HOẠN QUAN
宦官
Nguyễn Duy Chính
Lộc Ðỉnh Ký, bộ tiểu thuyết kiếm hiệp sau
cùng của Kim Dung đã dựa trên bối cảnh sinh hoạt của triều đình nhà Thanh, điển
hình là hệ thống hoạn quan, trong đó không ít những âm mưu chính trị có liên
quan đến cái thế giới của những người đàn ông đặc biệt này.
Một trong những câu hỏi mà nhiều
người trong chúng ta thường đặt ra là mặc dầu văn hóa Việt Nam và Trung Hoa có
rất nhiều tương đồng, tương cận nhưng tại nước ta hầu như ít có những thái giám
khuynh loát triều chính như ở bên Tàu, trái lại chúng ta có khá nhiều danh thần
xuất thân từ hàng yêm hoạn.
Người hoạn quan thứ nhất nổi danh
trong lịch sử Việt Nam là Lý Thường Kiệt (1019-1105) đời nhà Lý mà chúng ta ai
cũng biết với chiến công phá Tống bình Chiêm. Lý Thường Kiệt quê ở Thái Hòa, Thọ
Xương, Thăng Long làm quan trải ba đời vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông lên
đến chức Thái Úy, khi chết được phong là Việt Quốc Công với bài thơ nổi danh vẫn
thường truyền tụng là của ông:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch Lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
南國山河南帝居
截然定分在天書
如何逆虜來侵犯
汝等行看取敗虛
Tạm dịch
Sông núi nước Nam vua nước Nam,
Sách trời đã định phận rõ ràng.
Bọn giặc cớ sao dám xâm phạm,
Rồi đây sẽ bị đánh tan hoang
Bốn câu thơ trên đã được một số sử
gia coi là tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam, xác định chủ quyền và vị
trí của chúng ta hơn mười thế kỷ trước.
Người hoạn quan thứ hai cũng rất tiếng
tăm là Việp Quận Công Hoàng Ngũ Phúc (1713-1776) làm quan dưới đời vua Lê Hiển
Tông, đã cùng Phạm Ðình Trọng đánh bại hai tướng giặc Nguyễn Hữu Cầu và Nguyễn
Danh Phương, khi về hưu được phong làm Quốc Lão. Về sau ông đem đại quân đánh
vào Phú Xuân, bắt được Trương Phúc Loan rồi trấn thủ Thuận Hóa, chấm dứt một
giai đoạn phân tranh Nam - Bắc kéo dài hơn 200 năm.
Người thứ ba là Tả Quân Lê Văn Duyệt
(1763-1832) khai quốc công thần triều Nguyễn mà nay mộ của ông tại Bà Chiểu,
Gia Ðịnh vẫn là một đền thờ được dân chúng chiêm bái gọi là Lăng Ông. Lê Văn
Duyệt tuy cũng xuất thân hoạn quan nhưng ông bản chất là người ái nam ái nữ chứ
không phải tự thiến để thành quan thị như Việt Quốc Công Lý Thường Kiệt hay Việp
Quận Công Hoàng Ngũ Phúc. Ông theo phò chúa Nguyễn Ánh, khi lên ngôi ông được vua
Gia Long phong Khâm sai Tả Quân Dinh Bình Tây tướng quân, tước Quận Công, sau
làm Tổng trấn Gia Ðịnh thành.
Cả ba người đều là võ tướng, lập nhiều chiến
công hiển hách và không ai chê trách mặc dầu Lê Văn Duyệt sau khi chết có bị hạch
tội vì con nuôi của ông là Lê Văn Khôi nổi loạn ở thành Phiên An.
Thế nhưng nhìn vào lịch sử Trung Hoa, giới hoạn
quan thường bị các sử gia lên án một cách nghiêm khắc vì phần lớn đều góp phần
làm suy yếu hay sụp đổ một triều đại. Tin dùng hoạn quan và ham mê nữ sắc vẫn
thường là những nguyên nhân chính khi trao tay đổi chủ một dòng họ. Thực tế,
khi quyền lực được tuyệt đối tập trung vào trong tay một người hay một nhóm nhỏ,
việc san sẻ quyền hành cho những người thân cận là chuyện đương nhiên. Từ vai
trò một người đầy tớ được tin cẩn đến lúc trở thành một đại diện cho nhà vua chỉ
là một bước ngắn và muốn được thăng quan tiến chức, nhiều quan lại phải đút
lót, nịnh nọt, cấu kết với hoạn quan để cũng cố vai trò. Trong nhiều thời kỳ,
hoạn quan còn thay mặt hoàng đế để xét hạch việc làm của các quan, kiểm soát
các sản phẩm mà triều đình yêu cầu địa phương sản xuất, xem xét các cống phẩm
và đôi khi cả quyền chỉ định các sứ thần.
LỊCH SỬ
Các quốc
gia khác
Việc cắt bỏ bộ phận sinh dục nam giới không
phải chỉ xảy ra tại Trung Hoa. Ngày xưa, vì ghen tương, báo thù hay để trừng trị
những kẻ quá dâm dục nhiều người bị bắt buộc phải cắt đi bộ phận sinh dục. Ở Ai
Cập và Ba Tư, những ai phạm tội hiếp dâm cũng bị thiến để trừng trị. Ngay thời
đại hôm nay vì lý do bệnh tật, tôn giáo hay xã hội, việc giải phẫu cắt bỏ sinh
thực khí vẫn còn công khai hay lén lút tại nhiều nơi trên thế giới, kể cả chính
nước Mỹ.
Mặc dầu người Trung Hoa định chế hóa vai trò
của thái giám từ xưa nhưng tập tục này đã hiện diện trong nhiều quốc gia, nhiều
bộ lạc hay các xã hội đa thê. Những người bị yêm hoạn thường được sử dụng làm kẻ
hầu người hạ, canh giữ các tì thiếp của vua chúa hay phú gia. Trung Hoa cũng
chưa hẳn là quốc gia đầu tiên dùng hoạn quan để phục vụ trong cung cấm mà có thể
họ đã du nhập tập tục này từ Trung Ðông. Khi thấy các loài vật như ngựa, chó
... trở nên hiền lành dễ bảo sau khi bị thiến và người ta suy ra rằng loài người
thì cũng vậy thôi.
Theo nghiên cứu, việc cắt bỏ bộ phận sinh dục
phái nam là một nỗ lực của đàn ông muốn trở thành nữ nhân để mong khả năng truyền
chủng như phụ nữ (womanlike fertility). Nhiều nam thần linh đã có thể sinh con
đẻ cái hoặc hóa thân thành người khác cũng là từ ý niệm này. Việc hủy hoại hay
làm tổn thương đến bộ phận sinh thực khí của phái nam – trong đó có cả việc cắt
da qui đầu (circumcision) vào tuổi dậy thì[1] là một lễ nghi tôn giáo mà trước
đây tại Trung Ðông và một số quốc gia Phi Châu đã áp dụng để đánh dấu sự thành
niên của con trai.[2]
Người Trung Ðông còn quan niệm rằng nếu giữ
mình trong sạch thì sẽ dễ được lên thiên đàng và nhiều nam nhân đã tự nguyện được
thiến để thành yêm hoạn ngõ hầu được sống đời đời sau khi chết. Dưới thời đế quốc
La Mã những thanh niên khỏe mạnh được tuyển chọn để đem thiến đi làm hoạn quan.
Sử sách còn chép Bagoas là hoạn thần được vua Alexandre the Great sủng ái, còn
vua Nero thì có hoạn quan tên là Sporus. Nhiều vùng tại Ấn Ðộ và Trung Ðông hiện
nay cũng vẫn còn tập tục này.
Người Ấn Ðộ chia người yêm hoạn ra thành ba
loại: loại bẩm sinh lúc đẻ ra có dương vật (penis) nhưng không có dịch hoàn
(testicles), loại không có cả dương vật lẫn dịch hoàn và loại trở thành yêm hoạn
sau khi giải phẫu. Ở Ấn Ðộ thế kỷ trước có những người đi rong từ vùng này sang
vùng khác thiến người kiếm ăn (traveling eunuch-makers) cũng chẳng khác gì những
người đi thiến heo, thiến gà, thiến chó ở nước ta. Họ buộc chặt bộ phận sinh dục
bằng một mảnh băng (ligature) rồi cắt xoẹt đi bằng một con dao thật sắc. Tuy
phương pháp đó có vẻ ghê rợn nhưng theo thống kê số tử vong cũng rất thấp và
người bị thiến cũng khỏe mạnh, vạm vỡ chứ không èo uột như chúng ta lầm tưởng.[3]
Trong thời Trung Cổ, nhiều quốc gia Âu Châu
cũng có tục lệ thiến những kẻ bị kết án đa dâm (excessive cupidity) và nhiều
giáo sĩ muốn giữ mình trong sạch cũng tự cắt bỏ bộ phận sinh dục để khỏi vướng
mắc vào đường tình ái. Những người này được gọi dưới cái tên Hesychasti có
nghĩa là “kẻ mãi mãi trong sạch[4]”. Ở Ý người ta tính ra có đến 4000 người yêm
hoạn, nhất là các tu sĩ Thiên Chúa giáo và chính Giáo Hoàng Clement XIV đã phải
ra lệnh cấm thi hành hủ tục này. Riêng tại Pháp, những người nào tự hủy còn bị
trừng phạt theo hình luật.
Một số quốc gia khác thì có tập tục thiến những
ca sinh có giọng cao (tenor singer) trong những ca đoàn tôn giáo để giữ cho những
người này khỏi vỡ tiếng khi dậy thì. Những ca sinh đó gọi là castrati được tĩnh
thân từ khi còn nhỏ vì người ta tin rằng giọng trong trẻo của họ sẽ khiến cho
Thiên Chúa vừa lòng hơn, và vì thế trong thời trung cổ phụ nữ không được gia nhập
các ca đoàn này. Ca đoàn cho Giáo Hoàng ở Sistine Chapel duy trì tập tục đó từ
thời Trung Cổ và chỉ chấm dứt vào năm 1878.
Tại Nga, một giáo phái tên là Bồ Câu Trắng
(White Dove) mà người ta vẫn thường gọi dưới cái tên giáo phái Skoptzy
(Skoptsi) do Ssaliwanow sáng lập khoảng giữa thế kỷ XVIII đã dựa vào một số đoạn
trong Thánh Kinh để khuyến khích giáo đồ tự nguyện cắt bỏ bộ phận sinh dục, coi
đó như là một hành vi dâng hiến cho Thiên Chúa, một sự chiến thắng của thiện đối
với ác. Tertullian, một nhà thần học vào thế kỷ thứ II đã tuyên bố rằng “Nước
Trời mở ra cho những người yêm hoạn” [5] và
vì thế nhiều người tự thiến để được lên thiên đàng.[6]
Theo giáo phái Skoptzy thì khi Thiên Chúa tạo
dựng ra Adam và Eva trong vườn Ðịa Ðàng thì hai người không có phái tính
(sexless) và sau khi họ sa ngã thì một phần của trái cấm mới dính vào người để
thành bộ phận sinh dục và nhũ hoa.[7] Do đó, một khi tự cung, con người
sẽ trở lại trong sạch như thời nguyên thủy và phương thức này áp dụng cho cả
nam lẫn nữ tín đồ. Nam nhân có thể bị cắt cả sinh thực khí lẫn dịch hoàn (hay một
trong hai), còn đàn bà thì cắt bỏ tử cung (ovary), ngoại âm thần, nhũ hoa hoặc
đầu vú tùy theo mức độ trong sạch mà họ muốn. Những người cắt bỏ hoàn toàn bộ
phận sinh dục được mang nhãn hiệu “người mang dấu ấn của Vương Triều”
(the bearer of Inperial Seal). Lẽ dĩ nhiên Vương triều đây là Thiên Quốc chứ không
phải triều đình nước Nga. Những dụng cụ thường dùng bao gồm cả sắt nung đỏ, mảnh
thủy tinh, dây kẽm, xương mài nhọn hay dao cạo cũ và mặc dầu phương pháp giải
phẫu của họ rất sơ khai, thiếu vệ sinh nhưng số người bị tử vong cũng rất thấp.
Chính tu sĩ Rasputin nổi tiếng trong lịch sử cũng là một trong những người của
giáo phái này mặc dù ông ta nổi tiếng về việc chung chạ với nhiều phụ nữ.[8]
Ở các nước Hồi giáo, việc thiến người bị cấm
nên họ thường mua hoạn quan từ các quốc gia khác. Người Thổ Nhĩ Kỳ kiếm người
yêm hoạn da trắng từ những xứ Thiên Chúa giáo mà họ chinh phục được như
Circassia, Georgia, hay Armenia nhưng những người này thường yếu đuối, yểu thọ.
Do đó họ chuộng người yêm hoạn da đen hơn và thường tìm kiếm tại những quốc gia
như Egypt, Abyssinia, Sudan. Theo tập tục của đạo Hồi, nô lệ trong chiến tranh
là tài sản của người bắt được và có thể chuyển nhượng như mọi tài sản khác. Do
đó họ thường lùng kiếm ở các nước Phi Châu để bắt trẻ em da đen và thuê người
Ai Cập, Do Thái ... thiến để họ khỏi phạm cấm. Sau khi thiến, trẻ em bị chôn dưới
cát, chỉ thò đầu lên cho đến khi lành vết thương. Tỉ lệ tử vong khá cao nên những
kẻ sống sót trở thành một món hàng quí giá. Theo sử gia N.M. Penzer, có nhiều
loại yêm hoạn:
-
Castrati là người bị cắt cả dương vật lẫn dịch
hoàn
-
Spadones là người bị cắt dịch hoàn
-
Thlibiae là người bị nghiền nát dịch hoàn
và ống dẫn tinh thường từ khi còn rất nhỏ.[9]
Việt Nam
Ở Việt Nam, hoạn quan có từ thời nhà Lý, mà
Lý Thường Kiệt là một[10]. Qua đời Nguyễn, Hoạn quan được
chia làm năm trật:
- Quản vụ Thái giám và Ðiển sự Thái
giám
- Kiểm sự Thái giám và Phụng nghi
Thái giám
- Thừa vụ và Ðiển nô Thái giám
- Cung sự và Hộ nô Thái giám
- Cung phụng và Thừa biện Thái giám[11]
Việc kén chọn hoạn quan ưu tiên tuyển những
trẻ em ái nam ái nữ do lệnh của triều đình. Người dân nào sinh con có khuyết tật
đó được quan sở tại tới khám xét rồi làm sớ tâu lên. Cha mẹ đứa bé sẽ nuôi con
đến lúc 13 tuổi, sau đó bộ Lễ sẽ đưa vào cung tập sự hoạn quan. Làng nào có hoạn
quan tiến cử được miễn binh lính, phu phen tạp dịch và cả sưu thuế nữa. Nếu
không có đủ số trẻ ái nam ái nữ, thanh niên nào tự nguyện thiến bộ phận sinh dục
sẽ được tuyển chọn. Tuy nhiên, thái giám nước ta chỉ là một số nhỏ không được
trọng vọng lại chỉ được làm những việc lặt vặt chưa thành hẳn một giai cấp có ảnh
hưởng như Trung Hoa. Theo Hứa Hoành, đời vua Ðồng Khánh triều Nguyễn chỉ có 35
thái giám. Theo tác giả Nguyễn Thị Chân Quỳnh, hoạn quan đời Gia Long “... mặc
một chiếc áo ngắn màu lam, quần lụa trắng, chít khăn rộng bản, cung kính đi sau
một quãng chứ không dám đi ngang hàng” và “... hễ vua ra lệnh thì lập tức
quì dâng điếu thuốc lá đã châm sẵn và trước khi dâng phải hút thử vài hơi...”.[12]
Theo chỉ dụ của vua Minh Mạng, thái giám
không được dự vào phẩm hàm hay quan chức triều đình và chỉ được hầu hạ trong
cung mà thôi. Cũng có thể nhà vua không muốn xảy ra việc hoạn quan chuyên quyền
như Trung Hoa hay vì đố kỵ với Tả Quân Lê Văn Duyệt trong vụ nổi loạn thành
Phiên An. Tấm bia khắc toàn văn bản dụ này nay vẫn còn trong Văn Miếu. [13] Lương bổng thái giám ở nước ta thời
Nguyễn cao nhất là 72 quan tiền, 48 bát gạo một tháng, còn thấp nhất được 24
quan tiền, 24 bát gạo.[14]
Theo Phan Thuận An, có hai hạng thái giám gọi
là “giám sanh” (bẩm sinh phi nam phi nữ) và “giám lặt” (người bị
thiến sau này). Thái giám cũng có riêng một nghĩa trang là chùa Từ Hiếu, thuộc
xã Dương Xuân Thượng, huyện Hương Thủy cách Huế khoảng 6 km về phía tây nam và
vì thế chùa này được gọi là chùa Thái Giám (Pagode des Eunuques).[15]
Trong nhiều thời đại, nước ta phải đem cống
sang Tàu một số người tài giỏi, trong đó có cả hoạn quan. Theo Hoàng Minh
thông ký, một hoạn quan người nước ta là Nguyễn An đã vẽ kiểu tu tạo thành
Bắc Kinh bao gồm 9 cửa, 2 cung, 3 điện, 5 phủ, công đường, nha môn 6 bộ và các
trường xưởng nhà trạm. Ông làm quan trải năm đời vua triều Minh (Thái Tông,
Nhân Tông, Tuyên Tông, Anh Tông, Cảnh Tông), tính tình liêm khiết rất đáng kính
trọng.[16]
Trung Hoa
Khảo luận này đặc biệt chú trọng đến Trung
Hoa vì bài viết nhằm làm phụ đính cho bản dịch Lộc Ðỉnh Ký của Kim Dung, trong
đó cốt truyện được xây dựng trong cung đình nhà Thanh, với vai chính Vi Tiểu Bảo
trong vai trò một tiểu thái giám.
Thái giám là người đã bị cắt bộ phận sinh dục
(hay trời sinh không có bộ phận sinh dục) để hầu hạ vua chúa, hoàng hậu và các
phi tần, quí nhân cùng một số công việc tạp dịch khác.
a/ Phẫu thuật
Việc cắt bỏ bộ phận sinh dục -- nôm na gọi là
thiến -- còn được dùng dưới nhiều tên khác nhau như yêm cát, cung hình, tàm thất,
hủ hình hay âm hình. Sở dĩ có nhiều cách gọi khác nhau như thế cũng để chỉ
phương pháp và mức độ tàn hại cơ thể. Gọi là tàm thất (蠶室) để chỉ sau khi bị thiến, nạn nhân phải sống
trong một căn phòng mà độ ấm luôn luôn được duy trì để khỏi bị gió máy, bệnh tật
ít nhất ba tháng cho vết thương lành hẳn.[17] Người bị thiến ngoài những thay đổi
thể chất, tinh thần cũng ảnh hưởng nặng nề và trở nên độc ác, nhỏ nhen, tàn nhẫn
khác với người thường.
Muốn được nhập cung, người yêm hoạn phải được
một thái giám đang ở trong cung đỡ đầu, nghĩa là bằng lòng lấy y làm vợ. Hai
người phải làm hôn thư với nhau, người thái giám là chồng, người muốn vào cung
là vợ và hôn thư này phải được lập từ trước khi giải phẫu. Sau khi làm giá thú,
người ta sẽ chọn một ngày lành tháng tốt để “nhập phòng”, có nghĩa là
ngày bị thiến cũng là ngày y đi lấy chồng.
Ở Trung Hoa, việc giải phẫu để biến
một nam nhân thành thái giám do một chuyên viên cha truyền con nối, được trả chừng
sáu lượng bạc (theo Jamieson thì khoảng $8.64 vào năm 1877)[18] công cho từ lúc cắt đến
khi hoàn toàn bình phục. Người làm
nghề này được triều đình công nhận gọi là “đao tử tượng”. Mỗi đao tử tượng
thu một số đồ đệ (thường là con cái hay thân thích của đương sự) và nghề cũng
được giữ bí truyền như nhiều ngành chuyên môn khác. Người xin được làm thái
giám thường là con cái nhà nghèo nên phải có người bảo đảm để trả số tiền thù
lao, nếu không đao tử tượng sẽ không làm.
Cuối đời Thanh, tại Bắc Kinh có hai gia đình
với danh xưng Tất Ngũ (畢五) và Tiểu Ðao Lưu (小刀劉) có hợp đồng với triều đình mỗi mùa cung cấp
cho cung cấm bốn mươi hoạn quan, và coi như đặc quyền của họ, người khác không
được hành nghề nữa. Người chủ gia đình được phong thất phẩm nghĩa là một quan
tước hẳn hoi. Hai gia đình này đã có nhiều đời kinh nghiệm, kỹ thuật hoàn hảo
nên số người bị chết chỉ chừng bốn, năm phần trăm mà thôi. Thành thử những ai
muốn có con vào làm thái giám đề phải đến ghi danh tại hai gia đình họ Tất và họ
Lưu chờ đến lượt. Họ sẽ được xét hỏi, coi mặt mũi, nghe cách ăn nói xem có đủ
lanh lợi thông minh để vào hầu hạ trong cung và được xét thân thể sinh thực khí
nếu hợp cách mới được tuyển chọn. Lương bổng của thái giám cũng do hai gia đình
này nhận rồi phân phối lại, cho đến năm Quang Tự 26 (1900) mới bi triều đình
thu hồi giao cho Thận Hình Ty quản lý. Carter Stent miêu tả về việc cát thể ở
Trung Hoa cuối đời Mãn Thanh như sau (1877):
Trước khi
cát thể, người có ý định trở thành thái giám được đặt nằm nghiêng trên một cái
giường thấp,và được hỏi lần cuối cùng có hối hận gì khi bị “thiến” hay không. Nếu
người đó trả lời không thì một người sẽ giữ chặt bụng người đó, hai người khác
banh hai chân ra giữ cho khỏi cục cựa. Băng vải được quấn chặt ở bụng dưới và
hai đùi và “bệnh nhân” được cho uống một thang thuốc mê (ma phế thang), bộ phận
sinh dục của y được chà xát bằng nước ngâm ớt. Cả dương vật lẫn dịch hoàn được
cắt xoẹt chỉ một nhát dao sát tận đáy, một nút bằng kim loại cắm ngay vào lỗ
sinh thực khí và vết thương được băng chặt bằng giấy bản, bên ngoài quấn vải thật
chặt.
Người thái
giám lập tức được những đao tử tượng dìu đi quanh phòng trong hai ba giờ liền
trước khi được quyền nằm nghỉ. Người đó vừa đau đớn, vừa khát nước nhưng không
được ăn uống và tiểu tiện trong ba ngày. Sau ba ngày, vải băng được cởi ra và
cái nút được rút ra và nếu bệnh nhân có thể đi tiểu được ngay thì vụ giải phẫu
thành công và qua được thời kỳ nguy hiểm. Nếu người thái giám không tiểu tiện
được có nghĩa là đường sinh thực khí đã bị thu hẹp hay bịt kín và chỉ còn đường
chờ chết.[19]
Thế nhưng việc tĩnh thân để thành thái giám
không phải chỉ trong việc cắt bỏ bộ phận sinh dục mà thôi. Nhiều gia đình chuẩn
bị việc cho con mình tương lai sẽ làm thái giám từ khi còn nhỏ cũng không khác
gì người ta bó chân con gái. Một bà vú (bảo mẫu) thường được gọi dưới danh xưng
“dung phụ” (傭婦) được thuê để đặc biệt chăm sóc
cho đứa trẻ ngay từ khi còn nằm trong nôi. Bà vú này có một thủ thuật riêng, mỗi
ngày ba lần nắn bóp dịch hoàn đứa trẻ khiến đứa bé đau đến khóc thét lên. Lực
bóp cũng tăng thêm và cơ quan sinh dục của đứa bé dần dần bị hủy hoại, khi lớn
lên không những mất khả năng sinh dục mà dương vật còn teo dần khiến đứa trẻ có
nhiều nữ tính, không có yết hầu, hai vú nhô cao, mông nở, giọng nói lanh lảnh,
dáng điệu ẻo lả và trở thành ái nam ái nữ, thái giám một cách tự nhiên không cần
phải qua việc giải phẫu.
Cũng có những gia đình nghèo quá không kiếm
đâu ra sáu lượng bạc để thuê chuyên gia thiến con mình nên phải tự làm lấy. Sau
đây là lời tự thuật của người thái giám già sau cùng của triều đại Mãn Thanh
Tôn Diệu Ðình 孫耀庭 (Sun Yao-ting), người đã bị chính
cha ông xuống tay:
… Một tấm
cánh cửa được đặt ngay giữa nhà trên lót một lớp bông kê làm gối cho tôi, đầu
kia là tro trên phủ một manh vải rách. Cha tôi rưng rưng nước mắt, một mặt để
cho tôi tự tụt quần nằm lên phản, một tay cầm sợi dây thừng nghẹn ngào nói:
-
Cục cưng
ơi, cha thật không phải với con ... để cha trói con lại trước rồi mới ra tay được.
-
Cha ơi, con không chạy đâu!
-
Con ngoan ơi, cha biết ... cha biết con không chạy, cha chỉ sợ con đau
quá không chịu nổi ...
Tôi làm ra vẻ can đảm mím môi nói:
-
Cha muốn trói thì cứ trói! Cha động thủ đi, con không sợ, không sợ chút
nào!
Cha tôi tưởng chừng như nổi hung lên, hai tay run lẩy bẩy, đè tôi xuống
trói thật chặt lên tấm phản, sau đó lại lấy một manh vải đen bịt mắt tôi. Phải
nói thật, đến khi đó tôi hết sức kinh hoàng, tim đập như trống làng, mồ hôi ra
đầm đìa, mỗi tiếng động của cha tôi lại làm tôi giật bắn người lên. Chợt nghe cha tôi nói:
-
Con ơi, con la lên ... cho to đi ...
Nói thì chậm nhưng việc xảy ra thật nhanh, tôi chỉ nghe tiếng cha tôi sột
soạt ở dưới quần, rồi chợt đau buốt, mắt tối sầm ngất đi.
Không biết mất bao lâu – về sau nghe mẹ tôi bảo, tôi bị lên cơn sốt ba
ngày ba đêm liền, cứ lúc tỉnh lại nghe tiếng mẹ tôi khóc rấm rứt, tiếng cha tôi
la lối nhưng tôi không há miệng được, mà cũng không nói gì được, cũng chẳng biết
là mình còn sống ở dương trần nữa không nhưng miệng vừa khô vừa đắng, gân cốt
tưởng chừng như rã ra từng mảnh.
Cha tôi sau khi theo những gì người ta đã chỉ để “thiến” tôi rồi, đã cắm
vào niếu đạo của tôi một cọng lông ngỗng để cho thịt khỏi bít lại và để cho nước
tiểu có chỗ thoát ra, sau đó mới tiến hành giai đoạn kế tiếp.
Về sau cha tôi kể lại rằng sau khi cắt dương vật không được để cho vết
thương thành sẹo quá mau mà phải để cho đủ trăm ngày, mỗi ngày thay thuốc. Nói
là thuốc nhưng thực ra chỉ là bôi sáp trắng, dầu thơm và bịt bằng giấy bản, mỗi
lần khiến tôi đau đến chết đi sống lại.
Tôi còn nhớ, phải mất đến hơn ba tháng, ngày ngày tôi phải nằm ngửa mặt
lên trời, lưng tưởng chừng như gãy, có muốn nghiêng người cũng không dám, e rằng
vết thương từ phần thân thể vừa mới mất kia sẽ lại bung ra.[20]
b/ Ðiển chế và lễ nghi
1/ Tổ chức
Hoạn quan
được gọi dưới nhiều tên khác nhau như thị nhân, yêm nhân, yêm hoạn, hoạn giả,
trung quan, nội quan, nội thần, nội thị, nội giám, thái giám v...v... Ðời Tần
Hán, hoạn quan thuộc về thiếu phủ tự. Qua đời Tùy Ðường gọi là nội thị tỉnh, đời
Tống gọi là nội nội thị tỉnh. Qua đến đời Minh, tổ chức hoạn quan trở nên phức
tạp, quyền lực của hoạn quan cũng lớn chia ra làm hai mươi nha môn mỗi bộ phận
lo một việc như tư lễ, nội quan, ngự dụng, ngự mã, thần cung, thượng thiện, ấn
thụ, trực điện, nội y, đô tri ..., mười hai giám, tám cục, bốn ti. Ðời này quyền
thế của hoạn quan rất lớn vì họ được thân cận hoàng đế, những người được sủng
ái đều có quyền lực thành nạn hoạn quan chuyên quyền.[21] Cơ cấu thống
lãnh hoạn quan gọi là Nội Phủ Nha Môn, bên dưới chia làm nhị giám, tứ ti, bát cục.
Thái giám nguyên thuỷ chính là một chức vụ của người cai quản hoạn quan đời
Minh nhưng về sau thái giám cũng đồng nghĩa với quan thị.
Tuỳ Ðường
Thái Giám thuộc Ti Lễ Giám có quyền dùng bút son phê duyệt tấu chương, là hoạn quan cao cấp nhất, gần như thay mặt
nhà vua điều hành mọi việc nên có khi hàng chục năm trời hoàng đế không màng gì
đến chính sự. Khi Nguỵ Trung Hiền làm chưởng ấn thái giám, y không biết chữ mà
vẫn ngang nhiên ngồi tại Càn Thanh Cung sai người phê các văn thư của các quan
gửi về. Cuối đời Minh, vì được giao cả nhiệm vụ tham duyệt văn bản nên triều
đình tuyển thái giám cũng ra đề chẳng khác gì thi tiến sĩ.[22]
Ngoài Nguỵ
Trung Hiền, một thái giám khác cũng nổi danh không kém là Lưu Cẩn (劉瑾). Y vốn là hoạn quan hầu cận
thái tử (sau này là Minh Võ Tông) nên khi lên ngôi rất được sủng ái, người đời
gọi y là “thiên tuế”, chỉ kém vạn tuế gia (thiên tử) một bậc. Về sau các
đại thần lợi dụng mâu thuẫn, kết án 17 đại tội nên Lưu Cẩn bị xử lăng trì.
Tài sản tịch
thu của y lên đến 24 vạn đĩnh vàng (57800 lượng), 500 vạn đĩnh bạc (1583600 lượng
bạc), hai đấu bảo thạch và theo luật y bị cắt 3357 nhát dao, ba ngày mới xong.
Hình 1: Yêm cát thư cuối đời Thanh
Hình 2: Thái giám có phẩm tước
Hình 3: Thái giám Lý Liên Anh
Hình 4: Thái giám nhà Nguyễn
Hình 5: Thái giám đời Thanh
Qua đời Thanh, tổng quản thái giám đứng đầu ngạch hoạn quan, thuộc về Nội
Vụ Phủ nhưng quyền lực bị cắt giảm đi nhiều, số thái giám giảm xuống còn 2400,
chia làm 4 bậc:
-
tổng quản thái giám, lục phẩm (8 người).
-
thủ lãnh thái giám, thất phẩm (89 người).
-
phó thủ lãnh thái giám, bát phẩm (43 người)[23].
-
Số còn lại không có phẩm trật, chỉ là thái giám thường.
Cuối thế kỷ
thứ XVIII, một viên chức người Anh tòng sự tại Trung Hoa tên là George Carter
Stent đã viết một khảo luận về tổ chức thái giám và cung đình nhà Thanh cho biết
vào thời kỳ này trong cung có khoảng 2000 hoạn quan. Thái giám thời đó tương đối
ít vì Từ Hi thái hậu cầm quyền nhiếp chính, các hoàng đế nhà Thanh đều là những
cậu bé con nên chưa có phi tần cung nữ và vì thế không có nhu cầu sử dụng thái
giám. Sau cách mạng Tân Hợi triều đình ban hành lệnh cấm tuyển quan hoạn nhưng
Nội Vụ Phủ vẫn lén lút sử dụng và năm 1922 vẫn còn khoảng 1,137 người. Năm
1924, vua Phổ Nghi ra đạo dụ phóng thích tất cả các hoạn quan chỉ giữ lại trong
cung khoảng hai trăm người, phần lớn phục vụ các hoàng hậu, hoàng phi.[24]
Ðời Thanh,
ngoài số thái giám trong cung cấm, các thân vương hoàng thất cũng được quyền
nuôi thái giám trong nhà. Hoàng tử và công chúa đã có chồng có thể nuôi 30 thái
giám, hoàng thân hay công chúa chưa chồng có thể nuôi 20 thái giám, còn con
cháu thì có thể nuôi 10 thái giám. Các thân vương con cái của các phi tần có thể
nuôi 6 thái giám. Ngoài ra những người đứng đầu Bát Kỳ của nhà Thanh cũng có thể
có được 20 thái giám trong nhà.
Cứ năm năm
một lần, mỗi hoàng tử phải nạp vào triều 8 thái giám đã được huấn luyện và kiểm
tra, những người đó phải sạch sẽ, không bệnh tật. Triều đình trả công cho các
hoàng tử 250 lạng bạc mỗi thái giám. Tuy thế số thái giám vẫn còn thiếu nên vẫn
phải tuyển thêm thái giám ở ngoài.
Hình 6: Giấy chứng nhận được ra vào cung cấm
Những tiểu
thái giám xinh đẹp chừng mười mấy tuổi được tĩnh thân để tiến cung gọi là “đồng
giám” hay “hài giám” thường được hoàng hậu, quí phi, quí nhân yêu
thích. Những đứa trẻ này vì đã tĩnh thân từ khi còn rất nhỏ nên được coi là rất
trong sạch chưa vương vấn một ý niệm tính dục nào và thường được cung nhân, phi
tần nuôi như như người ta nuôi một con vật yêu thích (pet). Chúng cũng được tự
do hơn nghĩa là được vào phục vụ các cung nhân trong khuê phòng hay trong buồng
tắm ở những khung cảnh kín đáo nhất. Tuy nhiên khi đã lớn, họ vẫn bị thay thế bằng
những thái giám nhỏ tuổi hơn và được điều động ra làm công việc ở bên ngoài khu
vực phụ nữ sinh sống.
2/ Ðời sống một hoạn quan
Ðã có những
thời mà thái giám trở thành một giai cấp riêng biệt, mặc dầu bị loại ra khỏi những
đời sống bình thường cửa xã hội, họ vẫn có những sinh hoạt riêng đôi khi thần
bí chỉ hạn chế trong những ngươi cùng chung số phận.
Cứ theo
sách vở và truyện ký còn lưu truyền, bộ phận sinh dục, âm nang (scrotum), âm
hành (penis) của họ sau khi đã cắt ra - được gọi dưới cái tên bảo cụ –
người ta sẽ dùng những kỹ thuật riêng để bảo tồn, coi như một món đồ quí, giữ
gìn rất cẩn thận.
Trước hết bảo
cụ được tẩm vôi bột để cho khỏi thối và hút hết những máu mủ còn trong đó để
cho được khô ráo, dùng vải hay giấy bản lau sạch rồi mới đem ướp trong hương liệu
để cho dầu thấm vào, sau đó sẽ đặt trong bao bằng lụa, cất trong hộp gỗ rồi hàn
kín lại. Người ta sẽ chọn ngày lành tháng tốt đưa chiếc hộp đó đến từ đường họ
người bị thiến, cung kính treo chiếc hộp đó trên xà nhà. Sau đó mỗi năm, họ lại
rút cái hộp đó lên cao thêm một chút, ý chúc tụng cho người bị yêm hoạn phục vụ
trong triều đình được thăng quan tiến chức.
Việc gìn giữ
“bảo cụ” (gọi tắt là bảo) có hai lý do. Thứ nhất, mỗi khi được
thăng thưởng, thái giám phục vụ trong cung đình đều phải trình cho thượng quan
xem của quí để chứng minh rằng quả thực mình đã được tĩnh thân (nghiệm bảo).
Chính thủ tục này cũng gây nên nhiều chuyện trớ trêu, hoặc đao tử tượng giữ “bảo”
làm của riêng để sau này bán lại, cho thuê những ai muốn thăng quan nhưng lại
không giữ được món đồ của mình, vì bị thất lạc hay bị kẻ gian ăn cắp mất. Lý do
thứ hai, là khi người đó chết đi, lúc tẩn liệm người ta sẽ hạ phần thân thể còn
đang treo trên xà nhà xuống may cho dính lại chỗ cũ, còn tờ “tự nguyện yêm
cát thư ” (đơn tình nguyện xin cắt bỏ bộ phận sinh dục) sẽ được đốt trước
linh sàng để người chết được khôi phục nguyên trạng ngõ hầu còn mặt mũi mà nhìn
lại cha mẹ tổ tiên dưới cửu tuyền và nếu có đầu thai thì kiếp sau cũng được
toàn vẹn thân thể. Người Tàu tin rằng nếu khi xuống dưới âm, Diêm Vương nếu thấy
ai thiếu dương cụ sẽ bắt đi đầu thai thành con la (một giống nửa lừa, nửa ngựa
không thể sinh sản được).
Khi có biến
loạn ở kinh thành, nhiều thái giám đã hoảng hốt chạy đi tìm bảo cụ của mình, có
khi tranh cướp nhau để mong được chết toàn thây. Kể cũng là một thảm cảnh của một
tập tục dã man.
Mặc dù bị
thiến, có những hoạn quan vẫn hoang tưởng rằng họ có thể “mọc” lại được.
Chính vì niềm tin đó, đời Thanh đã có luật lệ rằng tiểu thái giám nhập cung rồi
sau ba năm sẽ phải qua một kỳ “tiểu tu”, năm năm qua một kỳ “đại tu”
để những thái giám chuyên môn xét lại xem ngọc hành có “trùng sinh” hay
không. Nếu ai hạ thể phồng lên sẽ phải qua một kỳ “tu lý”. Thực tế, con
người trong thời kỳ phát dục, kích thích tố có thể làm thay đổi một số hiện tượng
bề ngoài nhất là nhưng người có nhiều nam tính, các tuyến trong người vẫn hoạt
động điều hòa. Tuy nhiên, những người bị tra xét kỹ lưỡng nhất vẫn là những trẻ
em bị “thiến” bằng phương pháp nắn bóp để đưa vào hầu các tiểu hoàng tử,
tiểu công chúa, đến thời kỳ trưởng thành các tuyến nội tiết hoạt động mạnh có
thể trở lại bình thường để bị cát thể lần thứ hai.
Theo sách
Thần Viên Tạp Thức (宸垣雜識), thái giám thường thích ăn các loại thức ăn tráng dương và dùng những
toa thuốc như Mẫu Cẩu Cảnh Tán, Thiên Khẩu Nhất Bôi Ẩm, Ngọc Cảnh Trùng Sinh
Phương ... để mong trở lại bình thường. Cũng theo ngoại sử, hoạn quan Ngụy
Trung Hiền đời Minh có một người ái thiếp và tìm đủ mọi cách để “trùng sinh”.
Một thầy thuốc đã cố vấn là nếu ăn đủ bảy bộ óc người thì dương cụ sẽ mọc lại
nên Ngụy Trung Hiền đã sai giết bảy tù nhân để lấy óc cho y ăn nhưng không biết
có hiệu quả gì không.[25]
Về ngoại mạo,
người đã bị yêm cát thay đổi rất nhiều, không mọc râu, không lộ hầu, ngực nhô
lên, mông nở, thanh âm the thé, hành động yểu điệu, da dẻ cũng nhẵn nhụi hơn
trông chẳng khác gì đàn bà mặc giả đàn ông.
Vì hạ thể nở
nang, đùi và chân to ra, thái giám thường đi chân chữ bát, bước ngắn mà nhanh,
dễ trở nên phì nộn, mặc dầu da thịt thường nhão nhoẹt nhưng đến già lại teo đi
nên những người có tuổi da dẻ lại nhăn nheo hơn bình thường khiến thái giám bốn
mươi tuổi trông già như đàn bà tám mươi. Trong sách Huyền Ðộng Áo Luận (玄洞奧論) có chép:
Người bị yêm cát, trong dương có âm, trong âm có dương, tinh lực ở trong
tạng âm hợp với tinh lực trong tạng dương nên vẻ mặt rất khác thường.
閹割之徒,陽中有陰,陰中有陽,以陰中之至精,合陽中之至精,故其貌特異[26]
Không phải
vì họ không còn bộ phận sinh dục mà tình dục (sexual desire) mất hẳn, nhất là
những người bị thiến sau khi đã trưởng thành. Những hoạn quan nếu chỉ bị cắt bỏ
dịch hoàn thì dương vật vẫn còn có thể cương được và vẫn có thể thực hiện việc
giao cấu. Những người đó lại trở thành bảo cụ của các phi tần vì họ có thể kéo
dài khoái cảm và không sợ thụ thai. Nhiều khi thái giám cũng có những liên hệ đồng
tính luyến ái với những thái giám trẻ hơn. Kẻ có tiền cũng có khi cưới vợ và thử
những loại thuốc khích dục (aphrodisiacs) và dụng cụ khiêu dâm (erotic
paraphernalia)[27].
Vì được vào
ra cung cấm, người ta cũng truyền tụng nhiều dật sự về liên hệ tình cảm giữa
cung nữ và thái giám. Hoạn quan biết cách chiều chuộng cung nữ được gọi là thái
hộ (菜戶) còn những kẻ ép liễu nài hoa thì bị gọi là bạch lãng tử (tức kẻ vô hạnh
mặt trắng - 白浪子).
3/ Tại sao người ta ghét thái giám?
Cứ theo
sách vở, thái giám thường là đề tài để cho người ta diễu cợt, châm chọc lắm khi
rất tàn nhẫn. Ở Bắc Kinh có một khu vực tên là Thiên Kiều, là nơi có trình diễn
những nghệ thuật dân gian, trong đó có một loại hí kịch gọi là “tướng thanh”
bao gồm hai người, kẻ xướng người đáp trong đó thái giám thường bị lôi ra làm
trò cười. Trong những câu chuyện dân gian của ta cũng có nhiều khi đùa cợt những
hoạn quan (quan thị) nhất là cuối đời Lê, chẳng hạn truyện Trạng Quỳnh.
Thái giám
vì bị khiếm khuyết các bắp thịt ở hạ bộ nên thường bị són nước tiểu thành thử nặng
mùi, lại thêm mặc cảm nên hành vi cử chỉ khác thường. Theo nhiều tài liệu, hoạn
quan rất tham lam và những gì có thể mua được bằng tiền. Họ cũng thích ăn đồ ngọt,
cũng thích nghe những chuyện thần kỳ, thích âm nhạc, nhảy múa.
KẾT LUẬN
Trong nhiều
thời kỳ, hoạn quan đã trở thành một hiểm họa, phần vì là những người thân cận
trực tiếp với nhà vua, lại thêm thân thể khuyết tật, nhiều nỗi uất ức muốn trả
thù đời cho hả tức.
Tuy nhiên,
vấn đề chính không phải là ở hoạn quan mà chính là lối tổ chức cung đình. Những
vì vua thường suốt đời giam hãm trong cung cấm, không biết gì hơn ngoài cung tần
và thái giám. Chính đời sống của bậc quân vương cũng đã bệnh hoạn, việc hoạn
quan chuyên quyền chỉ là hậu quả chứ không phải nguyên nhân. Ở nước ta tương đối
đời sống vua chúa không đến nỗi quá đáng nhưng tại Trung Hoa thì hết sức xa xỉ
và tệ hại. Cũng như tục bó chân, việc thiến người để bắt làm nô lệ là một trong
những tục lệ dã man ở cái xứ con trời. Lịch sử thường nhấn mạnh đến những thái
giám lũng đoạn triều chính như Triệu Cao đời Hán, Cao Lực Sĩ đời Ðường, Ngụy
Trung Hiền đời Minh, Lý Liên Anh đời Thanh ... nhưng nghĩ lại, hàng ngàn, có
khi hàng chục ngàn người đáng lẽ được sống một cách bình thường như chúng ta
thì phải trở thành tàn phế để hầu hạ trong cung, lại thêm biết bao thiếu nữ mòn
mỏi sống giữa bốn bức tường, suốt một đời không được gặp cha mẹ anh em thật quả
đáng thương đến chừng nào. Ðể kết luận chúng tôi xin trích dịch một đoạn trong
tác phẩm Harem, The World Behind The Veil của Alev Lytle Croutier
trang 125:
Một buổi chiều, tôi rời nhà một phú gia người Mussulman vì một trong bốn
người vợ của ông ta bị bệnh tim. Ðây là lầm thăm bệnh thứ ba, lần nào đi ra
cũng như đi tới, tôi đều được một yêm nhân (người bị thiến, được mua để canh chừng
vợ lẽ, nàng hầu của những nhà giàu ở Trung Ðông trước đây) cao ráo dẫn đường, vừa
đi vừa rao lời báo hiệu theo tục lệ:
- Quí bà, hãy lui vào!
Lời rao đó cốt để mọi phụ nữ và những nữ nô lệ biết rằng có một người
đàn ông đang tiến vào hậu cung (harem) mà tránh ra nơi khác để khỏi ai thấy mặt.
Mỗi khi đến sân thì yêm nhân đó trở lại, chỉ để một mình tôi đi thôi.
Lần này, khi tôi đang toan mở cửa, tôi cảm thấy như có ai chạm nhẹ vào
tay, quay lại tôi thấy một yêm nhân khác đã đứng cạnh tôi từ hồi nào. Y là một
thanh niên dễ nhìn, chỉ chừng 18, 20 tuổi, nhìn tôi chăm chăm, mắt đầy lệ. Thấy
y không nói gì, tôi hỏi xem có thể giúp y điều gì chăng? Y ngập ngừng một lát,
rồi bỗng hai tay nắm chặt cánh tay tôi, giọng nghẹn ngào đầy vẻ tuyệt vọng:
-
Bác sĩ ơi, bệnh gì cũng có thuốc, vậy mà không có cách gì chữa cho tôi
ư?
Tôi không thể nào diễn tả cho bạn những lời đó khiến tôi xúc động đến chừng
nào; muốn trả lời y nhưng không thốt thành tiếng, và sau cùng, không biết phải
làm gì, tôi mở bung cánh cửa và bỏ chạy. Thế nhưng đêm hôm đó, và rất nhiều đêm
sau nữa, khuôn mặt y vẫn hiện ra trước mắt tôi và lời nói đầy sầu thảm kia văng
vẳng, và thú thật với bạn rằng, mỗi lần tôi kể câu chuyện này nước mắt tôi đều
ràn rụa.
Lời tự thuật của Edmondo de Amicis, một
bác sĩ trẻ ở Pera, Constantinople (1896)
Tháng
12/2003
TÀI LIỆU THAM KHẢO
---
1.
Ái Tân Giác
La - Phổ Nghi (愛新覺羅溥儀). Nửa đời trước của tôi
(Ngã Ðích Tiền Bán Sinh 我的前半生). Hương Cảng: Quảng Giác Kính,
1986
2.
Aisin
-Gioro Puyi. From Emperor to Citizen. Beijing: Foreign Language Press,
1965) (bản dịch nguyên tác Ngã Ðích Tiền Bán Sinh)
3.
Anderson,
Mary M. Hidden Power, The Palace Ennuchs of Imperial China. New York:
Prometheus Books , 1990.
4.
Barbara
Walker. The Woman’s Encyclopedia of Myths and Secrets. San Francisco:
Harper & Row, 1983.
5.
Croutier,
Alev Lytle. Harem, The World Behind The Veil. New York: Abbeville Press,
1989.
6.
Dương Minh
Ðỉnh (楊明鼎). Trung Quốc Văn Hóa sử đại từ
điển 2nd Ed. 中國文化史大辭典. Triết Giang: Viễn Lưu xuất bản
công ty, 1990.
7.
Gould ,
George M., M.D. và Pyle. Anomalies and Curiosities of Medicine. New
York: The Julian Press Inc., 1896. (in lại
do Bell Publishing Company , Inc. )
8.
Hoàng Xuân
Hãn. La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II: Trước Tác, phần II Lịch Sử.
Hà Nội: nxb Giáo Dục, 1998.
9.
Hứa Hoành. Sau
Bức Cấm Thành Nhà Nguyễn. California: Ðại Nam, 1994.
10.
Lại Kỳ (賴琪). Trung Quốc Cổ Ðại Tính Tàn Hại 中國古代的殘害. Ðài Bắc: Hạ Hỉ Văn Hóa, 1995.
11.
Nhiều tác
giả. Những Vấn Ðề Lịch Sử về triều đại cuối cùng ở Việt Nam. Huế: Trung
Tâm Bảo Tồn Di Tích Cố Ðô Huế – Tạp Chí Xưa và Nay, 2002.
12.
Tần, Quốc Kinh (秦國經) chủ biên. Thanh
Đại Văn Thư Đáng Án Đồ Giám (清代文書檔案圖鑒). Trung Quốc Đệ Nhất
Lịch Sử Đáng Án Quán (中國第一歷史檔案館) biên soạn. Hồ Nam: Nhạc Lộc thư xã, 2004.
13.
Thu Hà.
“Nghĩa Trang Thái Giám”, Giai Phẩm Xuân Mới – Tân Tị, California: 2001.
14.
Toan Ánh. Nếp
Cũ . Calif: Xuân Thu - in lại tại hải ngoại, không đề năm.
15.
Trạch Văn
Minh (翟文明) (chủ biên). Trung Quốc Toàn Sử (中國全史). Bắc Kinh: Quang Minh nhật báo xb
xã, 2002.
[1] cũng là bắt chước việc hành kinh của đàn bà và mảnh da đó trở
thành tế phẩm để dâng lên thượng đế (offerings to Yahweh)
[2] Khi được chừng sáu, bảy tuổi, trong làng mọi người tụ tập tại một
bãi đất trống, giữa bãi đất có để một tảng đá lớn cho đứa trẻ ngồi chờ thi hành
nghi thức. Một bô lão trong thôn đứng ra chủ trì trong khi một thiếu nữ đồng trinh (thường là em gái,
chị gái người bị giải phẫu) giữ chặt đứa bé. Người trưởng lão tung dao lên, khi
rơi xuống sẽ tiến hành việc
cắt da qui đầu trong khi chung quanh mọi người quan sát. Nếu cuộc giải phẫu thành công mà đứa
trẻ không kêu khóc, người ta tin rằng khi lớn lên sẽ trở thành một người có chí
khí, dũng cảm. Ðứa trẻ đứng lên đi chung quanh sân trong khi máu vẫn chảy ròng
ròng, giơ cao con dao để chứng tỏ mình đã thành người lớn.
[3] George M. Gould và Pyle. Anomalies and Curiosities of Medicine.
(New York: The Julian Press Inc., 1896)
tr. 756
[4] permanently chaste ones
[5] The Kingdom of Heaven open to eunnuchs
[6] Alev L. Croutier: Harem, The World Behind the Veil (New
York: Abbeville Press, 1989) tr. 128
[7] Croutier: sdd tr. 129
[8] Barbara Walker: The Woman’s Encyclopedia of Myths and Secrets
tr. 147
[9] Croutier: sdd tr. 130
[10] theo Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt tự thiến để được gần vua, xung chức Hoàng
môn chỉ hậu. La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II: Trước Tác, phần II Lịch Sử
(Hà Nội: nxb Giáo Dục, 1998) tr. 278
[11] Nguyễn Thị Chân Quỳnh: “Nói
thêm về hoạn quan ở Việt Nam”. Những Vấn
Ðề Lịch Sử về triều đại cuối cùng ở Việt Nam (Huế: Tạp Chí
Xưa và Nay, 2002) tr. 33, được hiệu đính do tài liệu từ thư của nhà nghiên cứu
Nguyễn Văn Tiến (Huế) ngày 13/7/2005
[12] Nguyễn Thị Chân Quỳnh: sđd
tr. 27-8
[13] Thu Hà: “ Nghĩa Trang Thái Giám” Giai phẩm Xuân Mới Xuân Tân Tị
(Cali: 2001) – trang 300
[14] Nguyễn Thị Chân Quỳnh: sdd
tr. 33
[15] Thu Hà: sdd tr. 300
[16] Nguyễn Thị Chân Quỳnh: sdd
tr. 29
[17] vì sau khi giải phẫu, người bị cắt mất bộ phận sinh thực khí trở
nên yếu đuối chẳng khác gì nông dân phải
sưởi cho căn phòng nuôi tằm (lấy tơ dệt vải) để trứng nở ra sâu.
[18] Gheorge M. Gould: sdd tr. 756
[19] Alex L. Croutier: sdd tr. 131
[20] Lại Kỳ: Trung
Quốc Cổ Ðại Tính Tàn Hại (Ðài Bắc: Hạ Hỉ Văn Hoá Công Ty, 1995) tr. 142-3
[21] Theo lời tự thuật của vua Phổ Nghi, vị hoàng đế cuối cùng của triều Mãn Thanh trong tác phẩm “Nửa
Ðời Trước Của Tôi” (Ngã Ðích Tiền Bán Sinh) thì đời Minh trong cung
có đến mười vạn thái giám..
[22] Ðịch Văn Minh: Trung Quốc Toàn Sử, q. II (Bắc Kinh: Văn
Minh nhật báo xb xã, 2002) tr. 101
[23] Trong số này những người biết chữ được
dùng trong kính sự phòng. Kính sự phòng thái giám là người ghi chép việc phòng
sự của hoàng đế. Ðể cho
bảo đảm là phi tần hoàng hậu có thai với vua, ngày giờ vua ngự phải được ghi
chép kỹ lưỡng.
[24] Aisin-Gioro Pu Yi: From Emperor to Citizen (Foreign
Languages Press, Beijing 1965) tr. 62
[25] Croutier: sdd tr. 137
[26] Lại Kỳ: sdd tr.
156
[27] Croutier: sdd tr. 134-5