HỌC
CHỮ HÁN
NGUYỄN DUY CHÍNH
Giờ Hán văn đệ Thất của tôi do một giáo sư[1]
tên là Đặng Ngọc Thiềm hướng dẫn. Theo đúng thể lệ ông bắt chúng tôi mua mực
Tàu, giấy bản, nghiên bút đàng hoàng. Có thể nói, những sinh hoạt ấy với những
người khác chỉ là kỷ niệm nhưng lại trở thành “vốn quí” trong tôi. Vốn quí vì đây là bước chân mở cho tôi vào cánh
cửa chữ Hán mãi đến tận hôm nay, mỗi lúc một thiết yếu hơn chứ không suy giảm
chút nào.
Thuở ấy, cái nghiên giống như một cái bát sành nhỏ na ná cái đồ kê chân
trạn cho kiến khỏi bò lên, còn mực thì là một thỏi a dao có mùi rất nặng. Thế mà
chúng tôi cũng hí hoáy viết được những trang giấy chép theo cuốn Hán Học Phổ Thông của Đinh Đình Hòe và
Thích Giải Minh[2].
Bộ Hán Học Phổ Thông này về sau tôi
có mua thêm được cuốn thứ hai nhưng không phải để dùng trong lớp mà để tự học ở
nhà.
Qua cuốn Hán Học Phổ Thông,
chúng tôi biết qua phép Lục Thư (tượng hình, chỉ sự, hội ý, chuyển chú, giả tá,
hài thanh) và theo chỉ dẫn của giáo sư Thiềm chúng tôi biết cầm bút viết theo lối
trái trước, phải sau, trên trước dưới sau, ngoài trước, trong sau ngoại trừ một
vài biệt lệ như bộ Sước (辶) phải viết sau cùng.
Cuốn sách này rất đơn giản nhưng lại dễ nhớ cho trẻ con. Đến bây giờ
tôi vẫn còn thuộc một số bài trong đó, cổ văn cũng như kim văn, không dài và nặng
như các cuốn sách tự học khác vừa bắt nhớ mặt chữ lại kèm thêm cả văn phạm [ngữ
pháp].
Từ khi tiếp xúc với chữ Nho qua giờ Hán văn ở trường, tôi trở thành hiếu
kỳ. Chữ Tàu ở nước ta
thì không hiếm, có điều ít ai quan tâm thôi. Chỉ đảo qua một vòng trong Chợ Lớn,
chúng ta sẽ thấy cơ man là chữ Hoa trên các bảng hiệu, phần lớn viết theo lối
chân phương dễ đọc bên cạnh cái tên được dịch âm ra tiếng Việt. Phúc Sinh Đường
thì bên dưới sẽ có ba chữ 福生堂 cùng những hàng chữ
nhỏ hơn ghi tên các mặt hàng thuốc bắc như sâm nhung, cao đơn hoàn tán … Nếu so
sánh đối chiếu tiệm này sang tiệm khác sẽ tìm thấy có nhiều chữ giống nhau và
trừ qua sớt lại có thể đoán được những chữ mình chưa biết. Cái lối nhìn ngang
nhìn ngửa để học lóm đó tôi gọi là “học
chữ Nho ngoài đường” và lâu dần cũng có thể hiểu được ý nghĩa cái bảng hiệu
vì phần lớn không phải chỉ là dịch từ chữ Tàu sang tiếng Việt mà còn có thêm những
chi tiết khác. Thỉnh thoảng tôi cũng phát giác ra có bảng hiệu dịch sai, sai âm
hay sai chính tả, chẳng hạn Dân Ký (民記) nhưng tiếng Việt lại viết thành Minh Ký. Những cái bảng hiệu ấy cũng
cho tôi biết thêm một chút về văn minh Trung Hoa, chẳng hạn có chữ Đường thì biết
là tiệm thuốc bắc, chữ Ký thì thường là tiệm tạp hóa hay tiệm ăn và dù không lấy
gì làm đồ sộ nhưng vẫn quảng cáo thành đại tửu lâu.
Đây là lá thư của cụ Phan Bội Châu:[4]
Này con! Chúng con ơi!
Nhưng nếu trời thương
ta, cho hai ta đồng chết thì gặp nhau dưới suối vàng, cũng vui thú biết chừng
nào!
Nhưng đau đớn quá! Mẹ
mày e chết trước ta. Ta hiện bây giờ nếu không chép sơ những việc đời mẹ mày
cho chúng con nghe, thời chúng con rồi đây không biết rõ mẹ mày là người thế
nào, có lẽ bảo mẹ ta cũng như người thường thảy cả.
Than ôi! Ta với mẹ
mày, vợ chồng “thật” gần năm mươi năm mà quan quả[5]
“giả” gần bốn mươi năm. Khi sống, chẳng mấy hồi tương tụ, mà tới chết lại chỉ
tin tức nghe hơi!...
Mẹ mày có gì đâu! Chỉ
dựa vào một triêng hai thúng, từ mai tới hôm mà cũng nghe chồng đòi gì có nấy.
Bổng dậy học của ta tuy khá nhiều nhưng chưa đồng xu nào mà tay mẹ mày được xài
phí. Khổ cực mấy nhưng không sắc buồn, khó nhọc mấy nhưng không tiếng giận. Từ
đã 36 tuổi cho tới ngày xuất dương, những công việc kinh dinh việc nước, mẹ mày
ngầm biết thảy nhưng chưa từng hé răng một lời. Duy có một ngày kia, ta tình cờ
ngồi một mình, mẹ mày đứng dựa cột kề một bên ta mà nói:
- Thầy toan bắt cọp đó
mà? Cọp chưa thấy bắt mà người ta đã biết nhiều, sao thế?
Mẹ mày tuy có nói câu ấy,
mà lúc đó ta làm ngơ, ta thiệt dở quá! Bây giờ nhắc lại trước khi ta xuất
dương, khoảng hơn 10 năm nghèo đói mà bạn bè nhiều, khốn cùng mà chí vững thiệt
một phần nữa là nhờ ơn mẹ mày.
Tới ngày ta bị bắt về
nước, mẹ mày được gặp ta một lần ở thành tỉnh Nghệ, hơn nửa tiếng đồng hồ, chỉ
có một câu nói với ta rằng:
- Vợ chồng ly biệt
nhau hơn hai mươi năm, nay được một lần gặp mặt thầy, trong lòng tôi đã mãn túc
rồi. Từ đây trở về sau, chỉ trông mong cho thầy giữ được lòng xưa, thầy làm những
việc gì mặc thầy, chớ có nghĩ tới vợ con.
Hỡi ôi! Câu nói ấy bây
giờ còn phảng phất ở bên tai ta, mà ta té ra chầy chà năm tháng, chẳng một việc
gì làm, chốc đã chẵn mười năm. Phỏng khiến mẹ mày chết trước ta, thì trách nhiệm
của ta e còn nặng thêm mãi.
Suối vàng quanh cách,
biết lối nào thăm. Ðầu bạc trăm năm, còn lời thề cũ.
Mẹ mày thật chẳng phụ
ta, ta phụ mẹ mày!
“Công nhĩ vong tư” [6] chắc mẹ mày cũng lượng
thứ cho ta chứ. [7]
Cũng qua những bài văn xuôi, chúng tôi được đọc lối văn trang nhã, trọng
lý mà không quên tình như trong thư của Hoàng Cao Khải gửi Phan Đình Phùng và
thư cụ Phan phúc đáp. Tuy ở hai chiến tuyến khác nhau, các cụ nhà nho không vì
thế mà dùng lời lẽ thiếu lịch sự. Vì ý nghĩa lịch sử, tôi cũng chép lại đây bài
học tôi học năm đầu tiên ở bậc trung học [tức lớp 6]:
Bức thư của Hoàng Cao Khải
Đồng ấp Phan Đình
Nguyên đại nhân túc hạ.
Tôi với ngài xa cách
nhau, xuân thu đắp đổi trải đã mười bảy năm nay rồi. Dâu bể cuộc đời, bắc nam
đường bụi, tuy là mỗi người đi một ngả khác nhau, nhưng mà trong giấc mộng hồn
vẫn thường thấy nhau không phải xa xôi gì. Ngồi nghĩ lại ngày trước chúng ta
còn ở chốn quê hương giao du với nhau, cái tình ấy đằm thắm biết là dường nào?
Từ lúc ngài khởi nghĩa
đến giờ, nghĩa khí trung can, đều rõ rệt ở tai mắt người ta. Tôi thường nghe
các quý quan (là các quan Pháp) nói chuyện đến ngài, ông nào cũng phải thở than
khen ngợi và tỏ ý kính trọng ngài lắm. Xem như thế thì tấm lòng huyết khí tôn
nhân, tuy là người khác nước cũng chung một tâm tình ấy thôi, không phải là người
cùng thanh khí với nhau mới có vậy.
Ngày kinh thành thất
thủ, xe giá nhà vua bôn ba, mà ngài mạnh mẽ đứng ra ứng nghĩa, kể sự thế lúc bấy
giờ, ngài làm vậy là phải lắm, không ai không nói như thế. Song le, sự thế gần
đây đã xoay đổi ra thế nào, thử hỏi việc đời có thể làm được nữa không, dầu kẻ
ít học thức, kém trí khôn, cũng đều trả lời không được. Huống chi như ngài lại
là bậc người tuấn kiệt, chẳng lẽ không nghĩ tới đó hay sao? Tôi trộm xét chủ ý
của ngài, chắc cũng cho rằng: ta cứ làm theo việc phải ta biết, cứ đem hết tài
năng ta có, một việc nên làm mà làm là ở nơi người, còn nên được hay không nên
là ở nơi trời, ta chỉ biết đem thân này hứa cho nước, đến chết mới thôi. Bởi thế,
cho nên ngài cứ việc làm tới cùng, không ai có thể làm biến đổi cái chí ấy đi
được.
Có điều tôi thấy tình
trạng ở quê hương chúng ta gần đây, lấy làm đau lòng hết sức. Nhân đó, tôi thường
muốn đem ý kiến hẹp hòi, để ngỏ cùng lượng cao minh soi xét; nhưng mấy lần mở
giấy ra rồi, mài mực xong rồi, đã toan đặt bút xuống viết rồi lại gác bút thở
dài, không sao viết được. Vì sao? Vì tôi liệu biết can tràng của ngài cứng như
sắt đá, không thể lấy lời nói mà chuyển động nổi. Đã vậy, lại còn khác tình,
khác cảnh, xa mặt xa lòng, vậy thì lời nói của tôi, chắc gì thấu tới được nơi
ngài; mà dầu cho có thấu tới nơi ngài chăng nữa, đã chắc gì lọt vào tai ngày chịu
nghe giùm cho, chẳng qua chỉ để cho cố nhân cười mình là thằng ngu thì có.
Nay nhân quan Toàn quyền[8] trở lại, đem việc ở tỉnh ta bàn bạc với tôi, có khuyên tôi sai người
đến ngỏ ý cùng ngài biết rằng: ngài là bậc người hiểu biết nghĩa lớn, dầu không
bận lòng tưởng nghĩ gì đến thân mình, nhà mình đi nữa, thì cũng nên tưởng nghĩ
cứu vớt lấy dân ở trong một địa phương mới phải. Lời nói đó, quan Toàn quyền
không nói với ai, mà nói với tôi, là vì cho rằng: tôi với ngài có cái tình xóm
làng cố cựu với nhau, chắc hẳn tôi nói ngài nghe được, vậy có lẽ nào tôi làm
thinh không nói?
Ngay thử nghĩ xem:
quan Toàn quyền là người khác nước, muôn dặm tới đây, mà còn có lòng băn khoăn
lo nghĩ tới dân mình như vậy thay, huống chi chúng ta sinh đẻ lớn khôn ở đất
này, là đất của cha mẹ tôn tộc ở đó, có là đâu mình làm lơ đành đoạn, thì trăm
năm về sau, người ta sẽ bảo mình ra làm sao? Ôi! Làm người trên phải có lòng
thương yêu dân làm cốt, chưa từng có ai không biết thương dân mà bảo là trung với
vua bao giờ. Việc của ngài làm từ bấy lâu nay, bảo rằng trung thì thiệt là
trung, song dân ta có tội gì mà vướng phải nông nỗi lầm than thế này, là lỗi tại
ai? Nếu bảo là đã vì thiên hạ thì không thiết chi tới nhà nữa cũng phải, nhưng
một nhà của mình đã vậy, chứ còn bao nhiêu nhà ở trong một vùng cũng bỏ đi cả,
sao cho đang tâm, Tôi nghĩ nếu như ngài cứ khăng khăng làm tràn tới mãi, thì e
rằng khắp cả sông Lam núi Hồng đều biến thành hồ cá hết thảy, chứ không phải chỉ
riêng lo ngại cho cây cỏ một làng Đông Thái chúng ta mà thôi đâu. Đến nỗi để
cho quê hương điêu đứng xiêu tàn, tưởng chắc bậc người quân nhân quân tử không
lấy gì làm vui mà làm thì phải.
Tôi suy nghĩ đắn đo
mãi, vụt lấy làm mừng rỡ mà nói riêng với mình: Được rồi, lời nói đó tôi có thể
đem ra nói cho ngài nghe lọt tai, để xin ngài chỉ bảo cho biết như vậy có phải
hay không?
Tuy nhiên, sự thế của
ngài như cỡi trên lưng cọp đã lỡ rồi, bây giờ muốn bước xuống, nghĩ lại khó
khăn biết bao!
Nếu như tôi không có
chỗ tự tin chắc chắn nơi mình, thì quyết không khi nào dám mở lời nói liều lĩnh
để mang luỵ cho cố nhân về sau. Nhưng may là tôi với quan Toàn quyền, vốn có
tình quen biết nhau lâu, lại với quan Khâm sứ ở Kinh, và quan Công sứ Nghệ
Tĩnh, cùng tôi quen thân hiệp ý nhau lắm, cho nên trước kia Trần Phiên sứ (tên
là Khánh Tiến, làm Tuần phủ, nên gọi là Phiên sứ) Phan Thị Lang, (tên là Huy
Nhuận), cũng là chỗ thân trong tỉnh, trong làng hoặc bị tội nặng, hoặc bị xử
đày rồi, thế mà tôi bảo toàn cho hai ông ấy đều được yên ổn vô sự. Lại như mới
rồi, ông Phan Trọng Mưu ra thú, tôi dẫn đến yết kiến các đại hiến quý quan, thì
các ngài cũng tiếp đãi trân trọng như đãi khách quý, và tức thời điện về tỉnh
nhà, bắt trả lại mồ mả, và tha cả ba con về, như thế tỏ ra nhà nước Bảo hộ
khoan dung biết chừng nào! Cứ xem vậy đủ biết lẽ ấy, lòng ấy, dầu là người
nghìn dặm xa nhau, vẫn là giống nhau vậy.
Bây giờ, nếu ngài
không cho lời tôi nói là dông dài, thì xin ngài đừng ngần ngại một điều gì khác
hết tôi không khi nào dám để cho cố nhân mang tiếng là người bất trí đâu.
Hoàng Cao Khải đốn thư
Bức thư cụ Phan trả lời:
Hoàng quý đài các hạ,
Gần đây, tôi vì việc
quân, ở mãi trong chốn rừng rú, lại thêm lúc này tiết trời mùa đông, khí hậu
rét quá, nông nỗi thiệt là buồn tênh. Chợt có người báo có thư của cố nhân gửi
lại. Nghe tin ấy, không ngờ bao nhiêu nỗi buồn rầu lạnh lẽo, tan đi đâu mất cả.
Tiếp thư liền mở ra đọc. Trong thư cố nhân chỉ bảo cho điều hoạ phước, bày tỏ hết
chỗ lợi hại, đủ biết tấm lòng của cố nhân, chẳng những muốn mưu sự an toàn cho
tôi thôi, chính là muốn mưu sự yên ổn cho toàn hạt ta nữa. Những lời nói gan ruột
của cố nhân, tôi đã hiểu hết, cách nhau muôn dặm tuy xa, nhưng chẳng khác gì
chúng ta được ngồi cùng nhà nói chuyện với nhau vậy.
Song le tâm sự và cảnh
ngộ của tôi có chỗ muôn vàn khó nói hết sức. Xem sự thế thiên hạ như thế kia,
mà tài lực tôi như thế này, y như lời cổ nhân đã nói "thân con bọ ngựa là
bao mà dám giơ cánh tay lên muốn cản trở cỗ xe" sao nổi không biết; việc
tôi làm ngày nay, sánh lại còn quá hơn nữa, chẳng phải như chuyện con bọ ngựa
đưa tay ra cản xe mà thôi.
Nhưng tôi ngẫm nghĩ lại,
nước mình mấy ngàn năm nay, chỉ lấy văn hiến truyền nối nhau hết đời này qua đời
kia, đất nước chẳng rộng, quân lính chẳng mạnh, tiền của chẳng giàu, duy có chỗ
ỷ thị dựa nương để dựng nước được, là nhờ có cái gốc vua tôi, cha con theo
nghĩa vốn có chỗ đủ cho mình tự có thể trông cậy dựa nương lắm vậy. Đến nay người
Pháp với mình, cách xa nhau không biết là mấy muôn dặm, họ vượt bể tới đây, đi
tới đâu như là gió lướt tới đó, đến nỗi nhà vua phải chạy, cả nước lao xao, bỗng
chốc non sông nước mình biến thành bờ cõi người ta, thế là trọn cả nước nhà,
dân nhà, cùng bị đắm chìm hết thảy, có phải là riêng một châu nào hay một nhà
ai phải chịu cảnh lầm than mà thôi đâu.
Năm Ất Dậu, xe giá
thiên tử ngự đến sơn phòng Hà Tĩnh, giữa lúc đó tôi đang còn tang bà mẹ, chỉ biết
đóng cửa cư tang cho trọn đạo, trong lòng há dám mơ tưởng đến sự gì khác hơn.
Song, vì mình là con nhà thế thần, cho nên đôi ba lần đức Hoàng thượng giáng chiếu
vời ra; không lẽ nào có thể từ chối, thành ra tôi phải gắng gổ đứng ra vâng chiếu,
không sao dừng được. Gần đây, Hoàng thượng lại đoái tưởng lựa chọn tôi mà giao
phó việc lớn, uỷ thác cho quyền to; Ấy, mệnh vua uỷ thác như thế đó, nếu cố
nhân đặt mình vào trong cảnh như tôi, liệu chừng cố nhân có đành chối từ trốn
tránh đi được hay không?
Từ lúc tôi khởi nghĩa
đến nay, đã trải mười năm trời, những người đem thân theo việc nghĩa, hoặc đã bị
trách phạt, hoặc đã bị chém giết, vậy mà lòng người trước sau chẳng hề lấy thế
làm chán nản ngã lòng bao giờ; trái lại, họ vẫn ra tài, ra sức giúp đỡ tôi, và
lại số người mạnh bạo ra theo tôi càng ngày càng nhiều thêm mãi. Nào có phải
người ta lấy điều ta vạ hiểm nguy làm cho sự sung sướng thèm thuồng mà bỏ nhà dấn
thân ra theo tôi như vậy đâu. Chỉ vì họ tin cậy lòng tôi, lượng xét chí tôi,
cho nên hâm hở vậy đó thôi. Ấy, lòng người như thế đó, nếu như cố nhân đặt mình
vào cảnh của tôi liệu chừng cố nhân có nỡ lòng nào bỏ mà đi cho đành hay không?
Thưa cố nhân, chỉ vì nhân
tâm đối với tôi như thế, cho nên cảnh nhà tôi đến nỗi hương khói vắng tanh, bà
con xiêu dạt, tôi cũng chẳng dám đoái hoài. Nghĩ xem, kẻ thân với mình mà mình
còn không đoái hoài, huống chi là kẻ sơ: người gần với mình mà mình còn không
bao bọc nổi, huống chi người xa. Vả chăng hạt ta đến đỗi điêu đứng lầm than
quá, không phải riêng vì tai hoạ binh đao làm nên nông nổi thế đâu. Phải biết
quan Pháp đi tới đâu, có lũ tiểu nhân mình túa ra bày kế lập công, thù vơ oán
chạ; những người không có tội gì chúng cũng đâm thọc buộc ràng cho người ta là
có tội, rồi thì bữa nay trách thế nọ, ngày mai phạt thế kia; phàm có cách gì đục
khoét được của cải của dân, chúng nó cũng dùng tới nơi hết thảy. Bởi đó mà thói
hư mối tệ tuôn ra cả trăm cả ngàn, quan Pháp làm sao biết thấu cho cùng những tật
khổ của dân trong chốn làng xóm quê mùa, như thế thì bảo dân không phải tan lìa
trôi giạt đi sao được?
Cố nhân với tôi, đều
là người sinh đẻ tại châu Hoan, mà ở cách xa ngoài muôn ngàn dặm, cố nhân còn
có lòng đoái tưởng quê hương thay, huống chi là tôi đây đã từng lấy thân chịu đựng
và lấy mắt trông thấy thì sao? Khốn nỗi cảnh ngộ bó buộc, vả lại sức mình chẳng
làm được theo lòng mình muốn, thành ra phải đành, chứ không biết làm sao cho được.
Cố nhân đã biết đoái hoài thương xót dân này, thì cố nhân nên lấy tâm sự tôi và
cảnh ngộ tôi thử đặt mình vào mà suy nghĩ xem, tự nhiên thấy rõ ràng, có cần gì
đến tôi phải nói dông dài nữa ư?
Phan Đình Phùng phúc
thư[9]
Tuy tuổi thơ chẳng ai trong chúng tôi hiểu rành rọt ý nghĩa và từ ngữ
trong các bức thư này nhưng lời văn trịnh trọng và mượt mà qua bản dịch của Đào
Trinh Nhất đã gieo vào đầu óc sự kính trọng chữ nghĩa văn chương. Cuốn Quốc Văn
ấy có cái hay là đều chú thích rất kỹ các chữ khó, chữ Hán – Việt đều kèm theo
chữ Hán nên tôi cũng tiện học theo – hay ít nhất cũng quen mắt với chữ gốc. Nói
tóm lại, việc học chữ Hán của tôi khởi đầu bằng văn chương Việt Nam vì quả thực
các từ Hán – Việt hầu như xuất hiện đến quá nửa trong tiếng nước mình nên học
chữ Nho cũng chỉ là vì muốn học tiếng của dân tộc mình.
Cái vốn chữ Hán của tôi chựng lại khá lâu – vì không có cơ hội nào để
tiến thêm ngoài việc học “ngoài đường”
và thỉnh thoảng ngâm nga vài câu thơ cổ. Thế nhưng người ta có thể ngâm thơ mà
không biết mặt chữ, lại cũng không cần hiểu niêm luật cho tường tận nên không
hiếm người thuộc rất nhiều thơ nhưng lại không biết chữ Hán.
Như hầu hết thanh niên, chưa tập đi đã muốn chạy, tôi cũng mua mấy cuốn
thơ Đường về đọc và tập viết. Viết thì cũng không chịu viết chân phương cho
rành rọt mà lại muốn đi thẳng sang hành thư, thảo thư. Thơ Đường vốn dĩ rất khó
vì hàm súc, chỉ trong 56 chữ mà gói ghém biết bao nhiêu ý, bao nhiêu tình, cú
pháp nhiều khi không theo mực thường, xem ra còn khó hơn văn ngôn[10]
gấp bội. Ấy thế mà thuở đó tôi lại đi theo con đường ngược đời đó nên không đi
đến đâu. Giá cứ như ngày xưa học từ Tam Tự Kinh sang Ấu Học Ngũ Ngôn Thi lại
còn có cơ sở vì trẻ con học nhớ nhiều hơn học nghĩa, mưa dầm thấm đất, học mãi
rồi cũng nhập tâm.
Khi đi làm ở một tỉnh miền Trung, tôi đem theo một bộ Tam Quốc Diễn
Nghĩa mua ở Chợ Lớn để đọc và để học, theo cách của cụ Nguyễn Hiến Lê chỉ dạy.
Thế nhưng vì chữ nghĩa ít ỏi, đọc và tra lâu quá nên chỉ được vài trang rồi phải
bỏ.
Sau năm 1975, tôi có một cơ hội khác. Sau khi ra tù, thất nghiệp nằm
nhà, một người bạn đem đến cho mấy cuốn sách coi tướng bằng chữ Tàu. Những sách
tướng số, tử vi là loại xen lẫn văn ngôn - bạch thoại đọc cũng thú vị và tương
đối không khó lắm. Nhờ có mấy cuốn sách, lại thêm thì giờ rảnh rỗi cùng với bạn
bè bàn luận ngược xuôi nên tôi cũng mày mò đọc cho bằng hết. Ấy cũng là nhu cầu
nảy sinh phương tiện nên vừa đọc vừa đoán rồi cũng xong. Điểm mạnh của trò chơi
này là giúp tôi làm quen với văn pháp Trung Hoa và học ngoại ngữ nào thì cũng
phải làm quen với ngữ pháp – mà ngữ pháp là gì nếu chẳng phải là lối sắp xếp chữ
của thứ ngôn ngữ đó. Cho nên nếu tiếng Anh, tĩnh từ phải đi trước danh từ thì
khi đọc sang tiếng Pháp chúng ta lại phải quen ngay với lối sắp xếp hầu hết ngược
lại, danh từ trước, tĩnh từ sau.
Sau đó tôi mua được một bộ sách có tên là Thần Tướng Toàn Biên[11]
(神相全編), bao gồm đầy đủ các tác phẩm cổ của bộ môn
này, nhiều điều hàm tàng một ý nghĩa triết học, tâm lý học … của Đông phương mà
các cổ thư khác không nhắc tới. Đáng kể nhất có lẽ là hai phần trong Ma Y thần
tướng, một phần là Khóa Vàng [金鎖賦 Kim Tỏa Phú], một phần
là Chìa Khóa Bạc [銀匙謌 Ngân Thi Ca], Viên
Thiên Trang nhân thức ca, Viên Liễu Trang nhân tượng phú … Tuy nhiên, phần lớn
đều thuộc loại bàng môn, đi vào chi li vụn vặt không đáng nhớ nên tôi chỉ đặt
trọng tâm vào một bài phú có tên là Nhân Luân Đại Thống Phú (人倫大統賦) của Trương Hành Giản (張行簡) mở đầu bằng hai câu:
貴賤定於骨法,憂喜見於形容。
悔吝生於動作之始,成敗在乎決斷之中。
Quí tiện định ư cốt
pháp, ưu hỉ kiến ư hình dung
Hối lận sinh ư động
tác chi thủy, thành bại tại hồ quyết đoán chi trung …
Kẻ quí người tiện là do ở cốt cách, đời buồn hay vui cũng do vẻ dáng bề
ngoài
Sai lầm cũng do động tác khởi nên, thành bại cũng nằm ở trong quyết
đoán …
Bài phú đó rất uyên áo, lãnh ngộ tùy theo mỗi người nên đọc lâu cũng
có chỗ thú vị. Thế nhưng đây chỉ là trò chơi trí óc, tìm hiểu thiên cơ không phải
là chủ đích của nhà nho nên tôi không vướng vào lâu. May mắn nhất, những động lực
thúc đẩy khiến cho tôi phải học để đọc những bộ sách này và nói cho cùng, đó
chính là cái cánh cửa bước chân vào Hán văn của tôi.
Sau khi đã ngốn xong mấy cuốn sách tử vi tướng số, tôi quay trở lại đọc
bộ Tam Quốc thì thấy dễ hơn nhiều. Truyện này tôi đã đọc nhiều lần, khó nhất là
tên người thì hầu hết mình đã biết, đoán già đoán non cũng được 90%. Phải nói rằng
nếu đọc thông bộ Tam Quốc thì đã đi được quá nửa đường trong việc làm quen với
Hán văn, ít nhiều cũng có cơ sở.
Sang đến Mỹ, lang thang mấy tiệm sách Tàu trên Chinatown ở Los
Angeles, tôi mua được toàn bộ truyện Kim Dung, 36 cuốn. Thời gian ấy, nhu cầu đọc
lại sách vở cũ còn nhiều nên một số nhà xuất bản in sách một cách đơn giản là
chụp lại các sách vở cũ của miền Nam để chiều theo thị hiếu. Truyện chưởng là
món hàng ăn khách nên vì thế cũng nở rộ. Có điều đọc lại thì tôi mới thấy lối dịch
trước đây cẩu thả, cú pháp văn chương cũng bình thường vì vốn dĩ là lối văn nhật
báo dành cho đại chúng trong đó không hiếm những sai lầm về âm cũng như về
nghĩa chỉ thích thú khi mình chưa biết còn nay đã đọc thẳng vào nguyên tác thì
lại thấy ngang phè.
Chính vì thế nằm đọc một cách say mê bộ Kim Dung nguyên bản thì quả là
cái thú mà không mấy ai có trong sinh hoạt của người Việt tha hương. Mà học ngoại
ngữ nào đến một lúc cũng nhập tâm, khi cầm đến cuốn sách Tàu thì lập tức giở từ
cuối lên, đọc từ phải sang trái, từ trên xuống dưới, đọc đâu hiểu đó chẳng mấy
khi phải “bước đi một bước lâu lâu lại dừng”
để tra tự điển. Con người trở nên có nhiều nhân cách khi đã tạo cho mình một mẫu
số đa văn hóa, cái nọ bù đắp cho cái kia, nên việc chuyển từ ngôn ngữ này sang
ngôn ngữ khác không còn là vấn đề. Đó cũng là việc thường làm trong một ngày,
chuyển đổi tần số từ tiếng Anh sang tiếng Việt, từ chữ Hán phồn thể sang chữ
Hán giản thể chỉ là thói quen.
Sau khi đọc đi đọc lại truyện Kim Dung – thực ra thì tôi chỉ tập trung
vào mấy bộ thích nhất như Tiếu Ngạo Giang Hồ, Lộc Đỉnh Ký, Ỷ Thiên Đồ Long,
Thiên Long Bát Bộ - cái vốn tiếng Hán của tôi cũng thêm dần. Quay đầu nhìn lại,
tôi mới thấy rằng muốn tinh thông cái gì người ta phải đam mê không chán vì nếu
do nhu cầu thì giữ được nỗ lực lúc ban đầu nhưng rồi sẽ mỏi mệt. Thế nhưng khi
tạo được đam mê, dù đam mê ấy đối với người xung quanh kỳ quặc chăng nữa, thì vẫn
là một động lực liên tục bắt người ta phải cố gắng để đến một lúc nào đó chép
miệng tự trách mình âu cũng là một cái “nghiệp”.
Cũng từ đó, tôi nảy ra ý định viết một số chuyên đề có liên quan đến
các tình tiết trong mấy bộ truyện Kim Dung. Những bài viết về trà, đông y, ngựa
và cánh cung, về hoạn quan, về hoa trà, cờ vây, bảo kiếm, Thanh binh nhập quan,
hay cuộc khởi nghĩa lật đổ triều Nguyên … chính là những kiến thức mở rộng một
số chi tiết mà Kim Dung đã nhắc tới. Những biên khảo nho nhỏ này thực ra không
phải là một công việc thường xuyên mà là một việc làm tài tử - nói theo ngôn ngữ
trong nước ngày nay gọi là nghiệp dư –thực hiện chủ yếu là trong khoảng thời
gian được nghỉ học giữa mùa [breaks] vì từ khi cha mẹ và các em tôi sang đoàn tụ,
tôi đã có thời gian để trở lại nhà trường vào ban đêm sau giờ làm việc. Việc
làm ấy vừa giúp tôi có sự tiếp cận liên tục với tiếng Việt và chữ Hán cho khỏi
quên, lại là một cách tạm lánh ra khỏi khung cảnh học đường cho thư dãn. Nhờ nhảy
qua nhảy lại, tôi vẫn không bị rơi rụng cái vốn chữ Hán có sẵn, lại giúp mình
có thêm một số kiến thức mới mà trước đây chỉ biết qua loa.
Những bài viết tôi gửi lên một web-site kiếm hiệp [vietkiem.com] mà từ
đó hai anh Trần Văn Chánh và Lê Đình Thuyên ở VN đã tải xuống và giúp ấn hành
tác phẩm đầu tiên, Đọc Kim Dung Tìm Hiểu
Văn Hóa Trung Quốc[12]
khi có dịp gặp tôi ở VN cuối năm 2001. Chính cái tựa này cũng do anh Chánh đặt
giùm chứ không phải tôi nghĩ ra. Âu cũng là duyên văn tự mà từ đó tôi quen biết
được khá đông các nhà văn hóa trong nước như Trần Văn Chánh, Lê Anh Dũng, Lê
Đình Thuyên, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Hạnh, Phạm Hoàng Quân … ở Saigon và rồi lan
truyền ra đến Hà Nội như Nguyễn Bá Dzũng, Trần Trọng Dương … Huế như Nguyễn Văn
Tiến, Nguyễn Anh Huy, Nguyễn Hữu Châu Phan, Trần Đình Hằng … Đây chỉ là một số
nhỏ những người tôi may mắn quen biết vì danh sách còn dài gấp bội, thân cũng
nhiều mà chỉ mới giao thiệp qua internet cũng không ít.
Cũng khoảng cuối thập niên 1990, em trai tôi gửi truyện ngắn đầu tiên
của Kim Dung tôi dịch đã lâu nhưng còn bỏ xó lên internet. Đó là truyện Việt Nữ
Kiếm. Cũng từ bản dịch này một số bằng hữu đã hỏi thêm về Kim Dung nên vừa khi
không còn nặng nợ sách đèn, tôi dịch lại bộ truyện Ỷ Thiên Đồ Long Ký [40
chương], Bạch Mã Khiếu Tây Phong, Uyên Ương Đao và sau cùng là Thiên Long Bát Bộ
[50 chương]. Tất cả đều gửi lên vietkiem.com (nay đã không còn hoạt động) cho mọi
người cùng đọc. Khi tôi bắt đầu dịch Lộc Đỉnh Ký là một trong hai bộ tôi ưa
thích nhất thì trong nước có phong trào dịch lại Kim Dung do một nhà xuất bản
mua được bản quyền và ồ ạt tung ra những bản dịch mới. Khi đó tôi chỉ mới dịch
được 5 chương trong bộ Lộc Đỉnh Ký thì ngừng lại vì tự nghĩ mình dịch theo lối
nhàn tản vui chơi, không nên làm phương hại đến một số dịch giả trong nước cần
một phương tiện sinh nhai.
Việc ngưng lại – dẫu có làm thất vọng một số người – nhưng cũng chẳng
ai thiệt thòi, có thể lại là cái may cho tôi. Về phương diện chữ nghĩa, dịch
Kim Dung tuy có thêm một số kiến thức và gọt dũa văn chương nhưng cũng chỉ đến
một giới hạn, không thể đi xa hơn. Lẽ dĩ nhiên đó là một công việc mất nhiều
thì giờ, nhiều công phu nhưng thành quả thì không hơn việc mài đá thành gương.
Cùng lúc đó, người bạn mới quen của tôi ở VN là anh Lê Anh Dũng đã gợi ý cho
tôi là quay về nghiên cứu những vấn đề liên quan đến Việt Nam mà vốn dĩ các nguồn
sách báo, tài liệu ở bên ngoài rất phong phú.
Gợi ý đó mở cho tôi một con đường “về
nguồn” – con đường mà sau này con trai tôi đã khai triển chính kinh nghiệm
của tôi để thành một luận văn về giới đọc sách có thể đóng góp cho quê hương từ
xa mà không cần phải về sống trong nước, một đề tài cần được nghiên cứu sâu rộng
hơn nếu muốn xóa mờ ranh giới trong ngoài.
Tôi xin trích một vài đoạn cháu viết:
[…] This new period of family life and personal stability marked what
Nguyen calls his “second life”. The “first life” was his life in Vietnam and
the initial paralysis within the United States, and the steady transition that
highlighted his new citizenship within the United States. This duality is
common within the Vietnamese American community, as for many the process of
healing within the United States meant being able to claim agency of their own
lives within the United States and reconnecting with their Vietnamese heritage.
Those who were most able to reconcile their two citizenships tended to fare better
as American citizens than those who felt alienated by their refuge in the
United States. […].
…Cuộc sống gia đình và ổn định bản
thân đánh dấu một thời kỳ mới mà ông Nguyễn gọi là cuộc đời thứ hai. Cuộc đời thứ nhất là thời
gian ông sống ở Việt Nam và lúc ban đầu hụt hẫng khi mới sang bên Mỹ và rồi dần
dần hội nhập vào sinh hoạt công dân ở xứ này. Cuộc đời nhị nguyên ấy khá thông
thường trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt và đối với nhiều người thì tiến trình
hàn gắn vết thương ở trên đất Hoa Kỳ là làm sao hội nhập đời sống đồng thời vẫn nối lại được với di sản cũ
ở Việt Nam. Những người có khả năng dung hòa hai dòng sinh mệnh ấy thường tiến
xa hơn những công dân Mỹ vẫn cảm thấy mình bị tách rời vì cuộc sống di dân nơi
xứ sở mới. …
[…] For Nguyen, diaspora is the ability for the body to occupy one
physical space, but have your own source of cultural, political, and social
production that can extend beyond borders and exist in many spaces at once. His
ability to live as an American citizen while contributing to academic
scholarship in Vietnam has been an important process in his growth and
awareness as a global citizen by collaborating, discussing, and disseminating
his works among both Vietnamese and Vietnamese American historic scholars.
Though there is great interest in his published works in Vietnamese language
newspapers and magazines within the United States, the vast majority of his
works are published in Vietnam under free licenses, slowly rewriting history
one work at a time. This is Nguyen’s greatest form of remittance to the memory
of South Vietnam as a Vietnamese expatriate, using the vast access of resources
and support he has within the United States to continue his scholarship. It is
a transcendental form of healing, filling the soul with purpose where it was
once lost in a traumatic rupture of cultural roots.
… Theo ông Nguyễn, cộng
đồng [người
Việt] là nơi cho ông một không gian sinh
sống nhưng phải có những nguồn riêng về văn hóa, chính trị hay sản phẩm xã hội
vượt ra khỏi ranh giới và tồn tại nhiều không gian trên cùng một thời gian. Khả
năng có thể đồng thời sống như một công dân Hoa Kỳ trong khi vẫn đóng
góp các nghiên cứu học thuật về Việt Nam đã trở thành một bước tiến quan trọng
trong việc vươn lên và nhắc nhở rằng ông còn là một công dân của toàn thế giới
nếu ông cộng tác, thảo luận và gieo rắc những công trình của mình đến các học
giả về lịch sử -cho cả người Việt lẫn người Mỹ nghiên cứu về Việt Nam. Tuy rất
quan tâm đến việc ấn hành các công trình của mình trên các tạp chí, báo chí bằng
tiếng Việt ở Hoa Kỳ, một số lớn các nghiên cứu của ông đã được in ra rộng rãi không điều
kiện tại trong nước để từ từ viết lại lịch sử mỗi lần một ít. Đây là hình thức
đền đáp lớn nhất mà ông Nguyễn có thể làm để nhớ lại miền Nam Việt Nam - trong
vai trò một người dân xa xứ - sử dụng nguồn tư liệu vô cùng rộng rãi và những yểm
trợ có được từ nước Mỹ để theo đuổi các công trình học thuật. Đây chính là
phương thức chữa lành kỳ diệu nhất để khỏa lấp tâm hồn qua những mục tiêu vốn dĩ đã nứt rạn
khi bị bứng ra khỏi cái gốc rễ văn hóa [của chính mình].
Muốn đi được lâu bền, tôi không thể mon men bước chân vào những khu vực mình còn xa lạ. Chỉ có một đam mê từ nhỏ là lịch sử thì ở bên ngoài tài liệu thiếu thốn, nếu có viết cũng chỉ sao chép lại những người đi trước và cũng thiếu điều kiện để biết cho tinh tường hay kiểm chứng những điều còn nghi vấn. Cho nên hướng đi thì có nhưng khoanh vùng một điểm đến không phải dễ mà viết lan man theo lối “thập cẩm” thì thường chỉ bắt được con tôm con tép chứ làm sao bắt được cá to. Vả lại chiều dài lịch sử nước ta đến mấy thiên niên kỷ, không khéo sẽ lại rơi vào vòng vu khoát viết về những chuyện huyền hoặc đời xa xưa, lấy chữ lòe người, tài liệu một tưởng tượng mười, dù có thành tựu cũng không giá trị gì cả.
Khi đọc lại chiến dịch đánh An Nam theo tài liệu của nhà Thanh tôi tìm
ra một sai lệch quan trọng. Đó là hình thức nghi lễ sử triều Nguyễn gọi là “ôm gối” mà vua Càn Long dùng để đón vua
Quang Trung [mà sử ta cho rằng là một người giả] kia thực ra là một đại lễ rất
trịnh trọng của người du mục có tên là “bão
kiến thỉnh an”. Việc ngụy tạo một lễ nghi với nội dung hoàn toàn khác nhau một
trời một vực khiến tôi nổi mối nghi ngờ và khi đi xa hơn mới biết rằng triều
Nguyễn quả có một thứ lễ đặt tên là “ôm gối”
do chính vua Minh Mạng đặt ra
và chắc hẳn đã có một dụng ý nào đó khi tìm cách nhập nhằng hai bên là một – dù
rằng hoàn toàn khác nhau về mục đích và nguyên ủy.
Thấy một điểm bất thường là đầu dây mối nhợ, tôi bèn bỏ thời gian và
công sức để soi sáng vấn đề, kêu gọi bạn bè và thân nhân xa gần cùng tiếp tay
tìm cho ra manh mối. Viết sử không phải là việc ngày một ngày hai mà phải có
nhiều tài liệu gốc. Cũng may trời cũng chiều người, mỗi bạn bè giúp cho một ít
nhưng đều tận tâm tận lực. Nguyễn Hoàng Triệu, Lê Anh Dũng (Saigon) là những
người đi tiên phong tìm cho tôi sách cũ trước 1975, các em tôi cũng mua giùm một
số sách mới. Tiếp theo đó, một người bạn quí là Nguyễn Bá Dzũng (Hà Nội) cũng không
ngại tốn hao tiền bạc, thời gian cùng với một thân hữu làm việc trong Viện Hán
Nôm ra sức chụp cho tôi những tài liệu quí hiếm để tôi đối chiếu.
Việc tìm kiếm còn được sự giúp đỡ của nhiều bằng hữu ở bên ngoài. TS
Trần Huy Bích, khi đó đang trông coi một bộ phận sách vở Á Đông trong đại học
USC giúp tôi tìm những sách Trung Hoa, Xiêm La, Việt Nam …vốn đã tuyệt bản. GS
John E. Wills Jr. của trường đại học USC[14]
tuy lớn tuổi nhưng cũng tự mình lái xe từ Pasadena xuống đưa cho tôi một số
sách hiếm có về bang giao Thanh – Việt trong tủ sách chuyên môn của ông. Anh bạn
thân ở gần hơn là anh Hương Hồ Nguyễn Vinh Quang (Cali) thì tìm các loại sách vở
do các trường đại học đưa lên mạng. Quan trọng hơn cả, cậu con trai thứ của tôi
là cháu Nguyễn Thiên Kỳ (UCLA) luôn luôn chịu khó đi mượn cho bố những cuốn sách khó kiếm nhất
xuyên qua hệ thống thư viện toàn nước Mỹ nên hầu như đến nay tôi đã đủ sách vở
cần dùng, có dịp so sánh và đối chiếu từ nhiều nguồn khác nhau để tìm ra đáp số
cho một khoảng trống lịch sử mà lâu nay chưa mấy ai quan tâm đúng mức.
Trở lại với việc học chữ Hán, trong khoảng mươi năm nay, chính vì phải
“đánh vật” với cái dự án to lớn này,
việc đọc chữ Hán, hiểu chữ Hán không còn là một việc rong chơi như khi dịch
truyện chưởng mà là một nỗ lực bắt buộc. Tuy sức khỏe không còn như thời trai
tráng, trí nhớ cũng giảm sút, nhờ có chút vốn cũ, cái cỗ xe ấy cũng vẫn hoạt động
một cách đều hòa dẫu đôi khi trái nắng trở trời. Điều hao tổn tâm trí nhiều hơn
cả hiện nay là việc làm sao hoàn thành những phần bộ chính rồi sau đó ráp lại
cho thành một đề tài chuyên nhất mà khi viết riêng rẽ có nhiều trùng lặp. Một nỗ
lực cũng đáng quan tâm là việc dịch lại những tài liệu - trước đây vì chưa có bản
gốc nên phải dựa theo các tác giả đi trước - nay phải dành thì giờ thêm phần
chính văn và bản dịch theo cách hiểu của mình cho thống nhất. Thành thử, trước
đây tôi hay dịch từng phần, nay muốn cho đỡ khó khăn khi phải lục lại những đoạn
cũ, tôi cất công một lần dịch luôn cho xong – nhất lao vĩnh dật[15]
– như cổ nhân thường nói.
Trong công tác phụ đó, ba năm gần đây, bên cạnh những nghiên cứu chính
yếu tôi đã hoàn tất được bản dịch Khâm Định
An Nam Kỷ Lược (khoảng 700 trang), Đại
Việt Quốc Thư (khoảng 300 trang), Bắc
Hành Lược Ký (ngoài 200 trang), một số văn kiện rải rác trong văn khố nhà
Thanh và một vài di cảo của các tác giả Việt Nam (Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích,
Vũ Huy Tấn …). Tốc độ dịch sử liệu không thể nhanh, hiểu biết cũng chưa chắc chắn
vì là việc vừa làm vừa học, biết đến đâu làm đến đó. Chữ Hán đã thành một dụng
cụ làm việc, một phương tiện để đưa tôi vào kho tài liệu của cổ nhân, là cỗ xe
để di chuyển hàng ngày chứ không phải là một món đồ trang điểm.
Khi dịch lại những văn liệu cũ, chúng ta không phải chỉ chuyển nghĩa từ
một chữ Hán sang tiếng Việt mà còn được thở cái không khí của cổ nhân khi viết
những dòng chữ này. Cũng như một diễn viên phải hội nhập vào vai mình đang
đóng, người dịch cũng cần sống và suy nghĩ như ông cha mình trong một hoàn cảnh
không phải lúc nào cũng xuôi chèo mát mái, mà luôn luôn phải cau mày bóp trán để
tìm được một lối giải quyết êm đẹp nhất.
Nhìn lại cuộc đời trong 60 năm qua, nghiên cứu Sử là một cái duyên –
hay nghiệp – khởi đầu thật mơ hồ. Chữ Hán vốn chỉ là một trò chơi của một đứa
bé nay thành một phương tiện không thể thiếu của giới chuyên ngành. Thế nhưng
có đi trên con đường này chúng ta mới thấy cái nỗ lực, kiên trì mà những người
đi trước đã trải qua, nhìn vào những dòng chữ ngoằn ngoèo kia để tìm lại cái
không gian xưa cũ.
Nguyễn Duy Chính
2/2014
[1] Trước năm 1975, ở miền Nam thầy
dạy bậc trung học đều được gọi là giáo sư
[2] [Nguyễn Đăng Thục đề tựa và và
Huyền Mặc đạo nhân hiệu đính] Saigon: Yên Sơn, 1959
[3] Trong tủ sách giáo khoa Trường
Sơn. Saigon: Việt Hùng, 1959
[4] Những lá thư này không phải
trích từ cuốn Quốc Văn toàn thư mà sưu tầm từ nguồn khác, tuy chưa so sánh
nhưng tôi tin rằng không có gì khác biệt.
[5] Ðàn ông không vợ gọi là quan, đàn bà goá chồng gọi là quả
[6] 公爾忘私 Hết lòng vì việc chung mà phải quên việc
riêng. Trích từ
câu của Lý Chí (李贄) đời Minh: 公爾忘私,而其父又唯知日夜傷晃氏之不安矣。(công nhĩ vong tư, nhi kỳ phụ hựu duy tri nhật dạ thương hoảng
thị chi bất an hĩ ). Trong bản của Chương Thâu viết là “công nhi vong tư”.
[7] Lá thư này chép lại từ Phan Bội Châu toàn tập, tập 4, Chương
Thâu sưu tầm và biên soạn. (Huế: Thuận Hoá, 1990), nguyên tác “Kể cho các con
nghe về bà Phan Bội Châu” từ trang 349-351 rút ra trong Phan Bội Châu tiên sinh di cảo (tài liệu chép tay của Tống Châu
Phu), 1936.
[8] Khi ấy là De Lanessan
[9] Hai bài này tôi lấy lại từ Tuyển
tập Đào Trinh Nhất (Văn Học: 2000) tr. 170-6. Đây chỉ là bản dịch từ nguyên
tác chữ Hán. Nguyên tác hai bức thư này thấy trong Hồng Liên Lê Xuân Giáo:
“Thân Thế và Sự Nghiệp vị anh hùng dân tộc Phan Đình Phùng” Tạp Chí Khảo Cổ [bộ
mới: số 1) (Khối Văn Hóa, Bộ Văn Hóa Giáo Dục Saigon, 1967) tr. 41-7 nhưng tiếc
thay chỉ dịch âm mà không có nguyên bản chữ Hán.
[10] Văn ngôn là văn viết theo lối
cổ ngày xưa, khác với bạch thoại là viết theo văn nói sau này.
[11] Còn gọi là Thần Tướng Toàn
Thiên (神相全篇)
[12] Trẻ, TpHCM, 2002
[13] 莊吉發,清高宗十全武功研究 (Đài Bắc: Quốc Lập Cố Cung Bác Vật Viện, 1982). Trước đây tôi mua được
cuốn Càn Long Trọng Yếu Chiến Tranh Chi
Quân Nhu Nghiên Cứu 乾隆重要戰爭之軍需研究 của Lại Phúc Thuận (賴福順) (Ðài Bắc: Quốc Lập Cố Cung Bác Vật Viện,
1984) nhưng chưa có dịp dùng, nay có hai quyển nên đọc thấy vấn đề đã có một
tia sáng.
[14] https://dornsife.usc.edu/cf/faculty-and-staff/faculty.cfm?pid=1003823
[15] Một lần mệt nhọc nhưng được
nhàn hạ mãi mãi