Không
rõ do một cơ duyên nào mà ba người ấy – ba nhà thơ nữ, ba tâm hồn, ba định mệnh,
ba trải nghiệm, ba cuộc đời, ba ngọn suối nguồn thơ ca lại rủ nhau về hợp lưu tụ
hội trong một tuyển thơ đặc sắc, hiếm có. Có lẽ là chữ duyên. Vâng, đúng rồi. Một
trong ba người nữ ấy có bút danh là duyên, một chữ duyên duy nhất, không viết
hoa, không họ, không chữ lót, còn hai người kia thì tên tuổi đã gắn với văn
chương, nghệ thuật từ nhiều năm, trong nước cũng như hải ngoại bây giờ: Lê Chiều
Giang, Nguyễn Thị Khánh Minh.
Đi
vào thế giới thơ ca của họ là đặt chân vào ngôi nhà kỳ ảo lung linh sắc màu, dễ
sa đà và dễ sa ngã. Sa đà bởi bạn sẽ bị lôi cuốn vào một thế giới thơ ca khác
thường, không rập khuôn theo những quán tính cũ mòn. Còn sa ngã bởi thơ của họ
có sức thu hút ma mị khiến những tâm hồn chai sạn nhất cũng phải mềm lòng. Mềm
lòng đành phải lòng. Phải lòng đành sa ngã.
Bạn
hãy cho tôi vào từng ngôi nhà một sống với thơ ca họ trong khoảnh khắc để khi
trở ra bạn xem tôi có còn là con người như cũ không, hay tâm hồn tôi đã bị chuyển
hóa bởi bùa phép khó lòng cưỡng nổi của thơ ca họ.
duyên, người
thầm thì nói chuyện…
duyên làm thơ như nói chuyện. Nói thầm thì. Nói trong niềm
vui. Nói trong nỗi buồn. Nói trong nỗi nhớ. Nói với người. Nói với cỏ cây hoa
lá. Nói với hư vô. Nói với cô đơn.
Thơ duyên không làm dáng, hầu như rất
ít ẩn dụ, bởi nó là tiếng nói từ trái tim người làm thơ sang thẳng trái tim người
đọc thơ, mà không cần bắc cầu qua một mạch chuyển, không nhờ vả vào một trạng
thái thứ ba nhiều khi bị tan loãng làm lệch đi chủ đích lúc ban đầu. Ngọn suối
nguồn của thơ duyên là một trình tự biến tấu của hình ảnh, biểu tượng và cảm
xúc cộng hưởng trong cuộc sống hằng ngày, một cuộc sống giản dị với cây lá
trong vườn, với người thân, bè bạn, với kỷ niệm cũ mới, với những chuyến đi, với
quê hương xa xôi trong ngày về lạc lõng, và nhất là với thiên nhiên. Nhờ có sẵn
một tâm hồn mẫn cảm, một cái nhìn thân ái với sự vật, tiếng nói dịu dàng của duyên đã cho người đọc thơ tìm được vô vàn cái đẹp, nhìn thấy sự
cao cả, hiểu thêm về chu kỳ cuộc sống và cảm xúc con người. Thơ duyên không nằm ngoài đường biên của ý thức hằng ngày mà hòa tan
với cuộc sống vốn vô cùng phức tạp và đa đoan. Hòa tan và hòa giải bởi duyên đã khéo léo biến thơ thành một tố chất cố hữu của đời sống,
với sự tiếp lực trong khả năng gợi cảm của ngôn từ để cuộc sống thăng hoa lên
trên những điều tầm thường vụn vặt.
duyên yêu thích thiên nhiên.Thơ
duyên không thiếu những thi ảnh bốn mùa, biết
bao nhiêu hoa lá được chị nhắc đến, có cả chim
muông, sóc và bướm tụ
về. Có lẽ chị thích nhất mùa thu. Thiên nhiên
và thơ duyên có sự liên kết chặt chẽ. Nhưng
thay vì sử dụng thiên nhiên như một ẩn dụ – như Robert Frost nắm bắt vẻ đẹp
chóng qua của tuổi trẻ bằng hình ảnh những chiếc lá đầu mùa sớm tàn, hay như
Wordsworth sử dụng hình ảnh của núi tượng trưng cho sự cao cả của ý chí, sự bí ẩn
của tiềm thức – duyên chuyện trò thẳng với
thiên nhiên như đôi bạn tâm tình:
tháng mười
thu về…
ngơ ngác quá
lá thờ ơ. buồn
mầu vàng. biếc
đất. trời. cho
hàng cây hai bên đường
thắp sáng
nến. mùa thu.
(Chiều thu)
Những từ như “ngơ ngác”,
“vàng” gợi mở những thi ảnh ước lệ về
mùa thu, nhưng câu “… cho/ hàng cây hai
bên đường/ thắp sáng/ nến. mùa thu” đã nhân cách hóa mùa thu
và tạo dựng một biểu tượng, biểu tượng được tô đậm bằng cách phóng chiếu cảm
xúc nội tại ra thế giới ngoại tại.
Thơ duyên phần nhiều là như vậy.
Thơ ca là cái gì vượt qua thế giới hữu hình và có khả năng thấu hiểu
được chính chân lý thánh hóa như Baudelaire hay Edgar Allan Poe quan niệm, và kết
quả có thể khiến kẻ chưa khai tâm rơi vào cõi sa mù, hỗn
mang. Nhưng ở duyên, ta thấy nhà thơ khai thác
biểu tượng một cách trong sáng, tự nhiên, ẩn dụ nằm trong chính ngôn ngữ thơ chứ
không phải một ảnh tượng hay vật thể trung gian. Do vậy, ta có thể gọi cảm xúc
trong thơ duyên là cảm xúc trực quan, nó tinh
tuyền và trong mát như nguồn nước suối từ đỉnh núi tuyết, mùa xuân chảy xuống
thung lũng đầy cỏ hoa, len lỏi giữa những thác ghềnh, đổ vào hồ Michigan bao
la, nơi có ngôi nhà nhỏ bé xinh xinh của chị.
Bởi làm thơ như nói chuyện, qua thơ, duyên thương tiếc bạn bè, người
thân yêu đã khuất với niềm xúc động chân tình. Hãy xem duyên thản nhiên tâm tình cùng cố
thi sĩ Nguyễn Bắc
Sơn:
kiêu bạc, ngang tàng. quên
đi nước mắt
chút mỉa mai đời. quên bớt
bi ai
cái chết, bỡn đùa, khi đụng
trận
loay hoay, kiếp lạc, tủi. hận
đời
số phần mong manh. tim, thổn
thức
dịu dàng. đằm thắm. với, yêu
thương…
(Thương tiếc đám mây bay)
Với trái tim nhân ái, duyên ngậm
ngùi chua xót cho một kiếp người ngang tàng, kiêu bạc, chẳng may sinh vào thời chinh chiến loạn ly, “kiếp lạc, tủi. hận đời”. Tuy vậy, người thi sĩ ấy vẫn “dịu dàng. đằm thắm. với, yêu thương” chứ
không lâm vào con đường hủy diệt – hủy diệt tha nhân hay hủy diệt chính mình – như một lối thoát.
Khi viết những câu thơ này, duyên đã không
đi ra ngoài lẽ thường tình của con người với bản chất nguyên sơ là tính thiện.
Nó là tố chất giữ con người lại với nhau, nó giúp người ta tiếp tục sống còn,
và “thân phận con người”, trong bất cứ hoàn cảnh
nào, dù là chiến tranh tàn khốc, cũng sẽ được cứu vãn bởi tình yêu thương.
Nói như vậy, tôi e có người cho rằng
quan niệm này ngày nay đã lỗi thời nhất là
trong giai đoạn hiện tại khi cuộc sống đầy dẫy những tranh chấp thù ghét và thù
hận. Thế nhưng, hãy nhìn tình yêu thương dưới
nhiều hình thức khác, nó không hẳn chỉ là mối quan hệ tình cảm thân thiết, mà
là sự kết nối sâu sắc chúng ta với người khác, với chính chúng ta và thậm chí với
chính cuộc sống. Khi ta cảm thấy được yêu thương hoặc khi ta yêu thương kẻ
khác, tình yêu có thể đóng vai trò là nguồn sức mạnh và sự an ủi mạnh mẽ, đặc biệt trong những thời điểm khó khăn. Tình yêu
có thể đem lại cho ta điều gì đó để mong đợi, để dựa vào, và cảm giác được gắn
kết có ý nghĩa có thể khiến việc đối mặt với những thách thức trở nên đáng giá.
Hơn nữa, tình yêu có thể giúp ta nhìn thấy những khả năng vượt ra
ngoài những khó khăn hiện tại của mình. Ngay cả trong những thời điểm đen tối,
sự quan tâm và lòng trắc ẩn mà ta trao tặng và nhận lãnh có thể nhắc nhở rằng
ta không đơn độc, nó truyền hy vọng mọi thứ có thể cải thiện, có thể được chữa
lành và cuộc sống luôn có niềm vui, sự kết nối và khả
năng phục hồi.
Tình yêu có một phẩm chất phổ quát được ca ngợi trong suốt mấy
nghìn năm lịch sử văn minh loài người, từ Apollonius với Orpheus-Eurydice thời
cổ đại cho đến Nguyễn Du với Kim Trọng-Thúy Kiều của thời trung đại và cho đến
ngày nay. Thơ ca nhân loại không bao giờ thiếu vắng tình yêu, vì vậy bạn đừng
xem nó là lỗi thời. Càng sống trong một môi trường phân hóa bệnh hoạn, ta càng
cần có tình yêu thương.
Những câu thơ của duyên đã gợi cho tôi cảm
giác ấy.
duyên thích nói chuyện, nhất là nói chuyện với trẻ thơ, với
con cháu, và chị cũng hay nói chuyện với sự cô đơn:
sao một người… không đến?
trăng chợt về bên cửa
lơ lửng bay… Chagall
đeo bên cánh phi cơ
ngộ nghĩnh. dễ thương chưa
mầu trăng. trong. buồn quá
trăng treo… một đoạn đời
chợt. ngưng
ở lại thôi
lui dần vào bóng tối
bỏ không gian. mịt mù
(chỉ trăng. có phải trăng?)
Thơ ca và sự cô đơn có mối quan hệ gắn bó sâu sắc. Sự cô đơn/
solitude – không phải cô độc/ aloneness, xin đừng nhầm lẫn – thường là nền tảng
cho nhiều tác phẩm thơ ca. Chỉ khi cô đơn ta mới hòa hợp hơn với thế giới nội
tâm của mình – suy nghiệm, cảm xúc, ký ức và giấc mơ – cho phép ta tiếp cận những
điều sâu thẳm trong tâm hồn, thậm chí những hình ảnh trong tiềm thức hoặc vô thức,
mà nếu không thì có thể bị nhận chìm bởi tiếng động ồn ỹ của cuộc sống thường
ngày. Trong sự thinh lặng của cô đơn, nhà thơ quán chiếu và tìm thấy không gian để khám phá những chủ đề phức tạp, tinh tế hoặc
thậm chí đau đớn.
Bàng bạc trong thơ duyên là sự đối
mặt với cô đơn, mặc dù chị đang đứng giữa một trần gian đầy những hình ảnh linh
động và sinh động của cuộc sống. Sự cô đơn đã giúp cho ngôn ngữ thơ chị mở ra một
thế giới, nơi người đọc có thể chia sẻ cảm giác khi phải đối mặt với bản thân.
Nó biến đổi trải nghiệm cô đơn, từ cô lập thành giao cảm, vì người đọc có thể
tìm thấy sự đồng điệu trong giọng thơ, có thể
khám phá ra sự thật nội tại của chính mình được
phản ánh nơi đó. Nói cách khác, nhờ cô đơn, thơ ca bộc phát, và nhờ thơ ca, sự cô đơn được chuyển đổi từ trạng thái đơn độc
thành trạng thái kết nối.
Thơ duyên chủ yếu là trữ tình, nó không mang nặng lý tính và lý
trí, nó cũng không hàm chứa những suy nghiệm siêu hình, triết học rối mù. Nếu
có thì chỉ là những suy nghĩ thông thường về sự hữu hạn của kiếp người, chẳng hạn:
… đời sống không có khởi đầu
nên không có hủy diệt, đâu
em...
vòng luân hồi, em đã đến...
người bạn nhỏ, dễ thương
cõi tạm níu giữ em
(em đi. hàng cây trơ trụi lá mùa đông)
Thơ duyên
cốt để truyền tải cảm xúc. Chị ưa chuộng những câu thơ ngắn, cú điệu không bình thanh, mà có những nhịp
tiết trúc trắc, thêm những dấu chấm phết bất thường và kỹ thuật vắt dòng đột ngột,
khiến nhạc tính trong thơ mang nhiều hợp âm chõi. duyên cũng không sử dụng những biện pháp tu từ hoặc tìm tòi, phát
minh những từ lạ, mới, vốn rất phổ biến trong dòng thơ Tượng trưng.
Những bài thơ với câu chữ dài, như kể lể một câu chuyện nào đó, rất
đời thường, rất mực chân tình mộc mạc, làm tôi nhớ đến thơ của họa sĩ/ thi sĩ
Đinh Cường. Có sự tâm đắc nào ở đây giữa hai nhà thơ này, tôi mơ hồ nhận thấy như vậy. Thơ duyên, tuy câu chữ giữ
giọng điệu kể chuyện nhiều hơn là thơ với những thuộc tính cố hữu của thơ, nhưng không thể gọi là thơ tự sự, mà vẫn
nằm trong khung thơ trữ tình.
Tôi khép lại những trang thơ của duyên với
sự an tâm. An tâm vì tôi được thuyết phục rằng đời sống dù dông bão đến đâu chăng
nữa vẫn đáng sống. Bởi nơi đó, ta vẫn tìm thấy
tình yêu thương. Thơ vẫn là phương tiện cứu chuộc cho bất cứ ai tin tưởng vào thơ.
Lê Chiều Giang, người phẫn nộ với chính mình
Tôi
từ biệt thế giới thơ duyên đầy hoa bướm với cảm giác an bình, để bước vào thế
giới thơ dị thường, dữ dội, đầy phẫn nộ của Lê Chiều Giang.
Sự
phẫn nộ trong thơ ca, kỳ thực, không là cái gì mới lạ. Sự phẫn nộ vốn dĩ có sức
mạnh chuyển hóa trong thơ ca, chuyển hóa những cảm xúc có vẻ như áp đảo hoặc thậm
chí hủy diệt thành một dạng thể biểu đạt mạnh mẽ, tạo thay đổi và có sức cộng
hưởng sâu sắc. Trong suốt chiều dài lịch sử, các nhà thơ đã sử dụng sự phẫn nộ
để vạch ra những bất công, mất mát, phản bội và đau khổ về cả cá nhân lẫn xã hội.
Sự phẫn nộ trong thơ ca có thể phơi bày những phần thô sơ, chưa được chắt lọc,
chưng cất của trải nghiệm con người, biến nó thành phương tiện để nói lên sự thật
thường dữ dội và trực tiếp.
Các
nhà thơ như Sylvia Plath, Langston Hughes, Audre Lorde và Pablo Neruda đã khai
thác sự phẫn nộ trong thơ của họ, không chỉ như một phản ứng cảm xúc mà còn là
động lực thúc đẩy sự thay đổi và nhận thức. Trong thơ ca, sự phẫn nộ có thể chắt
lọc cảm xúc thành ngôn ngữ sắc bén thách thức người đọc, khiến họ rung động – nếu
không muốn nói là rúng động hay chấn động – và nhấn mạnh vào sự thừa nhận những
vết thương cá nhân hoặc tập thể.
Sự
phẫn nộ trong thơ Lê Chiều Giang đã khiến người đọc là tôi phải chấn động, bởi
quả thực tôi chưa bao giờ đọc một mạch những bài thơ mà bài nào cũng đầy ắp những
nỗi đau đớn uất nghẹn như muốn tung hê mọi thứ, phá tan đập nát cuộc sống, chẳng
cần biết hậu quả là gì.
Tôi
có thể nói những điều này về thơ Lê Chiều Giang được chăng? Nhưng tôi biết chắc
một điều là tôi có thể vay mượn câu nói của thi hào William
Wordsworth để nói về thơ chị: “Thơ là sự tràn đầy tự phát của những cảm xúc
mãnh liệt”. Chỉ cảm xúc mãnh liệt mới có thể viết những câu thơ như:
Đốt lửa căn nhà trống
Vung vãi tàn tro khắp đất trời. Và
Xóa bàn đi làm lại hết
Ta thả đời ta
Giữa gió bay…
(Đốt nhà)
“There is nothing to lose”.
Như cách nói của người Mỹ ta thường nghe. “Bất cần đời” như thế, nhưng chị chẳng
biết nguyên do vì sao, và chị cũng chẳng quan tâm làm gì, chị chỉ thấy như mình
mắc nợ, một món nợ mơ hồ như một lời nguyền, nợ trần gian, nợ nhân gian và nợ cả
chính mình:
[…]
Ta
Muôn đời vẫn thiếu
Nợ trần gian. Và
Nợ cả nhân gian
Nợ với người lời hứa:
Mãi thuỷ chung.
Thiếu cả chính ta
Một lời…
Nói thật.
(Vỡ nợ)
Biết
bị lời nguyền gieo vào mình, chị chỉ biết chịu đựng nỗi đau khổ oan khiên, tìm
góc tối mà ẩn thân nhẫn nhục. Nó là sự quy hàng, quy hàng với định mệnh khắc
nghiệt, với trò chơi bất công bất xứng của đấng tạo hóa. Nó là cái gì chăng nữa,
chị cũng thấy quá mức chịu đựng của mình và chị đành “quăng kiếm, bẻ gươm”.
Khi thất bại
Ta biết vờ đợi chết
Giả nằm im. Nghe
trái đất ngả nghiêng
Quá thấm đòn.
Ta quăng kiếm
Ta bẻ gươm
Cũng biết thân. Ta ngồi im
Góc tối.
(Thiền
giả)
Thái
độ đầu hàng đó được biểu hiện trong bài thơ nhan đề… “Đầu hàng”, nơi chị thấy nỗi cô đơn và cô độc bao phủ quanh người.
Chị sợ cô đơn, sợ cô độc, nhưng loài người đã bỏ chị ra đi hết rồi (hay đã chết
hết rồi, theo nhận định có nửa phần hờn dỗi của chị).
Sáng nay ta ra với mặt trời
Như kẻ xa xôi về lại trái đất
Ngó quẩn quanh
Đời
Chẳng thấy ai
Ta gọi hết hơi
Trăm ngàn số lạ
Thiên hạ nơi đâu?
Đã
… Chết hết rồi
(Đầu
hàng)
Từ
thái độ đầu hàng đến tâm trạng tuyệt vọng chỉ là một khoảng cách cận kề, và tự
động, cái chết được nhắc đến:
Nhưng ta biết hết
Xa nơi tối tăm
Là nơi thế nào rồi ta cũng đến
Là nơi.
Chúng ta chẳng bao giờ hẹn
Là nơi
Đã sẵn cho một chỗ nằm
(Lâm
chung)
Cảm
giác cô đơn và cô độc cùng cực khiến tám tỉ con người mười sáu tỉ con ngươi
nhìn “ta” với ánh mắt dửng dưng. “Ta” đâm ra hoài nghi, “ta” trở nên kiêu bạc
và “ta” đành chỉ biết “tưới rượu đầy thơ”:
Ta tưới rượu đầy thơ. Nhưng
Uống toàn nước lã
Nghe trăm lời yêu thương
Chẳng biết đâu
Chân.
Giả.
Như nụ hoa sớm mai
Vừa rơi vừa muốn nở
Ta nhận sao ra
Trong tám tỷ con người
Ánh mắt ai nhìn?
Mười sáu tỷ con ngươi
Oán ghét
Thương yêu
Và có khi
Tĩnh lặng.
(Tửu
lượng)
Trong
phút giây điên loạn, “ta” chỉ muốn tung hê tất cả, chẳng có gì khiến “ta” phải
ngập ngừng, đắn đo. Tất cả đã không còn. Có gì lưu luyến “ta” nữa đâu. Có gì phải
thương tiếc nữa đâu. “Ta” chỉ có cách bỏ đi không hẹn ngày trở lại:
Cánh cửa
Sầm. Đóng lại
Chìa khóa? Quăng lên trời.
Ta.
Bước chân phiêu bạt
Tay không,
bầy cuộc chơi.
Lưu linh?
Ờ, lưu linh
Tản Đà?... Ta chấp hết !
Cafe?
Dạ, Khổng Tử
Ngàn ly, chưa thấm tháp
(Bỏ
nhà)
“Bỏ nhà” đi, chưa đủ ư? Thì “ta” “đốt nhà”:
Bới tung.
Từng góc nhà
Xó bếp
Tay nâng niu những tháng ngày xưa
Có bao năm?
Mà như thiên cổ
Nhà ơi.
Giữ lại giùm ta những gió mưa
Giữ lại giùm ta
Ngàn tiếng nói
Âm vang nào chôn giấu, đã lâu
Tiếng thét to, đôi lần tuyệt vọng
Những cười khan.
Những khóc giấu.
Những đêm dài.
(Đốt
nhà)
Hầu
như tất cả những bài thơ của Lê Chiều Giang trong tuyển thơ này đều mang một giọng
điệu tuyệt vọng như thế. Nó như tiếng kêu thất thanh của một tâm hồn bị bỏ
quên, bị tách ly hoàn toàn với cuộc sống, chới với bấp bênh bên bờ hố thẳm của
đổ vỡ và hoang tàn.
Thực
chất, tuyệt vọng là một chủ đề mạnh mẽ và phức tạp trong thơ ca. Nó thường thể
hiện những cảm xúc mãnh liệt về nỗi khao khát, bất lực và nhu cầu sâu sắc về sự
thay đổi, tình yêu hoặc sự trốn thoát. Các nhà thơ sử dụng nó để thể hiện những
phần đen tối và dễ bị tổn thương nhất của trải nghiệm con người, ghi lại những
khoảnh khắc hy vọng tan biến và tất cả còn lại chỉ là những cảm xúc thô nhám, sần
sùi. Đấy là thơ Lê Chiều Giang.
Tương
tự Emily Dickinson, Lê Chiều Giang thường sử dụng sự tuyệt vọng trong các bài
thơ của mình để truyền tải cảm giác cô lập sâu sắc và cái chết không thể tránh
khỏi. Những bài thơ về nỗi đau buồn và mất mát thường mang lại cảm giác tuyệt vọng
vì chúng đối mặt với những cảm xúc khó có thể hòa giải hoặc không thể tìm ra
ngõ thoát.
Trong
lịch sử thơ ca nhân loại, tình yêu tuyệt vọng đã chép kín các trang thơ, từ những
bài sonnet của Shakespeare đến thơ
tình của Pablo Neruda. Thơ Lê Chiều Giang không đi ra ngoài khuôn khổ đó, và chị
đã thể hiện nó bằng một ngôn từ trực cảm, đôi khi lập dị sỗ sàng, không bóng bẩy,
không rào đón, không ám chỉ. Và trong tất cả những bài thơ của chị đều có chữ
“ta” làm chủ từ. Điều đó cho thấy chị không nói về ai khác, chị không vay mượn
thơ ca để nói về nỗi đau, cảm giác bất an, bất toàn của người khác, hay của con
người nói chung. Chị nói về chính chị.
Sự
tuyệt vọng trong thơ Lê Chiều Giang thường dẫn đến những hỗn loạn về tinh thần
và cảm xúc. Sự hỗn loạn lại dẫn đến sự điên loạn – bỏ nhà, đốt nhà – và thái độ
kiêu bạc, “bất cần đời” với nhân sinh. Hình ảnh và ngôn ngữ trong thơ Lê Chiều
Giang, do đó, sống động và thường hỗn loạn để truyền tải sự tuyệt vọng. Câu chữ
trong thơ thường ngắn cụt, phân mảnh, rời rạc, vắt dòng bất thường, như thể
hình thức phụ chú cho nội dung. Các ẩn dụ liên quan đến bóng tối, hoặc các hành
vi trốn tránh, tung hê, phó mặc, giúp diễn tả cảm giác đó.
Ở
chừng mực nào đó, ta có thể hiểu thơ Lê Chiều Giang là sự xung đột giữa con người
đi tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống với một thế giới dửng dưng đến độ tê liệt. Mỗi
con người sống trong tổ kén của mình. Sự tách ly, sự xa lạ (có thể quay về đọc L’étranger của Albert Camus để hiểu thêm
về sự xa lạ này) là một thuộc tính phi lý nhưng rất thật của đời sống con người.
Nếu
quả như thế thì có thể gọi thơ Lê Chiều Giang là thơ Triết học Hiện sinh Phi lý
được chăng? Có lẽ chị không có chủ ý đặt thơ ca của mình trên nền tảng Triết học
Hiện sinh Phi lý, nhưng quả thật khi đọc thơ chị tôi không thể không nghĩ đến
nhà văn kiêm triết gia Albert Camus.
Triết
học Hiện sinh Phi lý của Albert Camus được giới thiệu trong văn luận nổi tiếng Huyền thoại Sisyphus viết năm 1942 trong
khi Thế chiến Thứ hai đang tàn phá tan hoang châu Âu của ông, trong đó Camus vật
lộn với những câu hỏi cơ bản: Nếu cuộc sống không có ý nghĩa cố hữu, thì mục
đích của cuộc sống là gì? Ta phải phản ứng với sự phi lý như thế nào?
Camus
lập luận rằng sự phi lý nảy sinh từ xung đột giữa khát vọng trong đời sống chúng
ta về sự rõ ràng, trật tự và phải có ý nghĩa với bản chất im lặng, thờ ơ của thế
giới. Ông gợi ý rằng, thay vì đi vào chủ nghĩa hư vô hoặc chấp nhận thái độ cam
chịu, chúng ta có thể đối mặt với sự phi lý bằng cách chấp nhận nó. Camus khẳng
định rằng việc cuộc sống thiếu ý nghĩa khách quan không bắt buộc ta phải tuyệt
vọng mà thay vào đó, nó mời gọi ta hãy sống trọn vẹn bất chấp chính sự phi lý
đó. Một ẩn dụ cốt lõi mà Camus sử dụng để minh họa cho triết học này là huyền
thoại Hy Lạp về Sisyphus. Sisyphus bị các vị thần kết án phải lăn một tảng đá
lên đồi chỉ để nhìn nó lăn xuống, và phải lặp lại công việc khổ cực nhàm chán
này mãi mãi, y như cuộc sống của ta hằng ngày. Camus diễn giải Sisyphus như một
biểu tượng cho sức phục hồi của con người, hiện thân cho người anh hùng phi lý
chấp nhận sự vô ích của nhiệm vụ nhưng vẫn kiên trì. Theo cách này, Camus đã kết
luận với diễn ngôn nổi tiếng: “Người ta
phải tưởng tượng Sisyphus có hạnh phúc”.
Chủ
nghĩa hiện sinh phi lý của Camus không phải sự thụ động hay bi quan mà là việc
thừa nhận những điều không chắc chắn và mâu thuẫn cố hữu của cuộc sống. Ông ủng
hộ một cuộc sống trong khoảnh khắc, nắm lấy tự do, đam mê và nổi loạn như những
hình thức chống lại phi lý. Theo quan điểm của Camus, phản ứng thích hợp đối với
sự phi lý là hãy sống cho có mục đích và mãnh liệt, tạo ra ý nghĩa của riêng ta
trong một vũ trụ không có ý nghĩa nào.
Với
dòng suy nghĩ đó, tôi tạm biệt những trang thơ Lê Chiều Giang với cảm giác bất
an, mặc dù tôi biết thơ của chị là “sự sống
trong khoảnh khắc, nắm lấy tự do, đam mê và nổi loạn như những hình thức chống
lại phi lý.” Thơ chị, lẽ tất nhiên, vì là thơ nên không vạch rõ cho tôi biết
con đường giải thoát khỏi sự phi lý là gì. Tôi không bao giờ kỳ vọng điều đó
trong thơ ca. Song, thốt nhiên, le lói bên cạnh sự tuyệt vọng tràn ứ, tôi bỗng
thấy lấp lánh một tia nắng mong manh của hy vọng và của khát vọng:
Một môi cười
Thế giới?
Nhỏ.
Như vài chiếc lá
Giật mình. Ta
Chắc phải…Yêu thôi
(Liều
mạng)
Những
câu thơ cuối của Lê Chiều Giang trước khi sang trang giúp tôi có cái nhìn lạc
quan hơn chút xíu về cuộc sống này. Và rất may, ta có tình yêu để hy vọng. Hy vọng
cái gì thì thú thật với bạn, tôi không biết.
Nguyễn Thị Khánh Minh, người canh thức
những giấc mơ
Thơ
Nguyễn Thị Khánh Minh bao nhiêu năm rồi vẫn như thế, thi ngôn nền nã, tinh tế, sáng
đẹp, thi tứ trữ tình, lãng mạn, đậm buồn, giàu thi ảnh, tràn đầy cảm xúc, và
luôn luôn có những biến ảo lạ lùng trong ngôn từ khiến thơ như chắp cánh bay
cao và bay xa trong những chiều kích khôn cùng.
Trước
khi đặt chân vào cõi thơ mênh mông của Nguyễn Thị Khánh Minh, xin cho tôi giở lại
một bài thơ chị làm riêng tặng tôi (một vinh dự không nhỏ đối với tôi), và có
xuất hiện trong tuyển thơ này, bài thơ nhan đề Phố rất xa.
Với
cái nhan đề như thế, hiển nhiên, nhà thơ muốn nói về miền đất quê hương của quá
khứ, xa lắm rồi, bây giờ chỉ còn mơ hồ hiện về trong tâm tưởng những lúc ngồi
cô độc nhìn mảnh trăng non vừa nhú. Thế nhưng suốt bài thơ, tôi không thấy Nguyễn
Thị Khánh Minh nhắc gì về mảnh đất xa xôi ấy, tuyệt đối không, một dấu vết mờ
nhạt cũng không thấy, mà chỉ là nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng sâu thẳm của một tâm cảnh
trong lúc nhìn trăng lên.
Phải
chăng đấy cũng là tâm cảnh từ một tứ thơ sầu vạn cổ, “Cử đầu vọng minh nguyệt/ Đê đầu tư cố hương?” Nhưng câu chữ của
Nguyễn Thị Khánh Minh ở bài thơ này đã làm người đọc bàng hoàng khi nghiệm ra
cái tứ thơ sầu vạn cổ ấy ở bất cứ thời-gian-không-gian nào cũng khiến con người
có cơ hội sống thật với hiện thể và bản thể của hắn.
Ngọn cỏ xanh bên bờ mới mọc
Đêm buồn như có ai đang khóc
Tôi ngồi cong mảnh trăng non
Làm
sao có thể cảm nhận được hiệu ứng của từ “cong”
trong câu thơ? Như được phả bùa phép, cảm xúc từ câu thơ như được đẩy tới một
biên vực mới. Tôi ngồi cong người nhìn trăng, hay trăng thượng huyền cong cong
nhìn tôi? Có lẽ chẳng cần thiết phải biện biệt như thế, bởi cái nhị đối đã biến
thành cái nhất nguyên và tôi đã tìm về cái tôi trong suốt.
Hai bóng lạ chìm nhau cô quạnh
Cúi xuống một hồn trôi ảo ảnh
Kéo về đâu tôi bốn phía đêm
Lý
Bạch ngày xưa “Ngửng đầu nhìn trăng sáng/
Cúi đầu nhớ cố hương”, Nguyễn Thị Khánh Minh ngày nay “Cúi xuống một hồn trôi ảo ảnh/ Kéo về đâu tôi bốn phía đêm”. Cách
nhau hơn nghìn năm, nhưng hiện thể uyên nguyên là một.
Thế
rồi, cái hình tượng tôi-cong-trăng-cong ấy tan vỡ dưới thềm nhà biến thành những
“miểng trăng im”.
Giật mình trong cây ồn ào lá mớ
Mơ rất nhẹ mà hồ như tiếng vỡ
Vỡ trên thềm những miểng trăng im
Từ
một hình tượng tương đối bi sầu nhưng không mấy bi thảm, chữ “miểng”
trong câu cuối khổ thơ trên đã khiến tâm cảnh biến đổi bất ngờ. Chua xót. Đau đớn.
Ánh trăng tan vỡ trên thềm biến thành những ký ức hãi hùng, những cảnh đời tưởng
như chỉ có trong ác mộng! Chỉ một từ mà có thể thay đổi toàn diện tâm cảnh của
câu thơ. Đó chính là sự ảo diệu trong thơ Nguyễn Thị Khánh Minh. Bài thơ có hơi
thở và sức mạnh thẩm thấu tâm hồn người đọc ở cường độ mạnh mẽ nhất.
Nguyễn
Thị Khánh Minh làm thơ để bộc lộ những giấc mơ của mình, nhưng đấy không phải
những giấc mơ trôi ra từ tiềm thức hay vô thức của thi sĩ Siêu thực mà là những
ước mơ chân thành của một tâm hồn yếu đuối nhưng hết sức tha thiết với cuộc sống
và với tha nhân. Bài thơ Khoảnh khắc giấc
mơ là một bài thơ xuôi (được chị gọi là tản văn thi) nói lên những ước vọng
của chị cho một quê hương, một đời sống, một thế giới yên bình chan hòa tình
yêu thương và hạnh phúc.
Bài
thơ như một khúc kinh cầu, chị như đang nói chuyện với đấng thiêng liêng. Vâng,
nó là lời nguyện cầu bởi chị chỉ là một linh hồn, một cá thể yếu đuối chới với
níu vào hy vọng mà sống trong một thế giới đầy dẫy bão tố hãi hùng và chông gai
trắc trở. Chị ước ao “Mầu xanh phủ hết tai ương cho con người và trái đất chan
hòa nương tựa…”
cho chị chắp đôi cánh “bay về miền đồng lúa chín vàng…”; cho chị “thắp ánh sáng của
sao hôm không có nước mắt chiều phai, của sao mai hẹn về khung trời đang mở nắng…” hay “treo trước cửa sổ
phòng người tiếng hót một loài chim sớm đánh thức ngày vui. Tôi sẽ kéo tấm rèm
chở che một điều đang bắt đầu trong khép lại một ngày ơn phước…”
Những
ước mơ tưởng tầm thường, nhưng với những thân phận con người bị nhận chìm dưới
tai ương của kiếp nạn nhân sinh, thì những ước mơ đó trở thành khát vọng cấp
bách, và chỉ nào tất cả chúng ta đều có chung một khát vọng như chị thì “khoảnh khắc giấc mơ” ấy của chị mới “thực sống”, cho “trái tim vẫn hoài đập
trong khoảnh khắc của giấc mơ...”
Khoảnh khắc giấc mơ là một bài thơ
đa chiều kích. Từ những giấc mơ, nó cùng lúc vẽ lên thân phận con người trong
cuộc bể dâu nhiễu loạn. Từ một cá thể nhỏ nhoi, một tâm hồn yếu đuối và cô độc,
nó chỉ có thể thắp lên ngọn nến nguyện cầu. Và hy vọng. Hy vọng vào tình yêu
thương. Tình yêu thương sẽ cho chúng ta “theo
con sông nhỏ về biển xanh” nơi “phương
Đông ấm một mặt trời…” Và, “… trong mùa thơ quyến
dụ ấy với ngôn ngữ tình nhân. Ngôn ngữ tôi nghe một lần trong xứ sở chiêm bao.”
Đấy
là Nguyễn Thị Khánh Minh với những giấc mơ của chị. Những giấc mơ mong manh, dễ
vỡ. Và bởi thế chị rất sợ chúng bị bóng tối hút vào, mất tăm:
Hãy nhìn em cho em thấy ánh nắng
Vì em sợ
Bóng tối sẽ nuốt chửng những giấc mơ
(Nói
nhỏ)
Đọc
thơ Nguyễn Thị Khánh Minh là chìm đắm trong một khu vườn chữ nghĩa óng ả, nhiệm
mầu, sáng lấp lánh như những chuỗi ngọc. Chị không phát minh nhiều từ mới như
các nhà thơ Tượng trưng, nhưng các từ trong thơ nằm cạnh nhau thân thiết như
đàn chim thiên di rủ nhau xuôi nam tìm nắng ấm. Chữ nghĩa đẹp, gợi cảm, như có
ma lực làm say đắm lòng người đọc. Chị sử dụng phép hoán dụ rất tài tình trong
thơ, điều đó càng làm tăng sự phong phú và gợi cảm. Mặt dệt của chữ nghĩa lóng
lánh như hoa gấm, ý tứ tuy kín đáo, thâm trầm nhưng nồng nàn hơi thở.
Để
viết được những câu thơ như thế, chị đã phải trải qua nhiều chặng đường gian
truân nhiều nước mắt:
Nỗi đau
Phản xạ thành chữ
Những con chữ. Cứ thế
Bóc dần từ tôi những hạt lệ
Chẳng phải như con ruồi giả – người ta
có thể câu được cá
Chữ – nằm gai nếm mật –
Nên lời
(Chữ
thơ)
Dù
vậy, chị vẫn thấy bất an với những con chữ của mình. Chữ nghĩa chị không đủ nói
lên tất cả những đau đớn của phận người chăng? Chúng chỉ là “những con chữ đói” cùng “bầy ý nghĩ tử thi”, và chị hoang mang:
Khi viết xong bài thơ
Đôi khi. Tôi khóc
Có phải vì lời đã nói về nước mắt
Trong lòng đêm ma mị
Lạc giữa bài thơ
Ngu ngơ. Như vừa bị cắp đi. Những chữ
Mộng giữa bài thơ
Nghe mình lam nham nói mớ
Thức giấc cùng bài thơ
Tôi và chữ giật mình
Bay bay. Cao cao. Rồi vỡ
(Phút
mong manh giữa những từ)
Nhưng
rồi chị cảm thấy tự an ủi vì ít nhất chị cũng gặt hái được một phần nhỏ nhoi của
giấc mơ:
Sau một vụ mùa
Tôi chỉ đem về được đôi ba hạt lúa chín
Chút mầu vàng của nó lấp lánh trên tay
Làm tôi đã vô cùng sung sướng
Tôi đã tắm đã hưởng
Tất cả những ngọt ngào mát mẻ của con sông
(Phút
mong manh giữa những từ)
Thơ
Nguyễn Thị Khánh Minh va chạm đến những chủ đề về nhân sinh và thân phận con
người trong cuộc sống trắc trở bấp bênh. Nhưng chị không bao giờ tuyệt vọng. Tuy
có lúc chị trốn vào giấc mơ tìm sự an ủi, nhưng niềm hy vọng không bao giờ tắt
nắng trong ý thức chị, và niềm hy vọng ấy chị ấp ủ trong niềm tin, niềm tin khắc
đậm vào lòng yêu thương:
Người đem
theo nụ cười
Đốt phong
long quỷ tối
Đêm nở nụ cười hoa
Ô. một vì sao xa
Vừa
mở trời. Dẫn lối…
(Có
vì sao mới mọc)
Và,
chị vẫn ngồi chờ, chờ sự hồi sinh, sự nẩy mầm cho những tiếng reo vui một ngày
sau đêm khuya:
Trong tiếng thở dài hút khuya trong tiếng
reo mầm vui đang nhú. Tôi vẫn chờ, chắc sẽ không lâu…
(Bầy
lá non thở dài trong đêm)
Chị
chẳng khác gì Sisyphus, lăn tảng đá lên đỉnh núi chỉ để nhìn nó lăn xuống. Miên
viễn:
Tôi nhóm lên một ngọn lửa
Gió thổi tắt đi
Tôi nhóm lên một ngọn lửa nữa
Gió lại thổi tắt đi
Nhưng,
khác với Sisyphus, chị mừng rỡ khi ngọn gió không thổi tắt ngọn lửa mà tiếp hơi
cho nó bùng lên:
Khi tôi không còn hy vọng
Thì gió
Lại làm những que tàn kia bắt lửa…
(Hy
vọng)
Nguyễn
Thị Khánh Minh, một người kinh qua nhiều khổ nạn, giọt lệ từng rơi, chứng kiến
biết bao biển dâu dời đổi, nhưng tâm tư vẫn tĩnh lặng, tinh khiết, tính cách vẫn
đằm thắm, nền nã, dịu dàng. Thơ chị là niềm tin son sắt vào lòng yêu thương, và
do vậy chị vẫn chắt chiu nuôi nấng hy vọng sau những kiếp nạn nhân sinh và dông
bão cuộc đời.
Bạn
có thể xem chuyện đó chẳng có chi ghê gớm. Hy vọng thì ai chẳng làm được, nhưng
liệu nó có thay đổi được cái gì không?
Nếu
bạn là nhà hoạt động thì bạn có thể biến hy vọng của mình thành hiện thực qua
các công việc tích cực cho nhân quần. Nhưng Nguyễn Thị Khánh Minh là một nhà
thơ, và hy vọng trong thơ thường được miêu tả như một sức mạnh có khả năng biến
đổi, một chủ đề có tiếng vang sâu sắc qua mọi thời đại, văn hóa. Các nhà thơ sử
dụng hy vọng để phản ánh khả năng phục hồi và thay đổi trong nghịch cảnh, để
cân bằng sự tuyệt vọng, và thường miêu tả nó như một tia sáng trong thời kỳ đen
tối. Câu nói nổi tiếng của nữ sĩ Emily Dickinson “Hope is the thing with feathers/ Hy vọng là thứ có lông cánh” đã nắm
bắt hy vọng như một cái gì đó mong manh nhưng bền bỉ, một sức mạnh có thể nâng đỡ
con người trong những hoàn cảnh khó
khăn.
Bài
thơ nhan đề Hy vọng của Nguyễn Thị
Khánh Minh chấm dứt tuyển thơ đã tiếp sức cho tôi tin tưởng vào niềm hy vọng
đó.
Quả táo vàng
Giữa
ba nhà thơ nữ của chúng ta: duyên, Lê Chiều Giang và Nguyễn Thị Khánh Minh, tôi
biết trao quả táo vàng cho ai đây?
Bạn
biết truyền thuyết quả táo vàng không? Nếu không, tôi sẽ hầu bạn kể câu chuyện thần
thoại Hy Lạp này.
Trên
đỉnh núi Olympus có ba vị nữ thần bất tử xinh đẹp: Aphrodite, Hera và Athena,
và bởi bất tử nên họ trẻ đẹp mãi, không bao giờ già xấu. Một hôm họ hỏi Zeus:
trong ba người ai là người đẹp nhất. Zeus là Thiên vương, chúa của muôn loài,
nhưng là một lão già sợ vợ và mê gái – sợ Hera, vợ mình, phật lòng, nhưng cũng
không muốn mình là người làm buồn tủi hai nữ thần xinh đẹp kia – bèn xúi ba vị
nữ thần cầm quả táo vàng của Iris xuống trần gian nhờ Paris thẩm định giùm. Ai
được Paris trao quả táo vàng, người đó sẽ là nữ thần đẹp nhất trên trời, dưới đất,
dưới biển và cả dưới âm phủ nữa. Paris là hoàng tử con vua Priam thành Troy,
lúc đó bị đày đi chăn cừu ở chân núi Ida. Paris nổi tiếng có tài thẩm định nhan
sắc phụ nữ, nhưng trước mặt ba vị nữ thần dung mạo tuyệt vời đó, chàng đã vô
cùng lúng túng không biết chọn ai vì ai cũng đẹp như… tiên nữ. Thế là, ba vị nữ
thần bèn tìm cách gạ gẫm hối lộ chàng để chàng trao quả táo vàng cho mình. Hera
hứa hẹn sẽ dựng chàng làm chúa tể cả Âu lẫn Á châu. Athena bảo sẽ đưa chàng lên
thống lĩnh quân đội thành Troy để chiến thắng Hy Lạp. Và Aphrodite thì hứa gả
nàng Helen nổi tiếng xinh đẹp cho chàng. Cuối cùng, Paris, vốn yếu đuối và có
chút hèn nhát trong người, đã trao quả táo vàng cho Aphrodite để lấy Helen làm
vợ. Nàng Helen lúc đó đang là vợ vua Menelaus của Hy Lạp. Thế là nổ ra cuộc chiến
tranh đòi vợ kéo dài suốt 10 năm trời, không biết bao nhiêu vạn sinh linh chết
oan uổng, và chỉ kết thúc khi phe Hy Lạp lập mưu kế làm con ngựa gỗ khổng lồ, binh
lính nấp bên trong cho người thành Troy kéo vào thành, đoạn thừa lúc nửa đêm
túa ra đốt thành Troy thành tro bụi…
Đấy
là câu chuyện quả táo vàng của Paris, nhưng bạn ơi, tôi không dại dột bắt chước
Paris đâu. Mà sự thật là tôi chẳng có quả táo vàng nào trong tay, muốn trao
cũng không được. Nếu có trong tay ba quả táo vàng thì chắc tôi sẽ bớt khó xử
hơn. Nhưng dù sao chăng nữa, trao hay không trao, tôi vẫn được đọc thơ của ba
người. Họ là những người trước
sau luôn chung thủy với nghệ thuật của mình. Mỗi người một tâm hồn, một thi
pháp, một trải nghiệm, trải nghiệm trong đời sống cũng như văn chương, không ai
giống ai. Nhưng họ cùng nhìn vào đời sống với con mắt của nhà thơ. Thơ họ không
có tham vọng đổi thay xã hội nhân sinh, họ làm thơ chỉ vì họ muốn nói điều gì
đó, mà sau khi mọi chuyện ồn ỹ lắng
đọng vào cuối ngày, chỉ để lại chút niềm vui nho nhỏ trong lòng người làm thơ
và người đọc thơ. Nó
giúp trái tim họ đập cùng một nhịp với thiên nhiên, với người bạn đồng hành, và
với chúng ta, những người yêu mến họ.
Tôi nghĩ rằng chỉ
chừng đó thôi đã đủ cho chúng ta mở rộng vòng tay chào đón thơ họ trong tuyển
thơ này.
– Trịnh Y Thư
(Tiết
Lập Đông, năm Giáp Thìn, 2024DL)