VỚI THE MEMOIRS OF PHẠM DUY
MỘT KẾT THÚC CÓ HẬU 20 NĂM SAU 2024
MỐI DUYÊN KHỞI ERIC HENRY VÀ TÔI
Lần đầu tiên tôi gặp TS Eric Henry, cách đây 7
năm (2017), và ngạc nhiên khi biết Eric là một cựu chiến binh Hoa Kỳ
trong chiến tranh Việt Nam, nhưng lại rất “ít chất lính”. Khi bước vào
lứa tuổi 20, tới hạn quân dịch Eric quyết định đơn giản: nhập ngũ làm bổn phận
một công dân, sau đó trở về đi học lại. Trong
thời gian quân ngũ, Eric vẫn rất ham đọc, và đã có được một số hiểu
biết về nền văn hóa Đông phương, đặc biệt
là Việt Nam và Trung Hoa. Eric có năng khiếu về ngôn ngữ, nói tiếng Việt khá
thông thạo và tinh tế.
*
Từ năm 2000 Eric đã không ngừng tìm hiểu về âm nhạc Việt Nam. Eric cho biết anh mê nhạc Phạm Duy từ lâu. Khoảng năm 2002 trong khi đi thăm một nhà sách Việt Nam, nhà sách Thế Hệ ở Falls Church, Virginia, Eric đã thấy, mua, và đem về nhà, quyển Hồi Ký [ I ] của Phạm Duy, và đã thấy ngay rằng đây là một tác phẩm có giá trị tối cao đối với bất cứ ai muốn hiểu thêm về Việt Nam trong hai thế kỷ vừa qua, qua các cuộc chiến tranh và những năm tháng hoà bình. Rồi anh đã thích thú đọc hết toàn bộ Hồi Ký 4 tập của Phạm Duy và cả cặm cụi dịch xong bộ sách trong vòng hơn một năm. Bản dịch ấy đã được Cornell University Press* nhận xuất bản từ 2009, bốn năm trước ngày Phạm Duy mất nhưng đến nay cũng đã 15 năm (2009-2024) cuốn sách ấy vẫn còn ở dạng bản thảo.
ERIC HENRY NĂM NĂM SAU
Năm năm sau lần gặp đầu tiên Eric Henry 2017, khi tôi vào
thư mục của Cornell University Press tìm mua bản tiếng Anh bộ Hồi Ký Phạm Duy
để tặng một người bạn Mỹ rất quan tâm tới văn hóa Việt Nam, nhưng không thấy,
tôi liên lạc ngay với Eric và anh cho biết cuốn sách vẫn chưa xuất bản, với lý
do là sau khi Phạm Duy mất, không có di chúc chỉ định quyền thừa kế cho riêng
một người con nào, nên cho đến nay, vì chưa có sự đồng thuận của tất cả 7 người
con trong gia đình Phạm Duy, nên Cornell University Press chưa thể tiến hành
xuất bản bộ Hồi Ký.
Và tiếp theo lần liên lạc đó, tôi đã nhận
được một chuỗi emails của TS Eric Henry, kể lại những bước gian truân của anh với bộ
Hồi Ký này, và tôi có hứa với Eric sẽ làm những gì có thể làm được trong khả
năng để bộ Hồi Ký The Memoirs of Phạm Duy có thể sớm ra mắt.
Bộ Hồi ký 4 tập của
Phạm Duy với hơn 1500 trang, qua giọng văn rất
bộc trực, Phạm Duy đã ghi lại khá trung thực các giai đoạn hào hùng và thăng
trầm của cuộc đời ông và cũng là của đất nước Việt Nam qua hai thế kỷ. Điểm tích cực là qua
bốn tập sách ấy, Phạm Duy không hề bêu xấu ai, và cả không che giấu những chi
tiết rất riêng tư của mình. Không chỉ là một nhạc sĩ với tài năng lớn – có
người gọi ông là thiên tài, qua bộ hồi ký, Phạm Duy còn là một nhà văn, với
những trang sách ông viết tràn đầy sức sống và cảm xúc, rất hấp dẫn và
cảm động. Với Một Ngàn Lời Ca, Phạm Duy còn là một nhà thơ.
Hình 4: Phạm Duy và TS Eric Henry, dịch giả Bộ Hồi Ký Phạm Duy, đã gặp lại nhau trong một quán cà phê tại Sài Gòn ngày 30/07/2009. Bộ ảnh cùng với các ghi chú hài hước của nhiếp ảnh gia Nguyễn Phong Quang, bạn của Eric, được sắp xếp theo chiều kim đồng hồ, từ trên trái: (a) kể lể cho nhau nghe, trên phải: (b) tranh luận, dưới phải: (c) không dễ để thuyết phục được nhau, dưới trái: (d) cuối cùng chúng tôi đã có tiếng nói chung. [photo & ghi chú của Nguyễn Phong Quang, tư liệu Eric Henry gửi cho Ngô Thế Vinh]
Hình 5: Phạm Duy đang khoe với hai ký giả Phố BolsaTV tập bản thảo tiếng Anh bộ Hồi Ký Phạm Duy 4 tập của TS Eric Henry. Theo dịch giả Eric Henry, sau khi Phạm Duy mất, vì chưa có được sự đồng thuận của tất cả những người con Phạm Duy nên cho đến nay The Memoirs of Phạm Duy vẫn chưa được phép xuất bản. [tư liệu của BolsaTV 26.01.2012]
Eric Henry đã gặp nhạc sĩ Phạm Duy như thế nào?
Eric Henry kể: “Cuối
mùa hè năm 2003, khi tôi đang đi thăm Little Saigon, gặp nhà báo Đỗ Ngọc Yến,
chủ bút tờ báo Người Việt, đã giúp
tôi làm quen với gia đình Phạm Duy. Nhưng lần đó Phạm Duy đang đi thăm Việt Nam (2003) chưa về, cho nên tôi chưa có cơ hội gặp ông, nhưng
tôi đã làm quen với anh Phạm Duy Hùng, là con thứ ba của nhạc sĩ. Khi gặp nhau ở nhà cha tại Midway
City, chúng tôi nói chuyện 2 tiếng đồng hồ về nhạc của người
cha, và lần đó tôi cũng được biết là Duy Hùng là người đàn ghi-ta rất giỏi. Anh
ấy mời tôi đưa ra nhan đề của
bất cứ ca khúc nào của nhóm Beatles, và bảo đảm là anh sẽ trình diễn được trên
ghi-ta. Vậy nên tôi đưa ra tên bài “Across the Universe” của John Lennon,
và anh Hùng, không chút nào do dự, đã đàn và hát cho tôi nghe bài ấy một cách
toàn vẹn lắm – không có âm nào đánh sai.”
Năm tháng sau, tức là tháng Giêng năm 2004, khi tôi đi Cali lần nữa, tôi mới được gặp Phạm Duy lần đầu tiên. Sau đó hai tháng, tôi đã gặp ông một lần nữa, và tôi đã đề nghị với ông bằng một bức thư gửi qua bưu điện, là tôi sẽ dịch bộ Hồi Ký Phạm Duy sang tiếng Anh.
Bức thư là như thế này:
Thư gửi Nhạc sĩ Phạm Duy:
Kèm
theo đây là ba chương mở đầu của Hồi Ký [ I ] dịch sang tiếng
Anh – xin mời Ông coi thử. Tôi thấy
rằng bốn quyển Hồi Ký của Ông là một tác phẩm có giá trị tối cao đối với bất cứ ai
muốn hiểu thêm về Việt Nam trong thế kỷ vừa qua.
Nếu Ông thấy cách phiên dịch của tôi trong mấy chương này chấp nhận
được, thì tôi sẽ tiếp tục làm, và sẽ đi tìm một nhà xuất bản để in ra về sau – tôi thấy là sự đồng ý của Ông sẽ giúp tôi nói
chuyện với các nhà xuất bản – nhưng
nếu Ông không muốn tôi làm công việc này – có lẽ Ông đã có người phiên dịch rồi, chẳng hạn – thì tôi sẽ ngừng tay ngay.
Tôi thấy việc phiên dịch dòng văn của Ông rất thích thú và không khó
khăn lắm – nếu mỗi buổi tối tôi dành một
tiếng đồng hồ cho công việc này thì trong vòng 3 đến 5 ngày tôi đều dịch xong một chương được, và khi nào gặp chỗ khó hiểu, thì tôi
có thể đi tham khảo với một số người bên đây. Tiện đây, xin cho Ông biết là mùa hè này tôi sẽ ở
Việt Nam với 10 sinh viên từ 13 tháng 6 đến 12 tháng 8 – vị trí là Nhà Khách Phạm Ngọc Thạch, Saigon – và sau đó tôi sẽ có mặt ở quận Cam từ ngày 12 đến
ngày 17, tháng 8. Hy vọng việc sáng tác “Mười Bài Hương Ca” đang tiến triển tốt đẹp, thuận lợi. Dư âm của mấy
bài đó vẫn trong tai tôi.
PHẠM DUY: VÌ TÔI LÀ TARZAN
Được sự đồng ý ngay của Phạm Duy, Eric
tiếp tục dịch bộ sách, và Eric thường gửi email đến Phạm Duy khi có câu hỏi đối với Hồi Ký, và được Phạm Duy hồi âm rất nhanh – có khi chỉ cần đợi một hai tiếng đồng hồ thôi. Có lần Eric gửi một số
câu hỏi đến ông, và trên email đó nói là “tôi biết rằng ông lúc này
rất bận” với việc tổ chức một cái show –
cho nên tôi thấy là ông
không cần trả lời nhanh và tôi chờ đợi được, không
sao. Nhưng chỉ sau một hai tiếng, tôi nhận được thư hồi âm của ông.
Trên đó ông nói, “Đúng như anh nói, tôi hiện giờ bận lắm, nhưng tôi vẫn trả lời nhanh
được, tại vì tôi là… Tarzan!”. Sau đó, trên một bức thư khác của
ông có câu: “Anh thấy không? Tarzan** vẫn đong đưa trong
rừng!"
Khi mới bắt đầu làm quen với Phạm Duy, tôi –
Eric Henry hứa
với ông là sẽ làm hai việc: lời hứa thứ nhất là tôi sẽ
làm trọn việc phiên dịch bốn quyển Hồi Ký của ông, lời hứa thứ hai là sẽ tìm được một
nhà xuất bản cho tác phẩm đó ở bên Mỹ.
Và rồi những emails trao đổi tiếp theo
giữa Eric và tôi đều có liên quan tới chặng đường gập ghềnh của bộ sách tiếng
Anh The Memoirs of Phạm Duy cho đến nay vẫn chưa có thể xuất bản.
Rất cảm ơn Anh quan tâm đến việc xuất bản
sách phiên dịch Hồi Ký Phạm Duy. Lịch sử của
các nỗ lực của tôi và các người "đồng minh” để xuất bản sách này
giống như lịch sử của chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô – là một đoạn lịch sử vô cùng dài và
vô cùng phức tạp. Bắt đầu từ đâu để kể cho rõ rành đây?
Ngoài Duy Đức ra, một nhân vật khác trong việc này
là Tina Phạm, luật sư của gia đình Phạm Duy – tôi đã từng trao đổi thư từ với Tina từ năm 2009. Duy Đức lúc nào cũng làm theo ý kiến của
Tina. Theo Tina, Duy Đức nên đòi hỏi nhà xuất bản Cornell bảo đảm là họ
sẽ “indemnify” (bồi thường) gia đình Phạm Duy nếu họ bị công ty Phương Nam
kiện. Nhưng Sarah Grossman, tổng biên tập của Cornell nói với tôi
là Cornell không thể phát hành một văn kiện “bảo đảm" như thế. Sarah
Grossman đã phát hành giùm tôi một văn kiện khác tuyên bố là Nxb Cornell sẽ tuyệt đối không tìm cách bán tác phẩm này
trên đất Việt Nam. Nhưng Tina và Duy Đức chưa thỏa mãn với lời hứa chính thức này của Cornell.
Tôi là Trịnh Hải Phương, Phó Giám đốc công ty
TNHH MTV Sách Phương Nam, có nhận được thư của ông Eric Henry đề
nghị cho phép xuất bản bản tiếng Anh "Hồi ký nhạc sĩ Phạm Duy" ở
Mỹ. Sau khi chúng tôi kiểm tra lại nội dung hợp đồng độc quyền khai
thác các tác phẩm của nhạc sĩ Phạm Duy thì nhận ra công ty Phương Nam
chỉ độc quyền khai thác trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Do đó công ty
Phương Nam không giữ quyền khai thác tác phẩm của nhạc sĩ Phạm Duy ngoài lãnh
thổ Việt Nam. Về đề nghị của ông thì thuộc quyền quyết định của gia
đình nhạc sĩ Phạm Duy, những người thừa kế. Do đó ông có thể liên hệ với gia
đình nhạc sĩ Phạm Duy để trao đổi.
Trân trọng, Trịnh Hải Phương
Kính gửi Ông Trịnh Hải Phương,
Rất
cám ơn Ông gửi thư hồi âm. Thư của Ông rất rõ rệt và rất là giúp việc. Tôi sẽ cho
Nxb Cornell và gia đình nhạc sĩ Phạm Duy biết về thư này ngay lập tức. Tôi thấy
là mỗi người sẽ yên tâm hơn; (và trong
bản dịch Hồi Ký tôi sẽ nói về vai trò quan trọng của Công ty
Phương Nam trong việc hồi hương của nhạc sĩ Phạm Duy. Tôi thấy là nếu hồi
trước không có Phương Nam, thì cuộc hồi hương ấy chắc là không có cách nào thực
hiện được.) Một lần nữa, xin hết lòng đa tạ Ông và các đồng
nghiệp. Xin chúc Ông mọi sự tốt đẹp.
Eric
Henry
Kính gởi ông Henry,
Cám ơn ông đã hồi âm, công ty Phương Nam
chỉ góp một phần nhỏ
trong việc phổ biến những giá trị nghệ thuật của nhạc sĩ Phạm Duy đến với
người dân Việt Nam.
Cá nhân Phương Nam cũng rất cảm kích công việc ông đã
làm cho nhạc sĩ Phạm Duy và hy vọng tập hồi ký được sớm
xuất bản.
Trân trọng, Trịnh
Hải Phương
Như vậy, Công ty Phương Nam không những không phản đối việc này, mà còn hy vọng là The Memoirs of Phạm Duy được sớm xuất bản.
Cám ơn Anh gửi cho tôi thấy thiếp chúc mừng 1996,
và bức thư 1995 mà đều mang bút tích của cố nhạc sĩ. Tôi sẽ tiếp tục cung cấp
chi tiết về vụ tìm cách xuất bản The Memoirs of Phạm Duy. Cám ơn Anh liên lạc với Duy Minh, Duy
Cường và Duy Đức. Tôi thấy là Duy Cường, giống như tôi, rất muốn thấy
Cornell xuất bản The Memoirs. Thân ái, Eric
Nay
mai, tôi sẽ viết thêm một chút về vụ xuất bản “The Memoirs”. À, suýt quên: 3 bản hợp đồng mà tôi
đã gửi cho Anh không chút nào “classified”. Muốn trích dẫn câu nào, xin tùy nghi! Chúc Anh thoải mái, yên tâm.
Hình 7: Eric
Henry tới
thắp nén nhang trên ngôi mộ chưa xây của nhạc sĩ Phạm Duy. Eric Henry viết: ảnh
này được chụp vào ngày 13 tháng 11, năm 2013. Ngày đó tôi đi với Nguyễn Phong Quang, Duy Cường, và một
bạn gái của Duy Cường từ Sài Gòn đến nghĩa trang tỉnh Bình Dương để thăm mộ Phạm Duy. Nấm mồ khi đó chưa được hoàn thành, chưa có pho tượng Phạm Duy. [Photo by Nguyễn Phong Quang]
BA BỨC THƯ NGÔ THẾ VINH GỬI
NHỮNG NGƯỜI
CON NHẠC SĨ PHẠM DUY
Mặc dù đang rất bận rộn, nhưng
do sự trân quý sự nghiệp âm nhạc / văn hóa của nhạc sĩ Phạm Duy, tôi đã không ngần ngại chia sẻ
những ý nghĩ tâm huyết với Duy Minh, Duy Cường, Duy Đức và các Anh Em trong gia đình Phạm Duy, chỉ
với mục đích duy nhất là làm sao vượt qua tất cả những trở ngại hiện nay để bộ
Hồi Ký The Memoirs of Phạm Duy sớm được xuất bản.
Tôi có nhắc, là mấy năm cuối đời Bố Phạm Duy đã quan tâm và kỳ vọng rất nhiều về bộ Hồi Ký bản tiếng Anh nếu được xuất bản ở Mỹ. Năm 2012, một năm trước khi Phạm Duy mất, trong một cuộc phỏng vấn Ông còn hãnh diện nhắc bộ sách The Memoirs of Phạm Duy. Đến nay 2022, 10 năm đã trôi qua, bản tiếng Anh ấy vẫn còn nằm ở Đại Học Cornell như một bản thảo. Và người dịch cuốn sách ấy là Tiến Sĩ Eric Henry, mà mấy Anh Em cũng đã từng gặp, Anh ấy năm nay cũng đã 79 tuổi rồi, với tuổi đã cao như vậy, nếu có vấn đề gì về sức khỏe đột ngột xảy ra cho Anh ấy, thì bao nhiêu công sức của Anh Eric Henry và của Bố Phạm Duy sẽ có nguy cơ bị rơi vào quên lãng! Sẽ rất đáng tiếc!
Và như vậy, tiếng nói quyết định cuối cùng để The Memoirs of Phạm Duy có thể được
Cornell University Press xuất bản là nơi 7 anh em – những người con thừa kế di
sản Phạm Duy.
Một cuốn sách được xuất bản bởi một Đại Học danh tiếng như Cornell, sẽ được lưu trữ nơi các thư viện lớn trên thế giới, để từ đó có thể mở ra các cuộc nghiên cứu, đây không chỉ là niềm tự hào của Bố Phạm Duy mà còn niềm hãnh diện cho các thế hệ thứ 2 thứ 3 của gia đình nhạc sĩ Phạm Duy. Hãy không để dự án lớn này bị "đứt gánh giữa đường” để sau này chỉ còn lại là sự hối tiếc!
...
Bằng mọi giá, Duy Minh Duy Cường Duy Đức và
Các Anh Em cần có nỗ lực "tạo thuận" cho giấc mơ của
Bố Phạm Duy trở thành hiện thực, để rồi ra, Duy Minh Duy Cường Duy Đức và
Các Em sẽ không phải thốt nên câu là "rất tiếc"...
Last but not least, Think Big nha mấy Anh Em!
…
Các emails này tôi đều có gửi cho Anh Eric được đọc, trong một email thứ
ba không rút ngắn, có thêm đoạn này:
…
Thập niên 1970, khi anh
Vinh họp một Hội nghị Sinh Viên Á Châu bên Nhật, anh
Vinh thấy các bảng hiệu rầm rộ quảng cáo cho cuốn phim "Love
Story" mô phỏng theo cuốn tiểu thuyết cùng tên của Erich Segal với câu catchphrase ấy là: "Love
means never having to say you're sorry / Yêu là không bao giờ
phải nói câu là anh rất tiếc". Anh Vinh lúc này
thì nghĩ tới tình yêu thương của những đứa con đối với Bố
Phạm Duy. Bằng mọi giá, Duy Minh và Các Em cần phải "tạo
thuận" cho giấc mơ của Bố Phạm Duy trở thành hiện thực, để rồi
ra, Duy Minh và Các Em sẽ không phải thốt nên một câu là "rất
tiếc".
Đó là những điều tâm huyết mà Anh Vinh
muốn chia sẻ với Duy Minh, Duy Cường, Duy Đức và các Anh Em.
…
Eric Henry viết:
Anh Vinh thân quý, Thiệt ra,
tôi rất thích draft email [3] mà Anh
đã gửi cho tôi thấy ngày hôm qua — trong khi đọc, tôi thấy là cách viết
của nó hùng biện đến
độ “chuyển trời rung đất”, có đầy đủ sức lực
khiến
thần quỷ rơi lệ, tuy vậy, nếu Anh
thấy là draft mới nhất sẽ hữu hiệu hơn, thì tôi cũng xin tuân
theo. I trust your judgement.
Với 3 bức tâm thư được gửi đi và đã đến người nhận, nhưng rồi vẫn là sự im lặng của những người con Nhạc sĩ Phạm Duy. Không biết ngày mai của bộ Hồi Ký ấy sẽ ra sao: Que Sera, Sera… Và rồi trong sự tin cậy, Eric Henry sau đó cũng đã gửi tôi một copy bản thảo bộ sách The Memoirs of Phạm Duy như "Của tin gọi một chút này làm ghi." [Nguyễn Du]
Được Eric Henry tặng cuốn sách đồ sộ “Garden
of Eloquence / Thuyết Uyển, của Lưu Hướng”, do Eric Henry dịch và giới
thiệu, như một đáp lễ, qua Amazon tôi gửi tặng Eric bộ sách Chân
Dung
Văn
Học
Nghệ
Thuật
và Văn Hóa I & II. Chỉ 3 ngày sau, tôi nhận được email hồi âm của Eric:
“Giống như Anh, tôi suốt nhiều năm đã
được cái may mắn trở nên khá thân mật với nhiều người bất thường tầm – vẫn chữ của Eric.
Tiếc thay, họ đang dần dần trở thành người của trăm năm cũ rồi. Tôi nên
bắt chước Anh và thử viết một tập “chân dung” để vinh danh họ.”
…
Để hoàn tất bản dịch hơn một ngàn trang sách, rồi tìm được một nhà xuất
bản Mỹ trong dòng chính như University Press, còn là cả một chặng đường dài
gian truân, như qua một câu thơ Tản Đà: Hai vai gánh nặng con đường thời xa,
và rồi chúng tôi cùng chúc cho nhau, giữ sao cho chân cứng đá mềm.
Bất ngờ, ngày 13 tháng 10, 2024 tôi
nhận được một eMail rất ngắn của anh Eric:
“Xin chia sẻ với Anh Vinh tin mừng về Hồi Ký Phạm Duy: Người dịch (tôi), người thừa kế Phạm Duy Đức, và Cornell University Press đã thành lập một hợp đồng có chữ
ký của cả ba bên. Tôi thấy là một trong những yếu tố mà đã
dẫn đến kết quả này là các nỗ lực hai năm trước của anh Vinh về việc này.” [ trích email
của TS Eric Henry, gửi Ngô Thế Vinh ngày 13/10/2024 ]
THỎA THUẬN NÀY được lập vào ngày 20 tháng 9 năm 2024 giữa Eric Henry, “dịch giả” và “người thừa kế”
của Phạm Duy, do Phạm Duy Đức đại diện, và Cornell University Press, một bộ phận của
Cornell University, được tổ chức và duy trì theo và theo luật của Tiểu bang New York, có văn phòng đặt
tại
512 E. State Street
Ithaca, NY 14850
sau đây gọi là “Nhà xuất bản”, về Hồi ký của Phạm Duy gồm bốn tập được dịch từ tiếng Việt sang
tiếng Anh, sau
đây gọi là “Bản dịch”.
1. QUYỀN ĐƯỢC CẤP CỦA NGƯỜI THỪA KẾ
A. Người thừa kế
cấp cho Dịch giả
quyền dịch Tác phẩm sang tiếng Anh và chuẩn bị bản dịch để xuất bản, bao gồm việc
chuẩn bị bất kỳ tài liệu quan trọng nào, bao gồm nhưng không giới hạn ở phần
giới thiệu và chú thích, theo các hướng dẫn do Nhà xuất bản thiết lập.
B. Người thừa kế
có quyền xem xét và phê duyệt Bản dịch trước khi xuất bản. Vì lợi ích đảm bảo
Bản dịch được xuất bản nhanh chóng, Người thừa kế đồng ý chuyển cho Nhà xuất bản sự
chấp thuận hoặc các chỉnh sửa của mình trong vòng hai mươi ngày làm việc kể từ
khi nhận được Bản dịch và đồng ý thêm rằng Nhà xuất bản có quyền từ chối bất kỳ
thay đổi nào, ngoại trừ việc sửa lỗi đánh máy hoặc lỗi thực tế.
C. Người thừa kế
cấp cho Nhà xuất bản giấy phép độc quyền để xuất bản và bán từng tập Bản dịch
trên toàn thế giới, ngoại trừ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hoặc cho
các tổ chức, cơ quan hoặc công ty kinh doanh trực tuyến với tên miền .vn và
đăng ký bản quyền Bản dịch dưới tên của Đại học Cornell.
Hình 8: Bản Hợp Đồng 4
trang giữa người thừa kế Phạm Duy Đức, Cornell University Press Giám đốc Jane
Bunker, và Dịch giả TS Eric Henry đã ký kết một bản hợp đồng vào
ngày 20 tháng 9 năm 2024 cùng thoả thuận cho Cornell University Press xuất bản bản dịch
tiếng Anh cuốn Hồi Ký của Phạm Duy / The Memoirs of Phạm Duy. [tài liệu TS
Eric Henry gửi Ngô Thế Vinh].
E. Di sản đảm bảo rằng Tác phẩm nói trên không vi phạm bất kỳ
bản quyền nào hoặc vi phạm bất kỳ quyền sở hữu nào, không xâm phạm quyền riêng
tư của bất kỳ người nào, không chứa bất kỳ vấn đề tai tiếng hoặc phỉ báng nào;
và Người thừa kế
sẽ bảo vệ, bồi thường và giữ cho Nhà xuất bản vô can trước mọi khiếu nại, vụ
kiện, tổn thất, thiệt hại, và chi phí mà Nhà xuất bản có thể phải chịu nếu bất
kỳ tòa án có thẩm quyền nào phán quyết ngược lại về bất kỳ khía cạnh nào.
A. Dịch giả sẽ dịch trung thực và chính xác các
tập tiếng Việt gốc của Tác phẩm sang tiếng Anh và sẽ cung cấp các tài liệu quan
trọng bằng tiếng Anh, bao gồm
nhưng không giới hạn ở phần giới thiệu và chú thích, nếu Nhà xuất bản cho là
cần thiết.
B. Dịch giả đảm bảo rằng không đưa vào Bản dịch
bất kỳ vấn đề nào có tính chất phản cảm hoặc phỉ báng không có trong Tác phẩm
gốc. Dựa trên sự bảo đảm đó, Cornell University Press sẽ bảo vệ Dịch giả khỏi mọi vụ kiện chống lại hoặc phát sinh do anh ta gây ra với
lý do Bản dịch có chứa bất kỳ điều gì phản cảm hoặc phỉ báng.
C. Dịch giả cấp cho Nhà xuất bản giấy phép độc quyền
để xuất bản và bán Bản dịch trên toàn thế giới, ngoại trừ Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam hoặc cho các tổ chức, cơ quan hoặc công ty kinh doanh trực
tuyến với tên miền .vn, trong thời hạn hai mươi (20) năm kể từ ngày xuất
bản lần đầu tiên ấn bản Bản dịch của Nhà xuất bản và đăng ký bản quyền bản dịch
tiếng Anh dưới tên của Đại học Cornell.
D. Dịch giả đồng ý cung cấp, theo hình thức và
nội dung mà Nhà xuất bản chấp thuận, các tài liệu điện tử bao gồm toàn bộ bản thảo của
Bản dịch, cùng với bất kỳ tài liệu quan trọng nào, theo các hướng dẫn do Nhà
xuất bản thiết lập và sẽ cung cấp các tài liệu đó sau cho mỗi tập:
Tập 2: Ngày 25 tháng 04 năm 2025
Tập 3: Ngày 25 tháng 10 năm 2025
Tập 4: Ngày 25 tháng 04 năm 2026
F. Vai trò của Dịch giả sẽ được
ghi nhận trên trang bìa, trang bản quyền và trang nhan đề của tất cả các phiên bản của Bản
dịch.
A. Nhà xuất bản có toàn quyền in, xuất bản và phân phối Bản dịch
dưới dạng bản in và kỹ thuật số trên toàn thế giới, ngoại trừ Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngoài ra, Nhà xuất bản sẽ không bán hoặc cấp phép bất
kỳ phiên bản điện tử nào của Bản dịch cho các tổ chức, cơ quan hoặc công ty
kinh doanh trực tuyến với tên miền .vn.
B. Nhà xuất bản đồng ý xuất bản từng tập của Bản dịch trong thời
gian hợp lý kể từ khi nhận được các tài liệu điện tử đã chuẩn bị từ Dịch giả, với tập đầu tiên sẽ xuất
hiện vào hoặc sau ngày 5 tháng 10 năm 2025. Nhà xuất bản sẽ tự chi trả và theo
phong cách mà Nhà xuất bản cho là phù hợp nhất với việc bán Bản dịch. Mọi chi tiết
về cách thức xuất bản, sản xuất và quảng bá, bao gồm giá bán, số lượng và địa
điểm nhận bản sao miễn phí, sẽ do Nhà xuất bản quyết định. Tên ấn bản Bản dịch
của Nhà xuất bản sẽ được Người thừa kế, Dịch giả
và Nhà xuất bản chấp thuận chung. Tuy nhiên, nếu không thể đạt được thỏa thuận
giữa ba bên kịp thời, Nhà xuất bản có quyền quyết định về tên mà không cần tham
khảo thêm với Người thừa kế, Dịch giả.
C. Mỗi tập của Tác phẩm sẽ được phát hành dưới dạng tên theo dấu
ấn Ấn phẩm Chương trình Đông Nam Á của Nhà xuất bản.
D. Nhà xuất bản sẽ phát hành đồng thời các phiên bản bìa cứng và
bìa mềm của tác phẩm.
E. Nhà xuất bản sẽ đăng ký bản quyền Bản dịch dưới tên của Đại
học Cornell.
F. Nhà xuất bản đồng ý đưa vào trang bản quyền của Bản dịch tiêu
đề, dòng bản quyền và năm xuất bản của ấn bản gốc của Tác phẩm và/hoặc các bộ
phận cấu thành của nó nếu Tác phẩm là biên soạn tài liệu đã xuất bản trước
đó.
G. Nhà xuất bản không được đưa bất kỳ
tài liệu mới nào vào văn bản gốc của Tác phẩm mà không có sự cho phép trước
bằng văn bản của Người thừa kế, Dịch giả.
H. Nhà xuất bản có quyền đưa vào các
tài liệu quan trọng, bao gồm nhưng không giới hạn ở phần giới thiệu và chú
thích của Dịch giả để cung cấp bối cảnh quan trọng, lịch sử hoặc văn học cho
Bản dịch. Có thể hiểu rằng bảo đảm của Người thừa kế trong §1D ở trên không mở
rộng cho các tài liệu này.
Người thừa kế, Dịch giả đồng ý từ bỏ
tiền bản quyền đối với tất cả các phiên bản in và kỹ thuật số của Bản dịch do
Nhà xuất bản phát hành hoặc cấp phép.
Dịch giả đồng ý tự chi trả để có được
các quyền cần thiết để in lại các đoạn trích và/ hoặc hình minh họa sẽ được đưa
vào Bản dịch hoặc trong bất kỳ bản tóm tắt nào của Bản dịch hoặc trong bất kỳ
phiên bản được cấp phép nào khác của Bản dịch; Dịch giả sẽ chuyển các quyền đó
bằng văn bản cho Nhà xuất bản cùng với bản thảo cuối cùng.
Bất kỳ mục lục nào của Bản dịch mà
Nhà xuất bản yêu cầu sẽ do Dịch giả cung cấp hoặc nếu không phải do Dịch giả
cung cấp thì do Dịch giả phải chi trả.
Người thừa kế, Dịch giả cấp cho Nhà xuất
bản toàn quyền và độc quyền để hoạt động như đại lý của họ trong việc thực hiện
các quyền và giấy phép sau đây đối với Bản dịch trên toàn thế giới, ngoại
trừ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc cho các tổ chức, cơ quan hoặc công
ty kinh doanh trực tuyến với tên miền .vn: in lại, toàn bộ hoặc một phần;
câu lạc bộ sách; xuất bản nhiều kỳ; sao chép cơ học hoặc điện tử; và quay phim
vi mô và các kỹ thuật tương tự.
Bất kỳ quyền và giấy phép nào không
được nêu trong điều khoản này, cũng như tất cả các quyền và giấy phép đối với
Bản dịch hiện đang tồn tại hoặc sẽ tồn tại trong tương lai, đều do Người thừa kế, Dịch giả giữ lại.
Nhà xuất bản có thể miễn phí xuất bản
hoặc cho phép người khác xuất bản hoặc phát sóng trên đài phát thanh, truyền
hình hoặc các phương tiện điện tử khác trên toàn thế giới, ngoại trừ tại
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc cho các tổ chức, cơ quan hoặc công ty
kinh doanh trực tuyến với tên miền .vn, các trích đoạn ngắn như vậy từ Bản
dịch, đặc biệt là để quảng bá và đánh giá tài liệu, theo đánh giá của Nhà xuất
bản sẽ có lợi cho việc bán Bản dịch. Nhà xuất bản cũng có thể miễn phí cấp phép
xuất bản Bản dịch bằng chữ nổi Braille hoặc các hình thức khác cho người khiếm
thị.
Nhà xuất bản sẽ cung cấp miễn phí cho
cả Người thừa kế, Dịch giả năm (5) bản sao
của ấn bản bìa mềm đầu tiên của Bản dịch. Di sản và Người dịch có thể mua thêm
các bản sao của Bản dịch từ Nhà xuất bản tại bất kỳ thời điểm nào trong tương
lai khi đang được in theo lịch trình giảm giá sau đây từ giá niêm yết của Hoa
Kỳ.
10 đến 19 bản — 45 phần trăm
20 đến 99 bản — 50 phần trăm
100+ bản — 55 phần trăm
Bất kỳ lúc nào sau 20 (hai mươi) năm
kể từ ngày xuất bản lần đầu tiên tập cuối cùng của Bản dịch theo thỏa thuận
này, Nhà xuất bản hoặc Dịch giả đều có quyền hủy bỏ thỏa thuận này bằng cách
thông báo bằng văn bản cho bên kia hoặc đại diện của họ, thông qua dịch vụ cá
nhân hoặc qua thư, đã đăng ký hoặc cách khác. Bản quyền của Bản dịch nói trên
sau đó sẽ được chuyển giao cho Dịch giả và Nhà xuất bản sẽ thực hiện việc
chuyển nhượng cần thiết theo yêu cầu. Sau khi hủy bỏ như vậy, Nhà xuất bản đồng
ý chuyển giao cho Người thừa kế, Dịch giả tất cả các quyền
được cấp trong đây, ngoại trừ bất kỳ giấy phép nào trước đây do Nhà xuất bản
cấp sẽ tiếp tục có hiệu lực theo các điều khoản của các giấy phép đó.
Không bên nào chịu trách nhiệm về sự
chậm trễ hoặc không thực hiện do chiến tranh, bạo loạn, đình công, hỏa hoạn, lũ
lụt, cái gọi là "thiên tai", hạn chế của chính phủ, thiếu vật liệu,
gián đoạn dịch vụ sản xuất hoặc các trường hợp khác nằm ngoài tầm kiểm soát của
họ.
Theo sự đồng thuận chung, thỏa thuận
này có thể được chuyển nhượng toàn bộ, bởi bất kỳ bên nào và bên được chuyển
nhượng sẽ có tất cả các quyền và biện pháp khắc phục của bên ban đầu, nhưng
không bên nào có quyền chuyển nhượng bất kỳ phần lợi ích nào trong đây.
Thỏa thuận này sẽ áp dụng và ràng
buộc người thi hành di chúc, người quản lý, người kế nhiệm và người được chuyển
nhượng của các bên tương ứng và sẽ được diễn giải và ý nghĩa của nó được hiểu
theo luật của Tiểu bang New York. Tất cả các bên tại đây đồng ý rằng bất kỳ
tranh chấp hoặc bất đồng nào phát sinh theo bất kỳ điều khoản nào của nó sẽ
được giải quyết tại tòa án thuộc thẩm quyền của Tiểu bang New York hoặc Hoa Kỳ.
Thỏa thuận này có thể được thực hiện
trong một hoặc nhiều bản đối tác, mỗi bản đối tác sẽ được coi là bản gốc, nhưng
tất cả các bản đối tác đó khi kết hợp lại sẽ tạo thành một và cùng một văn bản.
Phạm Duy Đức
Jane Bunker, Giám đốc
Eric Henry
LỜI GIỚI THIỆU CỦA DỊCH GIẢ VỀ HỒI KÝ PHẠM DUY
Phạm Duy: Con người, Nhạc sĩ và Người viết hồi
ký
Thông tin tiểu sử cơ bản. Phạm Duy (1921 –
2013); tên thật là Phạm Duy Cẩn, vừa là nhạc sĩ sáng
tác nhiều nhất của Việt Nam vừa là một trong những nhân vật công chúng được
nhắc đến nhiều nhất trong lịch sử gần đây của Việt Nam. Sinh ra tại Hà Nội, bên
Hồ Gươm, ông là con út trong số năm người con của nhà báo, nhà cải cách và nhà
văn đầu thế kỷ 20 Phạm Duy Tốn. Người con trai cả trong gia đình này, Phạm Duy
Khiêm, là một nhà ngoại giao và nhà văn lỗi lạc, và một người con trai khác,
Phạm Duy Nhượng, vừa là nhạc sĩ vừa là nhà giáo dục.
Phạm Duy đã viết bài hát đầu tiên của mình, "Cô
Hái Mơ," vào năm 1942, khi vẫn còn là một ca sĩ và nghệ sĩ guitar
nghiệp dư. Ông bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp của mình vào đầu năm 1944 khi
ông gia nhập đoàn opera Đức Huy Charlot Miều. Ông đã lưu diễn khắp mọi miền đất
nước trong hai năm với đoàn kịch này, giải trí cho khán giả với tư cách là ca
sĩ hát nhạc tân nhạc hoặc "nhạc mới" giữa các tiết mục, đồng thời làm
quen với âm nhạc dân gian của mọi vùng mà ông đi qua.
Năm 1946, ông tham gia kháng chiến Việt Minh,
đầu tiên là chiến sĩ du kích và sau đó là thành viên của nhiều đơn vị nghệ
thuật có nhiệm vụ giải trí và truyền cảm hứng cho những người lính. Trong thời
gian này, ông đã viết những bài hát yêu nước, chẳng hạn như "Xuất
Quân", những bài hát theo phong cách dân gian, chẳng hạn như "Ru
Con" và những bài hát khao khát lãng mạn, chẳng hạn như "Bên
Cầu Biên Giới". Tất cả những bài hát này đều trở nên nổi tiếng ngay
lập tức. Cũng trong thời gian này, ông đã gặp và kết hôn với ca sĩ kiêm diễn
viên Thái Hằng (là chị của nhạc sĩ Phạm
Đình Chương và ca sĩ Thái Thanh), họ có tám người con, sáu người trong số họ đã
trở thành nhạc sĩ theo đúng nghĩa của họ.
Ông rời Việt Minh vào cuối năm 1950 để thoát
khỏi sự kiểm soát về mặt ý thức hệ, và định cư tại Sài Gòn vào đầu năm 1951.
Trong hai mươi bốn năm tiếp theo, ông thống trị bối cảnh âm nhạc ở miền Nam.
Ông đã thực hiện một số chuyến đi đến các quốc gia, đầu tiên là Pháp, để mở
rộng kiến thức âm nhạc, và sau đó là các nước châu Á khác và đến Hoa Kỳ để tạo
mối quan hệ và quảng bá âm nhạc của mình. Ông là người có công trong việc thành
lập nhóm Hợp Ca Thăng Long, có lẽ
là nhóm biểu diễn chuyên nghiệp nhất trong số nhiều nhóm biểu diễn xuất hiện ở
miền Nam trong thời đại này. Ông xuất sắc trong cả việc viết lời bài hát và
soạn nhạc cho những bài thơ do người khác viết. Ông tích cực tham gia làm phim
vào những năm 50 và 60; và trong những năm 60 đã có nhiều nỗ lực để nâng cao nhận thức của quần chúng về âm nhạc dân gian.
Vào cuối những năm 1960, ông đi đầu trong phong trào Du Ca, mục đích của phong
trào này là chống lại chủ trương thương mại trong âm nhạc đại chúng bằng cách
thu hút sinh viên đại học vào việc sáng tác và biểu diễn các bài hát. Trong
suốt sự nghiệp của mình, ông đã cung cấp hàng trăm bài hát nước ngoài cho khán
giả Việt Nam bằng cách cung cấp cho họ lời tiếng Việt.
Năm 1975, chỉ vài ngày trước khi miền Nam sụp
đổ, ông di tản sang Hoa Kỳ và sau
hai năm ở Florida, gia đình ông chuyển về định cư tại Midway
City, California, bên cạnh Little Saigon. Ông là tác giả của khoảng hai chục bản trường ca
về nhiều chủ đề khác nhau, mỗi bản đều gắn liền theo một cách nào đó với văn
hóa, lịch sử hoặc số phận của Việt Nam. Hai trong số những bài ca nổi tiếng nhất là Con
Đường Cái Quan và Mẹ Việt Nam. Sau năm 1975, ông đã viết hàng chục
bài hát phản ánh trải nghiệm của người Việt tị nạn. Ông cũng đã
viết các bản trường ca mới, bao gồm một nhạc cảnh gồm năm bài thơ của Hoàng Cầm, một
bối cảnh gồm hai mươi bài thơ trong tù của Nguyễn Chí Thiện, một bối cảnh khác gồm chín bài thơ của
nhà thơ theo đạo Thiên chúa Hàn Mặc Tử và một bộ
mười bài hát về chủ đề Thiền, lời bài hát do chính ông viết. Vào cuối những năm
1990, ông bắt đầu viết minh họa Kiều sử dụng các trích đoạn từ tác phẩm thơ
nổi tiếng đầu thế kỷ XIX của thi hào Nguyễn Du. Trong
suốt giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1999, ông đã đi lưu diễn các nước
với tư cách là một diễn giả, ca sĩ và nghệ sĩ guitar để quảng bá cho các bản trường ca của mình.
Năm 2000, sau cái chết của vợ, ông bắt đầu thực hiện các chuyến trở về Việt Nam, nơi mà mặc dù âm nhạc của ông đã chính thức bị cấm từ năm 1975, ông vẫn được cả những người dân thường và các nhân vật chính phủ nồng nhiệt chào đón. Vào tháng 5 năm 2005, ông đã trở về Việt Nam vĩnh viễn và nhà nước bắt đầu từng bước dỡ bỏ các hạn chế đối với việc biểu diễn âm nhạc của ông. Khi đó đã ở độ tuổi cuối tám mươi, ông vẫn tiếp tục sáng tác các bài hát, giúp điều hành một quán cà phê âm nhạc ở Sài Gòn và đi lưu diễn xuất hiện trước khán giả đến nghe nhạc của ông. Vào tháng 1 năm 2013, ông bị suy nhược cơ thể do suy tim và qua đời vào ngày 27 cùng tháng 1, 2013.
Ngoài bộ hồi ký này, ông còn là tác giả của khoảng tám trăm bài hát, khoảng ba trăm bộ lời tiếng Việt cho các bài hát ngoại quốc, nhiều bài báo, sách phương pháp chơi guitar, một cuốn sách về lịch sử ban đầu của nhạc đại chúng ở Việt Nam, một cuốn sách về những người ông từng quen biết và một số cuốn sách về nhạc dân gian Việt Nam, bao gồm cả sách tiếng Anh, Musics of Vietnam, Southern Illinois University Press, 1975.
Phạm Duy – Nhạc sĩ
Việt Nam có rất nhiều thể loại nhạc. Các thể loại chính bao gồm nhạc cung đình,
nhạc được giới trí thức ưa chuộng, một số thể loại opera truyền thống, khoảng
một chục thể loại nhạc dân gian vùng miền, nhiều thể loại thơ-ngữ điệu bán
nhạc, nhạc của hơn sáu mươi sắc tộc thiểu số và tân nhạc, hay "nhạc
mới", dùng để chỉ nhạc đại chúng chịu ảnh hưởng của phương Tây. Những
người mới nghe nhạc này sẽ nhận thấy ngay rằng các ca sĩ Việt Nam sử dụng thành
thạo một loại nhạc cụ vi âm khiến giọng hát của họ nghe khá khác biệt so với
Trung Quốc, Hàn Quốc hoặc Nhật Bản. Người nghe cũng có thể nhận thấy sự hiện
diện của âm thanh buồn bã, nhung lụa của một nhạc cụ đặc trưng của Việt Nam:
đàn bầu hoặc đàn một dây,
tạo ra một thanh âm rung
được các ca sĩ sử dụng.
Phạm Duy là một trong những người sáng lập ra tân nhạc, ra đời vào cuối những
năm 1930, được thúc đẩy bởi sự gia tăng tiếp cận qua đài phát thanh với nhạc đại chúng của Pháp và quốc tế. Kể
từ khi ra đời, tân nhạc đã trở thành trung tâm của những nỗ lực tự chuyển đổi
của người Việt Nam, khi họ tìm cách thoát khỏi ách thống trị của chế độ phong
kiến và chủ nghĩa thực dân và tạo ra một loại hiện đại phù hợp và có lợi cho
quốc gia của họ. Không có vấn đề nào liên quan đến bản sắc dân tộc mà không
được phản ánh hoặc thảo luận trong lời bài hát đại chúng của Việt Nam.
Tân nhạc tuân theo nhiều thông lệ giống nhau và xuất hiện ở nhiều địa điểm giống như nhạc đại chúng ở các quốc gia khác. Ví dụ, những người viết giai điệu và biên soạn lời ca thường là những người khác nhau, vì vậy một bài hát nhất định sẽ xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Thông thường, người viết giai điệu là tác giả của cả lời bài hát và giai điệu; ở Việt Nam, hầu hết những người viết giai điệu theo nghĩa này đều là nhà thơ cũng như nhạc sĩ. Mặc dù thuật ngữ tân nhạc ám chỉ đến âm nhạc không tồn tại nếu không có ví dụ hoặc sự kích thích của nhạc đại chúng phương Tây, nhưng thuật ngữ này thực sự bao gồm rất nhiều phong cách khác nhau. Một ví dụ nhất định về tân nhạc có thể nghe hoàn toàn không phải của phương Tây, hoặc có thể nghe hoàn toàn không phải của châu Á, hoặc có thể nằm ở một điểm nào đó giữa hai thái cực đó (đây là trường hợp trong phần lớn các trường hợp). Không có ranh giới xác định nào phân chia tân nhạc với âm nhạc truyền thống. Những người viết nhạc của nó được tự do ám chỉ đến các phong cách truyền thống nhiều như họ muốn. Tương tự như vậy, không có ranh giới xác định nào trong tân nhạc phân chia nghiêm túc với phù phiếm, hoặc thương mại với nghệ thuật. Phần lớn lãnh thổ âm nhạc được bao phủ bởi thuật ngữ tân nhạc được người Việt Nam coi là có giá trị nghệ thuật và các bài hát và lời bài hát liên quan là chủ đề của nhiều cuộc thảo luận về mặt thẩm mỹ. Ví dụ, nhiều người Việt Nam đam mê tân nhạc tuyên bố thích nhạc "tiền chiến". Đối với người Việt Nam, “tiền chiến” có nghĩa là trước năm 1946, năm bắt đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Tuy nhiên, trong thực tế, thuật ngữ này được sử dụng rất lỏng lẻo; những người yêu nhạc có xu hướng mô tả bất kỳ bài hát nào mà họ thích là “tiền chiến”, bất kể năm nào bài hát đó ra đời.
Một thuật ngữ khác thường gặp trong các cuộc thảo luận về tân nhạc là “nhạc vàng”. Theo nghĩa hẹp, thuật ngữ này ám chỉ đến thứ nhạc thương mại, buồn bã, theo công thức, được hát trong các quán cà phê để xoa dịu những dây thần kinh mệt mỏi của những khách hàng đang khát khao sự lãng quên. Thể loại nhạc này đã vô cùng phổ biến ở Việt Nam kể từ khi tân nhạc ra đời. Nó cũng là một đối tượng tấn công cụ thể của các nhà tư tưởng cộng sản Việt Nam, những người cho rằng nhạc vàng là thứ nhạc của sự thất bại, một loại nhạc chắc chắn sẽ khiến người nghe suy đồi về mặt đạo đức và chắc chắn sẽ khiến các quốc gia mà nó thịnh hành phải đi đến sự hủy diệt. Chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã nỗ lực mạnh mẽ để đàn áp nhạc vàng, và thay vào đó là thúc đẩy thứ mà mọi người gọi là “nhạc đỏ”, về bản chất có nghĩa là “nhạc đồng chí vui vẻ”. Nhưng than ôi, nhạc đỏ thiếu sức hấp dẫn sâu sắc đối với người nghe nhạc vàng, và ít người quan tâm đến nó, ngoại trừ một số ít người mà nó có thể gợi lại những ký ức hoài niệm về những ngày tháng trong quân ngũ.
Một thể loại nhạc thường được nhắc đến khác là
nhạc quê hương, hay “nhạc bản địa”. Thể loại này đề cập đến những bài hát chịu
ảnh hưởng của dân gian gợi nhớ đến vùng nông thôn, hoặc một vùng đất cụ thể nào
đó gợi nhớ đến người sáng tác. Một tập hợp con quan trọng của thể loại này bao
gồm các bài hát được viết theo phong cách miền Trung, đặc trưng bởi giai điệu
trưởng trôi chảy với nhịp điệu chậm. Nhiều ví dụ hay nhất về tân nhạc thuộc thể
loại nhạc quê hương.
Tất nhiên, nhiều tân nhạc, đặc biệt là ngày nay,
bao gồm nhạc thương mại không có giá trị nghệ thuật. Thể loại nhạc này thường
được gọi là “nhạc trẻ” hoặc “nhạc thời trang”. Bất kỳ bài hát nào có nhịp điệu
techno làm nền và không có đặc điểm nào của Việt Nam có thể nhận dạng được đều
có thể thuộc thể loại này. Điều tốt nhất tôi có thể nói về những bài hát thuộc
thể loại này là chúng tự hủy hoại—chúng không bao giờ tồn tại quá vài năm.
Phạm Duy là người sáng tác nhiều nhất và có phong cách đa dạng nhất trong số tất cả các nhạc sĩ tân nhạc, đã sáng tác hơn tám trăm bài hát trong suốt sự nghiệp lâu dài của mình. Phong cách và tâm trạng của ông rất đa dạng đến nỗi phải mất nhiều tháng nghe nhạc của ông, tác giả hiện tại mới có thể tự tin nói rằng một giai điệu cụ thể nào đó là "đặc trưng của Phạm Duy".
Đối với Phạm Duy, sáng tác là một hình thức khám
phá và tái tạo thế giới; do đó, ông trải qua các giai đoạn; khi ông khám phá
xong một lĩnh vực kinh nghiệm, ông lại chuyển sang lĩnh vực khác. Do đó, Phạm
Duy có nhiều ý nghĩa đối với nhiều người; mọi người đều có một Phạm Duy mà họ
đặc biệt ngưỡng mộ hoặc đặc biệt ghét bỏ. Ví dụ, một số người sẽ nói rằng họ
đặc biệt gắn bó với những bài hát ông viết khi tham gia Kháng chiến, và sẽ tỏ
ra thờ ơ với mọi thứ ông viết sau đó. Những người khác sẽ nói rằng những bài
hát tình ca của ông trong những năm 50 và 60 là những phần đáng nhớ nhất trong
tác phẩm của ông. Những người khác nói rằng những bài hát mà ông tôn vinh bản
sắc dân tộc Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành nên
những cá nhân yêu nước của họ. Những người khác đặc biệt bị thu hút bởi bối
cảnh ông tạo ra từ tác phẩm của một số nhà thơ cụ thể, hoặc những bối cảnh
trong các bài hát của ông thể hiện khát vọng siêu việt. Những người khác trân
trọng nhất những bài hát phản chiến mà ông viết vào những năm 60 và đầu những
năm 70. Những người khác nữa lại bị thu hút bởi tác phẩm của ông trong lĩnh vực
dân ca, đôi khi viết lại những phiên bản cải biên của các giai điệu truyền
thống, và đôi khi sáng tác những phiên bản mở rộng của những câu thơ dân gian
nông thôn, sau đó ông phổ nhạc. Đối với những người khác, nhiều bài hát sau năm
1975 của ông về trải nghiệm tị nạn đại diện cho đỉnh cao trong sự nghiệp sáng
tác của ông. Tóm lại, dù mọi người nói về ông bằng lời khen ngợi hay chê bai,
ông vẫn là chủ đề trò chuyện yêu thích. Điều này sẽ không xảy ra nếu những bài
hát của ông không đáng nhớ.
Phạm Duy – Người viết hồi ký
Một nhà làm phim tài liệu Việt Nam nổi tiếng mà
tôi quen biết đã nói với tôi cách đây vài năm tại Hà Nội rằng gần đây ông đã
nghĩ đến việc viết một bộ hồi ký. Sự nghiệp của riêng ông, không kém gì Phạm
Duy, đã gắn liền mật thiết với số phận hiện đại của dân tộc ông – nhưng khi ông đọc
bốn tập Hồi ký của Phạm Duy, ông cảm thấy một cảm giác thất bại – làm sao ông có thể
hy vọng sánh được với khả năng hồi tưởng vô tận về con người, địa điểm và sự
kiện của Phạm Duy? Hay sự hăng hái và sắc sảo không ngừng nghỉ mà ông trình bày
chúng? Vào thời điểm tôi có cuộc trò chuyện này, mọi người ở Hà Nội đều đang
đọc cuốn sách - nó đã bị cấm, nhưng thành phố vẫn tràn ngập những bản sao tự
sản xuất. Những người đọc cảm thấy rằng nó đã nói lên sự thật về các sự kiện
lịch sử và thể hiện quan điểm mà chính họ đã giữ trong suốt cuộc đời mình,
nhưng chưa bao giờ dám bày tỏ.
Trên thực tế, không có bộ hồi ký Việt Nam nào khác mà tôi biết cung cấp cho người đọc một lịch sử xã hội và chính trị được ghi chép phong phú hơn về Việt Nam trong thế kỷ vừa qua. Không có điều gì thoát khỏi sự chú ý của tác giả, không có điều gì mà ông không quan tâm một cách thông minh. Vì vậy, nếu bạn muốn hiểu bất cứ điều gì về sự phát triển của thể thao, thời trang, công nghệ, điện ảnh, nói chuyện đường phố, mỹ thuật, văn học, báo chí và vô số lĩnh vực hoạt động khác của Việt Nam, bạn không thể làm gì tốt hơn là coi những Hồi ký này là nơi đầu tiên để tìm đến.
Xuyên suốt những hồi ức này là một tín điều được
duy trì một cách thách thức và kiên trì từ đầu đến cuối, một tín điều có thể
được diễn đạt là “Không có gì quý giá hơn đối với cá nhân hay quốc gia hơn là
sự tự do cá nhân hoàn toàn”. Tác giả tự định nghĩa mình là một người đàn ông
hiện đại tinh túy, phản đối mọi hạn chế phong kiến, dù là loại truyền thống,
loại xã hội chủ nghĩa hiện đại, loại ý thức hệ cánh hữu hay bất kỳ loại nào
khác. Như ông nhận xét trong lời bạt của toàn bộ tác phẩm, “Tôi là một người
không bao giờ ngoan ngoãn nghe lời người khác, mà thay vào đó, tôi tự do rong
ruổi trên những con đường tự do do chính tôi lựa chọn”.
Một điều đi kèm khác của lập trường này là quyết
tâm trình bày một phiên bản thực tế, thay vì một phiên bản chỉnh sửa, về cuộc
sống riêng tư của ông – do đó, nhiều mối
tình của ông, cả trước và sau khi kết hôn, đều xuất hiện trong Hồi ký. Ông chỉ
xin lỗi một cách vừa phải về chúng; thực tế, ông thường cảm thấy những tập phim
này rất quan trọng đối với cuộc đời ông với tư cách là một nhạc sĩ. Những chi
tiết khác mà hầu hết những người viết hồi ký Việt Nam sẽ cố gắng che giấu cũng
xuất hiện. Ví dụ, ông thừa nhận rằng thành công của ông với tư cách là một ca
sĩ lưu diễn của "nhạc mới" vào năm 1944 đã khiến ông hoàn toàn quên
mất mẹ mình và những thành viên khác trong gia đình, những người mà ông chưa
bao giờ viết một lá thư nào; và ông thừa nhận rằng ông yêu thích sự thoải mái
và giải trí của giai cấp tư sản ngay cả khi, với tư cách là một nhà cách mạng
tận tụy, ông đã phục vụ Việt Minh ở những vùng được giải phóng trong cuộc Kháng
chiến.
Hầu hết người Việt Nam không chỉ không chia sẻ
lòng tận tụy cấp tiến của Phạm Duy đối với tự do cá nhân, mà còn gặp khó khăn
ngay cả khi tưởng tượng ra một lòng tận tụy như vậy có thể liên quan đến điều
gì – nó trái ngược với mọi quan niệm truyền thống về
hành vi đúng đắn – và do đó, họ gặp khó khăn khi chấp nhận ông là
một nhân vật của công chúng và là một người viết hồi ký. Phạm Duy làm phiền
lòng những người đồng hương của mình; nói một cách ngắn gọn, ông quá hiện đại,
quá phi phong kiến. Hầu như mọi người đều coi ông là người đáng ngờ về mặt
chính trị. Những người cộng sản ghét ông vào những năm 50, 60 và 70 vì ông rời
khỏi Việt Minh. Các đồng nghiệp của ông ở Nam Việt Nam không tin tưởng ông vì
ông từng làm việc cho Việt Minh.
Tôi không có ý ám chỉ rằng Phạm Duy là người đàn
ông hiện đại duy nhất ở Việt Nam; ông có đồng minh và bạn tâm giao; và cuối
cùng những người này sẽ trở thành đa số. Hồi ký có thể hiện đang bị cấm ở Việt
Nam; tuy nhiên, sẽ đến ngày chúng trở thành một phần trong chương trình giảng
dạy thông thường của học sinh Việt Nam; vì chúng kể câu chuyện về sự trỗi dậy
của Việt Nam vào thời hiện đại một cách đầy đủ và chân thực hơn bất kỳ tài liệu
đương đại nào khác.
Tín điều cơ bản của Hồi ký này "Không có gì
quý giá hơn đối với cá nhân hoặc quốc gia hơn là tự do cá nhân hoàn toàn," có thể được
coi là một sự đối trọng hữu ích với một số tín điều khác thiêng liêng đối với
cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh, như chúng ta liên tục được nhắc nhở, đã nói
rằng "Không có gì quý hơn độc lập và tự do" - nhưng mọi người đều cảm
thấy rằng "độc lập và tự do" được đề cập ở đây mang tính chất quốc
gia hoặc tập thể, và không liên quan gì đến cuộc sống của cá nhân. Hiến pháp
của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hứa hẹn với công dân của mình “Độc
lập, Tự do và Hạnh phúc”, nhưng nhiều người Việt Nam đang nhận ra rằng những
điều khoản này sẽ vẫn không có nội dung cho đến khi chúng có thể được hiểu theo
nghĩa cá nhân.
Ghi chú về bản dịch
Bốn tập Hồi ký của Phạm Duy ban đầu có tiêu đề
hơi khác so với tiêu đề mà tôi đã đặt cho chúng trong bản tiếng Anh này. Tập
một, “Coming of Age in the North” có tiêu đề gốc là “Thời Thơ Ấu—Vào
Đời”. Tập hai, “The Resistance”, có tiêu đề gốc là “Thời Cách Mạng Kháng Chiến”. Tập ba, “The Period of Division”, có tiêu đề gốc là “Thời Phân Chia Quốc Cộng”. Tập bốn, “My Sojourn Abroad” có tiêu đề gốc là “Thời Hải Ngoại”.
Ba cuốn đầu tiên của Hồi ký được viết trong giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1991 và được tác giả tự xuất bản theo sự cho phép của P.D.C. Musical Productions. Cuốn thứ tư được viết vào khoảng năm 2001 và được xuất bản điện tử trên trang web của Phạm Duy, nơi cũng có phiên bản điện tử của ba cuốn đầu tiên.
Bản thảo đầu tiên của bản dịch này được
hoàn thành vào năm 2005 sau mười ba tháng làm việc liên tục, tôi đã sử dụng cả
phiên bản giấy và điện tử của Sách 1 và 3, và phiên bản điện tử của Sách 2 và
4. Tôi đã có được các đề xuất và chỉnh sửa của Phạm Duy, vì ông đã xem xét
từng chương của bản dịch khi chúng được biên soạn, thường trả lời trong vòng
một hoặc hai giờ cho các câu hỏi qua email của tôi. Một kho lưu trữ ảnh và bản
ghi âm khổng lồ của Phạm Duy cũng rất hữu ích đối với tôi.
Theo đề xuất của một số độc giả, tôi đã thêm vào
bản dịch này một tính năng không có trong bản gốc: một tập hợp các chú thích,
trong khả năng có thể, cung cấp thông tin cơ bản về hàng trăm người, bài hát,
sách và bài thơ được tác giả đề cập. Một lần nữa, chính Phạm Duy đã làm rất
nhiều để cải thiện các chú thích và tôi hy vọng rằng những chú thích này sẽ hữu
ích, không chỉ đối với độc giả tiếng Anh mà còn đối với độc giả Việt Nam, những
người trước đây chỉ có thể tiếp cận văn bản gốc, không có chú thích. Tôi cũng
đã cung cấp tiêu đề cho từng chương để thuận tiện cho độc giả.
Nhìn chung, bản dịch này bám sát bản gốc rất
chặt chẽ; tuy nhiên, có một số bản tóm tắt đã được thực hiện ở một số chỗ. Đôi
khi chỉ để tránh lặp lại. Ở những chỗ khác, các bài viết do những người khác
viết về Phạm Duy được tóm tắt thay vì trình bày đầy đủ, vì tôi cảm thấy rằng
những đoạn văn bản này cản trở dòng chảy tiếp theo của câu chuyện và hơn nữa, ở
một bình diện văn học kém hơn so với phần còn lại của cuốn sách.
Văn bản gốc chứa đầy lời bài hát được trích dẫn.
Phần lớn tài liệu này được giữ lại ở đây, nhưng ở một số nơi, lời bài hát được
trích dẫn chỉ được đưa ra một phần, hoặc được tóm tắt hoặc diễn giải thay vì
được dịch. Lời bài hát thường nghịch lại việc chuyển đổi mạch lạc sang tiếng
Anh, vì vậy tôi cảm thấy rằng một mô tả hoặc tóm tắt sẽ cung cấp một bản trình
bày trung thực hơn về lời bài hát hơn là một nỗ lực tái tạo tiếng Anh.
California, Little
Saigon
08/08/2022 –
08/11/2024
1/ “Phạm Duy and
Modern Vietnamese History.” Eric Henry. Southeastern Review of Asian Studies 27
(2005), pp. 89 – 105.
2/ The Memoirs of
Phạm Duy. Translated from the Vietnamese by Eric Henry. To be published by
Cornell University Press.
3/ The curious
memoirs of the Vietnamese composer Phạm Duy. John C. Schafer. Journal of
Southeast Asia Studies. Feb 2012. The National University of Singapore, 2012.
4/ Việt Nam – Những
Ngày Trở Lại của Cựu Chiến Binh Eric Henry. Ngô Thế Vinh
https://vietecologypress.blogspot.com/2022/08/viet-nam-nhung-ngay-tro-lai-cua-cuu.html
5/ Tình Quê Hương
Trong Nhạc Phạm Duy Và Những Chân Dung. Ngô Thế Vinh
https://vietecologypress.blogspot.com/2022/07/tinh-que-huong-trong-nhac-pham-duy-va.html