Minh Phương

 Ý Nghĩa Các Ngày 19 Tháng 8 Và 2 Tháng 9

Đối Với Người Việt Hiện Nay


Minh Phương

Hàng năm, cứ đến tháng 8 dương lịch là chế độ CS Việt Nam tưng bừng tổ chức ăn mừng ngày 19 tháng 8, ngày họ cướp được chính quyền từ chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945, và ngày 2 tháng 9, ngày ông Hồ Chí Minh đọc “Tuyên ngôn độc lập” tại công trường Ba Đình, Hà Nội. Ít hàng phía sau nhằm cung cấp chút hiểu biết cần thiết cho một số bạn ở thế hệ trẻ, những người chưa có hoàn cảnh biết nhiều về hai sự kiện lịch sử ấy.

Những người Cộng sản Việt Nam cũng luôn luôn khoa trương rằng họ có công lãnh đạo dân tộc trong hai cuộc chiến tranh lớn: 1) Đánh Pháp để giành độc lập, và 2) Đánh Mỹ để thống nhất đất nước. Vì thế họ có quyền – và được độc quyền -- lãnh đạo đất nước. Họ đồng hóa thể chế của họ với Tổ quốc Việt Nam. Ở trong nước, ai lên tiếng phê phán chế độ sẽ bị ghép  vào tội phản quốc.

Năm nay 2025, đúng 80 năm sau khi những người CS Việt Nam giành được chính quyền năm 1945 và đưa dân tộc vào hai cuộc chiến tranh thảm khốc, tuy chấm dứt năm 1975 nhưng hậu quả và tình trạng phân hóa tới nay vẫn còn trầm trọng, chúng ta cũng nên bình tâm xét lại thực chất của cuộc “cách mạng” cùng nguyên do của hai cuộc chiến tranh ấy, rồi nhận định một cách khách quan xem công nghiệp của đảng CS Việt Nam lớn đến mức nào.

 

1.   “Đánh Pháp để giành độc lập”

Sau khi Thế chiến thứ 2 (World War II) chấm dứt năm 1945, các cường quốc Âu Mỹ ý thức được rằng trong hoàn cảnh mới, việc tiếp tục giữ các nước châu Á làm thuộc địa là điều không chấp nhận được nữa. Chế độ thuộc địa đã đến lúc phải cáo chung. Vì thế:

-- Hoa Kỳ trả độc lập cho Philippines. Philippines tuyên bố độc lập ngày 4 tháng 7 năm 1945.

-- Anh trả độc lập cho Ấn Độ. Ấn Độ độc lập từ năm 1947.

-- Anh trả độc lập cho Miến Điện (tên cũ Burma, tên hiện nay Myanmar). Miến Điện độc lập từ tháng 1-1948.

-- Anh trả độc lập cho Mã Lai (tên cũ Malaya, tên hiện nay Malaysia). Vốn do nhiều tiểu bang hợp lại, khung cảnh chính trị có phần phức tạp, Mã Lai được tự trị năm 1948, và hoàn toàn độc lập năm 1957.

-- Hòa Lan trả độc lập cho Nam Dương. Lúc đầu, giới thực dân Hòa Lan tham lam không chịu trả, dân Nam Dương phải tranh đấu bằng võ lực trong 4 năm. Sau nhờ áp lực của thế giới, nhất là từ Hoa Kỳ, Nam Dương được hoàn toàn độc lập từ tháng 12-1949.

-- Dân tộc duy nhất ở châu Á phải tranh đấu gian khổ đến năm 1954 và sau đó, đất nước bị chia cắt, là Việt Nam. Tuy có cảm tình với nền độc lập của Việt Nam, Hoa Kỳ đã không làm áp lực với chính phủ Pháp như đã làm với chính phủ Hòa Lan tại Nam Dương, không ép họ phải trả độc lập cho chính phủ Hồ Chí Minh. Lý do: Đó là một chính thể Cộng sản, và Hồ Chí Minh với nhiều bí danh khác nhau, đã được phát hiện là một chuyên viên của Cộng sản quốc tế, từng được huấn luyện ở Nga. Theo Gs. Tường Vũ, trong cuốn Vietnam’s Communist Revolution (New York: Cambridge University Press, 2017), sau khi tìm đọc thật kỹ trong Văn Kiện Đảng Toàn Tập của chế độ CS Hà Nội, vị giáo sư Chính trị học và Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Á châu tại University of Oregon đã phát hiện rằng ngay từ năm 1946, trước khi Mao Trạch Đông thành công ở Trung Hoa, trong các văn kiện Đảng, chính thể Hồ Chí Minh luôn luôn ca ngợi “các lực lượng của xã hội chủ nghĩa” do Liên Xô dẫn đầu và kịch liệt đả kích “chủ nghĩa đế quốc” (chỉ Hoa Kỳ) ¹. Tuy cộng tác với một số sĩ quan OSS của Hoa Kỳ năm 1945, tuy dùng một tấm hình mang chữ ký của tướng Claire L. Chennault để khoe với nhiều người là “được Mỹ giúp,” tuy dẫn lời bản “Tuyên ngôn độc lập” của Hoa Kỳ cho bản Tuyên ngôn do mình soạn, ông Hồ Chí Minh không phủ nhận sự kiện là một người Cộng sản. Trong những năm 1945, 1946, bên cạnh việc viết thư cho Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman, ông cũng viết thư kêu gọi sự giúp đỡ của lãnh tụ Liên Xô Stalin, và cùng không được trả lời. Ngay từ những năm 1941, 1942, báo Việt Nam Độc Lập do Hồ Chí Minh chủ trương, đã đăng những bài ca tụng nước Nga như một thiên đường, và viết, “Chỉ khi nào nước Nga toàn thắng, thế giới mới được thấy những ngày vinh quang” ². Cuối năm 1945, tuy tuyên bố “đảng Cộng sản tự ý giải tán” để che mắt dư luận, báo Sự Thật của “Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác” do Trường Chinh điều hành, trong số ra ngày 5 tháng 12, 1945, vẫn xác quyết, “Con đường duy nhất có thể đưa nhân loại đến tự do, hòa bình, và hạnh phúc, là ‘thực hiện triệt để’ chủ nghĩa Mác” (các trang 104-105) ³.

Mấy chục năm sau nhìn lại, theo nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, cuộc “Cách mạng tháng Tám” của Mặt trận Việt Minh năm 1945, thực ra chỉ là một hành động cướp chính quyền, và những người CS cũng dùng động từ “cướp.” Đáng buồn hơn, việc cướp ấy không cần thiết vì ở Việt Nam, sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh ngày 15 tháng 8 năm 1945, ở Việt Nam có một khoảng trống quyền lực:


-- Người Pháp: Đã bị người Nhật gạt ra bên lề sau cuộc đảo chính ngày 9 tháng 3 năm 1945, các nhân vật trọng yếu bị Nhật bắt giam.


-- Người Nhật: Đã đầu hàng sau khi thua trận, nhất là sau khi nước Nhật bị hai quả bom nguyên tử.  Họ đang chuẩn bị giao nộp võ khí để sẽ được đưa về nước.


-- Chính phủ Trần Trọng Kim: Gồm một số nhà giáo, trí thức … không có tham vọng chính trị, được kêu gọi đứng ra quản trị đất nước sau khi chính quyền Pháp bị Nhật đánh đổ, chỉ quan tâm đến các vấn đề xã hội, cứu tế (đang có nạn đói trầm trọng), y tế, giáo dục …. Các vị sẵn sàng từ chức khi có người thay, và sau đó đã từ chức.


-- Vua Bảo Đại: sẵn sàng thoái vị, tuyên bố “Thà làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ.”


Trong cuốn Bảo Đại, Trần Trọng Kim và Đế quốc Việt Nam (California : Truyền Thống Việt, 2017), Gs. Phạm Cao Dương đưa ra nhiều tài liệu cho thấy trong phiên họp giữa Hoàng đế Bảo Đại và Nội các Trần Trọng Kim ở  Huế ngày  17 tháng 8 năm 1945, bên cạnh ý kiến giao hẳn quyền cho Việt Minh, có ý kiến của Luật sư Vũ Văn Hiền, Bộ trưởng Tài chánh, là: Việt Nam cần có một chính phủ hợp pháp để bảo đảm được trật tự, và để khi Đồng Minh tới, có sẵn một chính phủ đúng danh nghĩa pháp lý, có tư thế và thẩm quyền đối thoại với họ, không để họ mượn cớ là Việt Nam đang hỗn loạn, vô chính phủ mà giúp thực dân Pháp trở lại Việt Nam. Để đạt mục đích ấy, nên trao cho lực lượng Việt Minh quyền lập chính phủ, nhưng giữ lại thể chế quân chủ hiện có (đổi thành quân chủ lập hiến)
. Ý kiến ấy được các vị Bộ trưởng am hiểu về luật, các ông Trịnh Đình Thảo, Trần Văn Chương và Phan Anh tán thành. Một đạo Dụ được soạn thảo ngay sau đó: Dụ số 105 ngày 17 tháng 8 năm 1945. Vua Bảo Đại sẵn sàng giao chính quyền cho Việt Minh là một tổ chức đấu tranh, và mời các lãnh tụ Việt Minh tới Huế để thành lập Nội các .

Ngay từ đầu tháng 8 năm 1945, trong cương vị người cầm đầu Chính phủ, Thủ tướng Trần Trọng Kim cũng đã có ý định mời những người Việt Minh cộng tác. Nhân từ Huế ra Hà Nội, cụ nhờ Khâm sai Phan Kế Toại bắn tiếng mời Việt Minh cử đại diện đến nói chuyện. Tuy người tới gặp cụ còn rất trẻ, nhà giáo lão thành, tác giả Việt Nam Sử Lược đã nói như sau:

“Chúng tôi ra làm việc chỉ vì nước mà thôi, chứ không có ý cầu danh lợi gì cả, tôi chắc đảng các ông cũng vì nước mà hành động. Nếu vậy chúng ta tuy đi con đường khác nhau nhưng cũng một mục đích như nhau. Các ông thử xem ta có thể hợp tác với nhau, kẻ ở trong người ở ngoài, để cứu nước được không?”  Trong những hàng phía sau, cụ Trần Trọng Kim tóm lược cuộc đối thoại giữa cụ và người đại diện của Việt Minh:

Người ấy nói: “Sự hành động của chúng tôi đã có chủ nghĩa riêng và có chương trình nhất định để đem nước đến chỗ hoàn toàn độc lập. Chúng tôi có thể làm lấy được.”

--  “Sự mưu cầu cho nước được độc lập cũng là mục đích của chúng tôi, nhưng vì đi đường thẳng có nhiều sự khó khăn nên chúng tôi phải uyển khúc mà đi từ từ có lẽ chắc chắn hơn.”

--  “Chúng tôi chỉ có một con đường thẳng đi đến hoàn toàn độc lập chứ không có hai.”

--  “Theo như ý các ông như thế, tôi sợ rất hại cho dân, mà chưa chắc đã thành công được.”

--  “Chúng tôi chắc thế nào cũng thành công. Nếu có hại cũng không cần, có hại rồi mới có lợi. Dù người trong nước mười phần chết mất chín, chúng tôi sẽ lập một xã hội mới với một thành phần còn lại, còn hơn với chín phần kia” (nhấn mạnh của người chép lại).

Rồi người ấy ngồi đọc một bài hình như đã thuộc lòng để kể những công việc của đảng Việt Minh. Thấy thái độ người ấy như thế, tôi biết không thể lấy nghĩa lý nói chuyện được. Tôi nói:

--  “Nếu các ông chắc lấy được quyền độc lập cho nước nhà, sao các ông không vào chính phủ làm việc, cần gì phải đánh phá cho khổ dân?”

--  “Chúng tôi sẽ cướp lấy quyền để tỏ cho các nước Đồng Minh biết chúng tôi mạnh, chứ không chịu để ai nhường.”

--  “Các ông có chắc là các nước Đồng Minh tin ở sức mạnh của các ông không?”

--  “Chắc lắm. Chắc trăm phần trăm.”

--  “Tương lai còn dài, các ông nhận lấy trách nhiệm đối với quốc dân và lịch sử ” .


Theo Gs. Phạm Cao Dương, người thay mặt Việt Minh đến gặp cụ Trần Trọng Kim hôm ấy là Lê Trọng Nghĩa. Các tài liệu về ông Nghĩa cho thấy ông sinh năm 1922 (năm 1945 mới 23 tuổi). Sau khi Việt Minh thành công ông được bầu vào Quốc Hội, rồi làm Cục trưởng cục Quân báo. Ông được thăng đến Đại tá Chánh Văn phòng, làm Trợ tá cho tướng Võ Nguyên Giáp. Năm 1968 ông bị bắt vì bị coi là có liên quan đến nhóm “Xét lại chống Đảng,” bị giam và phải “lao động cải tạo” từ 1968 đến 1976. Ông bị khai trừ khỏi đảng CS, mất hết chức vụ và quyền lợi. Sau 47 năm giữ im lặng, trước khi qua đời năm 2015 ông để lại di chúc yêu cầu được minh oan. Theo một bạn thân của ông là Trần Đĩnh (Đèn Cù, Quyển 2, trang 535-549), ông Nghĩa rất đau lòng vì nỗi khổ của các con: trong lý lịch, họ bị coi là con một người phản Đảng. “Nghĩa sau đó vào Cầu Giấy kể lại với tôi. Rồi ngơ ngác, ‘Thế là mất hết à’?”


Lệ Trọng Nghĩa còn được mời tới gặp Khâm sai Phan Kế Toại  sáng ngày 16 tháng 8 năm 1945. Lần này ông Toại chính thức mời Mặt trận Việt Minh cộng tác với chính phủ Trần Trọng Kim, và “vui lòng chờ Mặt trận cử người tham gia chính phủ.” Người cùng đi với ông Nghĩa, ông Nguyễn Khang (Chủ tịch Ủy ban Quân sự Cách mạng Hà Nội) dứt khoát trả lời, “Tốt nhất ông Toại nên từ chức, trao chính quyền lại cho Việt Minh” .

Theo nhà biên khảo David G. Marr trong cuốn Vietnam 1945 (Berkeley, CA : University of California Press, 1995), dựa theo các tài liệu từ phía Hà Nội, thì trước khi gặp ông Lê Trọng Nghĩa ngày 16 tháng 8, Khâm sai Phan Kế Toại đã tiếp một phái đoàn của Việt Minh do ông Nguyễn Khang cầm đầu ngày 13 tháng 8. Qua ông Khang, Khâm sai Toại mời Việt Minh giữ một số chức vụ trong chính quyền, nhưng ông Khang nhất quyết từ chối .

Trong lần tiếp xúc sau, xảy ra lúc 8 giờ sáng ngày 18 tháng 8 năm 1945, tại một biệt thự ở số 101 đường Gambetta, nay là đường Trần Hưng Đạo, Hà Nội, đại diện chính phủ Trần Trọng Kim là giáo sư Hoàng Xuân Hãn, Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ thuật, một học giả lỗi lạc và uy tín đương thời.  Giáo sư Hãn tự giới thiệu là “người đại diện cao cấp nhất của Thủ tướng Chính phủ tại Hà Nội,” và tới để báo tin, “Chúng tôi biết chắc chắn có tin quân đội Đồng Minh đã bắt đầu lên đường, chia nhau vào chiếm Nam Bắc vĩ tuyến 16 nước ta rồi. Đất nước đang có nguy cơ đe dọa lại bị xâm chiếm và chia cắt một lần nữa.” Giáo sư Hãn gợi ý, “Chúng ta hãy tiếp tục thương thảo, nói chuyện với nhau. Việt Minh các ông cứ nắm tất cả các vùng nông thôn, nhưng để cho chính phủ quản lý một số thành phố lớn, cốt để có danh nghĩa mà nói chuyện với Đồng Minh trong lúc này, không thì nguy cả” ¹.

Các học giả Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn không phải là những người có tham vọng chính trị. Khi đề nghị Việt Minh duy trì thể chế quân chủ nhưng được quyền lập chính phủ điều hành việc nước, cũng như khi đề nghị Việt Minh để lại cho chính phủ đương thời một số thành phố lớn để có tư thế đối thoại với các lực lượng Đồng Minh sắp đến Việt Nam, các ông chỉ nghĩ đến quyền lợi của quốc gia. Hành động “cướp chính quyền” của Việt Minh đã khiến chính phủ do họ lập ra năm 1945 không được nhìn nhận là một chính phủ có căn bản pháp lý. Giữa tháng 9 năm 1945, khi tướng Douglas Gracey của Anh đem quân tới Sài gòn để tước khí giới quân đội Nhật ở phía nam vĩ tuyến 16, đối mặt với những cuộc biểu tình hỗn loạn và tranh chấp bạo động dẫn tới đổ máu diễn ra quanh Sài gòn nhưng không tìm được người đại điện hợp pháp của Việt Nam để đối thoại, ông ta đã có những hành động thuận lợi cho người Pháp.  

Theo Gs. Phạm Cao Dương, Lê Trọng Nghĩa còn đến dinh Khâm sai một lần nữa vào chiều ngày 18 tháng 8 để gặp bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ, người đại diện chính phủ thay Khâm sai Phan Kế Toại đã từ chức, nhưng không phải để thảo luận mà chỉ cốt thăm dò tình hình.

Trong các lần tiếp xúc, trừ lần cuối cùng, các cụ Trần Trọng Kim, Phan Kế Toại và giáo sư Hoàng Xuân Hãn đều chân thành mời Việt Minh vào chính phủ làm việc để “cùng lo cho quyền lợi đất nước” nhưng tất cả đều bị từ chối. Lý do là Việt Minh, với nòng cốt là đảng Cộng sản, đã chủ trương “cướp chính quyển” để một mình lãnh đạo đất nước hầu thực hiện một cuộc cách mạng theo đường lối riêng, bất chấp những tai hại và nguy hiểm có thể xảy tới cho dân tộc, đúng như lời tuyên bố của Lê Trọng Nghĩa, “Dù người trong nước mười phần chết mất chín, chúng tôi sẽ lập một xã hội mới với một thành phần còn lại, còn hơn với chín phần kia.”  Đó cũng là lý do trong những năm 1945, 1946, trước và sau khi giành được chính quyền, Việt Minh đã tìm cách tiêu diệt toàn bộ các nhà trí thức có uy tín và những người hoạt động chính trị không phải là Cộng sản. Chúng ta có thể kể Phạm Quỳnh, Khái Hưng, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Bùi Quang Chiêu, Hồ Văn Ngà, Huỳnh Văn Phương, Trần Văn Thạch, Ls. Dương Văn Giáo, bs. Hồ Vĩnh Ký và vợ là bs. Nguyễn Ngọc Sương, Trương Tử Anh, Lý Đông A, Nhượng Tống… Các lãnh tụ tôn giáo có ảnh hưởng như Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ của Phật giáo Hòa Hảo cũng bị sát hại.

Ngày 17 tháng 8-1945 ở Hà Nội, lúc 3 giờ chiều, nhân một cuộc biểu tình của Tổng hội Công chức trước Nhà hát lớn để ủng hộ chính phủ sau khi Nhật đầu hàng, cán bộ Việt Minh tới cướp máy vi âm, hô “Hoan hô Việt Minh” và trương cờ đỏ sao vàng. Nhà biên chép lịch sử Đoàn Thêm cho biết như sau, “Rồi đoàn biểu tình được lệnh chuyển bước, tuần hành qua nhiều đường lớn… Tới ngã sáu Cửa Nam, vài anh áo cộc quần đen, chắc chắn không phải là công chức, vừa chạy vừa phất lá cờ đỏ giữa có ngôi sao vàng, anh khác giơ một vật ít thấy ở thời đó là khẩu súng lục, bắn vài phát như để thị uy: “Anh em hãy cùng tôi hô ‘Mặt trận Giải phóng muôn năm’.” Vài công chức, có lẽ hoảng sợ quá, đành “Muôn năm” theo một cách gượng gạo và máy móc” ¹¹.

Ngày 19 tháng 8, từ sáng sớm, Việt Minh tổ chức biểu tình tuần hành từ trước Nhà hát lớn để đi “cướp chính quyền.” Theo hồi ký của nhà biên khảo Hoàng Tường trong Việt Nam Đấu Tranh (Westminster, CA : Văn Khoa, 1987), “Lúc mới xuất phát chỉ độ 500 người, nhưng sau đó cứ mỗi khu phố đi qua lại có dân chúng hiếu kỳ đi theo, nên đoàn biểu tình trở nên đông đảo, ước độ 2000 người, đa số là thanh niên, thiếu nữ, thiếu nhi. Dẫn đầu là một lá cờ lớn (nền đỏ sao vàng), rồi đến biểu ngữ lớn nhỏ… Hai bên đoàn người biểu tình diễn hành còn có một đám người cỡi xe đạp cắm cờ trên ghi đông, vừa đạp vừa hô, “Ủng hộ Việt Minh nắm chính quyền” ¹² . Bác sĩ Nguyễn Tường Bách kể lại, “Có người cầm cờ đỏ, nhỏ, bằng giấy, có người hô khẩu hiệu, “Ủng hộ độc lập, Đả đảo thực dân Pháp.” Thỉnh thoảng có vài người đi kèm, họ chia nhau rẽ vào các nhà bên đường xua người ra phố tham dự biểu tình. Vì vậy người xuống đường càng ngày càng đông, nam nữ già trẻ đều có; vì nếu không hồ hởi để đi biểu tình, cũng khó mà từ chối không dự vào một hoạt động để ủng hộ độc lập” ¹³.

Nhà biên khảo Hoàng Tường viết tiếp, “Đầu tiên đoàn biểu tình dừng lại trước phủ Khâm sai. Trong khi tiếng hô “Ủng hộ Việt Minh nắm chính quyền” vang dậy thì một bọn chừng hơn 10 người tách khỏi đoàn biểu tình tiến vào trong dinh, trước bộ mặt ngơ ngác của một anh Bảo an binh đứng gác. Đi đầu là hai người tay cầm lăm lăm khẩu súng sáu, và hai người khác khiêng một lá cờ đại, nền đỏ sao vàng. Thế rồi chỉ một lát sau, lá cờ được kéo lên trước cửa dinh, ngạo nghễ tung bay trước gió. Anh Bảo an binh gác ngoài cửa cũng được thay thế luôn: một người trong đám biểu tình tách ra, nhận lấy cây súng trường anh Bảo an binh trao cho, và đứng gác trước dinh.¹ ” Khâm sai Phan Kế Toại có cảm tình với Việt Minh, nhất là sau khi Phan Kế An, con trai ông, gia nhập và hoạt động cho họ. Tối 17 tháng 8, sau khi biết việc xin từ chức đã được chấp thuận, ông rời dinh Khâm sai về nhà riêng. Trước khi đi, ông dặn viên Chánh quản và một Bảo an binh có nhiệm vụ canh giữ dinh, “Không nổ súng” để tránh đổ máu một cách vô ích.

Sau đó, đoàn biểu tình lần lượt diễn hành đến tòa Thị chính, nhà máy đèn, nhà bưu điện, rồi đến các ty sở khác, đài phát thanh. Cuối cùng họ kéo đến trại Bảo an binh … Cuộc đoạt chính quyền diễn ra êm ru. Đảng viên Cộng sản xuất hiện rất đông đảo, khoa tay múa chân, miệng hô: “Cách mạng thành công! Cách mạng thành công!” ¹

Thật ra, nếu đáp ứng lời mời của vua Bảo Đại, vào Huế lập chính phủ trong tinh thần đạo Dụ số 105 ngày 17-8-1945 như đã nói trên, những người Cộng sản cũng sẽ làm chủ tất cả những dinh thự ấy cũng như các dinh thự khác trên toàn quốc, vì trong thể chế quân chủ lập hiến, ngôi vua chỉ mang tính cách biểu tượng quốc gia. Nhưng điều họ muốn là có thanh thế thật mạnh (cướp được chính quyền) để sau đó có thể thực hiện thêm nhiều hành động “ngày long trời, đêm lở đất” khác.

Trong hồi ký Một Cơn Gió Bụi, học giả Trần Trọng Kim cho biết, “Lúc bấy giờ người Nhật có đến bảo tôi: "Quân đội Nhật còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân Đồng Minh đến thay. Nếu chính phủ Việt Nam công nhiên có lời mời quân Nhật giúp, quân Nhật còn có thể giữ trật tự". Tôi nghĩ quân Nhật đã đầu hàng, quân Đồng Minh sắp đến, mình nhờ quân Nhật đánh người mình còn nghĩa lý gì nữa, và lại mang tiếng "cõng rắn cắn gà nhà". Tôi từ chối không nhận” ¹.

Gần 70 năm sau, Trần Đĩnh, một nhà văn và biên khảo trưởng thành trong chế độ Hà Nội, cũng viết: “Tổng tư lệnh Nhật vào Huế, gặp Bảo Đại và Trần Trọng Kim, nói, ‘Nếu các vị yêu cầu, Nhật với 50,000 quân tinh nhuệ, có thể dẹp Việt Minh trong một đêm. Việt Minh có quá lắm là 5000 người, còn súng ống lại càng quá ít.’ Nhưng hai ông này từ chối” ¹.

Sau khi Việt Minh cướp được chính quyền ở Hà Nội ngày 19 tháng 8-1945, vua Bảo Đại thoái vị, trao kiếm và ấn tượng trưng vương quyền cho đại diện của họ (Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Cù Huy Cận) ngày 25 tháng 8-1945. Một tuần sau, ngày 2 tháng 9-1945, ông Hồ Chí Minh đọc lời Tuyên ngôn độc lập.

Nhưng niềm vui không được lâu. Hơn 10 hôm sau, ngày 13 tháng 9-1945, theo tinh thần Thỏa ước Potsdam, Thiếu tướng Douglas Gracey của Anh đem quân tới Sài gòn để tước khí giới quân đội Nhật ở phía nam vĩ tuyến 16. Tình trạng chính trị ở miền nam Việt Nam những năm 1945-1946 không ổn định. Nhiều nhân sĩ trí thức ái quốc, nhiều tổ chức tôn giáo không chấp nhận sự thao túng và những biện pháp khống chế của các nhân vật Cộng sản. Phía Cộng sản khủng bố, hạ sát nhiều nhân vật ưu tú của miền Nam, đưa tới việc nhiều tổ chức tôn giáo và nhân sĩ (như nhà giáo Trần Văn Hương) vừa lo sợ vừa bất mãn, tách khỏi phong trào kháng chiến do CS chỉ huy. Tình trạng mất an ninh quanh khu vực Sài gòn – Chợ Lớn khiến tướng Gracey ban lệnh thiết quân luật và cho võ trang một số thường dân Pháp, giúp Pháp có lợi thế. Sau khi tướng Leclerc của Pháp đem quân tới vào tháng 10-1945, ông mở rộng phạm vi kiểm soát của Pháp đến hầu hết các thị trấn và tỉnh lỵ miền Nam, dồn lực lượng Việt Minh vào thế co cụm, phải lẩn tránh vào các vùng hẻo lánh, bưng biền. Một trong những tài liệu đáng tin cậy, giúp chúng ta biết một cách khái quát vể tình trạng miền Nam những năm ấy là cuốn Gió Mùa Đông Bắc của bác sĩ Trần Nguơn Phiêu (Amarillo, TX : Hải Mã, 2008). Sinh năm 1927, ở đúng tuổi 18 năm 1945, ông đã tích cực dấn thân vào phong trào tranh đấu cho độc lập trong mấy năm đầu ¹.

Sau khi tạm ổn định trong Nam, tướng Leclerc đem quân ra Bắc, chuẩn bị đổ bộ ở Hải Phòng. Ngày 6 tháng 3 năm 1946, đại diện của Pháp là Jean Sainteny ký với ông Hồ Chí Minh một Hiệp ước sơ bộ, trong đó Pháp công nhận Việt Nam là một nước tự do trong khối Liên hiệp Pháp và trong Liên bang Đông Dương. Để đổi lại, chính phủ Hồ Chí Minh đồng ý cho Pháp đưa 15,000 quân vào miền Bắc trong vòng 5 năm. Mâu thuẫn Việt-Pháp sau đó gia tăng. Đêm 19 tháng 12-1946, Việt Minh tấn công quân đội Pháp ở Hà Nội, mở màn cho cuộc chiến tranh Việt Minh – Pháp kéo dài tới Hiệp định Geneva tháng 7 năm 1954.

Khi Việt Minh khởi sự giao tranh với Pháp cuối năm 1946 rồi bỏ Hà Nội và các đô thị chạy lên chiến khu, chỉ một tỷ lệ nhỏ dân chúng có phương tiện chạy theo hay tản cư tới những vùng tương đối an ninh gần quanh. Cư dân còn ở lại các thành phố vẫn cần được bảo vệ, trong đó có những trí thức và thành phần tư sản sẽ bị sát hại hoặc đàn áp nếu tới sống ở vùng do Việt Minh kiểm soát. Việc nhiều nước Á Châu được trả lại độc lập đã khiến một số không nhỏ người Việt nhận thấy nếu tập hợp quanh một nhân vật có uy tín, đủ tư thế đại diện, có thể tiến tới việc điều đình với người Pháp để thu hồi độc lập dần dần. Tháng 5 năm 1947, Cao ủy Pháp tại Đông Dương là Émile Bollaert đọc một bài diễn văn quan trọng ở Hà Đông, đưa ra quan niệm “độc lập trong sự liên lập,” và tuyên bố “sẵn sàng tham khảo tất cả các phe phái chính trị ở Việt Nam.” Đó là lý do khiến cựu hoàng Bảo Đại, người đã tự nguyện thoái vị năm 1945 với câu “Không muốn làm vua một nước nô lệ” được nhiều khuynh hướng chính trị người Việt tìm tới yết kiến, thỉnh cầu đứng ra làm đại diện. Cuộc chiến tranh cũng bị dư luận Pháp lên án. Vì thế Pháp và Việt Nam dần dần tiến tới Thỏa ước Hạ Long năm 1948, rồi Hiệp định Élysée năm 1949, trong đó Pháp công nhận nền độc lập của Việt Nam. Năm 1949 cũng là năm Cộng sản toàn thắng trên lục địa Trung Hoa. Hai khuynh hướng chính trị thành hình ở Việt Nam. Một bên là đoàn kết quanh một nhân vật có uy tín để điều đình với Pháp hầu thu hồi độc lập qua từng giai đoạn (phe Quốc gia), một bên là dựa vào sự giúp đỡ của Trung Cộng để đánh Pháp (phe Cộng sản).   

 

Hiệp định Elysée chưa phải một hiệp định toàn hảo. Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập “trong Liên hiệp Pháp,” và xác nhận Nam Kỳ trở về lãnh thổ Việt Nam, nhưng về ngoại giao Việt Nam chưa hoàn toàn tự do. Việt Nam còn phải “phối hợp hoạt động với đường lối chung của Liên hiệp Pháp,” “các quốc gia được Việt Nam cử phái đoàn ngoại giao phải có sự tương đồng của chính phủ Cộng hòa Pháp.” Nói cách khác, năm 1949 khi ký Hiệp định Elysée, chính thể Quốc gia Việt Nam chưa được độc lập về phương diện đối ngoại.

 

Được tin Pháp ký Hiệp định Elysée với cựu hoàng Bảo Đại, ông Hồ Chí Minh phẫn nộ, tuyên bố “đó chỉ là một tờ giấy lộn.” Nhưng so với bản Hiệp định do chính ông ký với Pháp ngày 6 tháng 3 năm 1946, thì Hiệp định Elysée là một bước tiến xa và ở một cấp cao hơn.

 

--  Trong Hiệp định ngày 6 tháng 3-1946, Pháp công nhận Việt Nam là một nước tự do “trong Liên bang Đông Dương và trong Liên hiệp Pháp.” Trong Hiệp định Elysée, Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập “trong Liên hiệp Pháp.” Liên hiệp Pháp là một hình thức kết hợp giữa một số quốc gia từng là thuộc địa của Pháp, cũng tương tự khối Liên hiệp Anh (British Commonwealth), gồm một số quốc gia từng có những gắn bó với Anh (như Úc, Tân Tây Lan [New Zealand], Canada, South Africa, và một số quốc gia nhỏ).

-- Trong Hiệp định ngày 6 tháng 3-1946, Pháp không cam kết sẽ trả Nam Kỳ cho Việt Nam, chỉ nói rằng “chính phủ Pháp hứa sẽ thừa nhận những quyết định của dân chúng qua cuộc trưng cầu dân ý.”  Trong Hiệp định Elysée, Pháp xác nhận Nam Kỳ trở về lãnh thổ Việt Nam.

--  Người ký Hiệp định ngày 6 tháng 3-1946 với Hồ Chí Minh là Jean Sainteny, trong tư cách “phái viên của phủ Cao ủy Pháp, được sự ủy quyền của Đô đốc d’Argenlieu, đặc sứ toàn quyền của Cộng hòa Pháp.” Người ký Hiệp định Elysée với Cựu hoàng Bảo Đại là Tổng thống Cộng hòa Pháp quốc Vincent Auriol.

--  Trong Hiệp định ngày 6 tháng 3-1946, ông Hồ Chí Minh nhận đón 15,000 quân Pháp vào đóng ở miền Bắc Việt Nam. Nói cách khác, ông không chống lại mà hợp thức hóa sự hiện diện của quân đội Pháp trong lãnh thổ Việt Nam.

 

Từ đó trên đất nước Việt Nam hiện diện hai chính phủ song hành là chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do ông Hồ Chí Minh lãnh đạo, và chính phủ Quốc Gia Việt Nam do Quốc trưởng Bảo Đại đứng đầu. Chính thể Quốc gia là một lối thoát cho nhiều nhà hoạt động chính trị với tinh thần dân tộc và cho những người dân không thể sống dưới chế độ Cộng sản. Những năm sau đó, dân chúng bỏ vùng Việt Minh, hồi cư về các thành phố để sống dưới chính thể Quốc gia càng ngày càng đông.

 

Nhờ sự tận lực  giúp đỡ của Trung Cộng, phe Cộng sản thắng Pháp ở Điện Biên Phủ năm 1954 và đất nước Việt Nam bị chia đôi ở vĩ tuyến 17. Miền Bắc theo chế độ Cộng sản. Những người tự thấy không thể sống với Cộng sản ở miền Bắc phải lánh vào miền Nam.  

 

Trong cuộc chiến giữa Việt Minh và Pháp từ 1946 đến 1954, theo tài liệu của Việt Minh, số quân nhân tử trận và mất tích là 191,605 người. Theo các sử gia Tây phương, con số ấy từ 175,000 tới 300,000 người. Số thường dân Việt Nam bị chết được ước lượng từ 125,000 tới 400,000 ¹. Việt Minh theo chính sách tiêu thổ kháng chiến, nên tất cả các đô thị bị đập phá tan hoang.

 

2.   “Đánh Mỹ để thống nhất đất nước”

 

Những hàng phía trên đã cho ta thấy khi Thế chiến thứ 2 chấm dứt năm 1945, nếu ông Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản không khăng khăng đưa đất nước vào con đường Cộng sản, Việt Nam có thể đã độc lập, nếu không sớm như Philippines và Ấn Độ (từ 1945 đến 1947), thì cũng tương tự Nam Dương (năm 1949), hay trễ lắm như Mã Lai (năm 1957). Đâu cần phải cầu xin Trung Cộng giúp đỡ để đánh Pháp rồi sau đó bị họ khống chế? Nếu các nhà lãnh đạo miền Bắc không khăng khăng áp dụng chủ thuyết Cộng sản, đất nước đâu đến nỗi phân đôi? Đâu cần một cuộc nội chiến thảm khốc để thống nhất đất nước?

 

Mặt khác, trong cuộc Chiến Tranh Lạnh (the Cold War) giữa hai đại cường quốc Nga - Mỹ (1947-1991), Việt Nam không phải quốc gia duy nhất bị chia đôi. Chúng ta cũng thấy có Đông - Tây Đức và Nam - Bắc Hàn. Đông - Tây Đức giữ tình trạng chia cắt cho đến khi thống nhất trong hòa bình năm 1990. Bắc Hàn chủ động tấn công năm 1950, gây nên cuộc chiến tranh Cao Ly (the Korean War) trong những năm 1950-53, nhưng sau tháng 7-1953 cũng chấp nhận chia cắt ở vĩ tuyến 38, giới hạn cuộc tranh chấp ở mức độ “chiến tranh miệng.” Việt Nam là quốc gia duy nhất trải qua một cuộc chiến thảm khốc với:

 

--  Ở miền Bắc:

--  Trên 849,000 quân nhân tử trận

--  Trên 600,000 quân nhân bị thương

--  Trên 232,000 quân nhân mất tích

--  Số thường dân ở vùng do CS kiểm soát bị chết vì chiến tranh: từ 30 ngàn tới 182 ngàn.

 

-- Ở miền Nam:

            - 313,000 quân nhân tử trận

            - 1,170,000 quân nhân bị thương

            - Từ 195 đến 430 ngàn thường dân bị chết oan ².

 

Đúng là “nhất tướng công thành, vạn cốt khô”. Dân trong nước đã đưa ra lời nhận xét, “Con đường Bác đi là con đường bi đát.”

 

Đầu thập niên 1980, khi tướng Võ Nguyên Giáp bị đổi sang phụ trách “Ủy ban Sinh đẻ có kế hoạch,” trông coi việc hạn chế sinh đẻ và ngừa thai, người dân miền Bắc cũng đưa ra cặp câu đối:

            Tướng Võ không còn Nguyên Giáp nữa,

            Bác Hồ cũng chẳng Chí Minh đâu!

 

Đất nước hiện đã thống nhất nhưng lòng người vẫn chưa thổng nhất. Việt Nam bị tàn phá, trở nên lạc hậu, thua kém xa các lân bang. Trong khoảng đầu thập niên 1960, mức sống ở Hàn Quốc, Thái Lan, Mã Lai … thấp hơn ở Nam Việt Nam. Hiện nay họ tiến hơn rất xa. Có phải đó là “sự nghiệp vĩ đại” để các nhà lãnh đạo đảng CSVN muốn dân Việt phải “nhớ ơn?”

 

Để ép dân miền Bắc hi sinh, những người Cộng sản dùng tinh thần dân tộc và phương pháp lừa dối. Họ xuyên tạc là dân miền Nam bị “đế quốc Mỹ và tay sai” áp bức, vô cùng cực khổ, không có gì để ăn, nên thanh niên thiếu nữ miền Bắc cần hi sinh vào để “cứu” bà con ruột thịt miền Nam, như tinh thần câu thơ của Bùi Minh Quốc:

 

Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy

Dầu xa xôi gấp mấy cũng lên đường

 

Bùi Minh Quốc đã cùng vợ, nhà văn Dương Thị Xuân Quý, vào chiến trường miền Nam, gửi người con duy nhất của hai người là Bùi Dương Hương Ly nhờ bà ngoại nuôi hộ. Nhà văn Xuân Quý hi sinh ở miền Nam khi mới 28 tuổi, và khi con của hai người mới được 2 tuổi.  

 

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, theo chân đoàn quân chiến thắng vào tiếp thu Sài Gòn, nhà văn Dương Thu Hương đã “ngồi xuống vỉa hè ôm mặt khóc như cha chết,” vì nhận ra rằng, “Cái mô hình xã hội của miền đất bại trận mới chính là mô hình của nền văn minh, và chúng tôi, người trong đội ngũ chiến thắng, thì thực ra đã chiến đấu cho một mô hình xã hội man rợ.” “Điều đó khiến tôi hết sức cay đắng. Cả thế hệ của chúng tôi đã bị lừa…”. Theo bà, “Dân Việt Nam đã bị đẩy vào một cuộc chiến vô nghĩa.”   Phía sau là đường dẫn đưa một số lời phát biểu đặc sắc của bà:

 

Little Saigon Radio Phỏng Vấn Nhà Văn Dương Thu Hương: Dân Vn, Dù Mù Chữ Đều Xấu Hổ Vì Đảng Quá Tối Tăm Ngu Dốt - Tin Trong Ngày - Việt Báo Foundation – A Nonprofit 501 (c)(3) Organization

(https://vietbao.com/a46276/little-saigon-radio-phong-van-nha-van-duong-thu-huong-dan-vn-du-mu-chu-deu-xau-ho-vi-dang-qua-toi-tam-ngu-dot)

 

 

Đứng về phương diện kinh tế, mặc dầu trong hoàn cảnh chiến tranh, mức sống tại miền Nam vẫn cao hơn tại miền Bắc nhiều. Ca sĩ Ái Vân kể lại ngày đầu tiên bà từ Hà Nội đến thăm gia đình người chị ruột của thân phụ ở Sài gòn: 

 

“Khi đến thăm cô Cả, cô sinh viên nghèo Ái Vân cũng mang biếu gia đình chút quà từ tiêu chuẩn ăn của mình. Chị Nga, … là con dâu trưởng của cô Cả, hỏi, “Cô mang cho chúng tôi quà gì thế?” Tôi trịnh trọng vừa mở bọc vừa nói, “Em biếu gia đình 2 cân gạo ạ, chắc nhà mình cũng đang cần.”

Ối giời, cả nhà cười nghiêng ngả, chị Nga cười đến nỗi suýt té từ trên ghế xuống sàn. Chị nói, “Giời ạ. Lại mang gạo cứu trợ cho chúng tôi nữa cơ đấy. Khổ thân em.” Rồi chị dắt tôi tới mở thùng gạo to tướng bằng nhựa, bên trong đầy ắp gạo, thứ gạo trắng muốt và thơm phức, nõn nà. Bây giờ tôi mới để ý trong nhà ngoài ti vi, tủ lạnh, còn có máy giặt và nhiều thứ lạ lẫm khác, cho thấy một cuộc sống rất tiện nghi, không thể có trong bất kỳ nhà nào ở miền Bắc tại thời điểm đấy…” ²¹.

 

Không riêng gì mức sống vật chất, nếp sống về tinh thần ở miền Nam năm 1975 cũng cao hơn ở miền Bắc. Ca sĩ Ái Vân cho biết tiếp:

 

“Trước đây cứ nghe nói đồng bào miền Nam “bị Mỹ Ngụy kìm kẹp,” khổ lắm, cứ hình dung dân Sài Gòn đói khổ lắm. Mới vào Sài Gòn tôi rất ngỡ ngàng. Chỉ cần nhìn cách ăn mặc, trang điểm, đi lại, ăn nói nhẹ nhàng; chỉ cần ra chợ mua gì cũng có câu cảm ơn và túi nilon đựng đồ đủ biết mình không cùng đẳng cấp văn minh với người ta rồi. Biết mình bị ngộ nhận với thông tin lệch lạc” ²².

 

Phía sau là những hàng tự thuật và nhận xét của một chuyên viên kỹ thuật miền Bắc được cử vào để “tiếp thu” miền Nam, Trương Minh:

 

“Xe vừa vào địa giới miền Nam, chúng tôi đã bấm tay nhau nhìn khung cảnh mới. Nhà cửa người dân cùng các công trình đô thị như cầu, đường gần các trục lộ giao thông trông đẹp và văn minh hơn hẳn miền Bắc. Đi rồi nghỉ ngơi rồi đi tiếp cho đến khi đoàn xe đến được khu công nghiệp Biên Hòa. Có quá nhiều nhà máy tại đây. Đoàn 18 người  chúng tôi nhìn ngang nhìn dọc từng dãy nhà máy trong khu vực này, và tuy không ai nói với ai, đều trầm trồ trước công nghiệp miền Nam.

“… Ngay từ lúc còn ngồi trên xe buýt nhìn cảnh vật dọc theo đường và khu phố dẫn vào Sài Gòn, tôi đã thấy vượt trội nhiều lần so với thủ đô Hà Nội. Một vẻ bề ngoài sáng sủa, văn minh, lộ ra từ cách phục sức, sinh hoạt của người dân miền Nam.

“… Sài Gòn, hay nói rộng ra cả miền Nam, không phải là một xã hội lạc hậu, nghèo nàn, đói khổ, đầy rẫy cảnh người bóc lột người như bao lâu nay người dân miền Bắc được (hay bị) báo đài Hà Nội mô tả… Đây là mô hình của một xã hội văn minh, và người nào được sống trong xã hội này quả thật may mắn hơn sống ở xã hội XHCN tại miền Bắc. Tiếc thay! Một xã hội như thế lại vừa bị cướp mất đi” ²³.

 

Theo nhà nghiên cứu văn hóa Vương Trí Nhàn, “Không chỉ kinh tế tốt hơn mà giáo dục miền Nam lúc đó cũng hơn. Không chỉ đường xá tốt mà tư cách cá nhân của con người trong đó nói chung cũng trưởng thành hơn con người miền Bắc. Trình độ hiểu biết và tuân thủ pháp luật tốt. Giữa người với người có quan hệ tử tế, thanh thiếu niên lúc đó ham học và biết học hơn.” ²

 

Trong bài “Mấy cảm nhận về sự khác biệt giữa giáo dục miền Nam và giáo dục miền Bắc” đăng trong tạp chí Nghiên cứu và Phát triển số 7-8 (114-115) năm 2014, với chuyên đề “Giáo dục miền Nam Việt Nam 1954-1975,” ông nhận xét thêm: “Trong khi khác biệt với giáo dục miền Nam, thì giáo dục miền Bắc cũng khác nhiều so với thế giới. Đủ hiểu tại sao sau khi đào tạo trong nước, ra tiếp xúc với xã hội hiện đại, cánh học sinh, sinh viên miền Bắc bọn tôi thường ú ớ, lạc lõng, trong khi những người được giáo dục miền Nam đào tạo thì hội nhập rất tự nhiên và hiệu quả” ² Phía sau là đường dẫn đưa tới trang blog đăng những bài suy tư của ông:

 

Mấy cảm nhận về sự khác biệt giữa giáo dục miền Nam và giáo dục miền Bắc

(https://vuongtrinhan.blogspot.com/2014/12/may-cam-nhan-ve-su-khac-biet-giua-giao.html)

 

Xã hội miền Nam năm 1975 chưa phải là một xã hội toàn hảo. Nền dân chủ miền Nam đang xây dựng năm 1975 chưa phải là một nền dân chủ kiện toàn. Nhưng theo nhận xét của một nhà văn (Dương Thu Hương), một nghệ sĩ (Ái Vân), một chuyên viên kỹ thuật (Trương Minh), một nhà nghiên cứu văn hóa (Vương Trí Nhàn) cùng tới từ miền Bắc, xã hội ấy không cần các lãnh tụ Cộng sản tại Hà Nội xua quân vượt Trường Sơn để “giải phóng.” Hơn hai triệu người Việt đã bị hi sinh trong một cuộc chiến huynh đệ tương tàn thảm khốc và vô nghĩa. Như vậy ngày 19 tháng 8 năm 1945, ngày Việt Minh cướp chính quyền từ chính phủ Trần Trọng Kim ở Hà Nội, trong khi vua Bảo Đại và các cụ Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn … nhiều lần mời cộng tác, có đáng được coi là một ngày để dân Việt “hân hoan kỷ niệm” hay không?

 
Minh Phương biên soạn

 

GHI CHÚ

 

1.         Tường Vũ, Vietnam’s Communist Revolution (New York : Cambridge Univ. Press, 2017), trang 105.

2.         Sách đã dẫn, trang 95-96.

3.         Sách đã dẫn, trang 104-105.

4.         Phạm Cao Dương, Bảo Đại, Trần Trọng Kim và Đế quốc Việt Nam (California : Truyền Thống Việt, 2017), pp. 288-289. Xem thêm Phạm Khắc Hòe, Từ Triều Đình Huế đến Chiến Khu Việt Bắc (Tp HCM : NXB Trẻ, 1996), pp. 76-77.

5.         Phạm Cao Dương, op. cit, pp. 289-290.

6.         Trần Trọng Kim, Một Cơn Gió Bụi  (Saigon: Vĩnh Sơn, 1969), pp. 86–88.

7.         Trần Đĩnh, Đèn Cù, Vol. 2 (Westminster, CA : Người Việt Books, 2014), pp. 545–547.

8.         Phạm Cao Dương, op. cit., pp. 307–309.

9.         Marr, David G. Vietnam 1945 (Berkeley: University of California Press, 1995), p. 374.

10.       Phạm Cao Dương, op. cit., pp. 309-311.

11.       Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên, 1939–1954 (Sài Gòn: Nam Chi Tùng Thư. Reprinted Los Alamitos, CA: Xuân Thu, 1969), pp. 47–48.

12.       Hoàng Tường, Việt Nam Đấu Tranh (Westminster, CA : Văn Khoa, 1987), p. 68.

13.       Nguyễn Tường Bách, Việt Nam Một Thế Kỷ Qua: Hồi Ký, Vol. I. (Westminster, CA: Thạch Ngữ, 1998), p. 169).

14.       Hoàng Tường, op. cit, p. 68-69.

15.       Ibid., p. 69.

16.       Trần Trọng Kim, op. cit., p. 93.

17.       Trần Đĩnh, op. cit., p. 478.

18.       Trần Nguơn Phiêu, Gió Mùa Đông Bắc (Amarillo, TX: Hải Mã, 2008).

19.       From Wikipedia:

First Indochina War - Wikipedia

20.       From Wikipedia:

Vietnam War - Wikipedia

21.       Ái Vân, Để Gió Cuốn Đi: Autobiography (Saigon: Hội Nhà Văn Pub., 2016), pp. 156–157).

22.       Ibid., p. 156.

23.       Trương Minh, “Chuyện kể của một người chiến thắng khi vào Nam” (Story of a victor entering the South.” In Nguyễn Tường Tâm, Cuộc Chiến Việt Nam 50 Ngày Cuối Cùng (San Jose, CA : NT Tâm, 2025), pp. 509–512.

24.       “Cú sốc giáo dục khi vào Nam tiếp quản” (The educational shock when entering the South for takeover). In Nguyễn Tường Tâm, op. cit., pp. 517-518.

25.       Vương Trí Nhàn, “Mấy cảm nhận về sự khác biệt giữa giáo dục miền Nam và giáo dục miền Bắc” (Some reflections on the differences between southern and northern education), in Nghiên Cứu và Phát Triển (Research and Development), Nos. 7–8 (114–115), 2014, p. 267.

 

The Meanings of the August 19th and September 2nd Celebrations

to the Vietnamese People Today

 

 Every year when August comes, the Vietnamese Communist regime jubilantly celebrates August 19th — the day they seized power from the government of Trần Trọng Kim in 1945 — and September 2nd, when Hồ Chí Minh read the “Declaration of Independence” at Ba Đình Square in Hà Nội.

The following lines aim to provide some basic knowledge for younger Vietnamese, those who have not had the opportunity to know much about these two historical events.

Meanwhile, the Vietnamese Communists have always boasted that they successfully led the nation in two great wars:

1.    The war against France to gain independence, and

2.    The war against the United States to unify the country.

Therefore, they claim the right — and the monopoly — to rule the nation. They equate their regime with the Vietnamese Fatherland. Inside the country, anyone who speaks out to criticize the regime is accused of treason.

This year, 2025, marks the 80th year since the Vietnamese Communists seized power in 1945 and dragged the nation into two devastating wars, which ended in 1975 but whose consequences and deep divisions remain severe to this day. It is therefore appropriate for us to calmly re-examine the true nature of the Vietnamese communist revolution and the origins of those wars, and then objectively assess just how great the achievements of the Vietnamese Communist Party really were.

I. “Fighting the French to Gain Independence”

After World War II ended in 1945, the Western powers became aware that in the new global context, continuing to hold Asian nations as colonies was no longer acceptable. The colonial system had reached its end. For that reason:

  • The United States granted independence to the Philippines. The Philippines declared independence on July 4, 1945.
  • Britain granted independence to India. India became independent in 1947.
  • Britain granted independence to Burma (now Myanmar). Burma became independent in January 1948.
  • Britain granted independence to Malaya (now Malaysia). Since Malaya consisted of several states and territories, its politics were complex. Malaya was granted self-rule in 1948 and full independence in 1957.
  • The Netherlands granted independence to Indonesia. At first, the Dutch colonialists greedily refused, forcing the Indonesians to wage armed struggle for four years. Under global pressure, especially from the United States, Indonesia finally achieved full independence in December 1949.
  • The only Asian nation that had to fight bitterly until 1954 and then suffered partition was Vietnam.

Although the U.S. sympathized with Vietnam’s independence, it did not pressure France the way it pressured the Dutch in Indonesia. There were several reasons, but the main one was: the Hồ Chí Minh’s regime was communist, and under various pseudonyms Hồ had already been identified as an agent of the international Communist movement, trained by the Comintern in Moscow.

According to Prof. Tường Vũ in his book Vietnam’s Communist Revolution (New York: Cambridge University Press, 2017), after carefully examining the Văn Kiện Đảng Toàn Tập (Collected Party Documents) of the Hanoi regime, the professor — a political scientist and director of the Center for Asian Studies at the University of Oregon — discovered that as early as 1946, three years before Mao Zedong’s victory in China, secret party documents of the Viet Minh regime had always praised the “socialist forces” led by the Soviet Union, and  criticized “American imperialism” ¹.

Although Hồ collaborated with some U.S. OSS officers in 1945, although he used a signed photo of General Claire L. Chennault to claim he had “American backing,” and he quoted the U.S. Declaration of Independence in his own declaration, he never denied being a Communist.

In 1945–1946, alongside writing letters to U.S. President Harry Truman, Hồ also wrote to Soviet leader Stalin asking for support — and received no reply in either case. As early as 1941–1942, the Việt Nam Độc Lập newspaper, founded by Hồ, praised the Soviet Union as a paradise and wrote: “Only when Russia wins completely will the world see glorious days.” ²

In late 1945, although Hồ publicly announced the “voluntary dissolution” of the Vietnamese Communist Party to deceive public opinion, Sự Thật (Truth), the biweekly journal of the “Association for Marxist Studies,” run by Trường Chinh, still declared in its debut issue of December 5, 1945: “The only path that can lead humanity to freedom, peace, and happiness is the thorough implementation of Marxism.” ³

Looking back decades later, many historians have concluded that the so-called “August Revolution” of the Việt Minh in 1945 was in fact nothing more than a power grab, and the Communists themselves used the verb “cướp” (to seize, to rob). Even more sadly, that “cướp” action was not necessary, because after Japan surrendered to the Allies on August 15, 1945, a political power vacuum existed in Vietnam:

  • The French: sidelined by the Japanese coup of March 9, 1945; key officials were imprisoned.
  • The Japanese: having surrendered, especially after the atomic bombings, they were preparing to hand over weapons and be repatriated.
  • The Trần Trọng Kim government: composed of teachers and intellectuals with no political ambition, formed to administer the country after the French collapse. They focused only on social issues, famine relief, health, and education. They were ready to resign when others could replace them, and eventually did resign.
  • Emperor Bảo Đại: ready to abdicate, declaring, “I would rather be a citizen of an independent country than a king of a subjugated one.”

In the book Bảo Đại, Trần Trọng Kim và Đế quốc Việt Nam (California: Truyền Thống Việt, 2017), Prof. Phạm Cao Dương let us know that in the meeting between Emperor Bảo Đại and the Trần Trọng Kim Cabinet in Huế on August 17, 1945, alongside the opinion of handing full power to the Việt Minh, there was also the view of Lawyer Vũ Văn Hiền, Minister of Finance, who argued: Vietnam needed a legitimate government to guarantee order, and so that when the Allies arrived there would already be a legally constituted government, with status and authority to deal with them. Otherwise, they might use the pretext that Vietnam was in chaos and without a legitimate government as a reason of helping the French colonialists return. To achieve that, the power to form a government should be granted to the Việt Minh, but the monarchical institution should be retained (transformed into a constitutional monarchy) ⁴.

This opinion was supported by legally knowledgeable ministers such as Trịnh Đình Thảo, Trần Văn Chương, and Phan Anh. A royal decree was immediately drafted: Decree No. 105, dated August 17, 1945. In it, Emperor Bảo Đại expressed the readiness to hand power to the Việt Minh as a national liberation organization, and invited their leaders to Huế to form a cabinet ⁵.

As early as the beginning of August 1945, Prime Minister Trần Trọng Kim, in his capacity as head of government, had already intended to invite Việt Minh representatives to cooperate. While traveling from Huế to Hanoi, he asked Khâm sai (Royal commissioner) Phan Kế Toại to discreetly sound out the Việt Minh. The one who came to meet him was still very young, but the elderly teacher, author of Việt Nam Sử Lược (A Brief History of Vietnam), said:

  • “We are working only for the country, not seeking fame or profit. I am sure your party also acts for the nation. If so, then though we travel different paths, we share the same goal. Let us see if we can cooperate—some inside, some outside—to save the country, can’t we?”

In subsequent lines, Trần Trọng Kim summarized the dialogue between him and the Việt Minh representative:

  • The representative said: “Our actions are based on our own ideology and program to bring the country to complete independence. We can achieve it ourselves.”
  • Trần Trọng Kim: “The pursuit of independence is also our goal, but since the straight path has many obstacles, we must take a winding route, slowly, perhaps more securely.”
  • The representative: “We have only one straight path to full independence, not two.”
  • Trần Trọng Kim: “According to your way, I fear it will greatly harm the people, and it is uncertain whether you will succeed.”
  • The representative: “We are certain to succeed. If harm comes, it does not matter—only after harm comes benefit. Even if nine out of ten people die, we will build a new society from those who remain, which is better than keeping the other nine parts.” (emphasis by the chronicler)

Then the representative recited from memory a monologue outlining Việt Minh activities. Seeing such an attitude, I knew reason could not prevail. I said:

  • “If you are sure of securing independence, why don’t you enter the government to work, instead of causing upheavals to the people’s sufferings?”
  • The representative: “We will seize power to show the Allies that we are strong, not accept anyone handing it to us.”
  • “Are you sure the Allies will believe in your strength?”
  • “Absolutely sure. One hundred percent.”
  • “The future is long; you take responsibility before the nation and history” ⁶.

According to Prof. Phạm Cao Dương, the Việt Minh envoy who met Trần Trọng Kim on that day was Lê Trọng Nghĩa. Records show he was born in 1922 (only 23 years old in 1945). After the Việt Minh’s success, he was elected to the National Assembly, then became Director of Military Intelligence, later rising to Colonel, Chief of Staff, and aide to General Võ Nguyên Giáp. In 1968 he was arrested, accused of ties to the “Nhóm Xét lại chống Đảng”  (“Revisionist Anti-Party” group), imprisoned and sent to “reeducation labor” until 1976. He was expelled from the Communist Party and stripped of rank and privileges. After 47 years of silence, before his death in 2015, he left a will requesting exoneration. His close friend Trần Đĩnh, in the book Đèn Cù, recorded Nghĩa’s grief over his children’s suffering: in their dossiers they were branded “children of an anti-Party traitor.” Trần Đĩnh recalled Nghĩa’s words in bewilderment: “So, it’s all gone?”

Lê Trọng Nghĩa was also received by Commissioner Phan Kế Toại in the morning of August 16, 1945. This time, Toại officially invited the Việt Minh Front to cooperate with the Trần Trọng Kim government, “gladly awaiting the Front to appoint participants to the cabinet.” But Nguyễn Khang (Chairman of the Hanoi Revolutionary Military Committee), coming with Nghĩa, bluntly replied: “It is best that you resign and hand power over to the Việt Minh” ⁸.

The historian David G. Marr, in Vietnam 1945 (Berkeley: University of California Press, 1995), based on Hanoi sources, notes that before the August 16 meeting with Lê Trọng Nghĩa, Commissioner Phan Kế Toại had already received a Việt Minh delegation led by Nguyễn Khang on August 13. Through Khang, Toại invited Việt Minh to hold positions in government, but Khang firmly refused ⁹.

The next contact occurred at 8 a.m. on August 18, 1945, at a villa at 101 Gambetta Street (now Trần Hưng Đạo Street, Hanoi). The government representative was Professor Hoàng Xuân Hãn, Minister of Education and Fine Arts, a highly respected scholar. He introduced himself as “the highest-ranking representative of the Prime Minister in Hanoi,” and announced: “We are certain that Allied troops have begun moving, dividing to occupy our country north and south of the 16th parallel. The nation faces the threat of re-occupation and partition once again.”

Professor Hãn suggested: “Let us continue negotiating. You, the Việt Minh, may control all rural areas, but allow the government to administer some major cities—simply for legitimacy in dealing with the Allies now, otherwise the danger is grave” ¹⁰.

Neither Trần Trọng Kim nor Hoàng Xuân Hãn were men of political ambition. Their proposals—that the Việt Minh maintain the monarchy while forming the government, or that they leave the cabinet a few major cities for holding dialogue with the Allies—were solely for the sake of national interest. The Việt Minh’s act of “seizing power” meant that the government they formed afterwards lacked a solid legal basis.

By mid-September 1945, when the British General Douglas Gracey arrived in Saigon to disarm Japanese troops south of the 16th parallel, facing chaotic protests and bloody clashes around Saigon but finding no recognized legal Vietnamese authority to deal with, he acted in ways favorable to the French.

According to Prof. Phạm Cao Dương, Lê Trọng Nghĩa went once more to the Khâm Sai Palace on the afternoon of August 18 to meet with Dr. Nguyễn Xuân Chữ, who was representing the government in place of Khâm Sai Phan Kế Toại (after the latter had resigned). But the purpose was not discussion, only to probe the situation.

In these meetings—except for the last—Trần Trọng Kim, Phan Kế Toại, and Prof. Hoàng Xuân Hãn all sincerely invited the Việt Minh to join the government, to “work together for the interests of the nation.” But all such offers were refused. The reason was that the Việt Minh, whose core was the Communist Party, had already determined to “seize power” (cướp chính quyền) in order to lead the country alone and carry out a revolution according to their own line—regardless of the harms and dangers this might bring to the nation. Lê Trọng Nghĩa himself declared:

“Even if nine out of ten people die, we will build a new society from those who remain, which is better than keeping the other nine parts.”

This was also the reason that in 1945–1946, before and after seizing power, the Việt Minh systematically sought to eliminate all prominent intellectuals and non-Communist political activists. We can list: Phạm Quỳnh, Khái Hưng, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Bùi Quang Chiêu, Hồ Văn Ngà, Huỳnh Văn Phương, Trần Văn Thạch, lawyer Dương Văn Giáo, Dr. Hồ Vĩnh Ký and his wife Dr. Nguyễn Ngọc Sương, Trương Tử Anh, Lý Đông A, Nhượng Tống… Even influential religious leaders such as Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ of Hòa Hảo Buddhism were assassinated.

On August 17, 1945 in Hanoi, at 3 p.m., during a rally of the Civil Servants’ Association in front of the Opera House—organized to support the government after Japan’s surrender—Việt Minh cadres stormed the loudspeakers, shouted “Long live Việt Minh!” and raised the red flag with the yellow star. Historian Đoàn Thêm recorded:

“Then the demonstration was ordered to march, parading through many major streets… At Cửa Nam six-way intersection, a few young men in short shirts and black trousers, clearly not civil servants, ran while waving the red flag with yellow star. Another raised an object rarely seen at that time—a revolver—and fired several shots as if to intimidate, ‘Comrades, let us shout together: Long live the Liberation Front!’ Some civil servants, perhaps too frightened, reluctantly and mechanically shouted ‘Long live’!”¹¹

On August 19, early in the morning, the Việt Minh organized a mass rally in front of the Opera House with the aim of “seizing power.” According to the memoirs of the researcher Hoàng Tường in the book Việt Nam Đấu Tranh:

“At first there were only about 500 people, but as the march passed through each street section, onlookers joined in. The demonstration grew to about 2,000 people, mostly youth. At the head was a large flag (red background with yellow star), followed by banners big and small… Alongside the marchers was a group riding bicycles with flags attached to their handlebars, shouting, ‘Support Việt Minh to seize power’.” ¹²

Dr. Nguyễn Tường Bách recalled:

“Some people carried small red paper flags, some shouted slogans: ‘Support independence, Down with French colonialism.’ From time to time, a few would peel off into nearby houses, urging people to come out and join the rally. Thus the number of people in the street grew larger and larger, men and women, old and young. For even if one was not eager to march, it was hard to refuse participation in an activity to support independence.”¹³

Hoàng Tường continued:

“The march first stopped at the Khâm Sai Palace. As the chants ‘Support Việt Minh to seize power’ thundered, a group of about 10 people broke off and entered the palace, before the bewildered face of a single Bảo An guard at his post. Leading were two men with revolvers, followed by two others carrying a large red flag with yellow star. Moments later, the flag was raised in front of the palace, fluttering arrogantly in the wind. The Bảo An guard at the gate was immediately replaced: one demonstrator took the rifle from him and stood guard in his place.” ¹⁴

Khâm Sai Phan Kế Toại had sympathies with the Việt Minh, especially after his son, Phan Kế An, joined them. On the evening of August 17, once his resignation was accepted, he left the Khâm Sai Palace for his private home. Before leaving, he instructed the commander of the Bảo An guards and another trusted guard: “Do not fire” in order to avoid needless bloodshed.

Afterwards, the demonstration marched in turn to the City Hall, the power plant, the post office, and other offices, including the radio station. Finally, they went to the Bảo An barracks… The takeover unfolded smoothly. Communist Party members appeared in great numbers, waving their arms and shouting: “Revolution successful! Revolution successful!” ¹⁵.

In truth, had the Communists accepted Emperor Bảo Đại’s invitation (through Imperial Edict no. 105 of August 17, 1945) to come to Huế to form a government within the constitutional monarchy framework, they would have the control of all these palaces and institutions anyway, since the emperor’s role in a constitutional monarchy was only symbolic. But what they wanted was to gain prestige by “seizing power” forcefully, so that later they could launch further “earth-shaking” actions.

In his memoir Một Cơn Gió Bụi, the scholar Trần Trọng Kim wrote:

“At that time the Japanese came and told me: ‘The Japanese army is still responsible for maintaining order until the Allies arrive. If the Vietnamese government openly requests Japanese help, the Japanese can still maintain order.’ I thought: the Japanese have already surrendered, the Allies are about to arrive, so why should we ask the Japanese to suppress our own people? That would be disgraceful—‘bringing snakes in to harm your own chickens.’ I refused” ¹⁶.

Nearly 70 years later, the writer Trần Đĩnh, who grew up under the Hanoi government, also recorded:

“The Japanese Commander-in-Chief went to Huế, met Bảo Đại and Trần Trọng Kim, and said: ‘If you wish, Japan, with 50,000 elite troops, can crush the Việt Minh in one night. The Việt Minh have at most 5,000 people, and even fewer weapons.’ But both men declined” ¹⁷.

After the Việt Minh seized power in Hanoi on August 19, 1945, Emperor Bảo Đại abdicated, handing the imperial sword and seal—the symbols of royal authority—to their representatives (Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Cù Huy Cận) on August 25, 1945. A week later, on September 2, 1945, Hồ Chí Minh read the Declaration of Independence.

But the joy was short-lived. Barely ten days later, on September 13, 1945, in accordance with the Potsdam Agreement, British Major General Douglas Gracey brought troops into Saigon to disarm the Japanese south of the 16th parallel.

The political situation in southern Vietnam in 1945–1946 was unstable. Many patriotic intellectuals and religious organizations did not accept the Communist leaders’ manipulations and control. The Communists responded with terror, assassinating and executing many prominent southern figures. This caused many religious groups and intellectuals (such as the prominent educator Trần Văn Hương) to withdraw from the Communist-led resistance, out of both fear and resentment.

The insecurity around Saigon–Chợ Lớn led General Gracey to impose martial law and to  arm certain French civilians, giving the French an advantage. When General Leclerc arrived in October 1945 with French forces, he expanded French control to most towns and provincial capitals in the South, driving the Việt Minh into retreat, hiding in remote forests and swamps.

One reliable source that gives us a broad picture of conditions in the South during those years is Dr. Trần Nguơn Phiêu’s Gió Mùa Đông Bắc. Born in 1927, at the age of 18 in 1945, he actively engaged in the struggle for independence during those early years ¹⁸.

Having the South stabilized, General Leclerc moved his troops north, preparing to land at Hải Phòng. On March 6, 1946, French representative Jean Sainteny signed with Hồ Chí Minh a Preliminary Agreement in which France recognized Vietnam as a “free state” within the French Union and within the Indochinese Federation. In return, Hồ’s government agreed to allow 15,000 French troops into the North for five years.

Vietnam–France tensions then escalated. On the night of December 19, 1946, the Việt Minh attacked French forces in Hanoi, opening the war that would last until the Geneva Agreement of July 1954.

When fighting began and the Việt Minh abandoned Hanoi and other cities for the resistance zones, only a small portion of the population could flee with them. Most city residents remained, still needing protection—among them intellectuals and the middle commercial class, who would have been killed or repressed had they go to Việt Minh areas.

The wave of decolonization in Asia led many Vietnamese intellectuals to believe that, if united behind a reputable leader capable of representing them, they could negotiate with the French for the gaining of independence step by step. In May 1947, the French High Commissioner Émile Bollaert gave a major speech in Hà Đông, proposing the concept of “independence in cooperation,” and declared himself “ready to consult all political factions in Vietnam.”

That was why former emperor Bảo Đại—who had voluntarily abdicated in 1945 with the statement “I do not want to be the ruler of a nation in bondage”—was sought out by many Vietnamese nationalist factions and politico-religious groups, urging him to serve as their representative.

Public opinion in France also condemned the war. Gradually, France and Vietnam reached the Hạ Long Agreements of 1948 and then the Élysée Accords of 1949, in which France recognized the independence of Vietnam.

1949 was also the year the Communists triumphed in mainland China. Two political lines crystallized in Vietnam: one rallying around a respected figure to negotiate independence step by step with France (the Nationalist side), the other relying on Chinese Communist aid to fight France (the Communist side).

For Vietnam, the Élysée Accords were not perfect. France recognized Vietnam as an independent nation “within the French Union” and confirmed the return of Cochinchina to Vietnam. But in foreign affairs, Vietnam was not fully free yet: it still had to “coordinate with the common policy of the French Union,” and any states with which Vietnam wished to establish diplomatic relations had to be in line with France. In other words, in 1949, when the Élysée Accords was signed, the State of Vietnam was not fully independent in foreign affairs.

When Hồ Chí Minh learned of the Élysée Accords, he was furious and angrily dismissed it as “just a scrap of paper.” But compared to the agreement he himself had signed on March 6, 1946, the Élysée Accords was a far greater step forward.

In the March 6, 1946 Agreement, France recognized Vietnam as “a free state,” “within the Indochinese Federation and the French Union.” In the Élysée Accords, France recognized Vietnam as an independent nation “within the French Union.” The French Union was a looser association of former French colonies, similar to the British Commonwealth.

In the March 6, 1946 Agreement signed with Ho Chi Minh, France made no promise to return Cochinchina, only that “the people might decide via referendum.” In the 1949 Élysée Accords, France confirmed Cochinchina’s return to Vietnam.

The 1946 Agreement was signed by Jean Sainteny, envoy of the French High Commissioner, with authorization from Admiral d’ Argenlieu, French Special Commissioner. The Élysée Accords was signed by the President of the French Republic, Vincent Auriol.

In the 1946 Agreement, Hồ Chí Minh accepted the stationing of 15,000 French troops in northern Vietnam, thus legitimizing their presence.

From then on, Vietnam had two governments: the Democratic Republic of Vietnam under Hồ Chí Minh, and the State of Vietnam under Chief of State Bảo Đại. The State of Vietnam became a refuge for nationalists and for the people unable to live under Communism. Over the following years, several groups of people abandoned the Việt Minh areas to return to the cities under the Nationalist government.

Thanks to massive Chinese Communist aids and the participation of Chinese Communist military advisors, the Vietnamese Communists defeated French forces at Điện Biên Phủ in 1954. Vietnam was partitioned at the 17th parallel: the North under Communism, the South as a non-Communist state. Those unable to live under Communism fled southward.

During the war with France (1946–1954), Việt Minh sources admit 191,605 troops killed or missing. Western historians estimate between 175,000 and 300,000. Civilian deaths are estimated at 125,000–400,000 ¹⁹. The Việt Minh’s “scorched earth” policy left all cities devastated.

II.               “Fighting the Americans to Unify the Country”

The preceding paragraphs showed us that when World War II ended in 1945, if Hồ Chí Minh and the Communist Party had not dogmatically forced the country down the Communist path, Vietnam could have become independent—if not as early as the Philippines and India (from 1945 to 1947), then at least like Indonesia (in 1949), or at the latest like Malaya (in 1957).

There would have been no need to beg Communist China for help to fight the French, only to then fall under their control. If the northern leaders had not insisted on imposing Communist ideology, the country would not have been divided in two. There would have been no need for a catastrophic civil war to unify the nation.

On the other hand, during the Cold War (1947–1991) between the two superpowers, the United States and the Soviet Union, Vietnam was not the only country to be partitioned. We also saw East and West Germany, and North and South Korea.

East and West Germany remained divided until they peacefully reunified in 1990.

Although North Korea launched an attack in 1950, igniting the Korean War (1950–53), after July 1953, they too accepted division at the 38th parallel, limiting the conflict to a “war of words.”

Vietnam was the only country that endured a catastrophic war, with casualties as follows:

In the North:

  • Over 849,000 soldiers killed in action
  • Over 600,000 soldiers wounded
  • Over 232,000 soldiers missing
  • Civilian deaths in Communist-controlled areas due to the war: between 30,000 and 182,000

In the South:

  • 313,000 soldiers killed in action
  • 1,170,000 soldiers wounded
  • Between 195,000 and 430,000 civilians killed ²⁰.

Indeed, it was truly a case of “When one general succeeds, ten thousand bones are left to dry.”

People inside the country have remarked: “Con đường Bác đi là con đường bi đát” (The path Uncle Ho chose to take was a tragic one).

In the early 1980s, when General Võ Nguyên Giáp was reassigned to head the “Committee for Birth Control and Family Planning”—overseeing contraception and population limits—people in the North came up with a satirical couplet:

          Tướng Võ không còn Nguyên Giáp nữa

          Bác Hồ cũng chẳng Chí Minh đâu

 

(General Võ, no longer the Prime Armor
Uncle Hồ, no longer the Bright Mind)

The nation is now unified, but hearts and minds remain divided. Vietnam has been devastated, left backward, lagging far behind its neighbors. In the early 1960s, living standards in South Korea, Thailand, and Malaya were lower than those of South Vietnam. Today, they are far ahead. Is this really the “great achievement” for which the leaders of the Communist Party of Vietnam expect the Vietnamese people to be “grateful”?

To force the North’s population to sacrifice, the Communists exploited nationalism and used deception. They distorted reality, claiming that Southerners were oppressed by “American imperialists and their puppets,” living in utter misery with nothing to eat. Therefore, the youth of the North had to sacrifice themselves to “rescue” their southern brethren, in the spirit of the lines by the poet Bùi Minh Quốc:

“At twenty years old, when one sees the meaning of life,
However distant, one sets out on the road.”

Bùi Minh Quốc himself, together with his wife, the writer Dương Thị Xuân Quý, went to the southern battlefield, entrusting their only child, Bùi Dương Hương Ly, to the grandmother’s care. Writer Xuân Quý died in the South at the age of only 28, when their child was just two years old.

On April 30, 1975, following the victorious troops into Saigon, the writer Dương Thu Hương sat down on the sidewalk, covering her face and weeping like at the funeral of her father, because she realized:

“The model of society in the defeated South was in fact the true model of civilization, while we, the victors, had fought for a barbaric model of society.”

She continued:

“That realization filled me with bitterness. Our entire generation had been deceived… The Vietnamese people were pushed into a meaningless war.”

(Little Saigon Radio Interview with Writer Dương Thu Hương: ‘Vietnamese People, Even the Illiterate, Are Ashamed Because the Party Is Too Dark and Ignorant’ – Việt Báo Foundation, a Nonprofit 501(c)(3) Organization).

From an economic perspective, even in wartime conditions, the standard of living in the South in 1975 was far higher than in the North.

The singer Ái Vân recounted her first trip from Hanoi to visit her paternal aunt’s family in Saigon:

“When coming to visit Aunt Cả, the poor student Ái Vân also brought a small gift for the family, from my food ration. My cousin-in-law, chị Nga, the eldest daughter-in-law of Aunt Cả, asked: ‘What did you bring us as a gift?’ I solemnly opened the package and said: ‘I brought two kilos of rice for the family, since I thought you might be in need.’ Oh dear, the whole house burst out laughing, chị Nga laughed so hard she nearly fell off her chair. She said: ‘Goodness me, you’ve even brought us relief rice! Poor child.’ Then she led me to a huge plastic rice bin, full to the brim with snowy white, fragrant, tender rice. Only then did I notice the television, refrigerator, washing machine, and many other unfamiliar things in the house, showing a life of great convenience—something unimaginable in any northern home at that time”  ²¹.

Not only material life, but also the cultural and social life in the South in 1975 was superior to that in the North. Ái Vân continued:

“Before, we always heard that southern compatriots were ‘oppressed by Mỹ-Ngụy,’ living in misery. I always imagined Saigonese to be destitute. But when I first entered Saigon, I was utterly astonished. Just by looking at the way people dressed, wore makeup, moved about, spoke gently; just by going to the market, where every purchase came with a ‘thank you’ and a plastic bag, one could immediately tell that we did not belong to the same level of civilization. I realized then that I had been deceived by distorted information” ²².

Following are the personal accounts and reflections of a Northern technical specialist who was sent into the South for the takeover, Trương Minh:

“As soon as the vehicle crossed into Southern territory, we squeezed each other’s hands, marveling at the new scene. The houses of the people and the urban constructions such as bridges and roads near the main highways looked far more beautiful and civilized than those in the North. We traveled, rested, and traveled again until our convoy reached the Biên Hòa industrial zone. There were so many factories there. The 18 of us looked left and right at each row of factories in the area, and although no one said anything aloud, all were in awe of Southern industry.

“… Already, while still sitting on the bus, watching the scenery along the roads and the neighborhoods leading into Saigon, I could see that it was many times more advanced than the capital Hanoi. A bright, civilized appearance radiated from the clothing, lifestyle, and manners of the Southern people.

“… Saigon—or to speak more broadly, the entire South—was not a backward, poor, starving society, full of exploitation as the Hanoi press and radio had for so long told (or forced upon) the Northern people… This was the model of a civilized society, and anyone who lived in this society was truly more fortunate than living in the socialist society in the North. What a pity! Such a society has just been stolen away” ²³.

According to the cultural researcher Vương Trí Nhàn:

“Not only was the economy better, but education in the South at that time was also superior. Not only were the roads better, but the personal conduct of the people there in general was more mature than that of Northerners. Their level of knowledge and respect for the law was high. People treated each other decently; the youth at that time were eager to study and knew how to study better” ²⁴.

In his essay “Mấy cảm nhận về sự khác biệt giữa giáo dục miền Nam và giáo dục miền Bắc” (Some reflections on the differences between southern and northern education), Vương Trí Nhàn further observed:

“Just as different from Southern education, Northern education was also very different from the rest of the world. It is enough to understand why, after being trained in the North, when we came into contact with modern society, Northern students like us were often tongue-tied, out of place, while those who had been educated in the South integrated very naturally and effectively” ²⁵.

Here is the blog link that collects some of his reflections:

“Some Reflections on the Differences between Southern and Northern Education.”

South Vietnamese society in 1975 was by no means a perfect society. The democracy being built in the South in 1975 was not yet a fully consolidated democracy. But according to the reflections of a writer (Dương Thu Hương), an artist (Ái Vân), a technical specialist (Trương Minh), and a cultural researcher (Vương Trí Nhàn)—all of whom came from the North—that society and the people living in it did not need the Communist leaders in Hanoi to send troops across the Trường Sơn mountains to “liberate” them. More than two million Vietnamese were sacrificed in a fratricidal war, both catastrophic and meaningless. Thus August 19, 1945, the day the Việt Minh seized power from the Trần Trọng Kim government in Hanoi—while Emperor Bảo Đại and elder statesmen such as Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn … had repeatedly invited them to cooperate—should really be regarded as a day for the Vietnamese people to commemorate with joy?

 

 

Notes

1.    Tường Vũ, Vietnam’s Communist Revolution (New York : Cambridge Univ. Press, 2017), p. 105.

2.    Ibid., pp. 95-96.

3.    Ibid., pp. 104-105.

4.    Phạm Cao Dương, Bảo Đại, Trần Trọng Kim và Đế quốc Việt Nam (California : Truyền Thống Việt, 2017), pp. 288-289. See also Phạm Khắc Hòe, Từ Triều Đình Huế đến Chiến Khu Việt Bắc (Tp HCM : NXB Trẻ, 1996), pp. 76-77.

5.    Phạm Cao Dương, op. cit, pp. 289-290.

6.    Trần Trọng Kim, Một Cơn Gió Bụi  (Saigon: Vĩnh Sơn, 1969), pp. 86–88.

7.    Trần Đĩnh, Đèn Cù, Vol. 2 (Westminster, CA : Người Việt Books, 2014), pp. 545–547.

8.    Phạm Cao Dương, op. cit., pp. 307–309.

9.    Marr, David G. Vietnam 1945 (Berkeley: University of California Press, 1995), p. 374.

10.                      Phạm Cao Dương, op. cit., pp. 309-311.

11.                      Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên, 1939–1954 (Sài Gòn: Nam Chi Tùng Thư. Reprinted Los Alamitos, CA: Xuân Thu, 1969), pp. 47–48.

12.                      Hoàng Tường, Việt Nam Đấu Tranh (Westminster, CA : Văn Khoa, 1987), p. 68.

13.                      Nguyễn Tường Bách, Việt Nam Một Thế Kỷ Qua: Hồi Ký, Vol. I. (Westminster, CA: Thạch Ngữ, 1998), p. 169).

14.                      Hoàng Tường, op. cit, p. 68-69.

15.                      Ibid., p. 69.

16.                      Trần Trọng Kim, op. cit., p. 93.

17.                      Trần Đĩnh, op. cit., p. 478.

18.                      Trần Nguơn Phiêu, Gió Mùa Đông Bắc (Amarillo, TX: Hải Mã, 2008).

19.                      From Wikipedia:

First Indochina War - Wikipedia

20.                      From Wikipedia:

Vietnam War - Wikipedia

21.                      Ái Vân, Để Gió Cuốn Đi: Autobiography (Saigon: Hội Nhà Văn Pub., 2016), pp. 156–157).

22.                      Ibid., p. 156.

23.                      Trương Minh, “Chuyện kể của một người chiến thắng khi vào Nam” (Story of a victor entering the South.” In Nguyễn Tường Tâm, Cuộc Chiến Việt Nam 50 Ngày Cuối Cùng (San Jose, CA : NT Tâm, 2025), pp. 509–512.

24.                       “Cú sốc giáo dục khi vào Nam tiếp quản” (The educational shock when entering the South for takeover). In Nguyễn Tường Tâm, op. cit., pp. 517-518.

25.                      Vương Trí Nhàn, “Mấy cảm nhận về sự khác biệt giữa giáo dục miền Nam và giáo dục miền Bắc” (Some reflections on the differences between southern and northern education), in Nghiên Cứu và Phát Triển (Research and Development), Nos. 7–8 (114–115), 2014, p. 267.