Vũ thân,
1) Tôi cũng nghĩ như Vũ rằng người dịch bản “Bình Ngô đại
cáo” in trong cuốn Việt Nam Sử Lược
của cụ Trần Trọng Kim là cụ Bùi Kỷ. Cũng có thể cả hai cụ cùng dịch. Như Vũ đã biết,
cụ Trần từng có một bản lược dịch “Bình Ngô đại cáo” in trong Sơ Học An Nam Sử Lược (1917). Có thể trong
khi viết hai cuốn sử kể trên, cụ Trần là người nghĩ đến việc dịch “Bình Ngô đại
cáo” trước. Nhưng khi phải dịch toàn thể bản văn, cụ đề nghị cụ Bùi tiếp tay.
Hai cụ là bạn tâm giao, trở thành em rể và anh vợ rất tương đắc (cụ Trần lấy em
gái cụ Bùi). Dù cụ Trần có khởi xướng việc dịch, nhưng bản văn ở dạng hoàn hảo
như được in trong Việt Nam Sử Lược
(1920) và về sau in lại trong Quốc Văn Cụ
Thể của cụ Bùi (1932), hẳn đã do cụ Bùi là người chấp bút chính.
Trong thời
gian tôi ở Trung học, tất cả các vị thầy của tôi, dù dạy Sử hay dạy Quốc văn,
khi nhắc đến bản dịch ấy, đều nói là, "Bản dịch của Bùi Kỷ, in trong Việt Nam Sử Lược của Trần
Trọng Kim” (cuốn Quốc Văn Cụ Thể không được phổ biến rộng như Việt
Nam Sử Lược). Lên đến Đại học, tôi cũng nghe nói như thế. Trong hơn
20 năm ở Miền Nam, tôi không nghe có ai “đặt vấn đề” về chuyện ấy cả. Danh hiệu
cụ Bùi không được ghi sau bản dịch in trong Việt
Nam Sử Lược, có thể vì cả hai cụ cùng cho là không quan trọng. Các cụ từng hợp
soạn nhiều cuốn sách (Việt Nam Văn Phạm,
Truyện Thúy Kiều Chú Giải). Ngay trong những cuốn chỉ ghi tên cụ Trần (như Việt Nam Sử Lược, Nho Giáo) cụ Bùi cũng vẫn
tiếp tay một cách đáng kể.
2) Tôi
tin cụ Bùi là dịch giả (hay ít nhất dịch giả chính) của “Bình Ngô đại cáo” cũng
vì văn phong ở trong bản dịch ấy.
--Văn cụ
Trần là loại văn mộc mạc, giản dị của một nhà giáo, một nhà biên khảo. Trừ
quyển thơ dịch Đường thi, tất cả tác
phẩm khác đều bằng văn xuôi. Cụ viết nhắm mục đích giáo dục (Luân lý giáo
khoa thư) hoặc phổ biến kiến thức (Nho giáo, Phật giáo, Vương Dương Minh
...). Kể cả trong cuốn hồi ký rồi đưa ra những suy nghĩ về đất nước (Một
cơn gió bụi), cụ luôn luôn dùng lối văn thật thà, “có sao nói vậy,” không chải chuốt, cầu kỳ. Cụ khộng bận tâm lắm đến việc
gọt giũa câu văn cho hay:
“Danh với lợi ở đời là những cái
mồi nó dử mình vào cạm bẫy để hành hạ cái thân mình, chung quy chỉ là một cuộc
mộng ảo, chẳng có gì là thực. Khi đã mắc vào
thì lắm lúc lại phải đi vào những nơi hôi thối, phải bưng mắt bịt mũi, thật là
khổ.
Tôi nương náu ở đây chờ cho tình
thế yên yên, thì thu xếp về bắc, là nơi có bà con, bạn bè để khi vui buồn có
nhau, còn hơn là chỗ xa lạ.”
(Một cơn
gió bụi, Chương 12--Lên Nam Vang)
--Trong
Việt văn cũng như Hán văn, cân đối là một trong những mỹ từ pháp quan trọng,
giúp cho câu thơ, đoạn văn trở nên đẹp hơn, hay hơn:
Khi chén rượu, khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên
(Truyện
Kiều)
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn chau mặt với tang thương.
(Bà Huyện
Thanh Quan)
Một trong
những nét đẹp của một bài Đường luật bát cú là có những cặp câu 3-4 và 5-6 đối
với nhau:
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương
thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
(“Hoàng hạc lâu” của Thôi
Hiệu)
Bản dịch
của Tản Đà năm 1937 là một trong những bản dịch haycho bài thơ này nhưng chưa
được coi là hoàn hảo vì ở thể lục bát, không phô diễn được nét đẹp của những cặp
câu cân đối. Dịch lại bài này năm 1944 (7 năm sau Tản Đà), cụ Trần vẫn tiếp tục
dùng thể lục bát:
Hạc vàng đi mất đã lâu
Ngàn năm mây trắng một màu mênh
mông
Hán Dương cây bóng lòng sông
Bãi kia Anh Vũ, cỏ trông xanh rì.
Trong quyển
Đường thi do cụ Trần dịch có 67 bài thất ngôn bát cú.
Chỉ có 3 bài được cụ dịch nguyên thể và 8 bài dùng thể song thất lục bát. Tất
cả những bài còn lại đều được dịch sang lục bát, bỏ hẳn những cặp câu cân đối. Với
những bài dịch nguyên thể hoặc dùng song thất lục bát (với hai câu thất có thể
ghép cho đối với nhau), chuyện cân đối cũng không được cụ giữ trọn:
Tay mười ngón khoe khoang tài
nghệ
Đôi lông mày không kẻ nét dài
(Dịch hai
câu 5-6 bài “Bần nữ” [Người con gái nghèo] của Tần Thao Ngọc. Theo đúng luật
thơ, trong nguyên tác chữ Hán, hai câu ấy đối với nhau)
Chúng ta
có thể nói: Viết và dịch những cặp câu cân đối không phải là sở trường của cụ
Trần.
--Ngược hẳn
lại, đó chính là sở trường của cụ Bùi.
Trong bài
song thất lục bát “Truy niệm cụ Tiên Điền,” cụ Bùi diễn ý “sau khi vua Lê Chiêu
thống chết ở bên Tàu, Nguyễn Du về ẩn dật ở núi Hồng” bằng một cặp câu thất thật
cân xứng:
Miền Bắc
tái rồng bay mỏi cánh
Đỉnh Hồng
sơn hạc lánh xa xa
Trong
những bài tứ tuyệt, luật thơ không bắt phải có những câu đối với nhau, cụ Bùi
cũng vẫn hạ bút viết những cặp câu như:
Người hết, danh chưa hết
Đời còn, việc vẫn còn
(Bài “Đời người”)
Trời đất yêu ta, ta ở lại
Non sông nhớ bác, bác đi đâu?
(Bài “Viếng bạn”)
--Vậy văn
trong bản dịch "Bình Ngô đại cáo" giống với văn của ai? Chắc hẳn
Vũ cũng đã thấy rất rõ.
"Bình
Ngô đại cáo" dùng thể văn biền ngẫu, từng cặp câu đối nhau chan chát:
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân
Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử
bạo
Duy ngã Đại Việt chi quốc
Thực vi văn hiến chi bang
Sơn xuyên chi phong vực ký thù
Nam Bắc chi phong tục diệc dị …
Nếu người
dịch chủ yếu là cụ Trần, chúng ta khó có thể thấy trong bản dịch những cặp câu
đối nhau rất tề chỉnh và lưu loát như:
Đau lòng
nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa
Nếm mật
nằm gai, há phải một hai sớm tối ...
Múa đầu
gậy ngọn cờ phấp phới, ngóng vân nghê bốn cõi đan hồ
Mở tiệc
quân chén rượu ngọt ngào, khắp tướng sĩ một lòng phụ tử ...
Sĩ tốt ra
oai tì hổ
Thần thứ
đủ mặt trảo nha
Gươm mài
đá, đá núi cũng mòn
Voi uống
nước, nước sông phải cạn
Đánh một
trận sạch không kình ngạc
Đánh hai
trận, tan tác chim muông
Cơn gió
to trút sạch lá khô
Tổ kiến
hổng sụt toang đê cũ ...
Giang san
từ đây mở mặt
Xã tắc từ
đây vững bền
Nhật
nguyệt hối mà lại minh
Càn khôn
bĩ mà lại thái
Nền vạn
thế xây nên chăn chắn
Thẹn
nghìn thu rửa sạch làu làu …
Những câu
ấy gần với văn phong của cụ Bùi, khó có thể là văn của cụ Trần.
--Điều ấy
cũng dễ hiểu nếu chúng ta ôn lại quá trình học tập của hai cụ.
Cụ Trần
học chữ Hán lúc nhỏ ở nhà, nhưng từ 14, 15 tuổi đã theo tân học ở trường Pháp
Việt. Cụ học chữ quốc ngữ, rồi chữ Pháp. Văn chương Pháp, một ngôn ngữ đa
âm, không có thể biền ngẫu với những cặp câu cân đối.
Cụ Bùi
đậu Cử nhân Hán học, rồi đậu Phó bảng, được đào luyện trong lối học trường ốc.
Đi thi thời xưa, phải dùng thể tứ lục (biền ngẫu) để viết những bài chiếu, chế,
biểu… Nếu chỉ dịch “Bình Ngô đại cáo” sang văn xuôi, có thể cụ Trần không cảm
thấy khó khăn. Nhưng dịch theo nguyên thể của Nguyễn Trãi như trong bản dịch
được truyền tụng, với cụ Trần là một việc “thiên nan vạn nan.” Dù có là việc
làm chung của hai người bạn thân, hai anh em, lời văn trong bản dịch hai cụ để
lại cho chúng ta vẫn là văn của cụ Bùi.
Do đó, tôi
hoàn toàn đồng ý với Vũ.
Thân tặng ND, NV, và LK
http://tranhuybich.blogspot.com/