Friday, March 28, 2025

Eric Henry: Thế Giới Sáng Tạo Miền Nam Việt Nam 1954 – 1975 đến nay

  Giới thiệu của người dịch

 


 

Cuốn sách này là bản dịch của một tập hợp bài viết về các nhân vật, văn học và báo chí của các cá nhân người Việt đã có những đóng góp đáng kể cho văn học, nghệ thuật và khoa học. Đây là một nguồn thông tin phong phú về lịch sử xã hội, văn hóa và chính trị của Miền Nam Việt Nam, cũng như sự nghiệp cá nhân trong lãnh vực nhân văn.

 

Những nhân vật được mô tả phần lớn đã nổi tiếng trong thời kỳ 1954 - 1975. Sau khi Miền Nam sụp đổ vào tay Bắc quân năm 1975, hầu hết trong số họ đã bị giam cầm một số năm trong các trại cải tạo cộng sản. Sau đó, vào những năm 1980, một số đã đến Hoa Kỳ và hầu hết vẫn tiếp tục hoạt động sáng tạo.

 

Võ Phiến (1925 - 2015), nhà tiểu luận, tiểu thuyết gia và sử gia văn học, đã mô tả nền văn học phát sinh dưới thời Việt Nam Cộng Hòa như sau:Ở Miền Nam Việt Nam thời 1954-75, giữa hoàn cảnh chiến tranh, đã phát triển một nền văn nghệ khác hẳn. Trên sách báo tha hồ nở rộ những nụ cười sảng khoái, công kích điều sai chuyện quấy, đùa riễu những phần tử xấu xa. Phần tử ấy không thuộc hạng Lý Toét Xã Xệ. Không hề có nhân vật nào thấp bé như thế bị bêu riếu trong thời kỳ này. Nạn nhân là từ hạng những tay cầm đầu một tỉnh cho đến các vị cầm đầu cả nước. Tiếng cười cợt ngang nhiên, hể hả, râm ran khắp cùng trên mặt sách báo... Mặt khác, mọi quan niệm nhân sinh, mọi tín ngưỡng, hay có dở có, cao thâm có mà ngông cuồng gàn dở cũng có nữa, tha hồ được tìm hiểu, trình bày, quảng bá. Trước và sau thời 1954-75 ở Miền Nam, không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta, văn học được phát triển trong tinh thần tự do và cởi mở như vậy.”

Chế độ cộng sản vào tiếp quản năm 1975 đã tìm cách xóa bỏ di sản này bằng cách hình sự hóa nó và phá hủy vật lý mọi tàn tích có thể thu thập được. Do đó, những bộ sưu tập đầy đủ nhất về văn học Việt Nam trong giai đoạn này không phải ở Việt Nam mà ở một số thư viện học thuật tại Hoa Kỳ, như thư viện của Đại học Cornell, Đại học Yale và Đại học Hawaii.

Tác giả của cuốn sách này, Bác sĩ Ngô Thế Vinh, là một trong những nhân vật hàng đầu trong đời sống văn học ở Nam Việt Nam trong thời kỳ Việt Nam Cộng hòa, và đã từng quen biết với tất cả những nhân vật mà ông phác thảo. Bác sĩ Vinh là bác sĩ chuyên ngành nội khoa tại một Trung Tâm Y Khoa Long Beach, Nam California. Ông cũng là một tác giả không biết mỏi mệt, với các tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, các sách bình luận văn hóa (như cuốn này) và các bài tường trình khảo sát. Đặc biệt, ông đã đích thân thực hiện chuyến đi điền dã theo suốt chiều dài 4.800 km của sông Mekong và đã viết hai cuốn sách nói về sự tồn vong của con sông này, một con sông lớn của thế giới và là mạch sống của hơn 70 triệu người sống dọc theo hai bờ con sông và nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long. Hai cuốn sách này và một cuốn sách khác của ông đã được trao các giải thưởng và đã thu hút được nhiều đánh giá tích cực. Ông vẫn là một nhà bảo vệ môi trường tận tụy và kiên trì. Ngoài ra, tôi thấy ông là một nhà báo cực kỳ tài năng với khả năng gần như kỳ diệu trong việc truy tìm các tài liệu và sự kiện khó hiểu.

Tác giả có tình bạn thân thiết với tất cả những cá nhân mà ông thảo luận trong cuốn sách này, vì vậy chân dung của ông thường bao gồm các đoạn trích từ thư từ của họ. Là một bác sĩ, ông cũng quan tâm đến tình hình sức khỏe của họ, vì vậy cũng tạo nên một phần của nhiều bức chân dung này. Những cá nhân mà ông miêu tả trong tập sách này là:

• Mặc Đỗ (1917 – 2015)

Là một nhà báo, tiểu thuyết gia, nhà văn truyện ngắn và dịch giả, ông sinh ra tại Hà Nội trong một gia đình thấm nhuần Nho giáo, nhưng cũng dễ dàng tiếp thu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Ông di cư vào miền Nam năm 1954 và thành lập một nhóm văn học có tên là Quan Điểm và tờ báo Tự Do. Ngoài các tiểu thuyết và truyện ngắn của riêng mình, ông còn dịch các tác phẩm của Hemingway, Fitzgerald, Mauriac, Tolstoy, Pasternak và những người khác.

• Như Phong (1923 – 2001)

Được tác giả mô tả là “nhà báo của các nhà báo”, Như Phong là một tiểu thuyết gia, một chuyên gia về các vấn đề cộng sản ở Bắc Việt Nam và là một chiến lược gia thường làm việc trong hậu trường với tư cách là cố vấn chính trị cho những nhân vật trong đời sống cộng đồng. Ở Hoa Kỳ, ông đã kết bạn với nhiều người trẻ tuổi và ông đã trình bày những kế hoạch lớn liên quan đến vai trò của báo chí trong tương lai của Việt Nam.

• Võ Phiến (1925 – 2015)

Là một nhà tiểu luận, nhà văn truyện, nhà sử học văn học và biên tập viên, ông là một trong những tác giả chính gắn bó với tạp chí Bách Khoa tại Sài Gòn. Sau năm 1975, căn nhà của ông ở Los Angeles đã trở thành trung tâm văn học lưu vong. Ông đã viết nhiều cuốn sách nghiên cứu sâu sắc về lịch sử văn học của Nam Việt Nam. Ông cũng là chủ đề một sách nghiên cứu của John Schafer: The Sadness of Exile.

• Linh Bảo (1926 – 2024)

Là một trong những nhà văn nữ đầu tiên của Việt Nam, Linh Bảo đã dành phần lớn cuộc đời mình sống ở các quốc gia khác, bao gồm một số năm ở Quảng Châu và Hồng Kông. Là một tiểu thuyết gia, nhà văn tài năng, nhà báo tự do, nhà hoạt động nữ quyền, các tác phẩm của bà sử dụng sự chế giễu để phơi bày những khía cạnh tiêu cực của cuộc sống. Phong cách của bà là sự tàn nhẫn, nghịch lý, tinh quái và bất chấp, nhưng đồng thời cũng đầy đau khổ.

• Mai Thảo (1927 – 1998)

Ông là một tiểu thuyết gia, nhà văn truyện ngắn, nhà thơ và là người sáng lập kiêm biên tập của tạp chí tiên phong Sáng Tạo. Sau khi di cư sang Hoa Kỳ, ông sống một cuộc sống giản dị như tu sĩ trong căn hộ một phòng, đó cũng là văn phòng làm việc của ôngnơi ông chuẩn bị từng số tạp chí Văn lưu vong. Ông là một trong số ít nhân vật được đề cập trong cuốn sách này không bị giam cầm trong trại cải tạo. Thay vào đó, là hai năm tuyệt vọng sống ẩn náu ở Sài Gòn trước khi trốn thoát bằng thuyền đến Malaysia và sau đó đến Hoa Kỳ.

• Dương Nghiễm Mậu (1936 – 2016)

Là một tiểu thuyết gia, nhà văn truyện ngắn, nhà tiểu luận, ông sinh ra tại Hà Nội và di cư cùng gia đình vào Nam vào năm 1954. Tiểu thuyết đầu tay của ông, Gia Tài Người M, đã giành được Giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc năm 1966. Ông nhập ngũ năm đó và làm phóng viên chiến trường. Sau khi bị giam cầm trong trại cải tạo từ năm 1975 đến năm 1977, ông làm nghề sơn mài để kiếm sống. Ông là một trong số ít tác giả được đề cập trong cuốn sách này đã chọn ở lại Việt Nam thay vì di cư.

• Nhật Tiến (1936 – 2020)

Là một tiểu thuyết gia, nhà văn truyện ngắn, nhà viết kịch sung mãn và đa dạng, Nhật Tiến là một Hướng đạo sinh của phong trào Hướng đạo Việt Nam, và luôn trung thành với truyền thống của phong trào này trong suốt cuộc đời. Với hơn hai mươi cuốn sách mang tên mình, những sáng tác của ông đặc biệt gắn liền với tuổi thơ và thường đề cập đến nỗi đau khổ của trẻ em.

• Nguyễn Đình Toàn (1936 – 2023)

Ông là một nhà thơ, tiểu thuyết gia, nhà văn truyện ngắn, nhạc sĩ và người dẫn chương trình phát thanh có ảnh hưởng mang tên “Nhạc Chủ Đề”. Hầu hết các tiểu thuyết của ông đều xuất hiện từng phần trên nhiều tạp chí khác nhau trước khi xuất bản thành sách và chú trọng nhiều hơn vào khung cảnh hơn là cốt truyện. Ông đã viết lời bài hát “Tình Khúc Thứ Nhất của nhạc sĩ Vũ Thành An, mơ hồ nhưng đầy gợi cảm: Tình vui theo gió mây trôi, ý sầu mưa xuống đời.”

• Thanh Tâm Tuyền (1936 – 2006)

Ông sinh ra tại thành phố Vinh, Nghệ An, đầu tiên ra Hà Nội, nhưng sau đó di cư vào Sài Gòn năm 1954. Ông là một trong những người đóng góp chính cho tạp chí Sáng Tạo. Ông đã nổi tiếng từ sớm với thể loại thơ tự do ít người biết đến và hoàn toàn mới lạ, nhưng sau này đã chuyển sang các hình thức thơ truyền thống. Từ năm 1975 đến năm 1982, ông bị giam cầm trong các trại cải tạo rất khắc nghiệt ở miền Bắc Việt Nam. Ông là một tiểu thuyết gia, nhà văn hư cấu và nhà viết kịch, và cũng là một nhà thơ.

• Nguyễn-Xuân Hoàng (1937 – 2014)

Ông là một tiểu thuyết gia, nhà văn truyện ngắn, nhà tiểu luận và biên tập viên. Ông hoạt động ở Sài Gòn trước năm 1975 và di cư sang Hoa Kỳ sau những năm trong các trại cải tạo và làm chủ biên cho một số tạp chí văn học Việt Nam lưu vong.

• Hoàng Ngọc Biên (1938 – 2019)

Là một nghệ sĩ, họa sĩ, nhà thơ, tiểu thuyết gia, học giả về Proust, dịch giả và nhạc sĩ, ông là một trong những người đa năng và năng động nhất được thảo luận trong tập này. Các tác phẩm của ông trên nhiều phương tiện truyền thông rất đa dạng và mang tính thử nghiệm cao.

• Đinh Cường (1939 – 2016)

Là một nghệ sĩ, họa sĩ, nhà thơ và giảng viên hội họa. Đến năm 2005, ông đã có hơn hai mươi bốn triển lãm cá nhân và hai mươi mốt triển lãm với các nghệ sĩ khác. Ông cũng là tác giả của ba cuốn sách, một cuốn gồm các bài tiểu luận về nghệ thuật và hai cuốn gồm các bài thơ.

• Nghiêu Đề (1939 – 1998)

Là một nghệ sĩ, họa sĩ, nhà thơ, xuất thân từ tỉnh Quảng Ngãi. Là bạn thân thiết của tác giả, ông rất được săn đón với tư cách là nhà thiết kế bìa cho các tác phẩm văn học. Với tính cách thất thường và lập dị, ông không bao giờ bận tâm ghi chép về các hoạt động sáng tạo của mình. Ông sang định cư tại Hoa Kỳ cùng gia đình và mất năm 1998 trước khi bước sang tuổi sáu mươi.

• Nguyên Khai (1940 –)

Một nghệ sĩ mà hầu hết các tác phẩm của ông đều là tranh sơn dầu. Bản chất kín đáo và trầm tĩnh. Ông đã từng nói trong một cuộc phỏng vấn, “Hội họa không quay lưng lại thực tại, nhưng cũng không minh họa thực tại. Hội họa cho chúng ta cái nhìn khác; cái nhìn phi thực tại, để từ đó những khả thể của chân thiện mỹ được biểu đạt.”

• Cao Xuân Huy (1947 – 2010)

Một sĩ quan thủy quân lục chiến và nhà văn, nổi tiếng nhất với cuốn hồi ký chiến tranh: Tháng Ba Gãy Súng, một cuốn sách độc đáo, sống động và giàu cảm xúc. Tác giả có nhiều điều muốn nói về cuộc chiến đấu can trường của Cao Xuân Huy chống lại căn bệnh ung thư sắc tố mắt trong những năm cuối đời.

• Phùng Nguyễn (1950 – 2015)

Một chuyên gia IT, đồng thời là một nhà văn truyện ngắn, nhà tiểu luận và blogger. Tác giả dành nhiều sự quan tâm cho một giai đoạn trong cuộc đời mà Phùng Nguyễn chưa bao giờ nói đến nhưng lại có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các hoạt động sau này của ông: quá trình hồi phục kéo dài sau một vết thương nghiêm trọng ở chân mà ông phải chịu trong một cuộc hành quân. Ngoài việc viết Blog có tựa đề “Rừng & Cây”, ông đã xuất bản hai tập truyện ngắn: Tháp Ký Ức (1988) và Đêm Oakland Những Truyện Khác (2001).

• Phạm Duy (1921 – 2013)

Là một nhạc sĩ, nhà viết lời, nhà nghiên cứu âm nhạc và người viết hồi ký, ông là nhạc sĩ Việt Nam sáng tác nhiều nhất và xuất sắc nhất trong thế kỷ trước, trong số rất nhiều nhạc sĩ Việt Nam. Bức chân dung trong tập sách này sẽ xem xét các hoạt động của ông trong nhiều giai đoạn sự nghiệp và xem xét bản chất phát triển của mối quan hệ của ông với nhiều bạn bè và cộng sự.

• Eric Henry (1943 –)

Henry là một học giả người Mỹ chuyên về văn hóa Trung Quốc và Việt Nam, và là dịch giả của tập sách này. Tác giả đặc biệt chú ý đến những trải nghiệm ban đầu của Henry ở Việt Nam và những nỗ lực gần đây của ông nhằm vượt qua sự từ chối của gia đình Phạm Duy trong việc cấp phép xuất bản bản dịch tiếng Anh bốn tập hồi ký của Phạm Duy.

• Phạm Biểu Tâm (1913 – 1999)

Ông là một bác sĩ phẫu thuật, giáo sư y khoa lỗi lạc và là Khoa trưởng trường Đại học Y khoa Sài Gòn. Tác giả đề cập đến những đóng góp to lớn của nhân vật này cho việc thành lập một hệ thống y tế hiện đại tại Việt Nam, đặc biệt chú ý đến các hoạt động của ông với tư cách là một nhà giáo dục và lòng vị tha và sự quảng đại của cá nhân ông.

• Phạm Hoàng Hộ (1929 – 2017)

Tiến sĩ Phạm Hoàng Hộ là một nhà khoa học - thực vật học, người sáng lập và cũng là Viện trưởng của Đại học Cần Thơ, là tác giả của bộ sách Minh họa Cây Cỏ Việt Nam, gồm nhiều tập hoàn chỉnh. Chân dung của ông trong tập sách này ghi nhận quá trình phát triển của ông với tư cách là một nhà khoa học, cùng với các hoạt động không ngừng nghỉ với tư cách là một nhà giáo dục và Viện trưởng trường đại học và những nỗ lực của ông để vượt qua những hạn chế mà chính phủ Việt Nam từ sau 1975 đã áp đặt lên ông.

Bác sĩ Ngô Thế Vinh cũng là tác giả cuốn sách thứ hai về Chân dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hóa đề cập đến 17 nhân vật khác (Nguyễn Tường Bách & Hứa Bảo Liên, Hoàng Tiến Bảo, Tạ Tỵ, Trần Ngọc Ninh, Lê Ngộ Châu, Nguyễn Văn Trung, Dohamide, Lê Ngọc Huệ, Nghiêm Sỹ Tuấn, Đoàn Văn Bá, Mai Chửng, Trần Hoài Thư & Ngọc Yến, Phan Nhật Nam, Võ Tòng Xuân, Trần Mộng Tú và John Steinbeck). Tập này kết thúc bằng một bức chân dung văn hóa, không phải của một con người, mà là Con Đường Sách, một khu bán sách được tổ chức độc đáo bên cạnh Bưu điện Trung tâm Sài Gòn. Tôi hy vọng có thể dịch và xuất bản cuốn sách này sớm với tên gọi “Thế giới sáng tạo miền Nam Việt Nam, Tập 2”.

Kết hợp hai tập chân dung này tạo thành một bức chân dung sống động về một nền văn hóa có nhiều điều để cống hiến cho thế giới, đồng thời đưa ra sự sửa sai và bác bỏ mạnh mẽ những nỗ lực của chính quyền cộng sản Việt Nam nhằm phủ nhận tầm quan trọng của nền văn hóa này.

ERIC HENRY                                                                                                     

Đồi Chapel, Bắc Carolina. 

Ngày 30 tháng 4 năm 2025

Tuesday, March 18, 2025

Trịnh Y Thư: Thơ của ba người: duyên – Lê Chiều Giang – Nguyễn Thị Khánh Minh

 


 

Không rõ do một cơ duyên nào mà ba người ấy – ba nhà thơ nữ, ba tâm hồn, ba định mệnh, ba trải nghiệm, ba cuộc đời, ba ngọn suối nguồn thơ ca lại rủ nhau về hợp lưu tụ hội trong một tuyển thơ đặc sắc, hiếm có. Có lẽ là chữ duyên. Vâng, đúng rồi. Một trong ba người nữ ấy có bút danh là duyên, một chữ duyên duy nhất, không viết hoa, không họ, không chữ lót, còn hai người kia thì tên tuổi đã gắn với văn chương, nghệ thuật từ nhiều năm, trong nước cũng như hải ngoại bây giờ: Lê Chiều Giang, Nguyễn Thị Khánh Minh.

 

Đi vào thế giới thơ ca của họ là đặt chân vào ngôi nhà kỳ ảo lung linh sắc màu, dễ sa đà và dễ sa ngã. Sa đà bởi bạn sẽ bị lôi cuốn vào một thế giới thơ ca khác thường, không rập khuôn theo những quán tính cũ mòn. Còn sa ngã bởi thơ của họ có sức thu hút ma mị khiến những tâm hồn chai sạn nhất cũng phải mềm lòng. Mềm lòng đành phải lòng. Phải lòng đành sa ngã.

 

Bạn hãy cho tôi vào từng ngôi nhà một sống với thơ ca họ trong khoảnh khắc để khi trở ra bạn xem tôi có còn là con người như cũ không, hay tâm hồn tôi đã bị chuyển hóa bởi bùa phép khó lòng cưỡng nổi của thơ ca họ.

 

 

duyên, người thầm thì nói chuyện

 

duyên làm thơ như nói chuyện. Nói thầm thì. Nói trong niềm vui. Nói trong nỗi buồn. Nói trong nỗi nhớ. Nói với người. Nói với cỏ cây hoa lá. Nói với hư vô. Nói với cô đơn.

 

Thơ duyên không làm dáng, hầu như rất ít ẩn dụ, bởi nó là tiếng nói từ trái tim người làm thơ sang thẳng trái tim người đọc thơ, mà không cần bắc cầu qua một mạch chuyển, không nhờ vả vào một trạng thái thứ ba nhiều khi bị tan loãng làm lệch đi chủ đích lúc ban đầu. Ngọn suối nguồn của thơ duyên là một trình tự biến tấu của hình ảnh, biểu tượng và cảm xúc cộng hưởng trong cuộc sống hằng ngày, một cuộc sống giản dị với cây lá trong vườn, với người thân, bè bạn, với kỷ niệm cũ mới, với những chuyến đi, với quê hương xa xôi trong ngày về lạc lõng, và nhất là với thiên nhiên. Nhờ có sẵn một tâm hồn mẫn cảm, một cái nhìn thân ái với sự vật, tiếng nói dịu dàng của duyên đã cho người đọc thơ tìm được vô vàn cái đẹp, nhìn thấy sự cao cả, hiểu thêm về chu kỳ cuộc sống và cảm xúc con người. Thơ duyên không nằm ngoài đường biên của ý thức hằng ngày mà hòa tan với cuộc sống vốn vô cùng phức tạp và đa đoan. Hòa tan và hòa giải bởi duyên đã khéo léo biến thơ thành một tố chất cố hữu của đời sống, với sự tiếp lực trong khả năng gợi cảm của ngôn từ để cuộc sống thăng hoa lên trên những điều tầm thường vụn vặt.

 

duyên yêu thích thiên nhiên.Thơ duyên không thiếu những thi ảnh bốn mùa, biết bao nhiêu hoa lá được chị nhắc đến, có cả chim muông, sóc bướm tụ về. Có lẽ chị thích nhất mùa thu. Thiên nhiên và thơ duyên có sự liên kết chặt chẽ. Nhưng thay vì sử dụng thiên nhiên như một ẩn dụ – như Robert Frost nắm bắt vẻ đẹp chóng qua của tuổi trẻ bằng hình ảnh những chiếc lá đầu mùa sớm tàn, hay như Wordsworth sử dụng hình ảnh của núi tượng trưng cho sự cao cả của ý chí, sự bí ẩn của tiềm thức – duyên chuyện trò thẳng với thiên nhiên như đôi bạn tâm tình:

 

tháng mười

thu về…

ngơ ngác quá

lá thờ ơ. buồn

mầu vàng. biếc

đất. trời. cho

hàng cây hai bên đường

thắp sáng

nến. mùa thu.

(Chiều thu)

 

Những từ như “ngơ ngác”, “vàng” gợi mở những thi ảnh ước lệ về mùa thu, nhưng câu “… cho/ hàng cây hai bên đường/ thắp sáng/ nến. mùa thu” đã nhân cách hóa mùa thu và tạo dựng một biểu tượng, biểu tượng được tô đậm bằng cách phóng chiếu cảm xúc nội tại ra thế giới ngoại tại.

 

Thơ duyên phần nhiều là như vậy.

 

Thơ ca là cái gì vượt qua thế giới hữu hình và có khả năng thấu hiểu được chính chân lý thánh hóa như Baudelaire hay Edgar Allan Poe quan niệm, và kết quả có thể khiến kẻ chưa khai tâm rơi vào cõi sa mù, hỗn mang. Nhưng ở duyên, ta thấy nhà thơ khai thác biểu tượng một cách trong sáng, tự nhiên, ẩn dụ nằm trong chính ngôn ngữ thơ chứ không phải một ảnh tượng hay vật thể trung gian. Do vậy, ta có thể gọi cảm xúc trong thơ duyên là cảm xúc trực quan, nó tinh tuyền và trong mát như nguồn nước suối từ đỉnh núi tuyết, mùa xuân chảy xuống thung lũng đầy cỏ hoa, len lỏi giữa những thác ghềnh, đổ vào hồ Michigan bao la, nơi có ngôi nhà nhỏ bé xinh xinh của chị.

 

Bởi làm thơ như nói chuyện, qua thơ, duyên thương tiếc bạn bè, người thân yêu đã khuất với niềm xúc động chân tình. Hãy xem duyên thản nhiên tâm tình cùng cố thi Nguyễn Bắc Sơn:

 

kiêu bạc, ngang tàng. quên đi nước mắt

chút mỉa mai đời. quên bớt bi ai

cái chết, bỡn đùa, khi đụng trận

loay hoay, kiếp lạc, tủi. hận đời

số phần mong manh. tim, thổn thức

dịu dàng. đằm thắm. với, yêu thương…

(Thương tiếc đám mây bay)

 

Với trái tim nhân ái, duyên ngậm ngùi chua xót cho một kiếp người ngang tàng, kiêu bạc, chẳng may sinh vào thời chinh chiến loạn ly, “kiếp lạc, tủi. hận đời”. Tuy vậy, người thi sĩ ấy vẫn “dịu dàng. đằm thắm. với, yêu thương” chứ không lâm vào con đường hủy diệt – hủy diệt tha nhân hay hủy diệt chính mình – như một lối thoát.

 

Khi viết những câu thơ này, duyên đã không đi ra ngoài lẽ thường tình của con người với bản chất nguyên sơ là tính thiện. Nó là tố chất giữ con người lại với nhau, nó giúp người ta tiếp tục sống còn, và “thân phận con người”, trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù là chiến tranh tàn khốc, cũng sẽ được cứu vãn bởi tình yêu thương.

 

Nói như vậy, tôi e có người cho rằng quan niệm này ngày nay đã lỗi thời nhất là trong giai đoạn hiện tại khi cuộc sống đầy dẫy những tranh chấp thù ghét và thù hận. Thế nhưng, hãy nhìn tình yêu thương dưới nhiều hình thức khác, nó không hẳn chỉ là mối quan hệ tình cảm thân thiết, mà là sự kết nối sâu sắc chúng ta với người khác, với chính chúng ta và thậm chí với chính cuộc sống. Khi ta cảm thấy được yêu thương hoặc khi ta yêu thương kẻ khác, tình yêu có thể đóng vai trò là nguồn sức mạnh và sự an ủi mạnh mẽ, đặc biệt trong những thời điểm khó khăn. Tình yêu có thể đem lại cho ta điều gì đó để mong đợi, để dựa vào, và cảm giác được gắn kết có ý nghĩa có thể khiến việc đối mặt với những thách thức trở nên đáng giá.

 

Hơn nữa, tình yêu có thể giúp ta nhìn thấy những khả năng vượt ra ngoài những khó khăn hiện tại của mình. Ngay cả trong những thời điểm đen tối, sự quan tâm và lòng trắc ẩn mà ta trao tặng và nhận lãnh có thể nhắc nhở rằng ta không đơn độc, nó truyền hy vọng mọi thứ có thể cải thiện, có thể được chữa lành và cuộc sống luôn có niềm vui, sự kết nối và khả năng phục hồi.

 

Tình yêu có một phẩm chất phổ quát được ca ngợi trong suốt mấy nghìn năm lịch sử văn minh loài người, từ Apollonius với Orpheus-Eurydice thời cổ đại cho đến Nguyễn Du với Kim Trọng-Thúy Kiều của thời trung đại và cho đến ngày nay. Thơ ca nhân loại không bao giờ thiếu vắng tình yêu, vì vậy bạn đừng xem nó là lỗi thời. Càng sống trong một môi trường phân hóa bệnh hoạn, ta càng cần có tình yêu thương.

 

Những câu thơ của duyên đã gợi cho tôi cảm giác ấy.

 

duyên thích nói chuyện, nhất là nói chuyện với trẻ thơ, với con cháu, và chị cũng hay nói chuyện với sự cô đơn:

 

sao một người… không đến?

trăng chợt về bên cửa

lơ lửng bay… Chagall

đeo bên cánh phi cơ

ngộ nghĩnh. dễ thương chưa

mầu trăng. trong. buồn quá

trăng treo… một đoạn đời

chợt. ngưng

ở lại thôi

lui dần vào bóng tối

bỏ không gian. mịt mù

(chỉ trăng. có phải trăng?)

 

Thơ ca và sự cô đơn có mối quan hệ gắn bó sâu sắc. Sự cô đơn/ solitude – không phải cô độc/ aloneness, xin đừng nhầm lẫn – thường là nền tảng cho nhiều tác phẩm thơ ca. Chỉ khi cô đơn ta mới hòa hợp hơn với thế giới nội tâm của mình – suy nghiệm, cảm xúc, ký ức và giấc mơ – cho phép ta tiếp cận những điều sâu thẳm trong tâm hồn, thậm chí những hình ảnh trong tiềm thức hoặc vô thức, mà nếu không thì có thể bị nhận chìm bởi tiếng động ồn ỹ của cuộc sống thường ngày. Trong sự thinh lặng của cô đơn, nhà thơ quán chiếu và tìm thấy không gian để khám phá những chủ đề phức tạp, tinh tế hoặc thậm chí đau đớn.

 

Bàng bạc trong thơ duyên là sự đối mặt với cô đơn, mặc dù chị đang đứng giữa một trần gian đầy những hình ảnh linh động và sinh động của cuộc sống. Sự cô đơn đã giúp cho ngôn ngữ thơ chị mở ra một thế giới, nơi người đọc có thể chia sẻ cảm giác khi phải đối mặt với bản thân. Nó biến đổi trải nghiệm cô đơn, từ cô lập thành giao cảm, vì người đọc có thể tìm thấy sự đồng điệu trong giọng thơ, có thể khám phá ra sự thật nội tại của chính mình được phản ánh nơi đó. Nói cách khác, nhờ cô đơn, thơ ca bộc phát, và nhờ thơ ca, sự cô đơn được chuyển đổi từ trạng thái đơn độc thành trạng thái kết nối.

 

Thơ duyên chủ yếu là trữ tình, nó không mang nặng lý tính và lý trí, nó cũng không hàm chứa những suy nghiệm siêu hình, triết học rối mù. Nếu có thì chỉ là những suy nghĩ thông thường về sự hữu hạn của kiếp người, chẳng hạn:

 

… đời sống không có khởi đầu

nên không có hủy diệt, đâu em...

vòng luân hồi, em đã đến...

người bạn nhỏ, dễ thương

cõi tạm níu giữ em

(em đi. hàng cây trơ trụi lá mùa đông)

 

Thơ duyên cốt để truyền tải cảm xúc. Chị ưa chuộng những câu thơ ngắn, cú điệu không bình thanh, mà có những nhịp tiết trúc trắc, thêm những dấu chấm phết bất thường và kỹ thuật vắt dòng đột ngột, khiến nhạc tính trong thơ mang nhiều hợp âm chõi. duyên cũng không sử dụng những biện pháp tu từ hoặc tìm tòi, phát minh những từ lạ, mới, vốn rất phổ biến trong dòng thơ Tượng trưng.

 

Những bài thơ với câu chữ dài, như kể lể một câu chuyện nào đó, rất đời thường, rất mực chân tình mộc mạc, làm tôi nhớ đến thơ của họa sĩ/ thi sĩ Đinh Cường. Có sự tâm đắc nào ở đây giữa hai nhà thơ này, tôi mơ hồ nhận thấy như vậy. Tduyên, tuy câu chữ giữ giọng điệu kể chuyện nhiều hơn là thơ với những thuộc tính cố hữu của thơ, nhưng không thể gọi là thơ tự sự, mà vẫn nằm trong khung thơ trữ tình.

 

Tôi khép lại những trang thơ của duyên với sự an tâm. An tâm vì tôi được thuyết phục rằng đời sống dù dông bão đến đâu chăng nữa vẫn đáng sống. Bởi nơi đó, ta vẫn tìm thấy tình yêu thương. Thơ vẫn là phương tiện cứu chuộc cho bất cứ ai tin tưởng vào thơ.

 

 

Lê Chiều Giang, người phẫn nộ với chính mình

 

Tôi từ biệt thế giới thơ duyên đầy hoa bướm với cảm giác an bình, để bước vào thế giới thơ dị thường, dữ dội, đầy phẫn nộ của Lê Chiều Giang.

 

Sự phẫn nộ trong thơ ca, kỳ thực, không là cái gì mới lạ. Sự phẫn nộ vốn dĩ có sức mạnh chuyển hóa trong thơ ca, chuyển hóa những cảm xúc có vẻ như áp đảo hoặc thậm chí hủy diệt thành một dạng thể biểu đạt mạnh mẽ, tạo thay đổi và có sức cộng hưởng sâu sắc. Trong suốt chiều dài lịch sử, các nhà thơ đã sử dụng sự phẫn nộ để vạch ra những bất công, mất mát, phản bội và đau khổ về cả cá nhân lẫn xã hội. Sự phẫn nộ trong thơ ca có thể phơi bày những phần thô sơ, chưa được chắt lọc, chưng cất của trải nghiệm con người, biến nó thành phương tiện để nói lên sự thật thường dữ dội và trực tiếp.

 

Các nhà thơ như Sylvia Plath, Langston Hughes, Audre Lorde và Pablo Neruda đã khai thác sự phẫn nộ trong thơ của họ, không chỉ như một phản ứng cảm xúc mà còn là động lực thúc đẩy sự thay đổi và nhận thức. Trong thơ ca, sự phẫn nộ có thể chắt lọc cảm xúc thành ngôn ngữ sắc bén thách thức người đọc, khiến họ rung động – nếu không muốn nói là rúng động hay chấn động – và nhấn mạnh vào sự thừa nhận những vết thương cá nhân hoặc tập thể.

 

Sự phẫn nộ trong thơ Lê Chiều Giang đã khiến người đọc là tôi phải chấn động, bởi quả thực tôi chưa bao giờ đọc một mạch những bài thơ mà bài nào cũng đầy ắp những nỗi đau đớn uất nghẹn như muốn tung hê mọi thứ, phá tan đập nát cuộc sống, chẳng cần biết hậu quả là gì.

 

Tôi có thể nói những điều này về thơ Lê Chiều Giang được chăng? Nhưng tôi biết chắc một điều là tôi có thể vay mượn câu nói của thi hào William Wordsworth để nói về thơ chị: “Thơ là sự tràn đầy tự phát của những cảm xúc mãnh liệt”. Chỉ cảm xúc mãnh liệt mới có thể viết những câu thơ như:

 

Đốt lửa căn nhà trống

Vung vãi tàn tro khắp đất trời. Và

Xóa bàn đi làm lại hết

Ta thả đời ta

Giữa gió bay…

(Đốt nhà)

 

“There is nothing to lose”. Như cách nói của người Mỹ ta thường nghe. “Bất cần đời” như thế, nhưng chị chẳng biết nguyên do vì sao, và chị cũng chẳng quan tâm làm gì, chị chỉ thấy như mình mắc nợ, một món nợ mơ hồ như một lời nguyền, nợ trần gian, nợ nhân gian và nợ cả chính mình:

 

[…] Ta

Muôn đời vẫn thiếu

Nợ trần gian. Và

Nợ cả nhân gian

Nợ với người lời hứa:

Mãi thuỷ chung.

 

Thiếu cả chính ta

Một lời…

Nói thật.

(Vỡ nợ)

 

Biết bị lời nguyền gieo vào mình, chị chỉ biết chịu đựng nỗi đau khổ oan khiên, tìm góc tối mà ẩn thân nhẫn nhục. Nó là sự quy hàng, quy hàng với định mệnh khắc nghiệt, với trò chơi bất công bất xứng của đấng tạo hóa. Nó là cái gì chăng nữa, chị cũng thấy quá mức chịu đựng của mình và chị đành “quăng kiếm, bẻ gươm”.

 

Khi thất bại

Ta biết vờ đợi chết

Giả nằm im. Nghe

trái đất ngả nghiêng

 Quá thấm đòn.

Ta quăng kiếm

Ta bẻ gươm

Cũng biết thân. Ta ngồi im

Góc tối.

(Thiền giả)

 

Thái độ đầu hàng đó được biểu hiện trong bài thơ nhan đề… “Đầu hàng”, nơi chị thấy nỗi cô đơn và cô độc bao phủ quanh người. Chị sợ cô đơn, sợ cô độc, nhưng loài người đã bỏ chị ra đi hết rồi (hay đã chết hết rồi, theo nhận định có nửa phần hờn dỗi của chị).

 

Sáng nay ta ra với mặt trời

Như kẻ xa xôi về lại trái đất

Ngó quẩn quanh

Đời

Chẳng thấy ai

 

Ta gọi hết hơi

Trăm ngàn số lạ

Thiên hạ nơi đâu?

Đã

… Chết hết rồi

(Đầu hàng)

 

Từ thái độ đầu hàng đến tâm trạng tuyệt vọng chỉ là một khoảng cách cận kề, và tự động, cái chết được nhắc đến:

 

Nhưng ta biết hết

Xa nơi tối tăm

Là nơi thế nào rồi ta cũng đến

Là nơi.

Chúng ta chẳng bao giờ hẹn

Là nơi

Đã sẵn cho một chỗ nằm

(Lâm chung)

 

Cảm giác cô đơn và cô độc cùng cực khiến tám tỉ con người mười sáu tỉ con ngươi nhìn “ta” với ánh mắt dửng dưng. “Ta” đâm ra hoài nghi, “ta” trở nên kiêu bạc và “ta” đành chỉ biết “tưới rượu đầy thơ”:

 

Ta tưới rượu đầy thơ. Nhưng

Uống toàn nước lã

Nghe trăm lời yêu thương

Chẳng biết đâu

Chân.

Giả.

Như nụ hoa sớm mai

Vừa rơi vừa muốn nở

Ta nhận sao ra

Trong tám tỷ con người

Ánh mắt ai nhìn?

Mười sáu tỷ con ngươi

Oán ghét

Thương yêu

Và có khi

Tĩnh lặng.

(Tửu lượng)

 

Trong phút giây điên loạn, “ta” chỉ muốn tung hê tất cả, chẳng có gì khiến “ta” phải ngập ngừng, đắn đo. Tất cả đã không còn. Có gì lưu luyến “ta” nữa đâu. Có gì phải thương tiếc nữa đâu. “Ta” chỉ có cách bỏ đi không hẹn ngày trở lại:

 

Cánh cửa

Sầm. Đóng lại

Chìa khóa? Quăng lên trời.

Ta.

Bước chân phiêu bạt

Tay không,

bầy cuộc chơi.

 

Lưu linh?

Ờ, lưu linh

Tản Đà?... Ta chấp hết !

Cafe?

Dạ, Khổng Tử

Ngàn ly, chưa thấm tháp

(Bỏ nhà)

 

Bỏ nhà” đi, chưa đủ ư? Thì “ta” “đốt nhà”:

 

Bới tung.

Từng góc nhà

Xó bếp

Tay nâng niu những tháng ngày xưa

Có bao năm?

Mà như thiên cổ

Nhà ơi.

Giữ lại giùm ta những gió mưa

 

Giữ lại giùm ta

Ngàn tiếng nói

Âm vang nào chôn giấu, đã lâu

Tiếng thét to, đôi lần tuyệt vọng

Những cười khan.

Những khóc giấu.

Những đêm dài.

(Đốt nhà)

 

Hầu như tất cả những bài thơ của Lê Chiều Giang trong tuyển thơ này đều mang một giọng điệu tuyệt vọng như thế. Nó như tiếng kêu thất thanh của một tâm hồn bị bỏ quên, bị tách ly hoàn toàn với cuộc sống, chới với bấp bênh bên bờ hố thẳm của đổ vỡ và hoang tàn.

 

Thực chất, tuyệt vọng là một chủ đề mạnh mẽ và phức tạp trong thơ ca. Nó thường thể hiện những cảm xúc mãnh liệt về nỗi khao khát, bất lực và nhu cầu sâu sắc về sự thay đổi, tình yêu hoặc sự trốn thoát. Các nhà thơ sử dụng nó để thể hiện những phần đen tối và dễ bị tổn thương nhất của trải nghiệm con người, ghi lại những khoảnh khắc hy vọng tan biến và tất cả còn lại chỉ là những cảm xúc thô nhám, sần sùi. Đấy là thơ Lê Chiều Giang.

 

Tương tự Emily Dickinson, Lê Chiều Giang thường sử dụng sự tuyệt vọng trong các bài thơ của mình để truyền tải cảm giác cô lập sâu sắc và cái chết không thể tránh khỏi. Những bài thơ về nỗi đau buồn và mất mát thường mang lại cảm giác tuyệt vọng vì chúng đối mặt với những cảm xúc khó có thể hòa giải hoặc không thể tìm ra ngõ thoát.

 

Trong lịch sử thơ ca nhân loại, tình yêu tuyệt vọng đã chép kín các trang thơ, từ những bài sonnet của Shakespeare đến thơ tình của Pablo Neruda. Thơ Lê Chiều Giang không đi ra ngoài khuôn khổ đó, và chị đã thể hiện nó bằng một ngôn từ trực cảm, đôi khi lập dị sỗ sàng, không bóng bẩy, không rào đón, không ám chỉ. Và trong tất cả những bài thơ của chị đều có chữ “ta” làm chủ từ. Điều đó cho thấy chị không nói về ai khác, chị không vay mượn thơ ca để nói về nỗi đau, cảm giác bất an, bất toàn của người khác, hay của con người nói chung. Chị nói về chính chị.

 

Sự tuyệt vọng trong thơ Lê Chiều Giang thường dẫn đến những hỗn loạn về tinh thần và cảm xúc. Sự hỗn loạn lại dẫn đến sự điên loạn – bỏ nhà, đốt nhà – và thái độ kiêu bạc, “bất cần đời” với nhân sinh. Hình ảnh và ngôn ngữ trong thơ Lê Chiều Giang, do đó, sống động và thường hỗn loạn để truyền tải sự tuyệt vọng. Câu chữ trong thơ thường ngắn cụt, phân mảnh, rời rạc, vắt dòng bất thường, như thể hình thức phụ chú cho nội dung. Các ẩn dụ liên quan đến bóng tối, hoặc các hành vi trốn tránh, tung hê, phó mặc, giúp diễn tả cảm giác đó.

 

Ở chừng mực nào đó, ta có thể hiểu thơ Lê Chiều Giang là sự xung đột giữa con người đi tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống với một thế giới dửng dưng đến độ tê liệt. Mỗi con người sống trong tổ kén của mình. Sự tách ly, sự xa lạ (có thể quay về đọc L’étranger của Albert Camus để hiểu thêm về sự xa lạ này) là một thuộc tính phi lý nhưng rất thật của đời sống con người.

 

Nếu quả như thế thì có thể gọi thơ Lê Chiều Giang là thơ Triết học Hiện sinh Phi lý được chăng? Có lẽ chị không có chủ ý đặt thơ ca của mình trên nền tảng Triết học Hiện sinh Phi lý, nhưng quả thật khi đọc thơ chị tôi không thể không nghĩ đến nhà văn kiêm triết gia Albert Camus.

 

Triết học Hiện sinh Phi lý của Albert Camus được giới thiệu trong văn luận nổi tiếng Huyền thoại Sisyphus viết năm 1942 trong khi Thế chiến Thứ hai đang tàn phá tan hoang châu Âu của ông, trong đó Camus vật lộn với những câu hỏi cơ bản: Nếu cuộc sống không có ý nghĩa cố hữu, thì mục đích của cuộc sống là gì? Ta phải phản ứng với sự phi lý như thế nào?

 

Camus lập luận rằng sự phi lý nảy sinh từ xung đột giữa khát vọng trong đời sống chúng ta về sự rõ ràng, trật tự và phải có ý nghĩa với bản chất im lặng, thờ ơ của thế giới. Ông gợi ý rằng, thay vì đi vào chủ nghĩa hư vô hoặc chấp nhận thái độ cam chịu, chúng ta có thể đối mặt với sự phi lý bằng cách chấp nhận nó. Camus khẳng định rằng việc cuộc sống thiếu ý nghĩa khách quan không bắt buộc ta phải tuyệt vọng mà thay vào đó, nó mời gọi ta hãy sống trọn vẹn bất chấp chính sự phi lý đó. Một ẩn dụ cốt lõi mà Camus sử dụng để minh họa cho triết học này là huyền thoại Hy Lạp về Sisyphus. Sisyphus bị các vị thần kết án phải lăn một tảng đá lên đồi chỉ để nhìn nó lăn xuống, và phải lặp lại công việc khổ cực nhàm chán này mãi mãi, y như cuộc sống của ta hằng ngày. Camus diễn giải Sisyphus như một biểu tượng cho sức phục hồi của con người, hiện thân cho người anh hùng phi lý chấp nhận sự vô ích của nhiệm vụ nhưng vẫn kiên trì. Theo cách này, Camus đã kết luận với diễn ngôn nổi tiếng: “Người ta phải tưởng tượng Sisyphus có hạnh phúc”.

 

Chủ nghĩa hiện sinh phi lý của Camus không phải sự thụ động hay bi quan mà là việc thừa nhận những điều không chắc chắn và mâu thuẫn cố hữu của cuộc sống. Ông ủng hộ một cuộc sống trong khoảnh khắc, nắm lấy tự do, đam mê và nổi loạn như những hình thức chống lại phi lý. Theo quan điểm của Camus, phản ứng thích hợp đối với sự phi lý là hãy sống cho có mục đích và mãnh liệt, tạo ra ý nghĩa của riêng ta trong một vũ trụ không có ý nghĩa nào.

 

Với dòng suy nghĩ đó, tôi tạm biệt những trang thơ Lê Chiều Giang với cảm giác bất an, mặc dù tôi biết thơ của chị là “sự sống trong khoảnh khắc, nắm lấy tự do, đam mê và nổi loạn như những hình thức chống lại phi lý.” Thơ chị, lẽ tất nhiên, vì là thơ nên không vạch rõ cho tôi biết con đường giải thoát khỏi sự phi lý là gì. Tôi không bao giờ kỳ vọng điều đó trong thơ ca. Song, thốt nhiên, le lói bên cạnh sự tuyệt vọng tràn ứ, tôi bỗng thấy lấp lánh một tia nắng mong manh của hy vọng và của khát vọng:

 

Một môi cười

Thế giới?

Nhỏ.

Như vài chiếc lá

Giật mình. Ta

Chắc phải…Yêu thôi

(Liều mạng)

 

Những câu thơ cuối của Lê Chiều Giang trước khi sang trang giúp tôi có cái nhìn lạc quan hơn chút xíu về cuộc sống này. Và rất may, ta có tình yêu để hy vọng. Hy vọng cái gì thì thú thật với bạn, tôi không biết.

 

 

Nguyễn Thị Khánh Minh, người canh thức những giấc mơ

 

Thơ Nguyễn Thị Khánh Minh bao nhiêu năm rồi vẫn như thế, thi ngôn nền nã, tinh tế, sáng đẹp, thi tứ trữ tình, lãng mạn, đậm buồn, giàu thi ảnh, tràn đầy cảm xúc, và luôn luôn có những biến ảo lạ lùng trong ngôn từ khiến thơ như chắp cánh bay cao và bay xa trong những chiều kích khôn cùng.

 

Trước khi đặt chân vào cõi thơ mênh mông của Nguyễn Thị Khánh Minh, xin cho tôi giở lại một bài thơ chị làm riêng tặng tôi (một vinh dự không nhỏ đối với tôi), và có xuất hiện trong tuyển thơ này, bài thơ nhan đề Phố rất xa.

 

Với cái nhan đề như thế, hiển nhiên, nhà thơ muốn nói về miền đất quê hương của quá khứ, xa lắm rồi, bây giờ chỉ còn mơ hồ hiện về trong tâm tưởng những lúc ngồi cô độc nhìn mảnh trăng non vừa nhú. Thế nhưng suốt bài thơ, tôi không thấy Nguyễn Thị Khánh Minh nhắc gì về mảnh đất xa xôi ấy, tuyệt đối không, một dấu vết mờ nhạt cũng không thấy, mà chỉ là nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng sâu thẳm của một tâm cảnh trong lúc nhìn trăng lên.

 

Phải chăng đấy cũng là tâm cảnh từ một tứ thơ sầu vạn cổ, “Cử đầu vọng minh nguyệt/ Đê đầu tư cố hương?” Nhưng câu chữ của Nguyễn Thị Khánh Minh ở bài thơ này đã làm người đọc bàng hoàng khi nghiệm ra cái tứ thơ sầu vạn cổ ấy ở bất cứ thời-gian-không-gian nào cũng khiến con người có cơ hội sống thật với hiện thể và bản thể của hắn.

 

Ngọn cỏ xanh bên bờ mới mọc

Đêm buồn như có ai đang khóc

Tôi ngồi cong mảnh trăng non

 

Làm sao có thể cảm nhận được hiệu ứng của từ “cong” trong câu thơ? Như được phả bùa phép, cảm xúc từ câu thơ như được đẩy tới một biên vực mới. Tôi ngồi cong người nhìn trăng, hay trăng thượng huyền cong cong nhìn tôi? Có lẽ chẳng cần thiết phải biện biệt như thế, bởi cái nhị đối đã biến thành cái nhất nguyên và tôi đã tìm về cái tôi trong suốt.

 

Hai bóng lạ chìm nhau cô quạnh

Cúi xuống một hồn trôi ảo ảnh

Kéo về đâu tôi bốn phía đêm

 

Lý Bạch ngày xưa “Ngửng đầu nhìn trăng sáng/ Cúi đầu nhớ cố hương”, Nguyễn Thị Khánh Minh ngày nay “Cúi xuống một hồn trôi ảo ảnh/ Kéo về đâu tôi bốn phía đêm”. Cách nhau hơn nghìn năm, nhưng hiện thể uyên nguyên là một.

 

Thế rồi, cái hình tượng tôi-cong-trăng-cong ấy tan vỡ dưới thềm nhà biến thành những “miểng trăng im”.

 

Giật mình trong cây ồn ào lá mớ

Mơ rất nhẹ mà hồ như tiếng vỡ

Vỡ trên thềm những miểng trăng im

 

Từ một hình tượng tương đối bi sầu nhưng không mấy bi thảm, chữ  miểng” trong câu cuối khổ thơ trên đã khiến tâm cảnh biến đổi bất ngờ. Chua xót. Đau đớn. Ánh trăng tan vỡ trên thềm biến thành những ký ức hãi hùng, những cảnh đời tưởng như chỉ có trong ác mộng! Chỉ một từ mà có thể thay đổi toàn diện tâm cảnh của câu thơ. Đó chính là sự ảo diệu trong thơ Nguyễn Thị Khánh Minh. Bài thơ có hơi thở và sức mạnh thẩm thấu tâm hồn người đọc ở cường độ mạnh mẽ nhất.

 

Nguyễn Thị Khánh Minh làm thơ để bộc lộ những giấc mơ của mình, nhưng đấy không phải những giấc mơ trôi ra từ tiềm thức hay vô thức của thi sĩ Siêu thực mà là những ước mơ chân thành của một tâm hồn yếu đuối nhưng hết sức tha thiết với cuộc sống và với tha nhân. Bài thơ Khoảnh khắc giấc mơ là một bài thơ xuôi (được chị gọi là tản văn thi) nói lên những ước vọng của chị cho một quê hương, một đời sống, một thế giới yên bình chan hòa tình yêu thương và hạnh phúc.

 

Bài thơ như một khúc kinh cầu, chị như đang nói chuyện với đấng thiêng liêng. Vâng, nó là lời nguyện cầu bởi chị chỉ là một linh hồn, một cá thể yếu đuối chới với níu vào hy vọng mà sống trong một thế giới đầy dẫy bão tố hãi hùng và chông gai trắc trở. Chị ước ao “Mầu xanh phủ hết tai ương cho con người và trái đất chan hòa nương tựa…” cho chị chắp đôi cánh “bay về miền đồng lúa chín vàng…”; cho chị “thắp ánh sáng của sao hôm không có nước mắt chiều phai, của sao mai hẹn về khung trời đang mở nắng…” hay “treo trước cửa sổ phòng người tiếng hót một loài chim sớm đánh thức ngày vui. Tôi sẽ kéo tấm rèm chở che một điều đang bắt đầu trong khép lại một ngày ơn phước…”

 

Những ước mơ tưởng tầm thường, nhưng với những thân phận con người bị nhận chìm dưới tai ương của kiếp nạn nhân sinh, thì những ước mơ đó trở thành khát vọng cấp bách, và chỉ nào tất cả chúng ta đều có chung một khát vọng như chị thì “khoảnh khắc giấc mơ” ấy của chị mới “thực sống”, cho “trái tim vẫn hoài đập trong khoảnh khắc của giấc mơ...

 

Khoảnh khắc giấc mơ là một bài thơ đa chiều kích. Từ những giấc mơ, nó cùng lúc vẽ lên thân phận con người trong cuộc bể dâu nhiễu loạn. Từ một cá thể nhỏ nhoi, một tâm hồn yếu đuối và cô độc, nó chỉ có thể thắp lên ngọn nến nguyện cầu. Và hy vọng. Hy vọng vào tình yêu thương. Tình yêu thương sẽ cho chúng ta “theo con sông nhỏ về biển xanh” nơi “phương Đông ấm một mặt trời…” Và, “… trong mùa thơ quyến dụ ấy với ngôn ngữ tình nhân. Ngôn ngữ tôi nghe một lần trong xứ sở chiêm bao.”

 

Đấy là Nguyễn Thị Khánh Minh với những giấc mơ của chị. Những giấc mơ mong manh, dễ vỡ. Và bởi thế chị rất sợ chúng bị bóng tối hút vào, mất tăm:

 

Hãy nhìn em cho em thấy ánh nắng

Vì em sợ

Bóng tối sẽ nuốt chửng những giấc mơ

(Nói nhỏ)

 

Đọc thơ Nguyễn Thị Khánh Minh là chìm đắm trong một khu vườn chữ nghĩa óng ả, nhiệm mầu, sáng lấp lánh như những chuỗi ngọc. Chị không phát minh nhiều từ mới như các nhà thơ Tượng trưng, nhưng các từ trong thơ nằm cạnh nhau thân thiết như đàn chim thiên di rủ nhau xuôi nam tìm nắng ấm. Chữ nghĩa đẹp, gợi cảm, như có ma lực làm say đắm lòng người đọc. Chị sử dụng phép hoán dụ rất tài tình trong thơ, điều đó càng làm tăng sự phong phú và gợi cảm. Mặt dệt của chữ nghĩa lóng lánh như hoa gấm, ý tứ tuy kín đáo, thâm trầm nhưng nồng nàn hơi thở.

 

Để viết được những câu thơ như thế, chị đã phải trải qua nhiều chặng đường gian truân nhiều nước mắt:

 

Nỗi đau

Phản xạ thành chữ

Những con chữ. Cứ thế

Bóc dần từ tôi những hạt lệ

 

Chẳng phải như con ruồi giả – người ta có thể câu được cá

Chữ – nằm gai nếm mật –

Nên lời

(Chữ thơ)

 

Dù vậy, chị vẫn thấy bất an với những con chữ của mình. Chữ nghĩa chị không đủ nói lên tất cả những đau đớn của phận người chăng? Chúng chỉ là “những con chữ đói” cùng “bầy ý nghĩ tử thi”, và chị hoang mang:

 

Khi viết xong bài thơ
Đôi khi. Tôi khóc
Có phải vì lời đã nói về nước mắt

Trong lòng đêm ma mị


Lạc giữa bài thơ
Ngu ngơ. Như vừa bị cắp đi. Những chữ

Mộng giữa bài thơ

Nghe mình lam nham nói mớ

Thức giấc cùng bài thơ

Tôi và chữ giật mình

Bay bay. Cao cao. Rồi vỡ

(Phút mong manh giữa những từ)

 

Nhưng rồi chị cảm thấy tự an ủi vì ít nhất chị cũng gặt hái được một phần nhỏ nhoi của giấc mơ:

 

Sau một vụ mùa
Tôi chỉ đem về được đôi ba hạt lúa chín
Chút mầu vàng của nó lấp lánh trên tay

Làm tôi đã vô cùng sung sướng
Tôi đã tắm đã hưởng
Tất cả những ngọt ngào mát mẻ của con sông

(Phút mong manh giữa những từ)

 

Thơ Nguyễn Thị Khánh Minh va chạm đến những chủ đề về nhân sinh và thân phận con người trong cuộc sống trắc trở bấp bênh. Nhưng chị không bao giờ tuyệt vọng. Tuy có lúc chị trốn vào giấc mơ tìm sự an ủi, nhưng niềm hy vọng không bao giờ tắt nắng trong ý thức chị, và niềm hy vọng ấy chị ấp ủ trong niềm tin, niềm tin khắc đậm vào lòng yêu thương:

 

Người đem theo nụ cười

Đốt phong long quỷ tối

Đêm nở nụ cười hoa

Ô. một vì sao xa

Vừa mở trời. Dẫn lối…

(Có vì sao mới mọc)

 

Và, chị vẫn ngồi chờ, chờ sự hồi sinh, sự nẩy mầm cho những tiếng reo vui một ngày sau đêm khuya:

 

Trong tiếng thở dài hút khuya trong tiếng reo mầm vui đang nhú. Tôi vẫn chờ, chắc sẽ không lâu…

(Bầy lá non thở dài trong đêm)

 

Chị chẳng khác gì Sisyphus, lăn tảng đá lên đỉnh núi chỉ để nhìn nó lăn xuống. Miên viễn:

 

Tôi nhóm lên một ngọn lửa

Gió thổi tắt đi

 

Tôi nhóm lên một ngọn lửa nữa

Gió lại thổi tắt đi

 

Nhưng, khác với Sisyphus, chị mừng rỡ khi ngọn gió không thổi tắt ngọn lửa mà tiếp hơi cho nó bùng lên:

 

Khi tôi không còn hy vọng

Thì gió

Lại làm những que tàn kia bắt lửa…

(Hy vọng)

 

Nguyễn Thị Khánh Minh, một người kinh qua nhiều khổ nạn, giọt lệ từng rơi, chứng kiến biết bao biển dâu dời đổi, nhưng tâm tư vẫn tĩnh lặng, tinh khiết, tính cách vẫn đằm thắm, nền nã, dịu dàng. Thơ chị là niềm tin son sắt vào lòng yêu thương, và do vậy chị vẫn chắt chiu nuôi nấng hy vọng sau những kiếp nạn nhân sinh và dông bão cuộc đời.

 

Bạn có thể xem chuyện đó chẳng có chi ghê gớm. Hy vọng thì ai chẳng làm được, nhưng liệu nó có thay đổi được cái gì không?

 

Nếu bạn là nhà hoạt động thì bạn có thể biến hy vọng của mình thành hiện thực qua các công việc tích cực cho nhân quần. Nhưng Nguyễn Thị Khánh Minh là một nhà thơ, và hy vọng trong thơ thường được miêu tả như một sức mạnh có khả năng biến đổi, một chủ đề có tiếng vang sâu sắc qua mọi thời đại, văn hóa. Các nhà thơ sử dụng hy vọng để phản ánh khả năng phục hồi và thay đổi trong nghịch cảnh, để cân bằng sự tuyệt vọng, và thường miêu tả nó như một tia sáng trong thời kỳ đen tối. Câu nói nổi tiếng của nữ sĩ Emily Dickinson “Hope is the thing with feathers/ Hy vọng là thứ có lông cánh” đã nắm bắt hy vọng như một cái gì đó mong manh nhưng bền bỉ, một sức mạnh có thể nâng đỡ con người trong những hoàn cảnh  khó khăn.

 

Bài thơ nhan đề Hy vọng của Nguyễn Thị Khánh Minh chấm dứt tuyển thơ đã tiếp sức cho tôi tin tưởng vào niềm hy vọng đó.

 

 

Quả táo vàng

Giữa ba nhà thơ nữ của chúng ta: duyên, Lê Chiều Giang và Nguyễn Thị Khánh Minh, tôi biết trao quả táo vàng cho ai đây?

 

Bạn biết truyền thuyết quả táo vàng không? Nếu không, tôi sẽ hầu bạn kể câu chuyện thần thoại Hy Lạp này.

 

Trên đỉnh núi Olympus có ba vị nữ thần bất tử xinh đẹp: Aphrodite, Hera và Athena, và bởi bất tử nên họ trẻ đẹp mãi, không bao giờ già xấu. Một hôm họ hỏi Zeus: trong ba người ai là người đẹp nhất. Zeus là Thiên vương, chúa của muôn loài, nhưng là một lão già sợ vợ và mê gái – sợ Hera, vợ mình, phật lòng, nhưng cũng không muốn mình là người làm buồn tủi hai nữ thần xinh đẹp kia – bèn xúi ba vị nữ thần cầm quả táo vàng của Iris xuống trần gian nhờ Paris thẩm định giùm. Ai được Paris trao quả táo vàng, người đó sẽ là nữ thần đẹp nhất trên trời, dưới đất, dưới biển và cả dưới âm phủ nữa. Paris là hoàng tử con vua Priam thành Troy, lúc đó bị đày đi chăn cừu ở chân núi Ida. Paris nổi tiếng có tài thẩm định nhan sắc phụ nữ, nhưng trước mặt ba vị nữ thần dung mạo tuyệt vời đó, chàng đã vô cùng lúng túng không biết chọn ai vì ai cũng đẹp như… tiên nữ. Thế là, ba vị nữ thần bèn tìm cách gạ gẫm hối lộ chàng để chàng trao quả táo vàng cho mình. Hera hứa hẹn sẽ dựng chàng làm chúa tể cả Âu lẫn Á châu. Athena bảo sẽ đưa chàng lên thống lĩnh quân đội thành Troy để chiến thắng Hy Lạp. Và Aphrodite thì hứa gả nàng Helen nổi tiếng xinh đẹp cho chàng. Cuối cùng, Paris, vốn yếu đuối và có chút hèn nhát trong người, đã trao quả táo vàng cho Aphrodite để lấy Helen làm vợ. Nàng Helen lúc đó đang là vợ vua Menelaus của Hy Lạp. Thế là nổ ra cuộc chiến tranh đòi vợ kéo dài suốt 10 năm trời, không biết bao nhiêu vạn sinh linh chết oan uổng, và chỉ kết thúc khi phe Hy Lạp lập mưu kế làm con ngựa gỗ khổng lồ, binh lính nấp bên trong cho người thành Troy kéo vào thành, đoạn thừa lúc nửa đêm túa ra đốt thành Troy thành tro bụi…

 

Đấy là câu chuyện quả táo vàng của Paris, nhưng bạn ơi, tôi không dại dột bắt chước Paris đâu. Mà sự thật là tôi chẳng có quả táo vàng nào trong tay, muốn trao cũng không được. Nếu có trong tay ba quả táo vàng thì chắc tôi sẽ bớt khó xử hơn. Nhưng dù sao chăng nữa, trao hay không trao, tôi vẫn được đọc thơ của ba người. Họ là những người trước sau luôn chung thủy với nghệ thuật của mình. Mỗi người một tâm hồn, một thi pháp, một trải nghiệm, trải nghiệm trong đời sống cũng như văn chương, không ai giống ai. Nhưng họ cùng nhìn vào đời sống với con mắt của nhà thơ. Thơ họ không có tham vọng đổi thay xã hội nhân sinh, họ làm thơ chỉ vì họ muốn nói điều gì đó, mà sau khi mọi chuyện ồn ỹ lắng đọng vào cuối ngày, chỉ để lại chút niềm vui nho nhỏ trong lòng người làm thơ và người đọc thơ. Nó giúp trái tim họ đập cùng một nhịp với thiên nhiên, với người bạn đồng hành, và với chúng ta, những người yêu mến họ.

 

Tôi nghĩ rằng chỉ chừng đó thôi đã đủ cho chúng ta mở rộng vòng tay chào đón thơ họ trong tuyển thơ này.

 

– Trịnh Y Thư

(Tiết Lập Đông, năm Giáp Thìn, 2024DL)