Kính viếng kiến trúc sư Ngô Viết Thụ.
Bây
giờ...chiều rồi.
Tôi đang nghĩ
đến cái bóng chiều ít lâu nay vẫn lặng lẽ đổ xuống mớ tóc bạc của mình. Giữa
cái bóng chiều ấy đôi khi tình cờ thấy lại được hình ảnh của ánh nắng ban mai,
ánh nắng buổi đầu, cái thứ nắng rộn rã, giục giã, mời mọc của thủa hăm hở lên
đường trong cuộc sống, lòng chợt gợn lên một niềm vui dịu nhẹ.
Và gần đây tôi
đã cảm được chút vui xôn xao ấy khi thấy và nhìn một trong hai tấm hình chụp
cảnh cũ và mới của mái trường xưa, tấm hình có sức truyền cảm mạnh, đưa về bóng
dáng của bạn bè, nhắc lại kỷ niệm thời vụng dại. Ngôi trường với cái kiến trúc
hình cung vòng tròn, đứng sừng sững, mạnh mẽ, cao vòi vọi trên một ngọn đồi
nhìn xuống hồ Xuân Hương, Dalat. Làm sao quên được. Trường mang tên bác sĩ
Yersin, một vị ân nhân của Việt Nam, của nhân loại. Nhờ cuộc thám hiểm của ông
khoảng 1920-30 mà chúng ta có cao nguyên Langbian, có thành phố Dalat. Ông cũng
là người tìm được vi trùng bệnh yết hầu, nếu tôi không lầm. Ông yêu nước Việt
Nam, gắn bó với sinh hoạt Việt. Trong di chúc, ông muốn được an táng ở Nha
Trang và ông đã toại nguyện. Tôi ghi lại chi tiết về mộ phần của ông là vì
người bạn học đã gửi cho tôi hai tấm hình mà tôi vừa nói đến trên đây, vốn cũng
là gốc Nha Trang.
Trong e-mail, bạn tôi viết: "chụp lại tấm hình
quí ở sân trường Yersin năm 1951 với mấy thằng nội trú cùng lớp mà chắc chắn
ông còn nhớ đầy đủ tên họ, khỏi chú thích. Còn tấm thứ hai, do thằng cháu ngoại
chụp khi nó khi lên Dalat năm ngoái rồi ghé xem trường cũ của ông ngoại nó.
Hình cho thấy trường đã được sửa sang tu bổ lại sau tháng Tư, '75."
Tôi bấm lớn
tấm hình có năm người bạn cũ và chính tôi đứng trong sân. Sau lưng chúng tôi là
cái kiến trúc hình vòng cung có một không hai của trường.
Tôi liếc nhanh
qua mấy bộ mặt quá thân mật, quá quen thuộc, rồi liền sau đó dừng lại để ngắm
nghía chính tôi. Không biết ai ra sao chứ tôi ngắm tôi rất kỹ, để khám phá ra
là trải qua nhiều dằn xóc trên đường đời, lòng có nguội lạnh với dăm thứ, nhưng
mà cái tình của tôi dành cho chính tôi vẫn nồng nàn, vẫn tha thiết, nguyên vẹn
như ngày nào. Nó xúi tôi dừng lại khá lâu trên cái mặt non choẹt của chính
mình. Không biết xúi dại hay dạy khôn, nhưng mà tôi vui lòng chiều theo cái
giục giã ân cần của nó để "nhận xét" chính mình rồi rộng lượng với
bản thân mà kết luận rằng cái mặt hồi ấy... cũng không đến nỗi!
Sau đó tôi mới
từ từ nhìn mấy khuôn mặt thân thiết của mấy người bạn, kẻ còn người mất.
Thường, tình cờ thấy lại một tấm hình có bạn xưa cảnh cũ, tôi nghĩ ai cũng cùng
cảm thấy chút vui buồn lẫn lộn. Những tấm hình mà thoạt nhìn vào thấy... vui
quá... mới ngày nào đây ... mà bây giờ...
Bảy mươi năm
rồi... còn gì. Tôi nghĩ thầm vậy và cảm ngay được niềm vui vừa nhẹ trỗi khi
sống lại với ảo ảnh của nhiều kỷ niệm thời học trò. Rồi ngại rằng chính chút
vui ấy cũng sẽ tan biến để nhường chỗ cho một thoáng nhớ tiếc không tránh được,
nên tôi tạm "rời" lũ bạn để nhìn sang tấm hình của trường mới chụp
năm ngoái mà bạn tôi nói đã được tu bổ sau '75.
Và tôi đã ngỡ
ngàng khi thấy cái mái mới của trường, nay đã được lợp ngói đỏ. Là vì sau nhiều
năm trời nội trú ở trường Yersin, mắt tôi đã quen với cái mái lợp bằng đá bảng*
màu xám. Tôi đã từng thấy cái mái này chìm trong sương chiều lành lạnh, tắm
nắng sớm cao nguyên mát mẻ, ngủ im dưới ánh trăng khuya trong vắt, gan lì hứng
chịu những trận mưa giông xối xả thường ầm ầm sấm sét.
Tôi bật lại
tấm hình chụp chung với lũ bạn năm 1951, nhìn kỹ cái mái xám cũ ấy mà hơi bùi
ngùi bởi vì, với tôi, nó là một phần của tuổi học trò vô tư, tươi vui, một phần
của vùng trời kỷ niệm thời nội trú.
Và cũng chính
nỗi bùi ngùi tiếc nhớ cái mái cũ này đã đưa tôi về với một vẻ đẹp độc đáo của
trường Yersin mà nếu không có một bậc đàn anh trong ngành kiến trúc chỉ cho tôi
thì chắc chắn là đôi mắt thịt của tôi không bao giờ khám phá
ra được, tuy nó vẫn sờ sờ đấy năm này qua năm kia. Người thầy của tôi trong cái
nhìn đầy nghệ thuật dành cho cái mái xám cong vòng này, người chỉ cho tôi thấy
nét đẹp hiếm có này, không phải ai xa lạ mà chính là kiến trúc sư trứ danh Ngô
Viết Thụ.
Tôi quen biết
anh Ngô Viết Thụ khoảng năm 1949-50 ở Dalat. Ngày ấy, trường Cao Đẳng Kiến Trúc
được đặt ngay ở tầng thứ tư trường Yersin và anh Thụ theo học ở đấy. Các anh
sinh viên kiến trúc không phải ngày nào cũng đến trường, nhưng lũ học sinh
trung học chúng tôi thì có mặt ngày một và luôn thấy họ trèo lên tầng thư tư.
Thấy nhau riết rồi quen, chứ làm gì có cái lối giới thiệu bặt thiệp của người
lớn! Quen biết và nói chuyện một vài lần sau khi biết là anh và tôi đều gốc
Huế, nhưng tôi đâu dám xem mình là bạn anh Thụ, anh lớn hơn tôi đến bảy tám
tuổi.
Một buổi sáng
Chủ Nhật, vừa ra khỏi cổng trường, chợt nghe tiếng gọi tên tôi. Tôi ngoái nhìn
lui, nhận ra anh Thụ ngay ở cổng:
- Chủ Nhật mà
anh vô trường làm chi sớm vậy?
Anh chỉ vào
cái cặp da dưới nách:
- Cần gấp mấy
quyển sách để lại trong lớp.
Vậy là anh và
tôi vừa nói chuyện vừa đi xuống con dốc dẫn ra đường ven hồ. Đến trước cổng Nha
Địa Dư bỗng nghe đánh ầm một tiếng lớn từ phía trường. Cả anh Thụ và tôi giật
mình ngảnh nhìn lui. Có thể có một cành thông lớn hay một gốc thông mới đổ đâu
đó sau Nha Địa Dư. Ở Dalat, một cành thông gãy, một gốc thông đổ không phải là
chuyện lạ. Chờ môt hai phút, không nghe tiếng kêu cứu cũng không thấy khói lửa
gì, tôi quay lại định đi tiếp thì thấy anh Thụ đang chăm chú nhìn mặt hậu của
trường, không phải nhìn về hướng vừa có tiếng động mạnh. Hồi lâu, anh nói:
- Đẹp thiệt.
K. thấy không?
Thú thật, cảnh
này tôi đã thấy nhiều lần, thấy nó đẹp nhưng đẹp ra sao thì tôi không hề nghĩ
đến chuyện phân tích hoặc đào sâu mà tìm hiểu. Ở cái tuổi mười lăm mười sáu ấy,
vốn liếng học thức có là bao, cơ hội học hỏi về mỹ thuật cũng quá ít ỏi, mà cho
rằng có đi nữa thì chính mình chưa chắc đã ý thức được cái quí báu của một dịp
may khi đứng trước một tác phẩm nghệ thuật có tầm cỡ . Kiếm đâu cho ra cái
khiếu thẩm mỹ về kiến trúc hay về bất cứ một bộ môn nghệ thuật nào khác! Tôi
từng nhìn nét già nua, cổ kính của mái ngói rêu phong trên đình chùa lăng miếu
ở Huế và ở một vài tỉnh khác. Lên Dalat, tôi tò mò trước cảnh mỗi kiểu
một vẻ khi thấy các ngôi nhà mà hồi ấy người ta gọi là nhà tây dọc
theo nhiều con dốc. Nhưng mà chưa bao giờ để tâm tự hỏi xem ngôi nhà hai tầng
này có nét đặc thù nào, tại sao cái biệt thự nhỏ kia lại nổi hẳn bên cạnh nhiều
ngôi nhà khác. Cho nên, nghe anh Thụ hỏi, tôi cũng nhìn lên trường rồi trả lời:
- Dạ, đẹp.
Biết tôi trả
lời cho có lệ vì lễ phép thôi, anh Thụ đặt cái cặp cộm sách bên một gốc thông
ven đường, lùi lại năm sáu bước rồi cười mà ngoắt:
- Lại đây anh
chỉ cho cái này.
Từ chỗ anh
đang đứng lúc ấy, có thể thấy hầu hết toàn thể cấu trúc mặt hậu của ngôi
trường: tường gạch nâu đỏ cong vòng, tường bên ngoài mấy tầng lớp học quét vôi
trắng, đặc biệt là màu xám của mái trường, kể cả mái xám của cái tháp xây theo
kiểu tháp chuông, nhưng tôi không nghe tiếng chuông bao giờ cả, bên ngoài chỉ có
cái đồng hồ tròn đường kính đến hơn một mét. Không biết cái đồng hồ này hỏng tự
bao giờ nhưng suốt mấy năm ở Dalat hai cái kim đen cứ chỉ mãi chín giờ năm phút
nếu tôi nhớ không lầm!
Anh Thụ đưa
tay chỉ mặt hậu của trường, bảo tôi nhìn từ mặt đất lên đến đỉnh tháp chuông.
Anh giảng qua về đường nét của cấu trúc, rồi đến màu sắc của gạch ngói. Anh bảo
tôi nhìn kỹ màu xám của mái rồi chậm rãi kết thúc mẩu chuyện:
- Em thấy
không, nhờ màu xám phơn phớt xanh mà cái mái này nó hoà mình vào trời xanh, mây
trắng. Có thể nói màu xám này nâng cả ngôi trường lên.
Anh im lặng
vài giây như để sắp đặt ý nghĩ, rồi nói một câu có chêm mấy tiếng Pháp theo
thói quen khi trò chuyện của các anh sinh viên thời ấy:
- Đẹp ở trong
cái...illusion du mouvement (ảo giác của chuyển động) của một cái... masse
immobile (khối bất động). Nếu lợp ngói đỏ thì cả ngôi trường sẽ là một khối
nặng chịch, cứng ngắt, không có hồn.
Tôi cảm phục
rồi cám ơn anh đã mở mắt cho tôi. Chúng tôi đi một quãng đường
ven bờ hồ, gần đến Cầu Ông Đạo, anh lên phía Chợ, tôi rẽ qua con dốc dẫn lên
nhà Bưu Điện. Dọc đường, anh không nói thêm gì về vẻ đẹp mà anh đã chỉ cho tôi
thấy.Tôi nhớ là anh dừng bước một lần, quay lại ngắm ngôi trường in rõ trên nền
trời trong xanh ngắt. Trời Dalat vào mùa khô mà!
Rồi tôi cũng
quên mất câu nói có tính cách khai thị, trực tiếp từ cửa miệng của một người
sau này là bậc thầy trong ngành kiến trúc, người đã đoạt Giải Thưởng La Mã
(Grand Prix de Rome) năm 1955, một giải kiến trúc được trọng vọng nhứt trên thế
giới. Cho đến nay, năm 2021, thì anh Ngô Viết Thụ là người Việt Nam duy nhứt đã
được trao tặng giải này.
Thế rồi, một
buổi trưa không lâu sau hôm tôi gặp anh Thụ ở cổng trường, tôi đang đứng trong
sân với mấy thằng bạn nội trú, chợt một đàn chim có đến trăm con bay ngang qua
tháp chuông, lướt nhanh qua chiều dài của mặt tiền cái mái xám. Tôi nhìn đàn
chim. Khi chúng đã bay xa thì trong cái nhìn của tôi lúc ấy chỉ còn lại mái và
một vài đám mây trắng lơ lửng trên môt nền trời trong, xanh nhạt. Vụt một cái,
tôi có cảm tưởng mái xám của trường như đang nhẹ nhàng chậm chậm vươn lên. Và
chính cũng lúc ấy tôi mới thấm và hiểu hết ý nghĩa câu nói của anh Thụ. Lòng
chợt thấy vui, mừng nữa là khác. Vui vì tình cờ mà có một thí dụ cụ thể của một
điều khó nắm bắt. Mừng vì cũng ngẫu nhiên mà hiểu ngay được một bài học quí báu
về một vẻ đẹp của nghệ thuật, của kiến trúc.
Mà quả vậy,
mãi về sau này, nhiều lần lang thang ở một số các thủ đô và nhiều thành phố nhỏ
bên châu Âu, tôi vẫn dừng bước mỗi khi thấy một kiến trúc có mái xám, mà phần
đỉnh thuôn dần như hướng thẳng lên khoảng không vô tận. Một đôi lần, nhìn lâu,
tôi đã có được cái ảo giác của môt sự chuyển động. Cứ mỗi bận sống được một
phút với nét linh động nhẹ nhàng của gạch đá vô tri, tôi lại nhớ câu nói của
anh Thụ, rồi thầm cám ơn anh. Và khỏi nói, liên tưởng đưa ngay về nhiều hình
bóng của trường cũ với chút xao xuyến gợn lên do níu kéo không cưỡng nỗi của
vang vọng từ tuổi hồn nhiên, tuổi học trò.
Cho nên, như
tôi vừa nói ở đầu câu chuyện hôm nay, tôi đã ngỡ ngàng khi thấy cái mái lợp
ngói đỏ trong tấm hình do cháu của bạn tôi chụp. Cái mái mới, lợp ngói đỏ hầu
như cùng màu với gạch xây tường của cả ngôi trường khiến tôi... khựng lại. Sửng
sốt đã đành vì cái mái xám cũ "của tôi" đã mất! Tôi chăm chú nhìn
ngôi trường, bây giờ là một toà gạch ngói nâu đỏ. Vụt một cái, tôi nhớ ngay đến
mấy tiếng "một khối nặng chịch, cứng ngắt" trong câu nói của anh Thụ.
Quả có thế. Cho rằng bây giờ, nếu tôi đứng ngay trong sân, dù có cố tưởng tượng
đến đâu nữa thì khi chăm chú nhìn vào hàng vạn tấn gạch ngói cùng màu, tôi cũng
không tài nào có được cái ảo giác kia.
Tôi nghĩ rằng
trong công cuộc tu bổ trường Yersin, thì ít nhứt nguyên bản đồ án do kiến trúc
sư Paul Moncet thiết kế cũng phải được soạn ra để tham khảo. Thời gian xây cất
trường ông Paul Moncet đích thân ngày ngày đốc xuất công việc ròng rã mấy năm.
Hồi ở Dalat tôi nghe nói ông khó đến độ gạch và vật liệu làm ngói ardoise đều
nhập cảng từ Pháp. Không phải ngẫu nhiên mà ông chọn ngói xám cho tác phẩm của
mình.
Về mặt kỹ thuật xây cất, tôi không biết ngói thường và ngói bảng nặng nhẹ khác nhau ra sao khi ông cân nhắc, lựa chọn giữa hai thứ. Nhưng về mặt nghệ thuật, chắc chắn là ông đã sống với nét nhẹ nhàng của mái xám "vươn lên" khoảng không khi vẽ kiểu cho ngôi trường. Cái nét mà ngay khi chưa tốt nghiệp ngành kiến trúc, con người nghệ sĩ Ngô Viết Thụ đã cảm được, đã thấy. Tôi viết con người nghệ sĩ Ngô Viết Thụ vì khi ngắm vẻ đẹp của ngôi trường, trí tưởng tượng và cái nhạy cảm bẩm sinh đã cho anh thấy ngay cái thanh thoát của sắc màu. Không phải ai cũng "bắt" được cái nhẹ của.... gạch ngói đâu!
Tại sao khi
trùng tu người ta không xem trọng nguyên bản đồ án của Paul Moncet? Khó mà nghĩ
rằng ngói bảng đắt tiền hoặc đặt mua từ bên Pháp có thể lâu và vận tải cũng rắc
rối. Vì cách đây gần 100 năm, hồi khởi công xây trường Yersin, xe lửa lên Dalat
còn phải dùng móc sắt. Xe tải thời ấy còn nhỏ hơn bây giờ. Đường đèo không phải
đoạn nào cũng tráng nhựa. Vậy mà vật liệu vẫn "bò" lên đến Dalat. Còn
ngân khoản dành cho ngói bảng? Tôi nghĩ thà chờ khi có được ngói rồi hãy tu bổ
nếu ngân sách không tiên liệu khoản đó. Tại sao? Vì toàn bộ cấu trúc trường
Yersin đã được Hiệp Hội Kiến Trúc Sư Quốc Tế đưa vào vào danh sách 1.000 kiến
trúc độc đáo được xây trong thế kỷ XX. Có nghĩa là nó có giá trị mỹ thuật và
nghệ thuật của nó, không chối cãi được.
Tôi không rõ
lý do nào đã khiến cho cơ quan phụ trách tu bổ trường Yersin quyết định lợp
ngói đỏ thay vì dùng ngói bảng. Nhưng mà đàng nào thì đó cũng là một hành động
tuỳ tiện, võ đoán, không đếm xỉa chi đến giá trị nghệ thuật của một tác phẩm hi
hữu.
Sực nhớ lại
một kinh nghiệm tương tự, một lần ngỡ ngàng, khi cầm trong tay một quyển tiểu
thuyết hàng đầu trong thời kỳ cực thịnh của Tự Lực Văn Đoàn, khoảng thập niên
30 thế kỷ trước: quyển Hồn Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng.
Tôi mua quyển
này cùng với vài tác phẩm khác của Nhất Linh, Thế Lữ, trong nhà sách Khai Trí
cũ, đường Nguyễn Huệ (tôi không nhớ tên mới của hiệu sách ) cách đây đã nhiều
năm, trong một chuyến về nước. Sách thuộc loại khổ nhỏ, do Nhà Xuất Bản Văn
Nghệ, Thành Phố Hồ Chí Minh xuất bản (1999). Tôi mừng vì mấy quyển tương đối
nhẹ, không cộm, dễ xếp vào va-li. Tôi không xem ngay vì lu bu nhiều việc trong
mấy hôm ở Saigon. Mua vì cái cố tật ham bê sách về nhà thôi!
Về đến Mỹ, lúc
lật đi lật lại quyển Hồn Bướm Mớ Tiên vài lần để tìm đoạn tả chùa Long Giáng ở
Bắc Ninh, một đoạn tiêu biểu cho biệt tài tả cảnh của Khái Hưng, tôi sửng sốt
vì tìm không ra. Không thấy đâu cả, tuy sách không thiếu một trang từ đầu đến
cuối. Không một chữ về tác giả. Không cả một lời giới thiệu tác phẩm. Cũng
không có lấy mấy chữ " bản rút ngắn" ở ngoài bìa. Bàn tay của Nhà
Xuất Bản Văn Nghệ quả có thô bạo khi cắt xén! Kể như vô tội vạ, không ngó ngàng
chi đến cái đẹp của tác phẩm, chưa nói đến chuyện tôn trọng tác quyền. Cầm
quyển Hồn Bướm Mơ Tiên lúc ấy tôi đã nghĩ thà đừng tái bản còn hơn.
Và bây giờ,
nhìn cái mái mới của trường cũ qua tấm hình mà người bạn học gửi từ Nha Trang,
chợt nghĩ đến số phận của những trái đào tiên, những tác phẩm trong
nhiều bộ môn nghệ thuật khác, khi chúng bị tay phàm tu bổ sau
tháng Tư '75.
Đã đành, tôi
tiếc mái xám cũ trên trường Yersin vì một lý do cá nhân, chủ quan: nó ấp ủ cả
một khung trời hồi tưởng của chính tôi.
Nhưng mà tự
thân nó, cái mái xám cụ thể ấy là một nét không thể thiếu của một vẻ đẹp... nay
đã bị xoá.
Đáng tiếc thật!
Tiếc lắm anh
Thụ ơi!
Trúc Chi
4/21
*trong bài
viết này, tác giả cố ý giữ chính tả cũ của các địa danh Dalat, Langbian, mong
gợi lại một vài nét của thời 1940-50.