Wednesday, December 10, 2025

Nhà giáo TRẦN HUY BÍCH phát biểu về "Theo Dấu Thư Hương" của nhà văn Trịnh Y Thư

 


Nhà giáo Trần Huy Bích và tác giả Theo Dấu Thư Hương

 


 Trong khung cảnh vui vẻ họp mặt để chào đón cuốn Theo Dấu Thư Hương II của anh Trịnh Y Thư, tôi rất mừng thấy trong danh sách phát biểu có anh Cung Tích Biền và chị Nguyễn Thị Khánh Minh. Anh Trịnh Y Thư là một nhà văn. Nhiều phần anh Cung Tích Biền sẽ nói về Theo Dấu Thư Hương II qua cặp mắt của một nhà văn. Chắc chị Khánh Minh cũng sẽ nói về anh Trịnh Y Thư và tác phẩm của anh theo nhãn quan của một nhà thơ. Nhiệm vụ của tôi do đó sẽ nhẹ hơn. Tôi xin được nói về ý niệm “thư hương” của anh Trịnh Y Thư, rồi sau đó kể lại một kỷ niệm với anh từ hơn 40 năm trước.

Đầu tiên, chung niềm cảm ơn anh Trịnh Y Thư cùng những anh, những chị theo nghiệp cầm bút vẫn mài miệt viết rồi cố gắng in để tác phẩm của mình có thể tới tay người đọc, tôi xin phép được đọc một đoạn từ email của một anh bạn trẻ ở San Diego. Anh bạn này còn rất trẻ so với đa số chúng ta ở đây. Cách đây khoảng 2 năm, khi anh từ San Diego lên chơi, tôi đã tặng anh một ấn bản của Theo Dấu Thư Hương (I). Khi được tin chúng ta sẽ chào đón Theo Dấu Thu Hương II hôm nay, ngày 16 tháng 11 vừa qua, anh đã viết cho anh Trịnh Y Thư và cc. cho tôi một email với ít lời xin được trích dẫn phía sau:

“Kính gửi chú Trịnh Y Thư,

Cháu viết bài này để tự nhắc bản thân mình không quên thói quen đọc sách giấy, và để cảm ơn chú đã viết cuốn tạp luận Theo Dấu Thư Hương I với ý nghĩa nhân sinh. Cháu được thầy B. tặng cuốn sách, và biết ơn món quà quý này, Cách để cháu bày tỏ lòng biết ơn là xin chia sẻ những điều tốt đẹp mà cháu được nhận với những người khác.

Phía sau là một phần trong bài viết của anh bạn ấy:

… “Ngày nay đa số người ta không đọc sách nữa, mà chỉ liếc nhìn trên mạng những thông tin trong vài phút đồng hồ rảnh rỗi hiếm hoi, và những thông tin ấy cũng chỉ lưu lại trong bộ nhớ không quá vài sát-na. Xu hướng của thời đại là thế. Cuộc sống càng hiện đại tân tiến, con người càng tất bật vội vàng, càng chóng lãng quên, một nghịch lý hết thuốc chữa của đời sống." 

Đoạn văn này được trích từ “Lời ngỏ” cuốn tạp luận “Theo Dấu Thư Hương” đầu tiên của nhà văn Trịnh Y Thư. Trong thời đại mà sự tiện lợi có thể đạt đến mức "AI" trong nhiều lãnh vực bao gồm cả sáng tác nhạc, có thể tới một ngày nào đó, phải chăng con người không cần viết thư tay bày tỏ tình cảm bằng cảm xúc tự nhiên nữa từ trái tim vì đã có "AI"??? 

 “Trí thông minh nhân tạo - artificial intelligence (AI) - là một ứng dụng tuyệt vời cho nhiều lãnh vực khác nhau, song không thể và không bao giờ có thể là phương cách dành cho tất cả mọi điều trong cuộc sống. "AI" chẳng bao giờ thay thế được cảm giác nhẹ nhàng và thư thái khi những ngón tay chạm khẽ từng trang sách, bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm dấu yêu xuôi theo trang sách và biết ơn cuộc đời này cho chúng ta được trải qua những cảm giác và cảm xúc được làm những con người biết yêu thương nhau. Dường như đọc sách giấy vẫn cho chúng ta cảm giác được thương, được nhớ nhiều hơn là cách cảm nhận cuộc đời qua màn hình điện tử của những thiết bị hiện đại thời nay… Trong những lãnh vực không thể thiếu sự sáng tạo và tình cảm tự nhiên từ tâm hồn và trái tim của con người thì "AI" không thể là người bạn tri kỷ. 

… Vì "AI" không thể và không có khả năng thay thế được cảm xúc trí tuệ của con người nên thói quen đọc sách giấy, với cảm giác rất đỗi yêu thương của ngón tay chạm vào trang sách, là điều cần được giữ lại một cách từ tốn trong đời sống hiện đại, nhiều khi khiến trái tim ta vội vàng quên mất hai chữ "thư hương" được nhà văn Trịnh Y Thư luận giải trong cuốn sách, mà ở đó tác giả tự nhận mình là "một cuồng tử mộng mơ."

(Hết trích dẫn bài viết của người bạn trẻ ở San Diego)


1) Về nghĩa của hai chữ “thư hương,” một bạn trẻ khác đã hỏi tôi:

--“Hương” ở đây có nghĩa là “hương thơm” hay là “quê hương? “Nếp thư hương” là những người biết biết quý hương thơm của cuốn sách (biết trọng giá trị tinh thần của sách), hay là những người yêu quý sách, coi sách như quê hương??

Với người bạn ấy, tôi đã trả lời như sau:

--Đúng là cả hai chữ đều có nghĩa:

Thư hương  書香   là Hương thơm của sách.

Thư hương   là Quê hương của sách, hay Những người yêu quý sách, coi sách, coi học vấn, những kiến thức lĩnh hội được qua sách, qua việc học, như quê hương của mình. Ý niệm này cũng gần giống ý niệm “Duy tuệ thị nghiệp,” phương châm tu học của Phật giáo.

Tuy nhiên, theo các tự điển/từ điển (như Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh, thì khi tiền nhân nhắc đến thư hương, chữ “thư hương” ấy có nghĩa đen là “hương thơm của sách.” Theo Việt Nam Tự Điển, “thư hương” có nghĩa bóng là “nhà dòng dõi có học.” Theo Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh, “thư hương” có nghĩa là “con cháu nhà có học, kế thừa nghiệp cũ của cha ông,” hay “nền nếp nhà nho.” Trong các văn bản chữ Hán, chữ Nôm, tiền nhân luôn luôn viết chữ với nghĩa là hương thơm.

Theo nghĩa đen, đúng là có một mùi hương rất khó gọi tên, nhưng ai từng cảm nhận đều nhớ. Đó là mùi giấy mới – mùi của những trang sách vừa in xong, hay của tập vở học sinh được mở lần đầu. Với nhiều người trong chúng ta, hồi ức về thời học sinh không chỉ là tiếng trống trường mà còn là mùi thơm của tập vở mới, của sách giáo khoa vừa phát, thơm tho, sạch sẽ. Mỗi lần lật giở, mùi mực in nhẹ nhàng xen lẫn mùi giấy mới như đưa ta trở lại những ngày vô tư, hồn nhiên. Đó là cảm xúc mà không một file PDF hay một ebook nào có thể mang lại.

Những trang sách mới có mùi hương được tạo ra bởi các thành phần chính là giấy, mực dùng để in sách và chất kết dính được sử dụng để đóng sách. Nhiều hóa chất được sử dụng để làm ra giấy, phần lớn được sản xuất từ ​​bột gỗ. Một số hóa chất có thể được thêm vào để làm giảm độ axit và làm cho các sợi trong bột được phồng lên. Chúng được tẩy trắng bằng hỗn hợp các hóa chất khác và một số chất phụ gia. Các chất này bay hơi vào không khí, tạo ra một mùi đặc biệt.

Mùi giấy mới, sách mới không chỉ là chất liệu vật lý, mà còn là một phần của văn hóa, của ký ức tuổi thơ.

Tôi không nhớ hai câu thơ sau của tác giả nào:

--“Những trang sách cất lời, Hít hà mùi giấy mới”

nhưng ở quận Bình Chánh, Sàigòn hiện nay, có một nhà sách lấy tên là Mùi Của Giấy.

Địa chỉ đầy đủ là: Số 41, Đường số 9, Khu dân cư Trung Sơn, Quận Bình Chánh, TpHCM

Phía sau là trang mạng của nhà sách ấy:

 MÙI CỦA GIẤY – GÓC NHỎ CỦA KÝ ỨC

2)  Thêm vào đó:

--Nhiều văn thi phẩm có giá trị được in trên những loại giấy tốt và quý, có hương thơm.

--Có khi sách được ép (giữa hai trang trong sách) với những loại hoa hay lá có hương thơm để ngừa côn trùng.

Thơ Nguyễn Du có câu: Vân song tằng kỷ nhiễm thư hương

(Cửa sổ, với mùi thơm của cỏ vân hương, đã từ lâu nhiễm hương thơm của sách trong thư phòng)

Sách thời xưa được in trên giấy bản, đôi khi được ép với cỏ vân hương (cũng gọi là hương thảo hay cửu lý hương). Cỏ này có tinh dầu với đặc tính khử côn trùng, được ép vào sách để ngừa các loại côn trùng ăn hại giấy.

Câu thơ trên được Quách Tấn dịch là:

Song vân từng thấm vị thư hương.

Chúng ta cũng có thể dịch là:

Song văn từng nhiễm sách thơm hương.

3)--Nhưng trong “Theo dấu thư hương,” nhà văn Trịnh Y Thư đã viết “thư hương” theo nghĩa bóng: truyền thống, phong cách của sự đọc sách, của học vấn, kiến thức. Ngô Thời Nhậm cũng đã dùng chữ “thư hương” theo nghĩa ấy:

                             Hàn mặc thư hương lưu khánh viễn

(Bút mực với truyền thống đọc sách, trọng sách, giữ phúc nhà đi xa = giữ được lâu dài).

Trong truyện Hoa Tiên, Nguyễn Huy Tự cũng viết “thư hương” theo nghĩa ấy:          

Rồi ra luyện tập văn chương

                             Cách nào sáng dấu thư hương mặc lòng.

 

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã viết:

                             --Nghĩ rằng cũng mạch thư hương

                   --Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương.

Trong bản dịch Truyện Kiều sang tiếng Anh, Gs. Huỳnh Sanh Thông dịch “mach thư hương” là “one brought up among the fine books.

 

Văn hóa Đông và Tây cùng tôn trọng sự đọc sách, tôn trọng học vấn, kiến thức:

Ở Trung Hoa và Việt Nam xưa:


                             --Di tử kim mãn doanh

                             Hà như giáo nhất kinh.

 (Để lại cho con đầy một rương vàng không bằng dạy con một cuốn sách)

                             --Thư trung hữu kim ngọc

--Thư trung hữu nữ nhan như ngọc.

 

Tiền nhân cũng cho rằng văn chương hay vẫn có giá trị lâu dài. Nhà thơ Lý Bạch đã viết:

                              Khuất Bình từ phú huyền nhật nguyệt

Sở vương đài tạ không sơn khâu.

(Văn chương, từ phú của Khuất Nguyên được treo cao với mặt trời, mặt trăng

Lâu đài của vua nước Sở không còn gì giữa những núi gò).

 Môt người bạn của anh Trịnh Y Thư đã dịch thoát như sau:

                             Khuất Nguyên trang gấm truyền lâu

 Điện đài vua Sở chìm sâu lớp gò.

 

Ở Tây phương:

Trong Theo Dấu Thư Hương I, nhà văn Trịnh Y Thư đã sưu tầm và liệt kê nhiều câu danh ngôn đề cao giá trị của sự đọc sách. Tôi xin ghi lại đây hai câu tiêu biểu:

--“Một căn phòng không sách vở giống như một thân xác không linh hồn”  

Cicero (106-43 TCN)

“Đừng đọc sách chỉ cốt để giải trí như trẻ con, hoặc như kẻ tham vọng với mục đích tìm tòi để thăng tiến. Không, hãy đọc sách để mà sống”                   

Gustave Flaubert (1821-1880)

Theo nhà văn Trịnh Y Thư, nếu hiểu “thư hương” là cốt cách nhà nho thì cốt cách ấy là đọc sách. Đọc để luyện chí, chứ không phải để thi đỗ làm quan.

 

Qua phần 2, xin được kể một câu chuyện hơn 40 năm trước.

Khoảng năm 1984, một bài thơ được đăng trên một tờ báo Việt ngữ ở Orange County với tiêu đề “Con nước vô danh.”

Chúng ta cùng biết các dòng nước vẫn thường được đặt tên. Nếu là sông, thì sông ở Việt Nam, ở Trung Hoa, ở châu Á, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ … đều có tên. Nếu là suối, trên đường vào chùa Hương có suối Yến, Bạch Cư Dị có bài thơ về suối Bạch Vân (Bạch Vân tuyền). Nếu là kênh (kinh), thì ở miền Nam có kênh Vĩnh Tế, kênh Xáng, các kênh Chợ Gạo, Tàu Hủ, Ruột Ngựa … Nếu là rạch (nhỏ hơn), chúng ta cũng biết có rạch Miễu, rạch Bà Chiểu (ở Sài gòn), rạch Vọp (ở Sóc Trang) …

Nhưng con nước này trong bài thơ này nhỏ, chưa hề được đặt tên, chỉ là một con nước “vô danh.”

Trong bài thơ có những câu như sau:

Trong đêm thầm gọi nhỏ

Nghiêng ngả ly rượu cay

Cánh chim nào trong gió

Như mười năm vèo bay.

 

Từ khi miền Nam sụp đổ năm 1975 tới thời điểm ấy (1984) được gần 10 năm. Có thể tác giả đã viết “mười năm” theo nghĩa tương đối, không nhất thiết thật chính xác. Nhưng cũng có thể tác giả muốn nói đến một số chuyện từ trước năm 1975:

         

                             Mười năm trôi trôi dạt

                             Nhìn cơn mưa đổ dài

                             Tìm nhau nơi quán chợ

                             Mắt trắng dã trần ai.     

 

“Ở giữa chợ chỉ thấy nhân gian mắt trắng” thực ra không phải là một ý mới. Nguyễn Bính từng viết từ giữa thập niên 1940:

                             Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ

Uống say mà gọi thế nhân ơi

Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ

Ta với nhà người cả tiếng cười.    

 

Nhưng trong khi Nguyễn Bính khinh thế ngạo vật, ngồi uống tới say ở giữa chợ rồi “cả cười” chê thế nhân mắt trắng, thì tác giả buồn và cô đơn, đi tìm tri âm ở giữa nơi đông đúc nhất nhưng không tìm được ai:

                              Mười năm trôi trôi dạt

                             Nhìn cơn mưa đổ dài

                             Tìm nhau nơi quán chợ

 

Tác giả hiền và cô đơn hơn, chỉ buồn chứ không “ngạo nghễ” với ai cả.
 

Trong bài thơ còn những câu như:                          

 

Ngồi thì thầm chuyện cũ

Giọt nước mắt đêm thâu

Hợp tan như mây nổi

Chập chùng hồn biển dâu.

 

và:

                             Núi đồi câm nín cả

                             Ta một mình đọc thơ.

 

Tên tác giả được in dưới bài thơ: Trịnh Y Thư.

 Sau khi báo phát hành, có một người đọc bài thơ, giật mình xúc động, đọc đi đọc lại, rồi tìm cách liên lạc với tòa báo để hỏi xin tên thật và địa chỉ của tác giả. Hơn 40 năm trước, ít nhất với người đọc thơ ấy, “Trịnh Y Thư” còn là một danh hiệu mới. Sau khi hỏi được địa chỉ, người đọc thơ lái xe -- khá xa -- đi tìm tác giả, rồi khi tìm được, chỉ để nói rằng, “Bài thơ của anh truyền cảm quá!” Từ đó bắt đầu một tình bạn, tới nay đã hơn 40 năm.

 Từ 1984 tới 2025, con nước vô danh đã trở thành một con sông lớn, một trường giang, đại giang rất nổi danh. Từ một ít bài thơ đầu thập niên 1980, Trịnh Y Thư đã để lại cho chúng ta một văn nghiệp đáng nể trọng, với một tập truyện và một tập tạp bút được in lại nhiều lần, một tập thơ, một bộ tiểu thuyết với cấu tạo rất mới, hai tập tạp luận cùng có giá trị cao. Anh cũng cung cấp nhiều bản dịch xuất sắc, có giá trị lâu dài, cho nhiều tác giả quan trọng của văn học thế giới, tác giả người Pháp gốc Tiệp, tác giả Anh … Các dịch phẩm này được in đi in lại nhiều lần ở cả trong nước lẫn ngoài nước. Anh còn dấn thân, đứng ra gánh vác một tạp chí văn học rồi một cơ sở xuất bản văn học có uy tín ở ngoài nước, và hiện đang lãnh trách nhiệm tại một trang web có tầm vóc về văn chương, văn học với ảnh hưởng rất lớn ở cả trong nước lẫn ngoài nước. Với tâm hồn nghệ sĩ và vô cùng tài hoa, anh còn là môt cầm thủ guitare cổ điển lỗi lạc. Anh cũng sáng tác nhạc với nhiều tấu khúc cho piano, guitare, và một ít ca khúc lời Việt.

 

Theo nhận xét của người bạn trẻ ở San Diego đã nhắc đến ở trên, “Những trang sách của Trịnh Y Thư không những có thể giúp người đọc "luyện chí" mà còn khiến trái tim người đọc mềm lại, tỉnh lại, và rung cảm để nhận biết giây phút bình an của hiện tại và nhớ đến nhiều người khác đang cùng vạn vật muôn loài chống chọi với những gian nan đến từ sự cuồng nộ không thể tránh được của đất trời.”

Nhân dịp phát hành Theo Dấu Thư Hương II, anh bạn ấy viết rằng, “Đây cũng là dịp để chúng ta bày tỏ lòng biết ơn của mình đến nhà văn Trịnh Y Thư vì những đóng góp miệt mài và quý giá của ông trong lãnh vực sáng tác văn học. Trịnh Y Thư là một trong những nhà văn, thi sĩ, và dịch giả có những tác phẩm rất giá trị với thời gian.”

Đó cũng là những nhận thức của người viết những dòng này khi đọc lại các tác phẩm của Trịnh Y Thư. Tôi rất tâm đắc với đoạn sau đây trong “Lời ngỏ” cuốn Theo Dấu Thu Hương II:

“Sự cô đơn của việc đọc sách trở thành chất xúc tác cho việc định hình và tái định hình đời sống nội tâm. Đọc sách cũng khiến bật lên những khía cạnh triết học, đặc biệt là sách văn học và triết học, bởi nó giúp chúng ta tiếp cận với những câu hỏi hiện sinh như cái chết, ý nghĩa cuộc sống, tình yêu, sự vong thân. Tính cách đối đầu này chỉ có thể xảy ra trong một tâm trạng quán chiếu cô đơn; nhưng nó giúp ta đối mặt không phải trong tuyệt vọng, mà trong sự thấu hiểu lẫn nhau. Tóm lại, như môt thái độ đối với sự cô đơn, không phải đối đầu lại mà hòa nhâp vào, đọc sách không chỉ là hành động đơn độc mà là cách sống trong cô đơn một cách có ý nghĩa. Nó biến cô đơn thành kết nối, dửng dung thành suy ngẫm, và im lặng thành đối thọai.”

Đoạn trên được in lại trên trang bìa sau của Theo Dấu Thư Hương II.

                                                          Ngày 06 tháng 12 năm 2025

                                                                   Trần Huy Bích

 

Từ trái: nhà văn Bùi Vĩnh Phúc, nhà văn Trịnh Y Thư & Nhà giáo  Trần Huy Bích

 

Tuesday, December 9, 2025

NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH: Ra mắt sách Theo Dấu Thư Hương tập 2 của nhà văn Trịnh Y Thư



Nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh.



Kính chào quý vị quan khách và thân hữu.

Chúng ta đang ở vào tháng cuối của năm 2025, với sự kiện Ra Mắt Sách Theo Dấu Thư Hương tập 2 của nhà văn Trịnh Y Thư.

 Cầm cuốn sách mới trong tay, tôi lại nhớ có lần ở quán cafe, Trịnh Y Thư băn khoăn, không biết chúng mình in sách vào thời này có phải là chuyện vô ích không, có phải là quá mơ mộng không. Với đa số, nhất là thế hệ trẻ hơn thì có lẽ là cái gật đầu, nhưng đối với chúng tôi, chúng tôi yêu quý cái vô ích, cái mơ mộng ấy. Tôi xin chia sẻ với quý vị cảm xúc rất riêng của tôi về sách. Nếu không có sách làm sao ta có thể cầm được trên tay cái vật thể nhỏ bé này, một thành quả nhìn bắng mắt cầm bằng tay, chứa đựng trong đó những con chữ đồng hành cùng những phút giây cảm hứng. Không có sách làm sao tôi có thể cảm nhận được trọn vẹn cái sức nặng của hạnh phúc hữu hình trên trang giấy với những dòng chữ ký tặng này? Và khi đọc sách, nghe được tiếng sột soạt khi lật trang giấy, ngửi được mùi giấy mới và cả mùi hương của sáng tạo. Một khi không còn ai in sách nữa thì những tủ đựng sách đẹp đẽ sẽ là món đồ cổ chứng nhân một thời kỳ sách huy hoàng. Và nếu không có sách thì làm sao chúng có được những buổi RMS để bằng hữu có được niềm vui gặp gỡ trong không khí của văn chương?

 Và cả lúc này đây, nhờ có sách tôi được đứng ở đây để nói vài lời về người bạn quý của tôi, Trịnh Y Thư, một nhà văn, một nhà thơ, một dịch giả, một nhà nghiên cứu triết học, nhận định văn chương, một cầm thủ tây ban cầm, ở lãnh vực nào anh cũng gây được tiếng vang và được sự ngưỡng mộ. Qua hiệu quả những việc làm và những tác phẩm đã xuất bản ở hài ngoại lẫn trong nước, tôi có thể nói rằng Trịnh Y Thư là một trong những tên tuổi tiêu biểu cho dòng văn học Việt Nam đương đại. Sự thành tựu như thế, theo tôi, ngoài phần trăm của thiên phú, hầu hết nhờ vào chính bản thân của tác giả, ở anh có tính kiên trì, đam mê viết, đam mê đọc, đòi hỏi phải vượt qua chính mình, sự vun đắp không ngừng nội lực tri thức, và nhất là anh có một cõi riêng, đặt mình vào sự cô đơn cần thiết cho sáng tạo. Nên cũng không lạ gì, có một tên tuổi Trịnh Y Thư.

 

Có được người bạn đồng trang lứa như thế, đối với tôi là một thiện duyên. Tình bạn chúng tôi theo thời gian cũng đã hơn mười năm, ngoài sự quý mến, tôi vẫn còn giữ được sự nể phục và ngưỡng mộ người bạn mình, ở cả hai tư cách nhà thơ, nhà văn.

 Với tư cách nhà thơ, tôi xin nói qua về thi phẩm duy nhất Phế Tích Của Ảo Ảnh, một tựa rất hấp dẫn khiêu khích sự muốn đọc. Tập thơ là chuyến hành hương về quá khứ, mà theo lời thơ của tác giả:

 

Chỉ còn mớ ký ức thảm thương

 làm hành trang cho những

chuyến hành hương tuyệt vọng.

 

Có phải vì thế, mà hình ảnh được phóng chiếu qua tấm gương, như thể, với ảnh ảo sẽ làm dịu đi sắc cạnh của tuyệt vọng. Và – Ảo ảnh – Theo tôi, đó là vế nặng trĩu sức đam mê trong câu Phế tích của ảo ảnh. Nó nguôi ngoai được cái thê lương của “Phế tích.” Nó đầy ngụ ý, ẩn dụ, đẩy sức liên tưởng ta nhìn ra mặt kia của nó, là Sự Thật. Đó là dụng ý Trịnh Y Thư khi muốn quá khứ cùng sự im lặng nhẫn nhịn được cất lên tiếng nói, qua những câu thơ:

 

Vẫn biết sự thật là tiếng vọng thiên thu

nhưng hãy cho tôi hòa giải

bởi cuộc chiến với ký ức

là cuộc chiến với sự lãng quên.

 

Từ những ý trên, tôi đã gọi tập thơ này là cuộc chiến giữa ký ức và sự lãng quên. Trong cuộc chiến đó tác giả tỏ thái độ rõ ràng về quá khứ:

 

chẳng thể rũ bỏ quá khứ

như ném vào bãi phế thải

một món đồ hư hỏng dư thừa.

 

Nói cách khác, Trịnh Y Thư đã bộc lộ kỳ vọng vào sự lưu giữ ký ức, nhất là những ký ức lịch sử, bởi ở đó có một lời giải thích cho những thế hệ sau, lý do về sự lưu vong của triệu người Việt Nam. Lưu giữ ký ức lịch sử không phải để hận thù mà để tha thứ, và qua thơ Trịnh Y Thư, tôi hiểu, tha thứ không phải là lãng quên mà là một định hướng nhân bản cho cuộc sống ngay bây giờ và tương lai:

 

… những gì từng căm ghét

những gì từng trân trọng

bây giờ đều biến thành trò chơi

cầu vực của yêu thương thù hận

chẳng còn chỗ cho bất cứ

một phán quyết nào.

 

…Ý thức xanh là lời mời gọi các linh hồn oan ương…

 

… họ về đây bảo tôi đã qua rồi

tất cả đã qua rồi

nước phù sa vẫn nhóc nhách

chảy ngang con trổ

luồn lách giữa những chân lúa đang hăm hở đơm bông.

 

Sự hy vọng này vừa quyết liệt vừa thơ mộng, nó là hành trang mới để người thơ hành hương đến giấc mơ, ở đó có những câu thơ rất hay, đầy cảm xúc

 

phải bước đến tận cùng bờ vực

tôi mới nhận ra trọn kiếp tro phai

chẳng còn gì ngoài một giấc mơ…

 

…Đừng đánh thức giấc mơ tôi

trong lúc ngửa mặt lên trời

hứng những giọt mưa đêm tháng Chạp

với hình ảnh duy nhất

là đôi mắt em

 

Và đó là Nhà Thơ Trịnh Y Thư, một phong cách thơ Trữ Tình Hiện Đại.

 

Còn nhà văn Trịnh Y Thư thì sao? Tôi đặc biệt yêu thích tiểu thuyết đầu tay Đường Về Thủy Phủ của anh. Một tựa đề rất thơ cho một cuốn sách có sự hiện diện của ba thập kỷ chiến tranh Việt Nam. Mặc dù theo Trịnh Y Thư nói, anh không viết về chiến tranh mà chỉ nói lên ấn tượng về chiến tranh cùng tội ác của nó trên thân phận con người, nhưng những ấn tượng ấy của tác giả liên quan đến những giai đoạn lịch sử với bộ mặt thật tàn bạo của nó mà người ta không thể tìm đọc được nơi những trang giáo khoa sử chính thống. Như một nhà sử học đã nói, để biết sự thật của lịch sử thời nào không gì đúng hơn là tìm hiểu những tác phẩm văn học nghệ thuật nói về thời đó. Và Đường Về Thủy Phủ là một dạng của văn chương ấy. Trịnh Y Thư có thái độ quyết liệt, không khoan nhượng với cái Ác, với dụng ý đánh động lòng trắc ẩn, lương tâm và nhân tính con người, cũng vì vậy mà anh không ngần ngại chọn bút pháp tả chân một cách bạo liệt, như trong cảnh xử tử một xác chết lính Pháp, cảnh thảm sát một ngôi làng 300 người H’Mông với lý do nghi có nội gián cho Pháp. Đọc tới đoạn này tôi phải gấp cuốn sách lại, ra ngoài hít thở và xoay sở với sự phẫn nộ đang chực vỡ cả người. Theo cảm xúc khi đọc tác phẩm này, tôi cho là Trịnh Y Thư đã thành công trong sự lựa chọn bút pháp cho mình.

 

Bên cạnh đó, chúng ta còn được tác giả cho thấy niềm tin của anh vào lòng biết ơn và sự ấm áp trong tình bạn, sự chân thật chung thủy trong tình yêu, và nhất là một niềm tin rất đông phương –nhân chi sơ tính bổn thiện – Anh tin vào bản tính lương thiện như một mầm có sẵn nơi con người, vấn đề là phải nuôi dưỡng và đem ra dùng trong những mối tương quan giao tiếp. Có được niềm tin, giữ được niềm tin và rao giảng niềm tin, là một dũng khí, dũng khí của một ngòi bút giúp ta sức mạnh để tin vào cuộc sống, với hy vọng và bao dung. Đó là Trịnh Y Thư, một nhà văn Hiện Thực Hiện Đại.

 

Xin chân thành cảm ơn quý vị.

 – Nguyễn Thị Khánh Minh

 

Phụ lục hình ảnh:

 


Trịnh Y Thư & Nguyễn Thị Khánh Minh tại quầy bán sách.



Từ trái: Nhà văn Nguyễn Thị Thanh Lương, nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh, nữ tài tử Kiều Chinh & Trịnh Y Thư.

 

Nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh đang phát biểu.



Nguyễn Thị Khánh Minh & Hòa Bình.




Trịnh Y Thư & Nguyễn Thị Khánh Minh.



Thursday, November 6, 2025

NGUYỄN DUY CHÍNH (dịch và giới thiệu): QUAN HỆ VIỆT NAM – TRUNG HOA DƯỚI TRIỀU THANH

 


(Quan hệ Việt Nam – Trung Hoa dưới triều Thanh,

Nguyễn Duy Chính dịch và giới thiệu)


Tin vui cho những người thích Sử, đặc biệt là Sử về những liên quan trong mối bang giao giữa Trung Hoa và Việt Nam trong đời Thanh, từ Lê – Mạc phân tranh cho tới khi Trung – Pháp giao tranh.

 Từ khi nhà Thanh thay nhà Minh ở Trung Hoa, có rất nhiều biến cố, sự kiện liên quan đến Việt Nam. Lúc đầu có chuyện giúp nhà Mạc tồn tại ít năm, rồi đến chuyện tranh chấp ở biên giới (Quảng Tây, Vân Nam, phủ Khai Hóa, sông Đỗ Chú …). Bang giao với triều đình Lê-Trịnh ở Đàng Ngoài, với chúa Nguyễn ở Đàng Trong, với nhà Tây Sơn trong hai triều Quang Trung, Cảnh Thịnh, và với nhà Nguyễn từ khi vua Gia Long thống nhất đất nước cho đến khi người Pháp sang xâm lăng. Những thay đổi trong thể lệ triều cống, việc buôn bán, tình trạng cướp biển (kể cả những cướp biển do nhà Tây Sơn khuyến khích, hỗ trợ) … đều là những đề tài đáng chú ý.

 Có một tài liệu tham khảo rất hữu ích và phong phú cho những đề tài ấy. Đó là bản luận án Tiến sĩ Sử học của Ts. Lại Tông Thành, đệ trình tại Đại học Quốc lập Sư phạm Đài Loan năm 2006. Tên của luận án là “Thanh-Việt quan hệ nghiên cứu - Dĩ mậu dịch dữ biên vụ vi thám thảo trung tâm, 1644-1885” (Nghiên cứu về quan hệ Thanh-Việt, lấy mậu dịch và hoạt động ở biên giới làm chủ yếu cho việc xem xét).

 Ts. Lại Tông Thành hiện là Giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Chương Hóa ở Đài Loan. Để hoàn thành luận án này, ông đã tham khảo rất nhiều trong các văn khố, gồm nhiều tài liệu từ trước chưa được công bố, trong đó có các tấu số, dụ chỉ của nhà Thanh, quốc thư của Việt Nam, và nhiều bộ sử quan trọng của Việt Nam nguyên tác bằng chữ Hán từng được ấn hành ở Nhật Bản, Hong Kong hay Đài Loan, Bắc Kinh.

Công trình nghiên cứu của Gs Lại Tông Thành mới được Ts. Nguyễn Duy Chính dịch sang tiếng Việt, trong cuốn QUAN HỆ VIỆT NAM – TRUNG HOA DƯỚI TRIỀU THANH. Sách dày hơn 800 trang, với nhiều bảng thống kê, bản đồ, và có phần Sách dẫn (Index). Sách mới được Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông phát hành năm 2025. Khi dịch sang tiếng Việt, Ts Nguyễn Duy Chính cũng ghi chú để đính chính một số thông tin không hoàn toàn chính xác của tác giả liên quan đến lịch sử Việt Nam.


Ngày 05 tháng 11, 2025

 


Saturday, October 25, 2025

NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH: NGUYÊN YÊN, khoảng trống giữa những vô nghĩa tồn tại và những bất tử đã bị dập tắt


Nguyên Yên, một trong những nhà thơ đương đại nổi tiếng ở hải ngoại. Cô chưa in một tập thơ nào, chỉ xuất hiện trên một số web như Việt Báo, Văn Việt, Hợp Lưu, Blog Trần thị Nguyệt Mai, Phố Văn… Ngoài những bài viết về thời sự, bình luận ký tên thật Nina Hòa Bình Lê với cái nhìn sắc bén và nhân ái, người đọc còn được biết đến Thơ của cô, với bút danh Nguyên Yên. Một tiếng thơ gây ngạc nhiên bởi ý tưởng, hình ảnh độc đáo, giản dị, mạnh mẽ, trữ tình. Tôi thực sự bị dòng thơ này lôi cuốn. Trong một trang thơ của Việt Báo, tôi đã giới thiệu về Nguyên Yên với đôi dòng cảm nhận như sau:

 “Một nhà phê bình văn học ngoại quốc đã nói đại ý: Nếu các nhà thơ hiện đại không có độc giả, họ có thể tạo ra độc giả. Đây thuộc vào phần lớn thi tài của nhà thơ. Để có được một bài thơ ra thơ, nghĩa là, được sinh ra từ cảm xúc thực, có sự mới lạ của chữ và nghĩa, và ít nhất là có nhạc thơ. Thơ hiện đại có khi nghiêng về lý sự mà coi nhẹ cảm xúc. Làm thế nào để một bài thơ mang tính triết lý, đầy suy tư cá nhân, gây được rung động, cảm xúc Thơ nơi người đọc?

 

Thơ Nguyên Yên có một gợi mở như thế.

 Thơ của cô trầm tĩnh, đầy những suy tư, và táo bạo một cách sáng suốt để không phá đi thẩm mỹ từ của thi ngữ. Cô tôn trọng thi ngữ, cô triết lý bằng cảm xúc (là khi trái tim phỉnh cái đầu…), và vì vậy thơ vừa hiện đại vừa đầy chất thơ, và nhạc chữ rất riêng của thơ tự do, đọc lên, có được cảm xúc đọc một bài thơ, cảm được cái mới lạ của chữ, nghĩa, hình ảnh. Suy tư, trực diện, mà vẫn ánh lên nét thơ mộng, lãng mạn, đặc biệt là những bất ngờ ở cuối bài thơ. Đó là những yếu tố mà thơ Nguyên Yên đã chinh phục được người đọc, để tạo ra một lớp độc giả cho mình…” (Hết trích) (https://vietbao.com/a311042/dong-tho-nguyen-yen)

 

NGUYÊN YÊN. NỖI THAO THỨC CHỮ NGHĨA

 Xin cùng đọc bài thơ sau đây, một độc thoại về thân phận chữ nghĩa, cả về thân phận con người khi vận chữ long đong. Chữ nghĩa, theo Nguyên Yên không chỉ thuần về mặt văn chương, mà nó là tấm gương phản chiếu cuộc sống, tâm thức con người.

 Trong cuộc sống hiện đại, những điều vô nghĩa được lên ngôi và có những điều vô cùng cần thiết lại bị xem nhẹ, giữa nó là khoảng trống hụt hẫng, trong đó đầy tra vấn lương tri và sự thật. Bài thơ đẩy người đọc suy nghĩ đa chiều. Đây là một chiêu thức, một thi pháp đặc biệt của Nguyên Yên, khi đọc thơ cô, chúng ta phải liên tưởng đến nhiều tia sáng phản xạ từ một nguồn chiếu.

 VÔ NGHĨA


Anh viết cho em câu chuyện chữ nghĩa
thứ chữ nghĩa lọt lòng ngày mẹ gánh con
xuyên miền lửa đạn
cay xè lời ru khúc ly tan
ầu ơ con ngủ cho ngoan
để mẹ đào đất xây nhà cho cha.
Anh viết cho em
câu chuyện đường xa,
quê cha đất tổ phôi pha ngày về.


Anh viết cho em
câu chuyện thời đại chúng ta
những cặp mắt ngày nhắm đêm mở
chằm chằm nhìn quá khứ
không cho tương lai thở
những gốc cây bứng rễ
èo uột sinh sôi trên đất mớ.


Anh viết cho em
phiên bản cuộc đời
những mảnh vụn lắp ráp từ cuộc hôn nhân vội
thoả hiệp mưu sinh
tiếng ngáy ngày mê sảng
nỗi buồn đêm trằn trọc tiếng thở dài của
những vì sao.


Anh muốn nói với em
câu chuyện chữ nghĩa
thứ chữ nghĩa đánh thức cơn mê, thổi bùng
ngọn lửa
thứ chữ nghĩa đưa chúng ta trở về
nơi giấc mơ có hình thù,
ngày tháng không đóng khung,
chúng ta lại biết bật khóc, bật cười
biết quay đầu lại
làm người.

Anh viết cho em 

câu chuyện chúng mình
Những đứa con của mẹ đã một lần
trồi lên từ móng vuốt đại dương
trái tim một lần
vượt rào cách trở
một lần sang bên kia bờ

nghe dòng sông hát
khúc mộng mơ!

Bầu trời chúng mình

nghênh ngang rộng mở

nhưng chúng ta, thế hệ chúng ta,

xác thân đóng đinh vào quá khứ,

linh hồn quen núp mình trong bóng tối

sợ sệt từ chối hít thở.

 

Hạnh phúc chúng mình

chỉ một thoáng cái đầu yếu hèn, toan tính

ngọn lửa tình muôn đời dập tắt,

và trái tim không nguôi của chúng ta

mãi hoài là chiếc bóng cô đơn

lởn vởn trong màn trời ký ức.

 

Anh vẫn phải viết câu chuyện chữ nghĩa

nào có nghĩa lý gì

chỉ còn lại thứ chữ nghĩa

không viết cho ai,

không với ai,

không vì ai.

26/02/2017

 

Câu chuyện chữ nghĩa. Một thứ chữ nghĩa theo phận nước đi qua nhiều thời gian. …chữ nghĩa lọt lòng ngày mẹ gánh con/ xuyên miền lửa đạn/ cay xè lời ru khúc ly tan. Chữ nghĩa đi từ ký ức của lịch sử, của cuộc sinh tử: Những đứa con của mẹ đã một lần/ trồi lên từ móng vuốt đại dương/ trái tim một lần/ vượt rào cách trở/ một lần sang bên kia bờ…, đi từ nỗi ly hương: quê cha đất tổ phôi pha ngày về…

Một ký ức không thể lãng quên. Và nó luôn là nỗi ám ảnh, chằm chằm nhìn quá khứ/ không cho tương lai thở. Chữ nghĩa bị phủ đầu cả hai chiều, quá khứ và tương lai, và hiện tại kẹt giữa: những gốc cây bứng rễ… thế hệ chúng ta/ xác thân đóng đinh vào quá khứ/ linh hồn quen núp mình trong bóng tối/ sợ sệt từ chối hít thở.

 

Nguyên Yên và người cùng thế hệ cô đã phản ứng thế nào khi đem chữ nghĩa đối diện với thân phận con người trong đời sống hiện tại? Một cuộc sống kết lại từ mảnh vỡ của toan tính hạnh phúc, của cơn mưu sinh mê sảng. Một cuộc sống mà khi người ta hít thở chỉ thấy nhịp tim chỉ còn là chiếc bóng cô đơn.

Trong mớ hỗn độn của thời đại mà Nguyên Yên trưng ra như thế, họa chăng cứu vớt được một chút, là còn tiếng thở dài của sao đêm, giữa những hình ảnh suy tư thì bóng cô đơn này bộc lộ bản chất thi sĩ nơi Nguyên Yên, nhờ đó mà có thứ chữ nghĩa đánh thức cơn mê, thổi bùng/ ngọn lửa… chúng ta lại biết bật khóc, bật cười/ biết quay đầu lại/ làm người…


Cú đập ở đoạn cuối, làm tôi hụt bước.

Chỉ còn thứ chữ nghĩa không viết cho ai, không với ai, không vì ai, quay ngoắt, phủ định hết mọi ý nghĩa ban đầu, tạo nên một hụt hẫng, trống rỗng. Đâu thể mất trắng như vậy, nhìn lại xem, những điều cô đã nói với chúng ta, về sự ý nghĩa của một quá khứ không thể tách rời khỏi ký ức, nó có ý nghĩa của một tồn tại không chối cãi, hoặc giả tôi có thể nghĩ rằng, cái khát khao lấy thứ vũ khí duy nhất mình có là con chữ để thổi bùng/ ngọn lửa, khiến cô đã bị tổn thương trước sự đổ vỡ của mọi giá trị trong một thời đại suy tàn, Bài thơ nhấn mạnh về điều tồn tại vô nghĩa nhất là làm biến đi những điều có nghĩa.

 Cho nên đoạn cuối là một phủ nhận để lên án, để đặt ra vấn đề: chữ nghĩa (nói về niềm tin, đạo đức, nhân ái, lương tri, tình yêu… nói chung là những giá trị đẹp đẽ) có còn ý nghĩa trong thời đại hôm nay? Đặt người đọc vào sự phản tỉnh, cũng như khát vọng về  sứ mệnh của chữ nghĩa.

 

An Toàn

 miễn biết tránh xa tiếng chim hót, bông hoa lạ

miễn cứ đi đường thẳng không quay phải quay trái
miễn đừng nghe cũng đừng có nhu cầu kể với ai chuyện gì
đừng cười, đừng khóc, quan trọng nhất
đừng mong chờ

không mở sẽ không đóng
không nở sẽ không tàn
cuộc đời như cơn đại dịch
một khi có chủng ngừa,
không cần sợ.

8/7/2020

 

Một an toàn như thế có thật sự làm bình an không, hay là cái vỏ bọc ngày cứ đan dày thêm tâm thái phủ nhận, trốn tránh, phòng thủ. Nói cách khác của sự phòng thủ, là sự vong thân của con người với chính mình và với cuộc sống.

Nếu nhân lên tỷ số phận trên trần gian này thì bạn thấy một thứ chữ nghĩa vực dậy niềm tin cần thiết cho chúng ta đến chừng nào!

 

Cuối Cùng

 

sẽ có một ngày

bài thơ không còn được viết bằng chữ

ký ức là trang giấy trắng

một ngày khi khuôn mặt của giấc mơ không còn

chúng ta không tồn tại

chỉ còn lại

một ngày của mọi sự vắng mặt

và tình yêu như cơn đau

thoát kiếp luân hồi.

26/7/2017

 

Nếu ở Vô nghĩa, có nỗi buồn giữa khát vọng và những phủ định, thì bài thơ Cuối Cùng là hệ quả đưa đến những nghi vấn triết lý về hiện hữu và hư vô.

Khi, “bài thơ không còn được viết bằng chữ”, ký ức là “trang giấy trắng” “khuôn mặt giấc mơ không còn” và “chúng ta không tồn tại”. Để rồi, đến cái tận hư vô “mọi ngày của mọi sự vắng mặt”, Nguyên Yên muốn đặt hai đối cực đó để nói, - điều gì sẽ xẩy ra nếu chữ nghĩa không còn hiện hữu, - để lại được khẳng định một điều, sự cần thiết của một thứ chữ nghĩa thổi tắt những cơn mê sảng của nhân loại.

Ở hai câu cuối -thơ Nguyên Yên thường đặt trọng tâm ở kết bài thơ-, một là phủ nhận điều đã đặt ra, hai là làm nặng thêm một khẳng định mới. Ở đây, Nguyên Yên đưa ra một sự tồn tại trong những thứ đã mất đi, đó là Tình Yêu, như “cơn đau thoát kiếp luân hồi”, một đáo-bỉ-ngạn của tình yêu chăng, nói cho cùng, Tình Yêu là một phạm trù tương đồng với Chân Thiện Mỹ, như vậy thì ta hiểu rõ hơn hồn thơ trữ tình, lãng mạn nơi Nguyên Yên.

 

NGUYÊN YÊN, TÌNH YÊU, NỖI THẤT LẠC VÀ NIỀM TIN.

 Có là phỉnh gạt hay hoang tưởng, hoặc có thể là ngây thơ, khi người ta còn niềm tin vào những điều mình hằng tin hay chăng? Trong tâm thái ấy Nguyên Yên cứ như vừa đi vừa đối mặt, vừa nhìn vừa tra vấn nội tâm. Sự tự hỏi như thế, đưa đến tâm trạng thất lạc, cũng không khó hiểu khi cảm nhận cùng lúc cái mong manh và trường cửu, tin cậy và hụt hẫng. vết tích cuộc tình/ như cơn mê về/ vỡ tan… làm sao bôi xóa hết/ những vết nứt hằn sâu… hình ảnh những giấc mơ/ từng cơn buốt nhức…

 

Đêm

 

cuối năm

mưa giao thừa đổ dốc

mặt lộ trơn tuột mọi chuyển động

những bóng ma  

phản chiếu ngày tháng tuột dần

mưa đêm

như dòng lệ đổ

cơn sầu vào thành phố

vào mảng tim khô

vào tận cùng thân xác

nơi vết tích cuộc tình

như cơn mê về

vỡ tan

đêm ba mươi

xối vào ký ức

hình ảnh những giấc mơ

từng cơn buốt nhức

làm sao bôi xóa hết

những vết nứt hằn sâu

từ phỉnh gạt

từ hoang tưởng

làm sao bôi xóa hết

khi trái tim

còn thức.

26/02/2017

 

Ở câu cuối, tôi bắt gặp được sự vừa hoang mang vừa tin cậy -Trái tim còn thức-. Nó ý thức rất rõ cơn mê về sự vỡ tan, đồng thời cũng được ngầm hiểu cả gặp gỡ hạnh phúc. Tại sao không? Nguyên Yên cũng đã cảnh tỉnh vào niềm tin trái tim, còn một điều đó, coi chừng đừng để mất. Chỉ một câu kết đóng lại những ý của những câu trên, mà mở một không gian mới, mà mở ra mấy tầng cảm nhận. Tôi thích cách cấu trúc bài thơ kéo người đọc tìm ra thêm cảm xúc mới về bài thơ. Đó là thi pháp Nguyên Yên.

Nguyên Yên nói không ngập ngừng, trái tim, nơi có cơ may kéo cô thoát khỏi “những buốt nhức của giấc mơ” “những vết nứt” để lại từ khoảng trống. Nó có lý lẽ riêng của nó “để lừa phỉnh cái đầu”.

Nguyên Yên cảm xúc về tình yêu thế nào qua vụ lừa phỉnh đó?

 

KHOẢNG TRỐNG

 

người ta không thể nhìn thấy nó
không biết gì về hình dáng, thể chất của nó
cũng không có khái niệm về độ sâu hay chiều cỡ của nó
liệu nó phi hạn hay giới hạn

người ta chỉ biết mình có nhu cầu,
chắc nịch như niềm tin tôn giáo
như người đàn bà trong cơn lên đồng
khăng khăng đòi lắp đầy thiếu vắng
bằng tình yêu căng phồng.
8/7/2020

 

Một định nghĩa về Tình Yêu rất hiện đại, rất bóng bẩy, rất trữ tình. Trữ Tình, hiểu theo nhà văn Trung Hoa Lâm Ngữ Đường, là biểu lộ một cái gì rất riêng. Tình yêu là khoảng trống, là khăng khăng đòi lắp đầy thiếu vắng/ bằng tình yêu căng phồng. Hình ảnh ấy dẫn bạn tới đâu?

Cùng với tâm trạng dỗi hờn của đứa trẻ:

 

CÔ ĐỘC

 

tôi không một mình
thật ra có nhiều người quanh tôi
thậm chí có người luôn bên cạnh săn sóc tôi
nhưng tôi nghĩ đến anh, trong giấc mơ

và khi thức tỉnh
mở mắt thấy mình như đứa trẻ thất lạc bị bỏ rơi
mím môi dặn lòng
từ nay nó sẽ chẳng bao giờ cho mình
quyền nghĩ tới ai nữa.

8/7/2020

 

Sợ cô độc nên tước bỏ quyền nghĩ đến người khác. Sợ nghĩ thì sẽ rơi vào cảm giác bị bỏ rơi. Và, cô độc, tước bỏ “quyền nghĩ tới ai” là cách bảo vệ an toàn cho tâm trạng thất lạc chăng.

Những nhà thơ nữ hiện đại có cách để nổi bật cái riêng của phụ nữ tính qua thơ, từ hình ảnh, ngôn từ trực diện, đến cấu trúc của bài thơ và đa số, họ tôn trọng ý hơn lời. Ở Nguyên Yên theo tôi, cô có bản lãnh trong cách chế ngự cảm xúc, và cô không hy sinh giữa Ý và Lời, nên thơ hiện đại của cô xúc tích, vẻ đẹp của từ và hình ảnh được nâng lên thành thi ngữ, thi ảnh. Đó là điểm để nhận được Nguyên Yên giữa dòng thơ nữ hiện đại.

 

Nhẹ Dạ

 

từ biệt tích anh ta trở về ghé thăm

vẫn khẩu trang, áo cao su bảo vệ linh hồn, và

bảo vệ nguyên tắc không lây nhiễm

 

cảm xúc - anh nói – thứ phiền phức rẻ tiền

hệt như mong muốn vô hạn của đàn bà

làm đàn ông mất hứng

 

hai người trò chuyện

hơi ấm mặt trời mơn trớn

cửa bên trong người đàn bà hé mở

 

miền đất từ lâu không dung nạp sự sống

dòng nước chảy ngang nảy hạt

cong về ánh sáng quên lòng đất tối

 

hai người trò chuyện

không sự thật nào tác động trái tim anh đá lửa

kho tàng nếu có, chìa khóa đã vĩnh viễn bị đánh cắp

 

thành trì bao năm sừng sững

kiên cố niềm tin thép

thà chết ngạt nhất định không thất thủ

 

hai người trò chuyện

đối thoại giữa đàn ông và đàn bà

bao giờ cũng kết thúc bằng cuộc hẹn

 

nơi người đàn ông sẽ mài dũa bảo vật thiêng liêng

trong cái áo cao su không xuyên thủng

và người đàn bà lại một lần nữa

 rách toạc.

17/09/2021

 

Đằng sau cuộc hẹn của hai người là gì? Là tâm hồn nhạy cảm và ngây thơ của người đàn bà, là cảm giác hụt hẫng trước những điều không giống như mình nghĩ. Nguyên Yên dùng những hoài vọng, nghi vấn, thậm chí cả rách vỡ chia tan, vết thương, để nhắc tới tình yêu, ý và lời ở bài thơ này là một cầm chịch vững vàng giữa buông thả cảm xúc và thẩm mỹ từ, phải nhận ra điều ngược lại ẩn kín để hiểu điều được phơi bày ra.

 

Bất Diệt

 

đã qua hơn hai ngàn ba trăm bốn mươi lăm ngày đêm
thời gian không gian ngả màu
cái còn lại duy nhất
của anh của em
vẫn không ngừng mọc lên

cái còn lại duy nhất
vết thương ngày hôm qua cho nhau
vẫn mọc lên
trơ vết thẹo lồi
tưởng vọng một ngày thôi đâm vào xương thịt
 
vết thương ngày hôm qua anh cho em
vẫn tiếp tục hành trình
những ngõ hoang những lối mòn rêu cỏ
ký ức còn mở mắt
quanh co không thể trở về

vết thương ngày hôm qua
vẫn trồi lên, trồi ra
như chúng ta
bao lần đơm hoa
bao lần vùng vẫy
cố thoát
 
hai ngàn ba trăm bốn mươi lăm ngày đêm đã qua
vẫn như lần đầu
nhấn vào trong em
thứ khổ đau
ngàn đời rỉ máu

19/5/2020

 

Bạn có thấy ở đây là những con chữ của tình yêu, dù cái còn lại duy nhất của anh và em là cuộc hành trình của vết thương. Nhân chứng là thời gian. Vết thương được cảm nhận như một “thú đau thương”, vì nó là quả của bao lần đơm hoa/ bao lần vùng vẫy/ cố thoát… Tất cả, để chúng ta hiểu được những điều đã được Nguyên Yên định nghĩa bằng chữ Bất Diệt, mà biểu tượng là ngọn lửa nhảy múa trong tim:

 

Nghĩa Địa Tình Yêu

 

nếu tình yêu là có thật

một lần nhìn thấy

một khoảnh khắc ngắn ngủi sống

một lần hít thở đầy lồng ngực


nếu tình yêu là có thật

bông hoa mọc trong trí óc

ngọn lửa nhảy múa trong tim

một lần cháy sáng


nếu tình yêu là có thật

chúng ta đã một lần chắp cánh

một lần bay cao

dạn dĩ khờ khạo

nếu tình yêu như nỗi đau là có thật

hãy để em mang chôn nó vào lòng đất tối


và anh

anh sẽ không thể

một lần nữa đâm chết nó.
13/2/2025

 

Bạn ạ, tôi nhẹ nhõm. Tôi không chờ đợi gì hơn khi đây là một nghĩa địa mà chúng ta cần: nếu tình yêu như nỗi đau là có thật/ hãy để em mang chôn nó vào lòng đất tối. Thật đáo để khi dùng nhan đề ấy để đánh vào cảm xúc (vì bản thân của mong manh thường sợ một báo động đau đớn). Thật đầy đủ khi nghĩ về Tình Yêu như thế, một bông hoa mọc trong trí óc, ngọn lửa nhảy múa trong trái tim. Nó hợp tác nhau để thăng hoa. Tôi nghĩ “nếu” ở đây là một cách nói khác của khẳng định. Phải nói, bài thơ nói về tình yêu này của Nguyên Yên là một vì sao lạ trong bầu trời thơ Tình Yêu.

 

Hết

 

khi hoa nở
là lúc bắt đầu tàn
khi sao sáng đỉnh trời
là tới giờ lẩn biến

câu chuyện chúng mình
những ngày hè rực rỡ đã qua
bao mùa dâng hoa
bao cơn tột đỉnh

tình yêu một lần có thật
thức dậy từ con mắt bình minh
cơn mưa đầu mùa nồng nàn
cầu vòng hò hẹn

chúng ta một lần dào dạt
như đất với trời
như anh trong em
đêm tràn huyệt mộ

quy luật trò chơi
đến, đi, được, mất
kết hợp nào
cũng là khởi đầu tan rã

chỉ có trái tim
từ chối luật thời gian
say cơn khải hoàn
ngụp lầy hạnh phúc

và khi chia tay điểm giờ
soi gương nhìn lại
thấy hồn mình một nghĩa địa già nua
mọi cảm xúc giơ xương chờ

mục rữa.

3/8/2025


khi hoa nở/ là lúc bắt đầu tàn… kết hợp nào/ cũng là khởi đầu tan rã.
Cô bạn nhỏ của tôi, đó là nhận biết về vô thường, về duyên khởi. Nên biết được giá trị của phút giây, của những gì một lần, những ngày hè rực rỡ/ bao mùa dâng hoa … chúng ta một lần dào dạt/ như đất với trời/ như anh trong em… và, thêm lần nữa, sau bài Đêm, Nguyên Yên lại khẳng định quyền năng của trái tim, chỉ có trái tim/ từ chối luật thời gian. Đó có phải là Tánh không? Như Phật ngữ nói cái Tánh tồn tại mãi. Cho nên Hết của vạn pháp là một khởi đầu mới.

 

Tất cả thơ về tình yêu của Nguyên Yên, dù cô đi bằng đường vòng, đường thằng, đường díc dắc, hay thậm chí đứng một chỗ sau lùm cây, thì vẫn có những mũi tên bí ẩn để chỉ cho ta niềm tin cậy và nương tựa vào điều có thế cứu rỗi con người, là Tình Yêu.

 

NGUYÊN YÊN- KHOẢNG TRỐNG VÀ HOÀI VỌNG

 

BẤT HẠNH

giả sử hôm nay như mọi ngày

con chim cu vẫn đến gõ vào cửa kiếng
căn phòng vừa sáng đủ
để cặp mắt trong tối tìm ra
điểm dừng

giả như bình minh vẫn mọc mỗi sớm mai
mùi cà-phê điểm tâm vẫn khuấy lên
thứ ma lực xỏ đôi chân
vào thế giới mở – khua
thức dục vọng

giả như cuộc sống vẫn tràn đầy
mùi hoa nhài đầu ngọn gió vẫn tỏa hương
nồi cơm sôi thơm ngát xới vun bát
bên nhau xùm xụp húp
chén say đầy mãn

giả như cuộc đời vẫn là
những cuộc săn đuổi tất bật
mắt mở say mê
đầu hùng hục húc
tim không sợ

giả sử niềm tin vẫn sáng soi
xác tín như bàn thờ trang nghiêm trong nhà
khói hương xì xụp vái
cầu người đã bỏ ta đi
đừng bỏ ta đi

giả như giấc mơ vẫn trở về
người khách lạ hàng đêm vẫn ghé vào
góc xó hiu quạnh của tâm hồn
nỉ non âm điệu
rù quến

giả như tình yêu không xảy ra
mọi thứ chân xác còn nguyên vẹn
như quê hương chưa từng chiến tranh
lịch sử chưa tranh lấn
chúng ta chưa hề khai quật

và con người lại được sinh ra
tinh khiết như bản năng
trí khôn nhắc trái tim tránh
lập lại tai họa

phải làm thế nào
người ta nói điều gì xảy ra
sẽ phải xảy ra
một ngàn đời nữa

bao giờ trần gian còn lỗi lầm
con người còn bị trừng phạt
mình còn phải
gặp nhau.
26/10/2021

 

 “Giả như” là hoài vọng từ khoảng trống-một thứ hố thẳm- trăn trở không ngừng, trước một xã hội mà chân-giả bị đánh đồng, mà con người luôn bị đánh động bởi dục vọng,

Những “giả như” vừa muốn níu giữ sự tồn tại của cái đẹp, nhưng cũng phơi bày nỗi cô đơn và khát vọng trước những bất toàn, lỗi lầm của trần gian, con người bị trừng phạt. Nên chi, mình còn phải/ gặp nhau… Để chi vậy?
Để… Chờ.

 

Hão

 

mỗi ngày

đứng trước gương tôi chờ

bên trong tấm gương cặp mắt chờ

chiếc bóng trên tường chờ

bài thơ cũng chờ

chờ đến một ngày

thời gian phủ mờ ký ức

và sẽ chẳng ai làm sao còn nhớ nổi

mình đang chờ đợi

chuyện gì

26/7/2017

 

Dằng dặc như kiếp người. Sống như để chờ đợi. Vừa có mục đích vừa như không gì cả. Thời nào cũng cứ luôn như thi sĩ Vũ Hoàng Chương, Lũ chúng ta, đầu thai lầm thế kỷ/ Một đôi người u uất nỗi chơ vơ…  Mỗi thời đại đều cống hiến cho con người một nỗi buồn thế hệ. Nó mang nét u sầu, bức phá, thất vọng, nhưng ở đây trong thơ Nguyên Yên nó thể hiện không phải chỉ ở tính thất vọng mà còn từ mơ ước được tốt đẹp hơn, cho dù nhan đề bài thơ đã nói Hão, nhưng như tôi đã nói, đọc thơ Nguyên Yên, cái hiểu không một lối mà nhiều ngõ. Đằng sau Hão là một tiếc nuối, một hy vọng. Và tôi thấy được một niềm tin rất trong trẻo, con người lại được sinh ra/ tinh khiết như bản năng…Thiệt mà nói, khó đào xới cho ra ở vào thời này, một cô gái hiện đại, lại giữ được cái mầm khí trong sáng: bản năng con người là tinh khiết (nhân chi sơ tính bổn thiện), thế thì, niềm tin vẫn sáng soi/ xác tín như bàn thờ trang nghiêm trong nhà và hoài vọng của cô cũng đã le lói sự sinh ra của những con chữ xóa được cơn mê sảng của nhân loại. chúng ta lại biết bật khóc, bật cười/ biết quay đầu lại/ làm người.

 

Nguyên Yên luôn đặt mình trước câu hỏi về sự hiện hữu và hư vô. Hiện hữu như một níu kéo ngay trong khoảnh khắc nó tan biến. Và hư vô trong sự vắng mặt của chính mình. Dường như là phân vân -để làm gì-, trước tất cả những mâu thuẫn, của cuộc sống và thân phận con người,

 

này các người nhân danh tình yêu

ở đây tôi hiện hữu nơi này

hiện hữu dù chỉ trong im lặng

hiện hữu cả trong cơn bôi xóa

(Điếu Ca)

 

Hết

 

không phải không có ai

mà là có quá nhiều người đã từng ở đó

giờ không là ai cả

 

không phải vì thiếu vắng điều gì

mà là có quá nhiều thứ từng là cần thiết

giờ không là gì cả

7/2025

 

Vắng Nhà

 

những trái ớt chín, khô héo trên cành

bình hoa tulip trên bàn, gục đầu ủ rũ

căn phòng không màu không mùi không vui buồn

chỉ những nốt lặng, trào ra từ cây piano

đậy nắp

 

người chết không hót không bay không nhảy múa

con hạc mào đỏ* xếp cánh thôi mơ thôi thơ

con chó thất lạc buồn rầu

ngọn gió vô tâm, xào xạc

không tin nhắn

 

trên tầng mây kia hay dưới lòng đất này

chả nhằm nhò gì nữa

trong nghĩa trang tâm hồn kẻ ở

sự vắng mặt của người đi**

là phần mộ vĩnh hằng.

 23/11/23

 

Trống Trải


là sự vắng mặt của thứ từng hiện diện

sự im lặng sau tiếng nói hằng thân thiết

là khoảng trống đã một lần tràn đầy

là máu trong tim – ngưng chảy

 

là bầu trời vắng sao

đêm hoang vu không đèn

con đường thênh thang vô định

giấc mơ chưa thức - đã quên 

  

là lý tưởng sụp đổ

giải Nobel hòa bình bị thu hồi

người ôm bom nổ banh xác

không để lại lý do, chính kiến

  

là thả rơi linh hồn

giữa những vách đá hẹp

chung quanh không đài tưởng niệm

không đền ma quỷ thần thánh

  

là sự mỏi mệt tận cùng

chẳng còn điều gì kích động được ký ức

câu chuyện không nghe, không kể

nốt nhạc im hơi, bặt tiếng

 

là khi nước mắt khô đi

mọi thứ đều trở nên dư thừa

hiểu biết càng vô hiệu

những đốm loang không thể tẩy xóa

  

là khi đời sống không còn khiếp đảm

vết thương không hút tỉa

khuôn mặt người thương không còn diện mạo

sự trống rỗng không ngừng đục khoét

  

là chốn cuối cùng sau mọi sự hủy hoại

của một lần, một thời tín ngưỡng

tình yêu, con đường, ánh sáng, bản nhạc

cả bóng tối cũng không buồn nấn ná

  

là sự dừng lại – vĩnh viễn

ở đây – hay bất cứ nơi đâu

15/08/2023

 

 dứt

 

đóng chặt cánh cửa,

để lại tất cả sau lưng

như thời đẩy mái ngược dòng

ra đi nhắm mắt hòng thoát

 

đóng chặt cánh cửa

nhốt từng giấc mơ sao trời

khóa trái mọi trối trăn

những hồn ma hệ lụy

 

đóng chặt cánh cửa và quăng đi chìa khóa

chiếc rương của một thời châu báu

bầu rượu tràn hớp say

căn nhà có huyễn tưởng bóng mát

 

đóng chặt cánh cửa

vứt bỏ mẩu quen thuộc cuối cùng nào sót lại

ngoài kia những chiếc lá ố vàng đang rụng

mùa thu cũng bỏ đi

 

đi như một linh hồn rút lui

không định trở lại

đi chuyến nhẹ hẫng về mai sau

cầu cho trót lọt

 4/11/2022

 

Một trống trải của hư vô. Một ngưỡng cửa giữa khao khát và thất vọng, là sự dừng lại – vĩnh viễn/ ở đây – hay bất cứ nơi đâu,

Cửa đã đóng, chìa khóa đã quăng, cầu cho trót lọt, tôi dựa vào tri giác vô thường của nhà Phật để hiểu rằng sự dừng lại là một bắt đầu khác.

 

Ở bài thơ Vô Nghĩa, Nguyên Yên nhắc lại một ký ức không quên, mẹ gánh con/ xuyên miền lửa đạn Những đứa con của mẹ đã một lần/ trồi lên từ móng vuốt đại dương… bài Chờ Đợi tiếp nối thời gian những nỗi nhớ, những khổ nạn thời Sài Gòn phong ba, thời người ta phải chọn cái sống trên sợi chỉ sinh tử. Trong đó, báo động, một ký ức để lý giải đầy đủ cho hiện tại đã bị lãng quên lấn chiếm, khiến con người như cọng phiêu bồng không rễ.  những ngõ hoang những lối mòn rêu cỏ/ ký ức còn mở mắt/ quanh co không thể trở về, cái day dứt của một thế hệ sau chiến tranh, ký ức quá khứ cùng với những nghịch lý của hiện tại.

 

CHỜ ĐỢI

 

chỉ một tiếng động nhẹ
đủ bồn chồn thức
biết không phải anh gọi
vẫn mở mắt cố tìm một dấu hiệu

cố thuyết phục mình
như mỗi đêm đứa nhỏ hồi hộp nhìn ra cửa
mút tay chờ cha chờ mẹ
đi cải tạo không về

người bạn thân lên tàu
đứa nhỏ mỗi ngày chạy sang nhà mẹ bạn đợi tin
người mẹ một hôm hóa điên
ôm chầm nó như ghì xác con vào lòng

Sài Gòn những đêm cúp điện chờ sáng
bọn trẻ con trong xóm bu quanh cây me trước nhà
chờ bà ngoại quết trầu kể chuyện ma
thành phố chờ rợn gáy

kẻ rồ dại chờ tình yêu
người ngây thơ chờ sinh trẻ ra đời
con thiêu thân chờ đèn
cuộc sống chờ chết

con người như con vật thuần phục
chờ vô điều kiện
chờ vãi nước miếng
chờ bất cần thưởng

miễn trái tim còn đập
ngọn lửa còn âm ỉ
chỉ cần lóe lên một tín hiệu
người ta có thể chờ hàng thế kỷ.

26/10/2021

 

Tôi đồng tình với tác giả, sẽ chờ, -dù đó là một nỗi vô hình hay một tiếng động nhẹ quen thuộc- vẫn chờ, miễn trái tim còn đập/ ngọn lửa còn âm ỉ/ chỉ cần lóe lên một tín hiệu/ người ta có thể chờ hàng thế kỷ. Nguyên Yên bất chấp tất cả, miễn trái tim còn thức, một thách thức quyết liệt rất lãng mạn. Thế thì chúng ta sợ gì sự phá sản của niềm tin vào thế hệ chúng ta đang sống?

 Và chữ nghĩa vẫn còn là khí giới. Hãy đi. đầu tư vào ngôi nhà có khu vườn đất màu/ cấy vào đó khát khao/ chờ phép lạ mọc

 

TIN

 

là khi trái tim phỉnh cái đầu
mở ra bầu trời
mời gọi giấc mơ

là khi chênh vênh trên miệng vực
ảo tưởng một bàn tay
chìa ra hy vọng

là những phút giây hứng khởi bay
ngực căng dưỡng khí
no say sung mãn

là bước vào những mẩu đối thoại hai chiều
mở cánh cửa ký ức nhìn thấy tương lai
mặc kệ vết thương sâu hoắm

là đầu tư vào ngôi nhà có khu vườn đất màu
cấy vào đó khát khao
chờ phép lạ mọc

nhằm nhò gì những chương sách
nhằm nhò gì những tiên đoán chiêm nghiệm
chúng ta thừa khả năng viết lại câu chuyện giả tưởng
nơi con người ai cũng tìm được đối tượng
và một kết cục có hậu.

26/10/2021

 

Giả tưởng mà không giả tưởng. Hãy đọc lại bài thơ xem. Vì người ta không viết bằng cái đầu mà người ta viết bằng trái tim. ai cũng tìm được đối tượng và một kết cục có hậu, đó là một hoài mong thật sự, vì trời đâu che riêng ai, đất đâu chở riêng ai (ngạn ngữ Trung Hoa), nên nói giả tưởng chỉ là một cách làm cho nhẹ đi nỗi thiết tha của hoài vọng kia thôi.

 

Sinh Nhật

 

tôi cúi xuống thổi ngọn nến hồng

nghĩ về những điều bất tử

                                      đã bị dập tắt

ánh lửa bếp lò bà ngoại đốt

tiếng chim ban sáng hót trong hồn

ba ngàn cánh cửa vào thế giới

giấc mơ mọc cánh chọc trời

ngôi nhà thanh xuân

những cánh cửa mở

cơn gió xa, bông hoa lạ,

rì rào ngôn ngữ trái tim

hành tinh của em

bão trong lồng ngực

mặt trời của anh

lửa trong khóe mắt

khu vườn tâm hồn chúng mình

những buổi bình minh

ngây dại tin yêu

thật thà tưởng tượng

bầu trời này mặt đất này

của chúng ta

sao mai của chúng ta

bản nhạc của chúng ta

bài thơ của chúng ta

nụ hôn trên môi ta ngọt

chuyến tàu tuổi trẻ chiếc vé một chiều

những sân ga những điều bỏ lại

hôm nay ngày mai là những hôm qua

những lung linh cuối cùng

                                          chờ tắt.

8/24

 

Trái tim mới có thể nhận ra đúng nghĩa của những điều bất tử. ánh lửa bếp lò bà ngoại đốt/…giấc mơ mọc cánh chọc trời/ ngôi nhà thanh xuân/ những cánh cửa mở/ cơn gió xa, bông hoa lạ/ rì rào ngôn ngữ trái tim, cho dẫu có thể là một hành trình chông gai của bão trong lồng ngực/ lửa trong khóe mắt của anh và em. Cho dẫu bầu trời này mặt đất này/ của chúng ta/ sao mai của chúng ta/ bản nhạc của chúng ta/ bài thơ của chúng ta/ nụ hôn trên môi ta ngọt những lung linh cuối cùng chờ tắt, thì chúng ta vẫn kiên định, Đợi:

 

Đợi

 có khi là ngọn đèn đêm,

có khi là ánh trăng lệch

 có khi chỉ là đốm cháy nhỏ

cố tỏa sáng

 là cánh cửa sổ mở tìm cơn gió

là bản nhạc cũ bật lên

bài thơ xưa rích trên bàn

đòi một dấu phẩy

 

thời gian qua đi

căn phòng vẫn nguyên vẹn

như thể những điều đã một lần khô quánh

trong tim

 lại có thể - chảy về

 3/8/2025

Trong khoảng trống tưởng vô vọng đã có ánh sáng của nhiệt huyết, có khi chỉ là đốm cháy nhỏ/ cố tỏa sáng, thì không lý do gì mà chúng ta không hy vọng vào một ngày được mở mắt thức dậy/ thấy mình là ban mai… ý lời thật đẹp, thật thơ.

 

bình minh 

mở mắt thức dậy

thấy mình là ban mai của Amanda Gorman*

là sáng chủ nhật trời quang đãng

nắng ấm sau cơn mưa dầm

 

thức dậy từ bóng tối

thấy màu sắc mọc lên trên ngọn đồi**

chúng ta là hành tinh xanh

là trái đất trở mình sau cơn tắm gội

 

thức dậy vượt qua những hố sâu

ngước mắt nhận anh em, nhận bạn bè

chúng ta những đứa con của Mẹ***

không thể ngủ mê trong chia rẽ

 

thức dậy ngắm nhìn bầu trời

chúng ta đã băng ngang mùa đông dài

nụ hoa xuân trên cành vừa hé nở

có nghe thịt da tự do hít thở

 

thức dậy bạn bè tôi ơi, thức dậy

nhìn đàn én rủ nhau bay về phía mặt trời

lịch sử trở dậy chào ngày mới

thế giới nhân văn đang cựa mình

 

chúng ta trở dậy
bằng cặp mắt mở,

hớn hở như bầy trẻ thơ

tập ăn nói, tập cư xử tử tế

 

chúng ta trở dậy
bằng nhịp tim bằng tấm lòng

tập lắng nghe nhau, xóa mọi giận hờn

sửa soạn tâm hồn cho thông điệp sự thật ****

 

mở mắt thức dậy sau đêm mưa

thấy mình như ban mai trên ngọn đồi

bài thơ ngân vang trong lồng ngực

và cái đẹp thức dậy

hồi sinh.

(Sáng Chủ Nhật, 24 tháng Giêng 2021, California sau cơn mưa)

 

 *Amanda Gorman, nhà thơ trẻ 22 tuổi đọc thơ trong Lễ Đăng Quang Tổng Thống Joe Biden ngày 20 tháng 1, 2020

** Thơ viết cảm tác từ ngọn đồi “The Hill We Climb” của Amanda Gorman.

*** “Những đứa con của Mẹ Da Vàng” – ca từ bài Ngủ Đi Con/Trịnh Công Sơn

**** Ngày 23/1/2021, Trong bản Thư Mục Vụ Bảo Vệ Sự Thật phổ biến ngày 23 tháng 1, 2021, Ngày Truyền Thông Thế Giới, Đức Giáo Hoàng Francis đã lên tiếng: “Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm về thông tin do mình làm ra, do mình chia sẻ, để kiểm soát (trách nhiệm) như thế thì chúng ta có thể chỉ ra đâu là tin giả. Tất cả chúng ta đều là chứng nhân của sự thật: gởi đi, đọc và chia sẻ”.

 

KẾT TỪ

 

Bài viết này, từ ý thơ của Nguyên Yên, tôi làm nên một bố cục theo tư duy, -khoảng trống giữa những vô nghĩa tồn tại và những bất tử đã bị dập tắt-

Khởi đầu là bài thơ Vô Nghĩa, và một số bài tiếp theo, là tra vấn về sự tồn tại của vô nghĩa. Và ở bài Tin, Sinh nhật, là cảnh tỉnh về sự biến mất của những giá trị thuộc Chân Thiện Mỹ. Giữa hai đầu u hoài ấy là những bài thơ về Tình Yêu, Hoài Vọng, là thứ ánh sáng được thắp lên từ khoảng trống.

 Tại sao tôi nói khoảng trống. Đó là hình ảnh duy nhất để lại sau những giá trị tốt đẹp bị ruồng bỏ và những phi nghĩa lý được xem như một chuẩn mực mới.

Thơ Nguyên Yên đang sống, thở trong khoảng trống ấy, với nỗ lực, hoài vọng vào chữ nghĩa, một hoài vọng như một thông điệp, thứ chữ nghĩa đánh thức cơn mê, thổi bùng/ ngọn lửa… chúng ta lại biết bật khóc, bật cười/ biết quay đầu lại/ làm ngườichúng ta trở dậy/ bằng nhịp tim bằng tấm lòng…

 thức dậy bạn bè tôi ơi, thức dậy/ nhìn đàn én rủ nhau bay về phía mặt trời/ lịch sử trở dậy chào ngày mới/ thế giới nhân văn đang cựa mình/

 

Căn nhà chúng ta vẫn nguyên vẹn. Bóng tối của khoảng trống sẽ được phủ lấp bởi sức sống của cái đẹp, bài thơ ngân vang trong lồng ngực/ và cái đẹp thức dậy/ hồi sinh.

Và,

 

thời gian qua đi

căn phòng vẫn nguyên vẹn

như thể những điều đã một lần khô quánh

trong tim

lại có thể - chảy về

 

ntkm

Upland, tháng 9-2025