Saturday, November 2, 2024

Nguyễn Duy Chính: Học Chữ HÁN

 

 

HỌC CHỮ HÁN

NGUYỄN DUY CHÍNH

 


 Tôi bắt đầu học chữ Hán không có chủ đích gì. Được vỡ lòng bằng 1 giờ Hán văn mỗi tuần trong chương trình Việt văn lớp đệ Thất ở CVA. Đúng lý ra chương trình này phải kéo dài 4 năm cho đến hết bậc trung học đệ Nhất cấp nhưng sau năm đầu tiên thì không thấy tiếp tục.

Giờ Hán văn đệ Thất của tôi do một giáo sư[1] tên là Đặng Ngọc Thiềm hướng dẫn. Theo đúng thể lệ ông bắt chúng tôi mua mực Tàu, giấy bản, nghiên bút đàng hoàng. Có thể nói, những sinh hoạt ấy với những người khác chỉ là kỷ niệm nhưng lại trở thành “vốn quí” trong tôi. Vốn quí vì đây là bước chân mở cho tôi vào cánh cửa chữ Hán mãi đến tận hôm nay, mỗi lúc một thiết yếu hơn chứ không suy giảm chút nào.

Thuở ấy, cái nghiên giống như một cái bát sành nhỏ na ná cái đồ kê chân trạn cho kiến khỏi bò lên, còn mực thì là một thỏi a dao có mùi rất nặng. Thế mà chúng tôi cũng hí hoáy viết được những trang giấy chép theo cuốn Hán Học Phổ Thông của Đinh Đình Hòe và Thích Giải Minh[2]. Bộ Hán Học Phổ Thông này về sau tôi có mua thêm được cuốn thứ hai nhưng không phải để dùng trong lớp mà để tự học ở nhà.

Qua cuốn Hán Học Phổ Thông, chúng tôi biết qua phép Lục Thư (tượng hình, chỉ sự, hội ý, chuyển chú, giả tá, hài thanh) và theo chỉ dẫn của giáo sư Thiềm chúng tôi biết cầm bút viết theo lối trái trước, phải sau, trên trước dưới sau, ngoài trước, trong sau ngoại trừ một vài biệt lệ như bộ Sước () phải viết sau cùng.

Cuốn sách này rất đơn giản nhưng lại dễ nhớ cho trẻ con. Đến bây giờ tôi vẫn còn thuộc một số bài trong đó, cổ văn cũng như kim văn, không dài và nặng như các cuốn sách tự học khác vừa bắt nhớ mặt chữ lại kèm thêm cả văn phạm [ngữ pháp].

Từ khi tiếp xúc với chữ Nho qua giờ Hán văn ở trường, tôi trở thành hiếu k. Chữ Tàu ở nước ta thì không hiếm, có điều ít ai quan tâm thôi. Chỉ đảo qua một vòng trong Chợ Lớn, chúng ta sẽ thấy cơ man là chữ Hoa trên các bảng hiệu, phần lớn viết theo lối chân phương dễ đọc bên cạnh cái tên được dịch âm ra tiếng Việt. Phúc Sinh Đường thì bên dưới sẽ có ba chữ 福生堂 cùng những hàng chữ nhỏ hơn ghi tên các mặt hàng thuốc bắc như sâm nhung, cao đơn hoàn tán … Nếu so sánh đối chiếu tiệm này sang tiệm khác sẽ tìm thấy có nhiều chữ giống nhau và trừ qua sớt lại có thể đoán được những chữ mình chưa biết. Cái lối nhìn ngang nhìn ngửa để học lóm đó tôi gọi là “học chữ Nho ngoài đường” và lâu dần cũng có thể hiểu được ý nghĩa cái bảng hiệu vì phần lớn không phải chỉ là dịch từ chữ Tàu sang tiếng Việt mà còn có thêm những chi tiết khác. Thỉnh thoảng tôi cũng phát giác ra có bảng hiệu dịch sai, sai âm hay sai chính tả, chẳng hạn Dân Ký (民記) nhưng tiếng Việt lại viết thành Minh Ký. Những cái bảng hiệu ấy cũng cho tôi biết thêm một chút về văn minh Trung Hoa, chẳng hạn có chữ Đường thì biết là tiệm thuốc bắc, chữ Ký thì thường là tiệm tạp hóa hay tiệm ăn và dù không lấy gì làm đồ sộ nhưng vẫn quảng cáo thành đại tửu lâu.  


 Cũng giờ Việt văn, chúng tôi dùng một cuốn sách giáo khoa có tên là Quốc Văn toàn thư [lớp đệ Thất]– mà tác giả là ba vị thầy nổi tiếng Vũ Khắc Khoan, Nguyễn Sỹ Tế và Tô Đáng[3]. Về sau tôi cũng mua thêm các tập kế tiếp để học thêm mặc dù chỉ năm đệ Thất chúng tôi dùng mà thôi. Phải công nhận rằng ít có bộ sách quốc văn nào phong phú như bộ này vì có đủ cả văn xuôi lẫn văn vần, từ những bài thơ của các tác giả xưa đến ca dao, văn chương cổ. Hai bài văn xuôi tôi nhớ nhất là lá thư của cụ Phan Bội Châu gửi cho con nói về cụ bà và hai lá thư của Hoàng Cao Khải, Phan Đình Phùng.

Đây là lá thư của cụ Phan Bội Châu:[4]

Này con! Chúng con ơi!

Cha e chết ở rầy mai, có lẽ mẹ mày không được một phen gặp nhau nữa!

Nhưng nếu trời thương ta, cho hai ta đồng chết thì gặp nhau dưới suối vàng, cũng vui thú biết chừng nào!

Nhưng đau đớn quá! Mẹ mày e chết trước ta. Ta hiện bây giờ nếu không chép sơ những việc đời mẹ mày cho chúng con nghe, thời chúng con rồi đây không biết rõ mẹ mày là người thế nào, có lẽ bảo mẹ ta cũng như người thường thảy cả.

Than ôi! Ta với mẹ mày, vợ chồng “thật” gần năm mươi năm mà quan quả[5] “giả” gần bốn mươi năm. Khi sống, chẳng mấy hồi tương tụ, mà tới chết lại chỉ tin tức nghe hơi!...

Mẹ mày có gì đâu! Chỉ dựa vào một triêng hai thúng, từ mai tới hôm mà cũng nghe chồng đòi gì có nấy. Bổng dậy học của ta tuy khá nhiều nhưng chưa đồng xu nào mà tay mẹ mày được xài phí. Khổ cực mấy nhưng không sắc buồn, khó nhọc mấy nhưng không tiếng giận. Từ đã 36 tuổi cho tới ngày xuất dương, những công việc kinh dinh việc nước, mẹ mày ngầm biết thảy nhưng chưa từng hé răng một lời. Duy có một ngày kia, ta tình cờ ngồi một mình, mẹ mày đứng dựa cột kề một bên ta mà nói:

- Thầy toan bắt cọp đó mà? Cọp chưa thấy bắt mà người ta đã biết nhiều, sao thế?

Mẹ mày tuy có nói câu ấy, mà lúc đó ta làm ngơ, ta thiệt dở quá! Bây giờ nhắc lại trước khi ta xuất dương, khoảng hơn 10 năm nghèo đói mà bạn bè nhiều, khốn cùng mà chí vững thiệt một phần nữa là nhờ ơn mẹ mày.

Tới ngày ta bị bắt về nước, mẹ mày được gặp ta một lần ở thành tỉnh Nghệ, hơn nửa tiếng đồng hồ, chỉ có một câu nói với ta rằng:

- Vợ chồng ly biệt nhau hơn hai mươi năm, nay được một lần gặp mặt thầy, trong lòng tôi đã mãn túc rồi. Từ đây trở về sau, chỉ trông mong cho thầy giữ được lòng xưa, thầy làm những việc gì mặc thầy, chớ có nghĩ tới vợ con.

Hỡi ôi! Câu nói ấy bây giờ còn phảng phất ở bên tai ta, mà ta té ra chầy chà năm tháng, chẳng một việc gì làm, chốc đã chẵn mười năm. Phỏng khiến mẹ mày chết trước ta, thì trách nhiệm của ta e còn nặng thêm mãi.

Suối vàng quanh cách, biết lối nào thăm. Ðầu bạc trăm năm, còn lời thề cũ.

Mẹ mày thật chẳng phụ ta, ta phụ mẹ mày!

“Công nhĩ vong tư” [6] chắc mẹ mày cũng lượng thứ cho ta chứ. [7]

Cũng qua những bài văn xuôi, chúng tôi được đọc lối văn trang nhã, trọng lý mà không quên tình như trong thư của Hoàng Cao Khải gửi Phan Đình Phùng và thư cụ Phan phúc đáp. Tuy ở hai chiến tuyến khác nhau, các cụ nhà nho không vì thế mà dùng lời lẽ thiếu lịch sự. Vì ý nghĩa lịch sử, tôi cũng chép lại đây bài học tôi học năm đầu tiên ở bậc trung học [tức lớp 6]:

Bức thư của Hoàng Cao Khải

Đồng ấp Phan Đình Nguyên đại nhân túc hạ.

Tôi với ngài xa cách nhau, xuân thu đắp đổi trải đã mười bảy năm nay rồi. Dâu bể cuộc đời, bắc nam đường bụi, tuy là mỗi người đi một ngả khác nhau, nhưng mà trong giấc mộng hồn vẫn thường thấy nhau không phải xa xôi gì. Ngồi nghĩ lại ngày trước chúng ta còn ở chốn quê hương giao du với nhau, cái tình ấy đằm thắm biết là dường nào?

Từ lúc ngài khởi nghĩa đến giờ, nghĩa khí trung can, đều rõ rệt ở tai mắt người ta. Tôi thường nghe các quý quan (là các quan Pháp) nói chuyện đến ngài, ông nào cũng phải thở than khen ngợi và tỏ ý kính trọng ngài lắm. Xem như thế thì tấm lòng huyết khí tôn nhân, tuy là người khác nước cũng chung một tâm tình ấy thôi, không phải là người cùng thanh khí với nhau mới có vậy.

Ngày kinh thành thất thủ, xe giá nhà vua bôn ba, mà ngài mạnh mẽ đứng ra ứng nghĩa, kể sự thế lúc bấy giờ, ngài làm vậy là phải lắm, không ai không nói như thế. Song le, sự thế gần đây đã xoay đổi ra thế nào, thử hỏi việc đời có thể làm được nữa không, dầu kẻ ít học thức, kém trí khôn, cũng đều trả lời không được. Huống chi như ngài lại là bậc người tuấn kiệt, chẳng lẽ không nghĩ tới đó hay sao? Tôi trộm xét chủ ý của ngài, chắc cũng cho rằng: ta cứ làm theo việc phải ta biết, cứ đem hết tài năng ta có, một việc nên làm mà làm là ở nơi người, còn nên được hay không nên là ở nơi trời, ta chỉ biết đem thân này hứa cho nước, đến chết mới thôi. Bởi thế, cho nên ngài cứ việc làm tới cùng, không ai có thể làm biến đổi cái chí ấy đi được.

Có điều tôi thấy tình trạng ở quê hương chúng ta gần đây, lấy làm đau lòng hết sức. Nhân đó, tôi thường muốn đem ý kiến hẹp hòi, để ngỏ cùng lượng cao minh soi xét; nhưng mấy lần mở giấy ra rồi, mài mực xong rồi, đã toan đặt bút xuống viết rồi lại gác bút thở dài, không sao viết được. Vì sao? Vì tôi liệu biết can tràng của ngài cứng như sắt đá, không thể lấy lời nói mà chuyển động nổi. Đã vậy, lại còn khác tình, khác cảnh, xa mặt xa lòng, vậy thì lời nói của tôi, chắc gì thấu tới được nơi ngài; mà dầu cho có thấu tới nơi ngài chăng nữa, đã chắc gì lọt vào tai ngày chịu nghe giùm cho, chẳng qua chỉ để cho cố nhân cười mình là thằng ngu thì có.

Nay nhân quan Toàn quyền[8] trở lại, đem việc ở tỉnh ta bàn bạc với tôi, có khuyên tôi sai người đến ngỏ ý cùng ngài biết rằng: ngài là bậc người hiểu biết nghĩa lớn, dầu không bận lòng tưởng nghĩ gì đến thân mình, nhà mình đi nữa, thì cũng nên tưởng nghĩ cứu vớt lấy dân ở trong một địa phương mới phải. Lời nói đó, quan Toàn quyền không nói với ai, mà nói với tôi, là vì cho rằng: tôi với ngài có cái tình xóm làng cố cựu với nhau, chắc hẳn tôi nói ngài nghe được, vậy có lẽ nào tôi làm thinh không nói?

Ngay thử nghĩ xem: quan Toàn quyền là người khác nước, muôn dặm tới đây, mà còn có lòng băn khoăn lo nghĩ tới dân mình như vậy thay, huống chi chúng ta sinh đẻ lớn khôn ở đất này, là đất của cha mẹ tôn tộc ở đó, có là đâu mình làm lơ đành đoạn, thì trăm năm về sau, người ta sẽ bảo mình ra làm sao? Ôi! Làm người trên phải có lòng thương yêu dân làm cốt, chưa từng có ai không biết thương dân mà bảo là trung với vua bao giờ. Việc của ngài làm từ bấy lâu nay, bảo rằng trung thì thiệt là trung, song dân ta có tội gì mà vướng phải nông nỗi lầm than thế này, là lỗi tại ai? Nếu bảo là đã vì thiên hạ thì không thiết chi tới nhà nữa cũng phải, nhưng một nhà của mình đã vậy, chứ còn bao nhiêu nhà ở trong một vùng cũng bỏ đi cả, sao cho đang tâm, Tôi nghĩ nếu như ngài cứ khăng khăng làm tràn tới mãi, thì e rằng khắp cả sông Lam núi Hồng đều biến thành hồ cá hết thảy, chứ không phải chỉ riêng lo ngại cho cây cỏ một làng Đông Thái chúng ta mà thôi đâu. Đến nỗi để cho quê hương điêu đứng xiêu tàn, tưởng chắc bậc người quân nhân quân tử không lấy gì làm vui mà làm thì phải.

Tôi suy nghĩ đắn đo mãi, vụt lấy làm mừng rỡ mà nói riêng với mình: Được rồi, lời nói đó tôi có thể đem ra nói cho ngài nghe lọt tai, để xin ngài chỉ bảo cho biết như vậy có phải hay không?

Tuy nhiên, sự thế của ngài như cỡi trên lưng cọp đã lỡ rồi, bây giờ muốn bước xuống, nghĩ lại khó khăn biết bao!

Nếu như tôi không có chỗ tự tin chắc chắn nơi mình, thì quyết không khi nào dám mở lời nói liều lĩnh để mang luỵ cho cố nhân về sau. Nhưng may là tôi với quan Toàn quyền, vốn có tình quen biết nhau lâu, lại với quan Khâm sứ ở Kinh, và quan Công sứ Nghệ Tĩnh, cùng tôi quen thân hiệp ý nhau lắm, cho nên trước kia Trần Phiên sứ (tên là Khánh Tiến, làm Tuần phủ, nên gọi là Phiên sứ) Phan Thị Lang, (tên là Huy Nhuận), cũng là chỗ thân trong tỉnh, trong làng hoặc bị tội nặng, hoặc bị xử đày rồi, thế mà tôi bảo toàn cho hai ông ấy đều được yên ổn vô sự. Lại như mới rồi, ông Phan Trọng Mưu ra thú, tôi dẫn đến yết kiến các đại hiến quý quan, thì các ngài cũng tiếp đãi trân trọng như đãi khách quý, và tức thời điện về tỉnh nhà, bắt trả lại mồ mả, và tha cả ba con về, như thế tỏ ra nhà nước Bảo hộ khoan dung biết chừng nào! Cứ xem vậy đủ biết lẽ ấy, lòng ấy, dầu là người nghìn dặm xa nhau, vẫn là giống nhau vậy.

Bây giờ, nếu ngài không cho lời tôi nói là dông dài, thì xin ngài đừng ngần ngại một điều gì khác hết tôi không khi nào dám để cho cố nhân mang tiếng là người bất trí đâu.

Hoàng Cao Khải đốn thư

Bức thư cụ Phan trả lời:

Hoàng quý đài các hạ,

Gần đây, tôi vì việc quân, ở mãi trong chốn rừng rú, lại thêm lúc này tiết trời mùa đông, khí hậu rét quá, nông nỗi thiệt là buồn tênh. Chợt có người báo có thư của cố nhân gửi lại. Nghe tin ấy, không ngờ bao nhiêu nỗi buồn rầu lạnh lẽo, tan đi đâu mất cả. Tiếp thư liền mở ra đọc. Trong thư cố nhân chỉ bảo cho điều hoạ phước, bày tỏ hết chỗ lợi hại, đủ biết tấm lòng của cố nhân, chẳng những muốn mưu sự an toàn cho tôi thôi, chính là muốn mưu sự yên ổn cho toàn hạt ta nữa. Những lời nói gan ruột của cố nhân, tôi đã hiểu hết, cách nhau muôn dặm tuy xa, nhưng chẳng khác gì chúng ta được ngồi cùng nhà nói chuyện với nhau vậy.

Song le tâm sự và cảnh ngộ của tôi có chỗ muôn vàn khó nói hết sức. Xem sự thế thiên hạ như thế kia, mà tài lực tôi như thế này, y như lời cổ nhân đã nói "thân con bọ ngựa là bao mà dám giơ cánh tay lên muốn cản trở cỗ xe" sao nổi không biết; việc tôi làm ngày nay, sánh lại còn quá hơn nữa, chẳng phải như chuyện con bọ ngựa đưa tay ra cản xe mà thôi.

Nhưng tôi ngẫm nghĩ lại, nước mình mấy ngàn năm nay, chỉ lấy văn hiến truyền nối nhau hết đời này qua đời kia, đất nước chẳng rộng, quân lính chẳng mạnh, tiền của chẳng giàu, duy có chỗ ỷ thị dựa nương để dựng nước được, là nhờ có cái gốc vua tôi, cha con theo nghĩa vốn có chỗ đủ cho mình tự có thể trông cậy dựa nương lắm vậy. Đến nay người Pháp với mình, cách xa nhau không biết là mấy muôn dặm, họ vượt bể tới đây, đi tới đâu như là gió lướt tới đó, đến nỗi nhà vua phải chạy, cả nước lao xao, bỗng chốc non sông nước mình biến thành bờ cõi người ta, thế là trọn cả nước nhà, dân nhà, cùng bị đắm chìm hết thảy, có phải là riêng một châu nào hay một nhà ai phải chịu cảnh lầm than mà thôi đâu.

Năm Ất Dậu, xe giá thiên tử ngự đến sơn phòng Hà Tĩnh, giữa lúc đó tôi đang còn tang bà mẹ, chỉ biết đóng cửa cư tang cho trọn đạo, trong lòng há dám mơ tưởng đến sự gì khác hơn. Song, vì mình là con nhà thế thần, cho nên đôi ba lần đức Hoàng thượng giáng chiếu vời ra; không lẽ nào có thể từ chối, thành ra tôi phải gắng gổ đứng ra vâng chiếu, không sao dừng được. Gần đây, Hoàng thượng lại đoái tưởng lựa chọn tôi mà giao phó việc lớn, uỷ thác cho quyền to; Ấy, mệnh vua uỷ thác như thế đó, nếu cố nhân đặt mình vào trong cảnh như tôi, liệu chừng cố nhân có đành chối từ trốn tránh đi được hay không?

Từ lúc tôi khởi nghĩa đến nay, đã trải mười năm trời, những người đem thân theo việc nghĩa, hoặc đã bị trách phạt, hoặc đã bị chém giết, vậy mà lòng người trước sau chẳng hề lấy thế làm chán nản ngã lòng bao giờ; trái lại, họ vẫn ra tài, ra sức giúp đỡ tôi, và lại số người mạnh bạo ra theo tôi càng ngày càng nhiều thêm mãi. Nào có phải người ta lấy điều ta vạ hiểm nguy làm cho sự sung sướng thèm thuồng mà bỏ nhà dấn thân ra theo tôi như vậy đâu. Chỉ vì họ tin cậy lòng tôi, lượng xét chí tôi, cho nên hâm hở vậy đó thôi. Ấy, lòng người như thế đó, nếu như cố nhân đặt mình vào cảnh của tôi liệu chừng cố nhân có nỡ lòng nào bỏ mà đi cho đành hay không?

Thưa cố nhân, chỉ vì nhân tâm đối với tôi như thế, cho nên cảnh nhà tôi đến nỗi hương khói vắng tanh, bà con xiêu dạt, tôi cũng chẳng dám đoái hoài. Nghĩ xem, kẻ thân với mình mà mình còn không đoái hoài, huống chi là kẻ sơ: người gần với mình mà mình còn không bao bọc nổi, huống chi người xa. Vả chăng hạt ta đến đỗi điêu đứng lầm than quá, không phải riêng vì tai hoạ binh đao làm nên nông nổi thế đâu. Phải biết quan Pháp đi tới đâu, có lũ tiểu nhân mình túa ra bày kế lập công, thù vơ oán chạ; những người không có tội gì chúng cũng đâm thọc buộc ràng cho người ta là có tội, rồi thì bữa nay trách thế nọ, ngày mai phạt thế kia; phàm có cách gì đục khoét được của cải của dân, chúng nó cũng dùng tới nơi hết thảy. Bởi đó mà thói hư mối tệ tuôn ra cả trăm cả ngàn, quan Pháp làm sao biết thấu cho cùng những tật khổ của dân trong chốn làng xóm quê mùa, như thế thì bảo dân không phải tan lìa trôi giạt đi sao được?

Cố nhân với tôi, đều là người sinh đẻ tại châu Hoan, mà ở cách xa ngoài muôn ngàn dặm, cố nhân còn có lòng đoái tưởng quê hương thay, huống chi là tôi đây đã từng lấy thân chịu đựng và lấy mắt trông thấy thì sao? Khốn nỗi cảnh ngộ bó buộc, vả lại sức mình chẳng làm được theo lòng mình muốn, thành ra phải đành, chứ không biết làm sao cho được. Cố nhân đã biết đoái hoài thương xót dân này, thì cố nhân nên lấy tâm sự tôi và cảnh ngộ tôi thử đặt mình vào mà suy nghĩ xem, tự nhiên thấy rõ ràng, có cần gì đến tôi phải nói dông dài nữa ư?

Phan Đình Phùng phúc thư[9]

Tuy tuổi thơ chẳng ai trong chúng tôi hiểu rành rọt ý nghĩa và từ ngữ trong các bức thư này nhưng lời văn trịnh trọng và mượt mà qua bản dịch của Đào Trinh Nhất đã gieo vào đầu óc sự kính trọng chữ nghĩa văn chương. Cuốn Quốc Văn ấy có cái hay là đều chú thích rất kỹ các chữ khó, chữ Hán – Việt đều kèm theo chữ Hán nên tôi cũng tiện học theo – hay ít nhất cũng quen mắt với chữ gốc. Nói tóm lại, việc học chữ Hán của tôi khởi đầu bằng văn chương Việt Nam vì quả thực các từ Hán – Việt hầu như xuất hiện đến quá nửa trong tiếng nước mình nên học chữ Nho cũng chỉ là vì muốn học tiếng của dân tộc mình.

Cái vốn chữ Hán của tôi chựng lại khá lâu – vì không có cơ hội nào để tiến thêm ngoài việc học “ngoài đường” và thỉnh thoảng ngâm nga vài câu thơ cổ. Thế nhưng người ta có thể ngâm thơ mà không biết mặt chữ, lại cũng không cần hiểu niêm luật cho tường tận nên không hiếm người thuộc rất nhiều thơ nhưng lại không biết chữ Hán.

Như hầu hết thanh niên, chưa tập đi đã muốn chạy, tôi cũng mua mấy cuốn thơ Đường về đọc và tập viết. Viết thì cũng không chịu viết chân phương cho rành rọt mà lại muốn đi thẳng sang hành thư, thảo thư. Thơ Đường vốn dĩ rất khó vì hàm súc, chỉ trong 56 chữ mà gói ghém biết bao nhiêu ý, bao nhiêu tình, cú pháp nhiều khi không theo mực thường, xem ra còn khó hơn văn ngôn[10] gấp bội. Ấy thế mà thuở đó tôi lại đi theo con đường ngược đời đó nên không đi đến đâu. Giá cứ như ngày xưa học từ Tam Tự Kinh sang Ấu Học Ngũ Ngôn Thi lại còn có cơ sở vì trẻ con học nhớ nhiều hơn học nghĩa, mưa dầm thấm đất, học mãi rồi cũng nhập tâm.

Khi đi làm ở một tỉnh miền Trung, tôi đem theo một bộ Tam Quốc Diễn Nghĩa mua ở Chợ Lớn để đọc và để học, theo cách của cụ Nguyễn Hiến Lê chỉ dạy. Thế nhưng vì chữ nghĩa ít ỏi, đọc và tra lâu quá nên chỉ được vài trang rồi phải bỏ.

Sau năm 1975, tôi có một cơ hội khác. Sau khi ra tù, thất nghiệp nằm nhà, một người bạn đem đến cho mấy cuốn sách coi tướng bằng chữ Tàu. Những sách tướng số, tử vi là loại xen lẫn văn ngôn - bạch thoại đọc cũng thú vị và tương đối không khó lắm. Nhờ có mấy cuốn sách, lại thêm thì giờ rảnh rỗi cùng với bạn bè bàn luận ngược xuôi nên tôi cũng mày mò đọc cho bằng hết. Ấy cũng là nhu cầu nảy sinh phương tiện nên vừa đọc vừa đoán rồi cũng xong. Điểm mạnh của trò chơi này là giúp tôi làm quen với văn pháp Trung Hoa và học ngoại ngữ nào thì cũng phải làm quen với ngữ pháp – mà ngữ pháp là gì nếu chẳng phải là lối sắp xếp chữ của thứ ngôn ngữ đó. Cho nên nếu tiếng Anh, tĩnh từ phải đi trước danh từ thì khi đọc sang tiếng Pháp chúng ta lại phải quen ngay với lối sắp xếp hầu hết ngược lại, danh từ trước, tĩnh từ sau.

Sau đó tôi mua được một bộ sách có tên là Thần Tướng Toàn Biên[11] (神相全), bao gồm đầy đủ các tác phẩm cổ của bộ môn này, nhiều điều hàm tàng một ý nghĩa triết học, tâm lý học … của Đông phương mà các cổ thư khác không nhắc tới. Đáng kể nhất có lẽ là hai phần trong Ma Y thần tướng, một phần là Khóa Vàng [金鎖賦 Kim Tỏa Phú], một phần là Chìa Khóa Bạc [銀匙謌 Ngân Thi Ca], Viên Thiên Trang nhân thức ca, Viên Liễu Trang nhân tượng phú … Tuy nhiên, phần lớn đều thuộc loại bàng môn, đi vào chi li vụn vặt không đáng nhớ nên tôi chỉ đặt trọng tâm vào một bài phú có tên là Nhân Luân Đại Thống Phú (人倫大統賦) của Trương Hành Giản (張行簡) mở đầu bằng hai câu:

貴賤定於骨法,憂喜見於形容。

悔吝生於動作之始,成敗在乎決斷之中。

Quí tiện định ư cốt pháp, ưu hỉ kiến ư hình dung

Hối lận sinh ư động tác chi thủy, thành bại tại hồ quyết đoán chi trung …

Kẻ quí người tiện là do ở cốt cách, đời buồn hay vui cũng do vẻ dáng bề ngoài

Sai lầm cũng do động tác khởi nên, thành bại cũng nằm ở trong quyết đoán …

Bài phú đó rất uyên áo, lãnh ngộ tùy theo mỗi người nên đọc lâu cũng có chỗ thú vị. Thế nhưng đây chỉ là trò chơi trí óc, tìm hiểu thiên cơ không phải là chủ đích của nhà nho nên tôi không vướng vào lâu. May mắn nhất, những động lực thúc đẩy khiến cho tôi phải học để đọc những bộ sách này và nói cho cùng, đó chính là cái cánh cửa bước chân vào Hán văn của tôi.

Sau khi đã ngốn xong mấy cuốn sách tử vi tướng số, tôi quay trở lại đọc bộ Tam Quốc thì thấy dễ hơn nhiều. Truyện này tôi đã đọc nhiều lần, khó nhất là tên người thì hầu hết mình đã biết, đoán già đoán non cũng được 90%. Phải nói rằng nếu đọc thông bộ Tam Quốc thì đã đi được quá nửa đường trong việc làm quen với Hán văn, ít nhiều cũng có cơ sở.

Sang đến Mỹ, lang thang mấy tiệm sách Tàu trên Chinatown ở Los Angeles, tôi mua được toàn bộ truyện Kim Dung, 36 cuốn. Thời gian ấy, nhu cầu đọc lại sách vở cũ còn nhiều nên một số nhà xuất bản in sách một cách đơn giản là chụp lại các sách vở cũ của miền Nam để chiều theo thị hiếu. Truyện chưởng là món hàng ăn khách nên vì thế cũng nở rộ. Có điều đọc lại thì tôi mới thấy lối dịch trước đây cẩu thả, cú pháp văn chương cũng bình thường vì vốn dĩ là lối văn nhật báo dành cho đại chúng trong đó không hiếm những sai lầm về âm cũng như về nghĩa chỉ thích thú khi mình chưa biết còn nay đã đọc thẳng vào nguyên tác thì lại thấy ngang phè.

Chính vì thế nằm đọc một cách say mê bộ Kim Dung nguyên bản thì quả là cái thú mà không mấy ai có trong sinh hoạt của người Việt tha hương. Mà học ngoại ngữ nào đến một lúc cũng nhập tâm, khi cầm đến cuốn sách Tàu thì lập tức giở từ cuối lên, đọc từ phải sang trái, từ trên xuống dưới, đọc đâu hiểu đó chẳng mấy khi phải “bước đi một bước lâu lâu lại dừng” để tra tự điển. Con người trở nên có nhiều nhân cách khi đã tạo cho mình một mẫu số đa văn hóa, cái nọ bù đắp cho cái kia, nên việc chuyển từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác không còn là vấn đề. Đó cũng là việc thường làm trong một ngày, chuyển đổi tần số từ tiếng Anh sang tiếng Việt, từ chữ Hán phồn thể sang chữ Hán giản thể chỉ là thói quen.

Sau khi đọc đi đọc lại truyện Kim Dung – thực ra thì tôi chỉ tập trung vào mấy bộ thích nhất như Tiếu Ngạo Giang Hồ, Lộc Đỉnh Ký, Ỷ Thiên Đồ Long, Thiên Long Bát Bộ - cái vốn tiếng Hán của tôi cũng thêm dần. Quay đầu nhìn lại, tôi mới thấy rằng muốn tinh thông cái gì người ta phải đam mê không chán vì nếu do nhu cầu thì giữ được nỗ lực lúc ban đầu nhưng rồi sẽ mỏi mệt. Thế nhưng khi tạo được đam mê, dù đam mê ấy đối với người xung quanh k quặc chăng nữa, thì vẫn là một động lực liên tục bắt người ta phải cố gắng để đến một lúc nào đó chép miệng tự trách mình âu cũng là một cái “nghiệp”.

Cũng từ đó, tôi nảy ra ý định viết một số chuyên đề có liên quan đến các tình tiết trong mấy bộ truyện Kim Dung. Những bài viết về trà, đông y, ngựa và cánh cung, về hoạn quan, về hoa trà, cờ vây, bảo kiếm, Thanh binh nhập quan, hay cuộc khởi nghĩa lật đổ triều Nguyên … chính là những kiến thức mở rộng một số chi tiết mà Kim Dung đã nhắc tới. Những biên khảo nho nhỏ này thực ra không phải là một công việc thường xuyên mà là một việc làm tài tử - nói theo ngôn ngữ trong nước ngày nay gọi là nghiệp dư –thực hiện chủ yếu là trong khoảng thời gian được nghỉ học giữa mùa [breaks] vì từ khi cha mẹ và các em tôi sang đoàn tụ, tôi đã có thời gian để trở lại nhà trường vào ban đêm sau giờ làm việc. Việc làm ấy vừa giúp tôi có sự tiếp cận liên tục với tiếng Việt và chữ Hán cho khỏi quên, lại là một cách tạm lánh ra khỏi khung cảnh học đường cho thư dãn. Nhờ nhảy qua nhảy lại, tôi vẫn không bị rơi rụng cái vốn chữ Hán có sẵn, lại giúp mình có thêm một số kiến thức mới mà trước đây chỉ biết qua loa.

Những bài viết tôi gửi lên một web-site kiếm hiệp [vietkiem.com] mà từ đó hai anh Trần Văn Chánh và Lê Đình Thuyên ở VN đã tải xuống và giúp ấn hành tác phẩm đầu tiên, Đọc Kim Dung Tìm Hiểu Văn Hóa Trung Quốc[12] khi có dịp gặp tôi ở VN cuối năm 2001. Chính cái tựa này cũng do anh Chánh đặt giùm chứ không phải tôi nghĩ ra. Âu cũng là duyên văn tự mà từ đó tôi quen biết được khá đông các nhà văn hóa trong nước như Trần Văn Chánh, Lê Anh Dũng, Lê Đình Thuyên, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Hạnh, Phạm Hoàng Quân … ở Saigon và rồi lan truyền ra đến Hà Nội như Nguyễn Bá Dzũng, Trần Trọng Dương … Huế như Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Anh Huy, Nguyễn Hữu Châu Phan, Trần Đình Hằng … Đây chỉ là một số nhỏ những người tôi may mắn quen biết vì danh sách còn dài gấp bội, thân cũng nhiều mà chỉ mới giao thiệp qua internet cũng không ít.

Cũng khoảng cuối thập niên 1990, em trai tôi gửi truyện ngắn đầu tiên của Kim Dung tôi dịch đã lâu nhưng còn bỏ xó lên internet. Đó là truyện Việt Nữ Kiếm. Cũng từ bản dịch này một số bằng hữu đã hỏi thêm về Kim Dung nên vừa khi không còn nặng nợ sách đèn, tôi dịch lại bộ truyện Ỷ Thiên Đồ Long Ký [40 chương], Bạch Mã Khiếu Tây Phong, Uyên Ương Đao và sau cùng là Thiên Long Bát Bộ [50 chương]. Tất cả đều gửi lên vietkiem.com (nay đã không còn hoạt động) cho mọi người cùng đọc. Khi tôi bắt đầu dịch Lộc Đỉnh Ký là một trong hai bộ tôi ưa thích nhất thì trong nước có phong trào dịch lại Kim Dung do một nhà xuất bản mua được bản quyền và ồ ạt tung ra những bản dịch mới. Khi đó tôi chỉ mới dịch được 5 chương trong bộ Lộc Đỉnh Ký thì ngừng lại vì tự nghĩ mình dịch theo lối nhàn tản vui chơi, không nên làm phương hại đến một số dịch giả trong nước cần một phương tiện sinh nhai.

Việc ngưng lại – dẫu có làm thất vọng một số người – nhưng cũng chẳng ai thiệt thòi, có thể lại là cái may cho tôi. Về phương diện chữ nghĩa, dịch Kim Dung tuy có thêm một số kiến thức và gọt dũa văn chương nhưng cũng chỉ đến một giới hạn, không thể đi xa hơn. Lẽ dĩ nhiên đó là một công việc mất nhiều thì giờ, nhiều công phu nhưng thành quả thì không hơn việc mài đá thành gương. Cùng lúc đó, người bạn mới quen của tôi ở VN là anh Lê Anh Dũng đã gợi ý cho tôi là quay về nghiên cứu những vấn đề liên quan đến Việt Nam mà vốn dĩ các nguồn sách báo, tài liệu ở bên ngoài rất phong phú.

Gợi ý đó mở cho tôi một con đường “về nguồn” – con đường mà sau này con trai tôi đã khai triển chính kinh nghiệm của tôi để thành một luận văn về giới đọc sách có thể đóng góp cho quê hương từ xa mà không cần phải về sống trong nước, một đề tài cần được nghiên cứu sâu rộng hơn nếu muốn xóa mờ ranh giới trong ngoài.

Tôi xin trích một vài đoạn cháu viết:

[…] This new period of family life and personal stability marked what Nguyen calls his “second life”. The “first life” was his life in Vietnam and the initial paralysis within the United States, and the steady transition that highlighted his new citizenship within the United States. This duality is common within the Vietnamese American community, as for many the process of healing within the United States meant being able to claim agency of their own lives within the United States and reconnecting with their Vietnamese heritage. Those who were most able to reconcile their two citizenships tended to fare better as American citizens than those who felt alienated by their refuge in the United States. […].

Cuộc sống gia đình và ổn định bản thân đánh dấu một thời k mới mà ông Nguyễn gọi là cuộc đời thứ hai. Cuộc đời thứ nhất là thời gian ông sống ở Việt Nam và lúc ban đầu hụt hẫng khi mới sang bên Mỹ và rồi dần dần hội nhập vào sinh hoạt công dân ở xứ này. Cuộc đời nhị nguyên ấy khá thông thường trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt và đối với nhiều người thì tiến trình hàn gắn vết thương ở trên đất Hoa K là làm sao hội nhập đời sống đồng thời vẫn nối lại được với di sản cũ ở Việt Nam. Những người có khả năng dung hòa hai dòng sinh mệnh ấy thường tiến xa hơn những công dân Mỹ vẫn cảm thấy mình bị tách rời vì cuộc sống di dân nơi xứ sở mới.

[…] For Nguyen, diaspora is the ability for the body to occupy one physical space, but have your own source of cultural, political, and social production that can extend beyond borders and exist in many spaces at once. His ability to live as an American citizen while contributing to academic scholarship in Vietnam has been an important process in his growth and awareness as a global citizen by collaborating, discussing, and disseminating his works among both Vietnamese and Vietnamese American historic scholars. Though there is great interest in his published works in Vietnamese language newspapers and magazines within the United States, the vast majority of his works are published in Vietnam under free licenses, slowly rewriting history one work at a time. This is Nguyen’s greatest form of remittance to the memory of South Vietnam as a Vietnamese expatriate, using the vast access of resources and support he has within the United States to continue his scholarship. It is a transcendental form of healing, filling the soul with purpose where it was once lost in a traumatic rupture of cultural roots.

… Theo ông Nguyễn, cộng đồng [người Việt] là nơi cho ông một không gian sinh sống nhưng phải có những nguồn riêng về văn hóa, chính trị hay sản phẩm xã hội vượt ra khỏi ranh giới và tồn tại nhiều không gian trên cùng một thời gian. Khả năng có thể đồng thời sống như một công dân Hoa K trong khi vẫn đóng góp các nghiên cứu học thuật về Việt Nam đã trở thành một bước tiến quan trọng trong việc vươn lên và nhắc nhở rằng ông còn là một công dân của toàn thế giới nếu ông cộng tác, thảo luận và gieo rắc những công trình của mình đến các học giả về lịch sử -cho cả người Việt lẫn người Mỹ nghiên cứu về Việt Nam. Tuy rất quan tâm đến việc ấn hành các công trình của mình trên các tạp chí, báo chí bằng tiếng Việt ở Hoa K, một số lớn các nghiên cứu của ông đã được in ra rộng rãi không điều kiện tại trong nước để từ từ viết lại lịch sử mỗi lần một ít. Đây là hình thức đền đáp lớn nhất mà ông Nguyễn có thể làm để nhớ lại miền Nam Việt Nam - trong vai trò một người dân xa xứ - sử dụng nguồn tư liệu vô cùng rộng rãi và những yểm trợ có được từ nước Mỹ để theo đuổi các công trình học thuật. Đây chính là phương thức chữa lành k diệu nhất để khỏa lấp tâm hồn qua những mục tiêu vốn dĩ đã nứt rạn khi bị bứng ra khỏi cái gốc rễ văn hóa [của chính mình].

Muốn đi được lâu bền, tôi không thể mon men bước chân vào những khu vực mình còn xa lạ. Chỉ có một đam mê từ nhỏ là lịch sử thì ở bên ngoài tài liệu thiếu thốn, nếu có viết cũng chỉ sao chép lại những người đi trước và cũng thiếu điều kiện để biết cho tinh tường hay kiểm chứng những điều còn nghi vấn. Cho nên hướng đi thì có nhưng khoanh vùng một điểm đến không phải dễ mà viết lan man theo lối “thập cẩm” thì thường chỉ bắt được con tôm con tép chứ làm sao bắt được cá to. Vả lại chiều dài lịch sử nước ta đến mấy thiên niên kỷ, không khéo sẽ lại rơi vào vòng vu khoát viết về những chuyện huyền hoặc đời xa xưa, lấy chữ lòe người, tài liệu một tưởng tượng mười, dù có thành tựu cũng không giá trị gì cả. 


Lại một điều may khác, cũng đang lúc phân vân, tôi được anh Phạm Xuân Hy ở bên Pháp gửi tặng cho cuốn Thanh Cao Tông Thập Toàn Võ Công Nghiên Cứu của Trang Cát Phát[13] là cuốn sách nghiên cứu về 10 chiến dịch đời Càn Long trong đó có lần đưa binh sang An Nam. Chiến dịch này vốn dĩ đã được khai thác rộng rãi, theo tài liệu cũng có mà thêm thắt bằng dật sự, dã sử cũng có. Hầu như tất cả các sách vở nước ta đều đi đến kết luận sau khi bị vua Quang Trung đánh bại, Thanh triều sợ hãi nên rơi vào rất nhiều trò trá ngụy của bên ta mà chỉ đành nhắm mắt làm ngơ. Việc đó đã thành một “lý sở đương nhiên” không ai dị nghị.

Khi đọc lại chiến dịch đánh An Nam theo tài liệu của nhà Thanh tôi tìm ra một sai lệch quan trọng. Đó là hình thức nghi lễ sử triều Nguyễn gọi là “ôm gối” mà vua Càn Long dùng để đón vua Quang Trung [mà sử ta cho rằng là một người giả] kia thực ra là một đại lễ rất trịnh trọng của người du mục có tên là “bão kiến thỉnh an”. Việc ngụy tạo một lễ nghi với nội dung hoàn toàn khác nhau một trời một vực khiến tôi nổi mối nghi ngờ và khi đi xa hơn mới biết rằng triều Nguyễn quả có một thứ lễ đặt tên là “ôm gối” do chính vua Minh Mạng đặt ra và chắc hẳn đã có một dụng ý nào đó khi tìm cách nhập nhằng hai bên là một – dù rằng hoàn toàn khác nhau về mục đích và nguyên ủy.

Thấy một điểm bất thường là đầu dây mối nhợ, tôi bèn bỏ thời gian và công sức để soi sáng vấn đề, kêu gọi bạn bè và thân nhân xa gần cùng tiếp tay tìm cho ra manh mối. Viết sử không phải là việc ngày một ngày hai mà phải có nhiều tài liệu gốc. Cũng may trời cũng chiều người, mỗi bạn bè giúp cho một ít nhưng đều tận tâm tận lực. Nguyễn Hoàng Triệu, Lê Anh Dũng (Saigon) là những người đi tiên phong tìm cho tôi sách cũ trước 1975, các em tôi cũng mua giùm một số sách mới. Tiếp theo đó, một người bạn quí là Nguyễn Bá Dzũng (Hà Nội) cũng không ngại tốn hao tiền bạc, thời gian cùng với một thân hữu làm việc trong Viện Hán Nôm ra sức chụp cho tôi những tài liệu quí hiếm để tôi đối chiếu.

Việc tìm kiếm còn được sự giúp đỡ của nhiều bằng hữu ở bên ngoài. TS Trần Huy Bích, khi đó đang trông coi một bộ phận sách vở Á Đông trong đại học USC giúp tôi tìm những sách Trung Hoa, Xiêm La, Việt Nam …vốn đã tuyệt bản. GS John E. Wills Jr. của trường đại học USC[14] tuy lớn tuổi nhưng cũng tự mình lái xe từ Pasadena xuống đưa cho tôi một số sách hiếm có về bang giao Thanh – Việt trong tủ sách chuyên môn của ông. Anh bạn thân ở gần hơn là anh Hương Hồ Nguyễn Vinh Quang (Cali) thì tìm các loại sách vở do các trường đại học đưa lên mạng. Quan trọng hơn cả, cậu con trai thứ của tôi là cháu Nguyễn Thiên K (UCLA) luôn luôn chịu khó đi mượn cho bố những cuốn sách khó kiếm nhất xuyên qua hệ thống thư viện toàn nước Mỹ nên hầu như đến nay tôi đã đủ sách vở cần dùng, có dịp so sánh và đối chiếu từ nhiều nguồn khác nhau để tìm ra đáp số cho một khoảng trống lịch sử mà lâu nay chưa mấy ai quan tâm đúng mức.

Trở lại với việc học chữ Hán, trong khoảng mươi năm nay, chính vì phải “đánh vật” với cái dự án to lớn này, việc đọc chữ Hán, hiểu chữ Hán không còn là một việc rong chơi như khi dịch truyện chưởng mà là một nỗ lực bắt buộc. Tuy sức khỏe không còn như thời trai tráng, trí nhớ cũng giảm sút, nhờ có chút vốn cũ, cái cỗ xe ấy cũng vẫn hoạt động một cách đều hòa dẫu đôi khi trái nắng trở trời. Điều hao tổn tâm trí nhiều hơn cả hiện nay là việc làm sao hoàn thành những phần bộ chính rồi sau đó ráp lại cho thành một đề tài chuyên nhất mà khi viết riêng rẽ có nhiều trùng lặp. Một nỗ lực cũng đáng quan tâm là việc dịch lại những tài liệu - trước đây vì chưa có bản gốc nên phải dựa theo các tác giả đi trước - nay phải dành thì giờ thêm phần chính văn và bản dịch theo cách hiểu của mình cho thống nhất. Thành thử, trước đây tôi hay dịch từng phần, nay muốn cho đỡ khó khăn khi phải lục lại những đoạn cũ, tôi cất công một lần dịch luôn cho xong – nhất lao vĩnh dật[15] – như cổ nhân thường nói.

Trong công tác phụ đó, ba năm gần đây, bên cạnh những nghiên cứu chính yếu tôi đã hoàn tất được bản dịch Khâm Định An Nam Kỷ Lược (khoảng 700 trang), Đại Việt Quốc Thư (khoảng 300 trang), Bắc Hành Lược Ký (ngoài 200 trang), một số văn kiện rải rác trong văn khố nhà Thanh và một vài di cảo của các tác giả Việt Nam (Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn …). Tốc độ dịch sử liệu không thể nhanh, hiểu biết cũng chưa chắc chắn vì là việc vừa làm vừa học, biết đến đâu làm đến đó. Chữ Hán đã thành một dụng cụ làm việc, một phương tiện để đưa tôi vào kho tài liệu của cổ nhân, là cỗ xe để di chuyển hàng ngày chứ không phải là một món đồ trang điểm.

Khi dịch lại những văn liệu cũ, chúng ta không phải chỉ chuyển nghĩa từ một chữ Hán sang tiếng Việt mà còn được thở cái không khí của cổ nhân khi viết những dòng chữ này. Cũng như một diễn viên phải hội nhập vào vai mình đang đóng, người dịch cũng cần sống và suy nghĩ như ông cha mình trong một hoàn cảnh không phải lúc nào cũng xuôi chèo mát mái, mà luôn luôn phải cau mày bóp trán để tìm được một lối giải quyết êm đẹp nhất.

Nhìn lại cuộc đời trong 60 năm qua, nghiên cứu Sử là một cái duyên – hay nghiệp – khởi đầu thật mơ hồ. Chữ Hán vốn chỉ là một trò chơi của một đứa bé nay thành một phương tiện không thể thiếu của giới chuyên ngành. Thế nhưng có đi trên con đường này chúng ta mới thấy cái nỗ lực, kiên trì mà những người đi trước đã trải qua, nhìn vào những dòng chữ ngoằn ngoèo kia để tìm lại cái không gian xưa cũ.


Nguyễn Duy Chính

2/2014

 


[1] Trước năm 1975, ở miền Nam thầy dạy bậc trung học đều được gọi là giáo sư

[2] [Nguyễn Đăng Thục đề tựa và và Huyền Mặc đạo nhân hiệu đính] Saigon: Yên Sơn, 1959

[3] Trong tủ sách giáo khoa Trường Sơn. Saigon: Việt Hùng, 1959

[4] Những lá thư này không phải trích từ cuốn Quốc Văn toàn thư mà sưu tầm từ nguồn khác, tuy chưa so sánh nhưng tôi tin rằng không có gì khác biệt.

[5] Ðàn ông không vợ gọi là quan, đàn bà goá chồng gọi là quả

[6] 公爾忘私 Hết lòng vì việc chung mà phải quên việc riêng. Trích từ câu của Lý Chí (李贄) đời Minh: 公爾忘私,而其父又唯知日夜傷晃氏之不安矣。(công nhĩ vong tư, nhi k phụ hựu duy tri nhật dạ thương hoảng thị chi bất an hĩ ). Trong bản của Chương Thâu viết là “công nhi vong tư”.

[7] Lá thư này chép lại từ Phan Bội Châu toàn tập, tập 4, Chương Thâu sưu tầm và biên soạn. (Huế: Thuận Hoá, 1990), nguyên tác “Kể cho các con nghe về bà Phan Bội Châu” từ trang 349-351 rút ra trong Phan Bội Châu tiên sinh di cảo (tài liệu chép tay của Tống Châu Phu), 1936.

[8] Khi ấy là De Lanessan

[9] Hai bài này tôi lấy lại từ Tuyển tập Đào Trinh Nhất (Văn Học: 2000) tr. 170-6. Đây chỉ là bản dịch từ nguyên tác chữ Hán. Nguyên tác hai bức thư này thấy trong Hồng Liên Lê Xuân Giáo: “Thân Thế và Sự Nghiệp vị anh hùng dân tộc Phan Đình Phùng” Tạp Chí Khảo Cổ [bộ mới: số 1) (Khối Văn Hóa, Bộ Văn Hóa Giáo Dục Saigon, 1967) tr. 41-7 nhưng tiếc thay chỉ dịch âm mà không có nguyên bản chữ Hán.

[10] Văn ngôn là văn viết theo lối cổ ngày xưa, khác với bạch thoại là viết theo văn nói sau này.

[11] Còn gọi là Thần Tướng Toàn Thiên (神相全篇)

[12] Trẻ, TpHCM, 2002

[13] 莊吉發,清高宗十全武功研究 (Đài Bắc: Quốc Lập Cố Cung Bác Vật Viện, 1982). Trước đây tôi mua được cuốn Càn Long Trọng Yếu Chiến Tranh Chi Quân Nhu Nghiên Cứu 乾隆重要戰爭之軍需研究 của Lại Phúc Thuận (賴福順) (Ðài Bắc: Quốc Lập Cố Cung Bác Vật Viện, 1984) nhưng chưa có dịp dùng, nay có hai quyển nên đọc thấy vấn đề đã có một tia sáng.

[14] https://dornsife.usc.edu/cf/faculty-and-staff/faculty.cfm?pid=1003823

[15] Một lần mệt nhọc nhưng được nhàn hạ mãi mãi

Nguyễn Duy Chính: Trước khi đi vào LỘC ÐỈNH KÝ

 

 

TRƯỚC KHI ÐI VÀO LỘC ÐỈNH KÝ

Nguyễn Duy Chính

4/2003

 


Như vậy là sau gần hai năm “đánh vật” với Thiên Long Bát Bộ (TLBB), bộ truyện dài nhất và cũng nhiều tình tiết của Kim Dung nhất đã hoàn tất. Trong hai năm đó, bên cạnh việc chuyển ngữ 2124 trang sách, người dịch cũng có dịp tìm hiểu về một số vấn đề trước nay chỉ biết qua và chính vì công tác dịch thuật Thiên Long Bát Bộ khiến phải lao đầu vào tìm đọc và nghiên cứu. Mặc dù những hiểu biết về những lãnh vực đó chỉ mới phớt qua trên mặt bì phu nhưng cũng đáng kể để bổ túc vào cái sở học hạn chế của mình.

Trước hết, chúng tôi đã lược qua về bối cảnh chính trị, quân sự, văn hóa của thời kỳ rực rỡ nhất trong văn minh Trung Hoa mà đến nay những sử gia, khảo cổ gia, và những người nghiên cứu còn kinh ngạc. Ðó là giai đoạn Ðường – Tống với những thành tựu về văn học, nghệ thuật, lý học, số học ... mà Kim Dung đã khai thác triệt để trong những tác phẩm của ông. Biên khảo Hậu Cảnh Thiên Long Bát Bộ chính là đề tài đề cập đến những điểm nêu trên và sẽ được đặt lên lời nói đầu để người đọc bản dịch Thiên Long Bát Bộ am tường hơn về xã hội được đề cập trong tác phẩm.

Thời kỳ đó một mặt dân tộc Trung Hoa đạt được nhiều thành tựu, mặt khác lại có những mất quân bình của một xã hội thoái trào, của một nền văn minh đã qua khỏi cái đỉnh cao của nó để trở thành xa hoa, phù phiếm khiến cho về mặt quân sự, nhà Tống thua sút hẳn các nước chung quanh. Ở mạn bắc thì họ bị Khất Ðan, Nữ Chân, Mông Cổ đe dọa, phía tây họ bị Tây Hạ, Thổ Phồn khinh nhờn, phía đông thì bị những hải quốc dong thuyền cướp phá, phía nam cũng không yên với Ðại Lý, Ðại Việt. Phương pháp cầu an của triều đình nhà Tống là trả tiền để mua lấy hòa bình. Họ giữ được hòa hiếu với các quốc gia lân bang bằng tiến cống, bằng nhượng bộ và việc thua trận và bị mất về tay người Mông Cổ vào thế kỷ XII là chuyện gần như đương nhiên.

Tìm hiểu về khung cảnh đó cũng giúp cho người dịch có cái nhìn khách quan hơn về khung cảnh chung của toàn thể châu Á, với nhiều nguồn văn minh khác nhau, mỗi khu vực phát triển theo nét đặc trưng riêng của mình, khu vực Nam Á và Cận Ðông nặng về tôn giáo và thần bí, khu vực Bắc Á thiên về chinh phục và chiến đấu trong khi Ðông Á lại phát triển về văn học, nghệ thuật. Mỗi nơi có một số ưu điểm nhưng khi có sự đụng chạm để sống còn thì văn minh Trung Nguyên đã không thể tự vệ được vì thiếu những yếu tố chủ đạo cho việc chiến đấu.

Cũng chính có dịp đọc lại sử liệu của thời kỳ này, người viết đã có cái nhìn tổng quát hơn về đất nước mình vào giai đoạn vừa giành được tự chủ sau hơn 10 thế kỷ bắc thuộc và cũng nhận thức được phần nào sức mạnh chủ đạo của dân tộc, những yếu tố đóng góp vào chiến thắng chống ngoại xâm trải dài khắp mọi triều đại.

Về khoa học kỹ thuật, Trung Hoa thời đó đã đạt được những thành tựu khá lớn với những phát kiến mới mẻ áp dụng được nhiều nguyên tắc cơ học, động học. Biên khảo Thành Tựu Khoa Học của Trung Hoa Thời Trung Cổ giúp chúng ta có cái nhìn chính xác hơn về giai đoạn này.

Về sinh hoạt kinh tế, một bảng tóm tắt sự phát triển của Tiền Tệ và Hệ Thống Ðo Lường giúp người đọc thêm một số kiến thức về hệ thống kim ngân, hóa tệ, chỉ tệ làm xương sống cho kinh tế Trung Hoa, những thay đổi theo thời gian, và những định chế kinh tế. Tuy không giải thích được toàn bộ, chúng ta cũng hình dung được thế nào là một lượng bạc, kim nguyên bảo, tiền đồng và tiền giấy của giai đoạn đó và những hiệp khách của Kim Dung đã tiêu xài như thế nào.

Bên cạnh những phát triển về văn chương nghệ thuật, đời sống của giới thượng lưu Trung Hoa cũng đã đạt tới cao điểm của một xã hội hưởng thụ trong đó họ ca tụng những thú vui cầm kỳ thư họa và y phục, ẩm thực. Hai nghiên cứu riêng biệt về Cờ Vây và Hoa Trà (camellia) đóng góp một số dữ kiện, cũ và mới, giải đáp một số thắc mắc vẫn từ lâu khiến người dịch chưa thỏa mãn. Trên phương diện văn hóa, những thưởng ngoạn đó có những giá trị nhất định nhưng cũng như nhiều bộ môn vui chơi khác, tới một mức nào đó đã trở thành một hình thức trói buộc hao phí khá nhiều tâm tư, tài nguyên, thời gian một cách phù phiếm, làm trò mua vui cho cả một tầng lớp sĩ phu đàm văn luận võ trên giấy tờ (chỉ thượng đàm binh) mà lúc giặc đến không ai nghĩ ra được một mẹo nhỏ để đẩy lui quân địch. Ðể che đậy cái mặc cảm vô dụng, sĩ phu Trung Hoa hết sức đề cao tư cách Văn Thiên Tường với bài Chính Khí Ca coi như khuôn mẫu của bất khuất nhưng thực tế khi đọc lại cuộc đời và công nghiệp của họ Văn, thái độ đó cũng chỉ là một hình thái thụ động và tiêu cực.

Ẩm Thực nói đến cái cầu kỳ của người Trung Hoa trong ăn uống, cái quan niệm “dĩ thực vi thiên” (ăn là trời) mà họ thường đề cao với những truyền kỳ về những món ăn trên đời khó kiếm trong đó chúng tôi nhắc lại lịch sử khoa ẩm thực và bát trân là những món ăn của vua chúa, kể lại bữa ăn vô cùng vĩ đại của Tây Thái Hậu đời Thanh mà ngoại sử còn truyền tụng.

Nghiên cứu về Kinh Lạc, Khí Công soi sáng và bổ túc một số huyền thoại và tưởng tượng của Kim Dung, những tuyệt kỹ ông dựa vào khiến cho nhiều người trong chúng ta lầm tưởng không phân biệt giữa thật và giả. Tuy những kiến thức đó xuất hiện trong mọi tác phẩm của nhà văn Hương Cảng, Thiên Long Bát Bộ đặc biệt hơn cả khi nói đến khá nhiều về những tuyệt kỹ của họ Ðoàn Ðại Lý bao gồm Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm. Khí công cũng lược qua những nghiên cứu của nhiều học giả cố gắng soi sáng những huyền thoại bằng các kiến thức mới và từ đó chúng ta có thể phân biệt được thực giả, đúng sai ngõ hầu chọn cho mình một phương pháp tập luyên phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh cá nhân.

Một thiên khảo luận khá đặc biệt khác là Y Phục Trung Hoa Thời Trung Cổ dựa trên những tài liệu và khai quật mới để minh họa lại con người thời kỳ đó, không phải chỉ Hán tộc mà cả những dân tộc chung quanh, cho chúng ta một cái nhìn rõ rệt hơn về đời sống và quan niệm sắc đẹp cách đây 1000 năm, dựng lại hình ảnh mỹ nhân Trung Hoa với nét mô tả “hải đường hàm lộ” (hoa hải đường ngậm hạt sương) đó trên thực tế như thế nào.

Ngoài những biên khảo và tìm hiểu liên quan trực tiếp đến bộ truyện, những biên khảo vòng ngoài cũng cho người dịch những phát kiến mới. Thiên khảo cứu Danh Tính, Cách Xưng Hô Của Trung Hoa và Người Phụ Nữ Trung Hoa Cổ Thời cho chúng ta một số tia sáng về tôn ti trật tự và lễ giáo của xứ con trời và những chi tiết chúng ta vẫn tưởng mình biết rất nhiều nhưng thực sự lại không rõ rệt lắm.

Mặc dù còn nhiều đề tài có thể tiếp tục, chúng tôi cũng ngừng lại để chuyển sang tác phẩm sau cùng và cũng là tác phẩm được nhiều người đánh giá là vượt trội hơn cả của Kim Dung. Lộc Ðỉnh Ký không thuần túy là một tác phẩm võ hiệp như những tác phẩm trước, nhưng lại có nhiều chi tiết xã hội và lịch sử, lắm khi có những đoạn ông viết tưởng chừng như để đặt vấn đề với chính chúng ta khi phần lớn người Việt Nam bị vướng mắc vào cái quan niệm chính thống, ngụy triều ai ai cũng đi tìm một phương thức khôi phục lại một hình ảnh đã mất mà quên rằng những bóng ma cũ đó đã biến mất theo thời gian, thế hệ năng động nhất đang trưởng thành và là cột xương sống cho đất nước ngày nay hầu như không còn liên hệ gì với cái quá khứ đó nữa.

Lộc Đỉnh Ký (LDK) có thể nói là một tuyệt tác với những người tương đối lớn tuổi khi cuộc đời chồng chất, từng trải qua những kinh nghiệm bản thân mới thấy thấm thía cái câu nói “chỉ có nơi kỹ viện và chốn quan trường con người ta mới thực sự ...”. Bên cạnh cái mưu mẹo, quỉ quyệt của con người, chúng ta cũng lại được nhìn rõ cái thủ thuật xưng tụng cá nhân thường hiện diện trong những xứ độc tài, với hình ảnh lãnh tụ được xem như một thần minh, được tô điểm và đề cao một cách lố bịch. Bút pháp của Kim Dung càng lúc càng điêu luyện mà chúng ta đã thấy qua Tinh Tú Lão Quái Ðinh Xuân Thu trong Thiên Long Bát Bộ, sang Ðông Phương Bất Bại và Nhiệm Ngã Hành của Tiếu Ngạo Giang Hồ, rồi tới Hồng giáo chủ trong Lộc Đỉnh Ký.

Nét hài hước đó đã tô vẽ những nét thật đậm cho thế cục, nhất là ảnh hưởng của nó trong thập niên 60, 70 của thế kỷ vừa qua, đóng góp không nhỏ vào việc khai trừ những chế độ độc tài, độc đoán trong xã hội loài người trong tiến trình đi lên của nhân loại. Riêng với người Việt Nam, sự diễu cợt đó cũng giúp chúng ta điều chỉnh lại một số sinh hoạt xã hội và gián tiếp đẩy lùi một số tín niệm tôn giáo và chính trị khiến con người của thời đại mới nhìn nhau trong chiều hướng bao dung hơn và cũng dễ chấp nhận sự khác biệt hơn, xóa đi cái quan điểm trắng đen phân biệt một cách rạch ròi, ta địch một cách tuyệt đối.

Lộc Đỉnh Ký có một bối cảnh khá đặc biệt, kéo dài nhiều năm trong thời vua Khang Hi. Nếu đem đối chiếu với những niên biểu thực sự của lịch sử, chúng ta thấy có nhiều chỗ không ăn khớp. Kim Dung ngoài việc hư cấu khá nhiều tình tiết, ông cũng phải bẻ lại hướng đi và niên đại để cho những tình tiết đó thêm hợp lý. Chính vì thế, Lộc Đỉnh Ký cũng như bao nhiêu bộ truyện khác của Tra tiên sinh, chúng ta chỉ nên đọc để giải trí mà thôi. Mặc dầu có khá nhiều nhân vật lịch sử thực như Khang Hi, Ngao Bái, Ngô Tam Quế, Ngô Ứng Hùng, Trịnh Khắc Sảng, Thi Lang ... nhưng những nhân vật đó cũng không hoàn toàn theo sách vở mà chỉ là một sản phẩm được mượn tên để giúp Kim Dung trình bày câu truyện của ông. Tuy nhiên không phải vì thế mà chúng ta không có cái thú vị khi đem ra mổ xẻ những nhân vật này, so sánh con người của họ theo sử sách và theo tiểu thuyết.

Chúng tôi cũng có dịp đọc lại lịch sử đảo Ðài Loan để nhìn lại khung cảnh sinh hoạt xã hội triều Thanh và ảnh hưởng của các bang hội Trung Hoa, điển hình là Thiên Ðịa Hội, sự phát triển để từ một nhóm ái quốc trở thành một xã hội đen với tất cả những mặt trái của nó. Cái tâm lý Lương Sơn Bạc mà người Trung Hoa bị tiêm nhiễm ngay từ nhỏ tuy cũng tạo nên một số đặc điểm văn hóa – mà người ta gọi là nghĩa khí – chạy dọc theo các tiểu thuyết Kim Dung thì thực tế lại cũng đem tới những hoạt cảnh không biết nên xiển dương hay chê trách. Nghĩa Hòa Ðoàn thời Thanh mạt, Thanh Bang thời nội chiến, những băng đảng Á Châu tại khắp các cộng đồng người Hoa trên thế giới với những tội ác của họ cũng một phần chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết võ hiệp.

Về văn phong, theo nguyên bản của Kim Dung, chúng ta cũng thấy văn chương trong tiểu thuyết của ông thay đổi theo thời gian và càng ngày ông càng sử dụng rộng rãi hơn những từ ngữ đường phố (street language, vulgar language, colloquial language), nói nôm na là văn chương đầu đường xó chợ, mặc dầu không hẳn ông dùng nó để lôi kéo người đọc bằng một lối văn tả chân mà chỉ để cho phù hợp hơn với tâm lý và cá tính của mỗi người. Những nhân vật “bình dân” đó đi từ Chu Ðiên ở Ỷ Thiên Đồ Long Ký (YTDLK) sang Bao Bất Ðồng, Nam Hải Ngạc Thần trong Thiên Long Bát Bộ, tới Bất Giới Hoà Thượng, Ðào Cốc Lục Tiên trong Tiếu Ngạo Giang Hồ (TNGH) và rồi trở thành một nhân vật chính trong Lộc Đỉnh Ký dưới con người Vi Tiểu Bảo khiến cho người dịch cũng như người đọc cũng phải thay đổi văn phong cho phù hợp với tâm lý mới. Phải nói rằng những danh từ thô tục và những câu chửi của người Việt Nam tuy rất phong phú và đa dạng[1] nhưng lựa chọn làm sao để cho văn chương không trở thành hạ lưu, lại giữ được cái dí dỏm của nguyên tác là điều không phải dễ dàng.

Một điểm bất lợi cho chúng tôi là sự tiếp cận với quần chúng nhất là quần chúng bình dân càng ngày càng hiếm hoi, khiến cho lắm khi nghĩ mãi không ra một chữ để dùng cho chính xác. Làm thế nào để giữ được văn phong của tác giả, lại chuyên chở được cái đa dạng và dồi dào của tiếng nước mình là một vấn đề lớn.

Thành thử, cũng như những bản dịch trước, Lộc Đỉnh Ký cũng là một công trình tập thể mà sự góp ý của độc giả đóng một vai trò quan trọng để tìm ra một lối diễn tả thích đáng nhất. Xuyên qua những liên hệ thư từ, người dịch được biết một số anh em trẻ trong nước cũng có dụng tâm muốn đưa ra những bản dịch khác khi thấy nhiều ấn bản mới chưa đáp ứng được mong đợi của người đọc. Những nỗ lực đó ít nhiều cũng đặt ra nhiều suy nghĩ không phải cho riêng một ai.

Thứ nhất, thanh niên ngày nay không còn “dễ bảo” như vài mươi năm trước. Họ có những tiếp cận mới và với trình độ của họ, những đánh giá đều có cơ sở và đặt ra những tiêu chuẩn cao hơn những gì có sẵn. Tiếng nói của họ cũng là những cảnh báo về nhu cầu và nhất là tiếng nói của “người tiêu thụ” muốn có những sản phẩm tương xứng với tiền bạc họ phải trả. Tương quan giữa bán và mua, giữa sản phẩm và giá cả, giữa nhu cầu và cung cấp là những bàn tay vô hình điều chỉnh thị trường, bài học sơ đẳng và cơ bản của chủ nghĩa tư bản vẫn ít nhiều có giá trị để báo động cho nhà cung cấp biết rằng thời kỳ độc quyền không cho phép người đọc được chọn lựa đã qua.

Thứ hai, mỗi một loại sản phẩm cũng có nhiều mức độ và nhiều loại mặt hàng để thị trường tự điều chỉnh tiền nào của nấy. Mỗi bản dịch ít nhiều phải có được những giá trị mới nếu muốn được chấp nhận chứ không thể chỉ làm qua quít lấy có để đánh lừa người mua.

Thứ ba một người dịch có tư cách phải nhận thức được đối tượng của mình và tập trung vào nhu cầu của người đọc. Không một bản dịch nào có thể thỏa mãn mọi tầng lớp độc giả và bản dịch chỉ là một trung gian giữa người dịch và người đọc và hai bên chia xẻ với nhau một số điểm chung. Dù người dịch hay người đọc thì chúng ta vẫn là những thực thể độc lập, có những khác biệt không thể san bằng và ai ai cũng cần sự khoan nhượng và tự hiểu mình chỉ là một cá nhân trong tập thể.

 

Nguyễn Duy Chính


[1] Người viết đã từng được thấy một cuốn Từ Ðiển về tiếng chửi của người VN do một giáo sĩ Pháp biên soạn và ấn hành và đã cực kỳ kinh ngạc về sự phong phú của ngôn ngữ bình dân. Các bạn nào đã từng xem những đoạn văn chửi mất gà của Nam Cao, Tô Hoài ghi lại sẽ thấy văn chương sỉ mạ rất có bài bản lớp lang.