu, một thể chế cho phép người dân tham dự vào những quyết định ảnh hưởng tới đời sống của họ. Ta cần đi chậm lại, ghi nhận và thiết lập các phương cách để cùng chung sống tốt hơn trên trái đất này.

Cơn đại dịch đã phơi bày điều rất trái ngược này, đó là chúng ta càng trở nên nối kết với nhau bao nhiêu thì đồng thời chúng ta lại càng chia rẽ bấy nhiêu. Chủ nghĩa tiêu thụ chóng mặt đã phá vỡ các ràng buộc thân thiết. Nó làm ta chỉ chú trọng tới việc tự bảo tồn và khiến ta lo âu. Nỗi sợ hãi của ta thêm tăng trưởng và bị khai thác bởi thứ chính trị ngụy dân đang tìm cách nắm quyền thao túng xã hội. Thật khó mà xây dựng một nền văn hóa đối đáp lại, mà trong đó chúng ta gặp gỡ những người cùng chia sẻ đức tính tự trọng, trong một nền văn hóa đang gạt bỏ đi mối quan tâm đối với người già cả, những kẻ thất nghiệp, tàn tật và thai nhi như những thứ ngoại vi của đời sống lành mạnh của ta.

Để ra khỏi cơn đại dịch khấm khá hơn, ta cần phải phục hồi sự hiểu biết rằng cũng là con người với nhau có nghĩa là chúng ta cùng chung một nơi đến. Cơn đại dịch đã nhắc nhở ta rằng không ai là người duy nhất được cứu sống. Cái ràng cột chúng ta lại với nhau là cái mà ta thường gọi là tình liên đới. Liên đới là một hành động hơn cả những hành xử độ lượng dù chúng cũng quan trọng; đó là lời kêu gọi hãy đón nhận lấy thực tại rằng chúng ta được ràng buộc với nhau bởi những sự nhân nhượng có đi có lại. Trên nền tảng vững vàng này ta sẽ xây dựng một tương lai tốt hơn, khác hơn và thắm đượm tình người.

-- Trùng Dương chuyển ngữ
Mùa Tạ Ơn 2020

 

(*) Bài trên rút ra từ cuốn sách mới của Đức Giáo Hoàng Francis, “Let Us Dream: The Path to a Better Future,” cùng viết với  Austen Ivereigh.