DÀNH 40 NĂM ĐỂ BỔ KHUYẾT HAI CÂU THƠ
Đúng 60 năm trước, nhân
dịp Xuân Kỷ Hợi 1959, trong một bài viết mang nhan đề ”Manh áo vá trên vai nàng
Thơ,” đăng trên Bách Khoa số 50 đề
ngày 1 tháng 2 năm 1959, thi sĩ Đông Hồ giới thiệu một bài thơ trừ tịch của Đặng
Đức Siêu. Theo Đông Hồ, ông “chưa được thấy
có bài thơ nào đến đúng với tâm hồn đêm giao thừa bằng bài thơ này.” Nhà
thơ đất Hà Tiên cho rằng bài thơ của Đặng Đức Siêu “vừa bình tĩnh trang trọng, vừa lịch sự tao nhã.”
Điều đáng chú ý là từ
khi thi sĩ Đông Hồ được đọc bài thơ ấy lần đầu giữa đêm giao thừa năm Kỷ Mùi
1919 trên tạp chí Nam Phong số 17, phát
hành tháng 11 năm 1918, bài thơ (nguyên là một bài Đường luật bát cú với 8 câu)
chỉ còn có 6 câu. Hai câu 5-6 đã bị thất truyền:
Tháng
lụn năm cùng sự chẳng cùng
Nửa đêm xuân lại nửa đêm đông
Chi lan tiệc cũ hương man mác
Đào lý vườn xưa tuyết lạnh lùng
…………………………………
………………………………....
Gà kêu pháo nổ năm canh trót
Mừng cội mai già gặp chúa đông.
Thi
sĩ Đông Hồ cho biết kể từ năm ấy (Kỷ Mùi 1919), giao thừa nào ông cũng băn
khoăn suy nghĩ đến hai câu thơ bị thiếu và tìm cách bổ khuyết. “Đã ngót bốn mươi năm nay, mỗi bận giao thừa
là mỗi bận băn khoăn nghĩ vá cho xong tấm áo của nàng Thơ họ Đặng.” Sau gần
40 năm suy ngẫm, mãi đến Xuân Kỷ Hợi 1959 và qua tạp chí Bách Khoa ở Sàigòn, Đông
Hồ mới công bố hai câu thơ ông nghĩ ra để tạm điền vào chỗ khuyết:
Đất
có bâng khuâng chờ hội ngộ
Trời như thao thức đợi tao phùng.
Nhà
thơ đất Hà Tiên hỏi độc giả, “Bạn đã thấy
chưa? Lòng Đất bâng khuâng, ý Trời thao thức đó”
rồi
viết thêm:
“Đất mong hội ngộ, Trời
đợi tao phùng, thì tinh tú núi sông đừng ngủ giữa đêm nay, phải thao thức cả, để
chứng kiến cho Năm Tháng giao mùa.
“Ánh thiều quang rực rỡ,
vầng húc nhật chói chang khai vận mới, đã mở đầu ngày nguyên đán huy hoàng.
“Trên cành già cỗi,
bông hoa mai đã điểm nụ hồn nhiên, là nụ cười của lòng xuân vạn vật hòa đồng với
lòng xuân vũ trụ:
Mừng
cội mai già gặp chúa đông.”
Xin chép lại toàn thể
bài thơ của Đặng Đức Siêu với hai câu 5-6 thất truyền được thi sĩ Đông Hồ tạm bổ
khuyết:
Tháng lụn năm cùng sự chẳng cùng
Nửa đêm xuân lại nửa đêm đông
Chi lan tiệc cũ hương man mác
Đào lý vườn xưa tuyết lạnh lùng
*Đất có bâng khuâng chờ hội ngộ
*Trời như thao thức đợi tao phùng
Gà kêu pháo nổ năm canh trót
Mừng cội mai già gặp chúa đông. ¹
(Mang
dấu hoa thị * là hai câu thơ của thi sĩ Đông Hồ).
ĐẶNG
ĐỨC SIÊU ĐÃ VIẾT “CỘI MAI” HAY “TƯỢNG MAI”?
Thi
sĩ Đông Hồ cho biết ông đọc thấy bài thơ ấy trên tạp chí Nam Phong số 17, phát hành tháng 11 năm 1918. Qua một bộ DVD cho Nam Phong do những người nặng lòng với
văn hóa Việt đang sống ở hải ngoại sưu tầm và thực hiện, chúng tôi tìm được bài
thơ ấy ở trang 286 của Nam Phong số
17, trong mục “Nam âm thi thoại” do Chương Dân phụ trách. Chương Dân là một
trong những bút hiệu của nhà cựu học Phan Khôi (1887-1959).
Cụ
Phan Khôi đã viết như sau:
“Ông Đặng Đức Siêu là một
vị công thần có danh tiếng ở triều vua Thế tổ. Lúc ngài còn hàn vi, có bài thơ
trừ-tịch rằng:
Tháng
lụn năm cùng sự chẳng cùng,
Nửa đêm xuân, lại nửa đêm đông.
Chi lan tiệc cũ hương man-mát (sic)
Đào lý vường xuân (sic) tuyết lạnh-lùng.
………………………………………
………………………………………(2)
Gà
kêu pháo nổ năm canh trót,
Mừng tượng mai đà (sic) gặp chúa đông.
“Các bậc tiền bối luận
bài thơ ấy cho câu kết là có khí tượng…”
Ở
chỗ hai câu thơ bị thiếu có đánh số (2), cho biết sẽ có một lời chú thích. Tác
giả viết lời chú ấy ở cuối trang, “Mất một
câu ngũ lục, xin ai biết thì bảo cho” ².
Không
kể hai chỗ sai chính tả chắc do lỗi ấn công: man mát // man mác, và vường
// vườn, bài thơ trên có hai chỗ khác với bài thơ được Đông Hồ cho in lại
trên tạp chí Bách Khoa:
--Câu
4: Đào lý vường xuân // Đào lý vườn xưa
--Câu
8: Mừng tượng mai đà gặp chúa đông // Mừng cội mai già gặp chúa đông.
Trong
câu 4, chữ “xuân” có lẽ là sai, vì chữ ấy đã được dùng trong câu 2 (“Nửa đêm xuân lại nửa đêm đông”). Trừ những
trường hợp tác giả cố tình nhắc lại với dụng ý nhấn mạnh, thông thường ra trong
một bài thơ Đường luật, mỗi chữ không được dùng hai lần. Thêm vào đó, để đối với
“tiệc cũ” trong câu 3, chữ “vườn xưa” trong bản do Đông Hồ đưa in trên Bách Khoa thích hợp hơn là “vườn xuân” (chi
lan tiệc cũ//đào lý vườn xưa).
Riêng
câu 8 trong bản do Phan Khôi đưa ra trên tạp chí Nam Phong có một điểm đáng cho chúng ta suy nghĩ:
Mừng
tượng mai đà gặp chúa đông.
Câu
hỏi đặt ra cho chúng ta: Nhà thơ Đông Hồ cho in trên Bách Khoa là “cội mai,” trong khi thực ra nhà cựu học Phan Khôi đã
viết “tượng mai” khi phổ biến bài thơ lần đầu trên
tạp chí Nam Phong số 17. Vậy
chữ nào đúng với ý của tác giả Đặng Đức Siêu hơn?
Trong
Văn Đàn Bảo Giám, quyển I, trang 19
cũng có bài thơ ấy. Câu 8 được in với chữ “tưởng mai”:
Văn Đàn Bảo Giám
là một tuyển tập thơ Việt Nam do Trần Trung Viên sao lục, xuất bản lần đầu ở Hà
Nội năm 1926. Tuyển tập này được nhiều thi nhân và nhân sĩ, trí thức có danh tiếng
hưởng ứng và hỗ trợ: Á Nam Trần Tuấn Khải duyệt lại, Tuyết Huy Dương Bá Trạc viết
lời tựa. Đến năm 1934 có thêm lời tựa của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Tại Miền Nam,
bộ sách được Mặc Lâm Thư Xã tái bản năm 1968 với sự hiệu chính của Hư Chu. Số
trang được ghi phía trên từ bản in của Mặc Lâm Thư Xã. Trừ chữ “vường” đã được
sửa thành “vườn” trong câu 4 và chữ “tưởng” trong câu 8, lời thơ trong bản này
giống hệt lời của bản đăng trên Nam Phong
số 17. Trong câu 4: “vườn xuân.” Trong
câu 8: “Mừng tưởng mai đà gặp chúa Đông”
³.
So
sánh chữ “tưởng” trong bản trên Văn Đàn Bảo
Giám và chữ “tượng” trong bản do cụ Phan Khôi đưa ra trên Nam Phong, chúng tôi thiết nghĩ chữ “tượng”
có lẽ đúng hơn. Trước hết, nhiều phần khi sưu tập tài liệu để biên soạn Văn Đàn Bảo Giám (được in năm 1926), Trần
Trung Viên đã lấy bài thơ ấy từ Nam Phong
(in năm 1918). Thứ hai, “tượng” là một từ hơi cổ, được Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức cắt nghĩa là “hình trạng
hiển hiện ra.” Muốn hiểu đúng ý Đặng Đức Siêu, thiết nghĩ chúng ta cũng nên ôn
lại cuộc đời của ông.
Đặng
Đức Siêu (1751-1810) là người Bồng Sơn, Bình Định. Sau khi đỗ Hương tiến (Cử
nhân) năm 16 tuổi, ông được chúa Nguyễn (Định vương Nguyễn Phúc Thuần) bổ làm việc ở viện Hàn
lâm tại Phú Xuân. Sau khi quân Trịnh chiếm Phú Xuân và Định vương
phải chạy vào Nam, ông về ở ẩn. Nghe tiếng ông, chúa
Trịnh và Tây Sơn lần lượt sai người vời ông ra làm quan
nhưng ông đều từ chối. Tháng 10 năm Mậu
Ngọ (1798),
nhận lời triệu mời của Nguyễn vương Phúc Ánh (cháu gọi Định vương bằng chú ruột),
ông vào Gia Định giúp Nguyễn vương khôi phục cơ nghiệp. Sau khi trình bày một số mưu lược đánh Tây
Sơn, ông được Nguyễn vương khen ngợi và phong làm Trung quân Tham mưu. Kể từ đó, ông thường bàn bạc việc quân với chúa Nguyễn (sau
thành vua Gia Long) và các tướng. Nhiều phần Đặng Đức Siêu đã làm bài thơ ấy
sau khi vào Nam giúp Nguyễn vương năm Mậu Ngọ 1798.
Qua hai câu 3-4, chúng ta thấy ông nhớ quê và ôn lại những kỷ niệm
ở quê trước kia:
Chi lan tiệc cũ hương man mác
Đào lý vườn xưa tuyết lạnh lùng.
Ông coi việc được Nguyễn
vương biết tới, cho người về tận quê triệu vào Nam giúp sức, rồi sau khi tới
nơi được tin cậy, phong ngay làm “Trung quân tham mưu,” là một biểu tượng tốt, không
khác gì hoa mai, một loại hoa thanh khiết, đã gặp được vị chúa đến từ phương
Đông (tiếng Hán Việt là “Đông quân”), vị chúa của mùa xuân:
Mừng tượng mai đà gặp
chúa đông.
(Trong văn hóa Á Đông
xưa, phương Đông thuộc hành Mộc, tượng trưng cho mùa xuân, phương Nam thuộc
hành Hỏa, tiêu biểu cho mùa hạ, phương Tây thuộc hành Kim, tiêu biểu cho mùa
thu, phương Bắc thuộc hành Thủy, tượng trưng cho mùa đông).
Chữ “tượng” ở đây có
nghĩa “hình trạng hiển hiện ra” như lời giải thích trong tự điển của Hội Khai
Trí Tiến Đức. Có lẽ “mừng cái hiện tượng hoa mai đã gặp Chúa Xuân” là điều Đặng
Đức Siêu muốn nói. Khi vào Nam giúp Nguyễn vương năm 1798 ông mới 47 tuổi, đang
tích cực trong nhiệm vụ giúp chúa Nguyễn khôi phục cơ nghiệp, chưa ở trạng thái
tâm lý để tự ví với “cội mai già.”
Tuy nhiên, ý nghĩa trên
có lẽ chỉ thích hợp với Đặng Đức Siêu mà thôi. Ông là một nhân vật lịch sử, một
trong những “khai quốc công thần” của vua Gia Long, về sau được nhà vua cử làm
Lễ bộ Thượng thư, vua Minh Mạng truy phong làm “Vinh lộc Đại phu, Trụ quốc Thiếu sư Hiệp tá Đại học sĩ,” và được
thờ trong “Trung hưng Công thần miếu.” Cuộc đời ông được chép trong Đại Nam Liệt Truyện ⁴. Không phải ai cũng làm được như ông.
Tuy không nói ra, chỉ
nhận là đã bổ khuyết hai câu thơ thất truyền, nhà thơ Đông Hồ đã đổi “mừng tượng mai đà gặp chúa đông” thành
một câu tức cảnh “mừng cội mai già gặp
chúa đông,” có lẽ để ý thơ gần với những người trung bình như chúng ta hơn.
Ông tỏ ra đặc biệt thích câu ấy, và đã vẽ một bức tranh, lấy câu thơ ấy làm lời
đề từ.
Nói
tóm lại, trung thành với nguyên tác, chúng ta nên coi:
Mừng tượng mai đà gặp chúa đông
là
câu thơ nguyên thủy của Đặng Đức Siêu.
Nhưng
chúng ta có quyền thích câu thơ sau khi được Đông Hồ đổi lại vì câu ấy dễ hiểu,
không dùng những từ khá cũ, và gần với tâm trạng chúng ta hơn:
Mừng cội mai già gặp chúa đông.
Sau
ngày 30 tháng 4 năm 1975, tạp chí Bách
Khoa, cũng như hầu hết sách báo xuất bản ở Miền Nam trước ngày ấy bị xếp
vào loại “văn hóa đồi trụy.” Một người bạn của người viết những dòng này phải
cho tất cả sưu tập Bách Khoa của mình
vào một thùng phuy rồi nước mắt ròng ròng,
châm lửa đốt. Nhờ sự tận lực của một nhóm thân hữu liên quan đến tạp chí điện tử
Diễn Đàn Thế Kỷ, với sự trợ giúp của một
số bạn mới ở cả trong lẫn ngoài nước, toàn bộ sưu tập Bách Khoa đã được phục hồi. Chúng ta có thể đọc lại toàn thể bài viết
của thi sĩ Đông Hồ cùng bài thơ được ông bổ khuyết và giới thiệu năm 1959, đúng
60 năm trước.
THỬ
TRÌNH BÀY BÀI THƠ DƯỚI DẠNG CHỮ NÔM
Đặng
Đức Siêu (1751-1810) là một nho sĩ sống nửa sau thế kỷ 18 và mười năm đầu của
thế kỷ 19. Nhiều phần ông không dùng chữ quốc ngữ, nhưng đã dùng chữ Hán và Nôm
để ghi lại các tác phẩm của ông. Khi phổ biến bài thơ trên tạp chí Nam Phong số 17, nhà cựu học Phan Khôi
cũng chỉ viết ra bằng chữ quốc ngữ chứ không cung cấp một bản chữ Nôm nào. Để kỷ
niệm 100 năm ngày bài thơ được thế hệ chúng ta biết đến, cũng là 60 năm ngày
nhà thơ Đông Hồ “trình làng” hai câu bổ khuyết, chúng ta thử viết lại bài thơ bằng
thứ chữ của thời Đặng Đức Siêu: chữ Nôm.
Trần Từ Mai
Ghi chú:
1. Bách
Khoa số 50 (số đặc biệt Xuân
Kỷ Hợi, ra ngày 1 tháng 2 năm 1959), trang 40-48.
2. Nam
Phong số 17 (tháng 11 năm
1918), trang 286.
3. Văn
Đàn Bảo Giám, Trần Trung Viên sưu tập,
Hư Chu hiệu chính (Sàigòn : Mặc Lâm, 1968), Q. I, trang 19-20.
4. Đại
Nam Chính Biên Liệt Truyện : sơ tập (Huế : NXB Thuận Hóa, 1993), trang 173-179.