1-NỐI MẠCH THƯ HƯƠNG
Phải đợi đến năm 1970, trên Văn, số báo được dành cho một nhà thơ nổi danh thời tiền chiến còn sót lại, nhà thơ Vũ mới hé lộ đôi chút xa hơn về thân thế, rằng ông thuộc dòng dõi cụ Nghè đất Vị-Xuyên, cụ Nghè Bái dương. Chữ dòng dõi, huyết mạch, nghe có vẻ xa xôi diệu vợi quá khiến ít người để ý thêm về sự tiết lộ của nhà thơ, chưa kể khoa bảng không là đòi hỏi cần thiết cho sự làm nên một tài thơ, hơn nữa, một tài thơ xuất chúng đương thời.
Điểm nữa, thời thơ ấu, nhà thơ họ Vũ từng gắn bó với ngôi nhà cổ bên sông Vị- Hoàng ( người địa phương gọi là sông Lấp). Tú Vị-Xuyên tức Tú Xương mất từ năm 1907, như thế, tiếng gọi đò từng làm ông Tú tỉnh giấc mơ năm xưa, đến thời nhà thơ Vũ có chăng chỉ là đồng vọng. Vẳng nghe tiếng ếch bên tai. Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
Sau này, những lúc “ khi tỉnh rượu, lúc tàn canh”, nhà thơ có nhắc đến tiếng gọi đêm ai oán đó nhưng không rõ có là dư âm còn sót trong tiềm thức của một thế hệ tiếp nối hay không. Canh hà mô, gối liêu trai / gối nghiêng nửa gối canh dài sáu canh.
Ngay cả những lúc tri kỷ vụn với người bạn học cùng trường thuở trước, Vũ Bằng, cũng không được nghe nhà thơ Vũ nói thêm về những ngày tháng êm ả, đầy đủ của tuổi thơ, dưới gối mẹ và bà ngoại tần tảo. Ngoại trừ việc tiết lộ cũng trên báo Văn ( số 150, 15.3.1970), rằng “thân mẫu ông họ Hoàng, cũng giỏi chữ Hán và ưa đàn Nguyệt như các vị nữ lưu khuê tú thời xa xưa.”
Phải đến năm 1987, những người làm việc công việc thu thập, chú giải thơ Tú Vi-Xuyên trong một tập hợp đáng gọi là công trình ( Tú Xương, Tác Phẩm Giai Thoại, Hội Văn Nghệ Hà Nam Ninh) mới cho biết như sau về nguồn cội đích thực của bài thơ Áo Bông Che Đầu,
“ Căn cứ vào lời thuật của một số bô lão Vị Xuyên thì đây là một bài thơ tình, nguyên như trên và nói về quan hệ giữa nhà thơ (chỉ Tú Xương) với bà Hai Đích. Bà này tên tục là Cõn, con gái út tiến sĩ Vũ Công Độ xã Vi-Xuyên. Khi còn trẻ, hai người đã yêu thương nhau, nhưng gia đình ông nghè không thuận. Cô Cõn phải lấy chồng ở xã Mai Xá ( nay thuộc ngoại thành Nam Định) tên là Hai Đích. Năm 23 tuổi, chồng chết, cô trở về Nam Định ở vậy, nuôi con. Ông Tú cũng đã lấy vợ, trái tim vẫn lưu luyến mối tình xưa, nhưng không vượt qua khuôn khổ. Bài thơ này làm nhân một đêm nhà thơ si tình, lượn qua nhà người tình cũ, gặp mưa, phải lấy vạt áo bông che đầu, càng thổn thức khôn nguôi.” ( tr. 69.)
Tiểu truyện của bài thơ chỉ chép đến đây, bỏ qua chuyện người con cô Cõn để có thể nối mạch với thân thế nhà thơ họ Vũ.
Chuyện cô Cõn có thể được người đời tục biên và thực sự đã được viết tiếp như người ta đã làm với ngoại sử.
Giá như, chuyện được chép sớm hơn để cụ Dã Lan của chúng ta có thể dự phần bằng bàn tay người lập phả thì có lẽ chúng ta đã có một bản tông chi rõ rệt cho nhà thơ Vũ Hoàng Chương hơn là đôi hàng mơ hồ tương tự hai chữ “dòng dõi.”
Chép lại nơi đây bài thơ giữ vai trò “nối mạch thư hương” để cho thấy cái duyên văn tự không ngờ xuất phát từ một tình sử trong thơ lại có thể đưa đến việc xác nhận một mối liên hệ huyết thống
Hỡi ai, ai có thương không ?
Đêm mưa một mảnh áo mưa che đầu
Vì ai, ai có biết đâu !
Áo bông ai ướt, khăn đầu ai khô ?
Người đi Tam Đảo, Ngũ Hồ
Kẻ về khóc trúc Thương, Ngô một mình
Non non, nước nước, tình tình
Vì ai ngơ ngẩn cho mình ngẩn ngơ
(Áo Bông Che Đầu)
2-NÉT “NGÂY THƠ” CỦA NHÀ THƠ
Điều này được một số người trong văn giới và thân cận để ý đến. Thân cận với giới cầm bút tuy không viết một chữ nào là Dương Thiệu Mục, mô tả trong lần đầu gặp mặt. “Trông mặt gã vừa có vẻ kiêu hãnh, cao kỳ, vừa có vẻ ngây thơ, chất phác.” ( Văn, số 150,15.3.1970.) Đến như Tạ Tỵ, chỉ để ý đến cử chỉ, dáng điệu nhà thơ bên bàn đèn và để biểu lộ sự chặt chẽ của mình trước định kiến đối với người mê mệt ả phù dung. Nhà họa sĩ còn đưa ra bức chân dung của nhà thơ tại nơi tản cư. Với khăn, áo gấm lam, giày hạ và cuốn liêu-trai chữ hán trong tay. Nhà thơ nếu không phải được mô tả như người vẫn nguyên nếp sống nơi “ lầu hoang chìm dấu cỏ hồ ly”, thì qua lời kể, cũng là người rất mực ”ngây thơ” trước thực tại đa đoan như sóng dữ.
Nguyễn Hữu Nhật thì nói như đinh đóng cột rằng, “dáng ngoài nom ông có vẻ ngơ ngơ ngác ngác.” Rồi dẫn chứng bằng câu chuyện đáng kể là giai thoại. Có nhà thơ trẻ chở Vũ bằng xe gắn máy. Xe dừng lại ở ngã tư vì gặp đèn đỏ. Sau khi chạy một quãng mới phát giác ra nhà thơ không còn ngồi phía sau. Trở lại chỗ cũ để tìm thì thấy ông “đang đứng trên vỉa hè, nhìn trời ngắm mây. Đời ông yêu mây lắm” ( Làng Văn, số 109, 15.9.1993.)
Còn Thanh Nam lại nhìn dưới khía cạnh tâm lý khi giải thích rằng “bản tính anh dễ dãi, hồn nhiên, chuyện gì có thể tin ngay là thật” (Làng Văn, số 109, 15.9.1993.)
Nhưng đến Nguyễn Mạnh Côn có thể mới là người chú ý đến khía cạnh “ngây thơ” của nhà thơ khi phải đối diện với tình thế biến chuyển của đất nước. Đặt nhà thơ Vũ làm một nhân vật tên Hoàng trong truyện, dường như người viết truyện muốn chọn nhà thơ làm hình ảnh của không ít những người tỏ ra thờ ơ với thực tại. Họ bỡ ngỡ trước những bảng tên đường mới được thay tên. Hoàng lại còn ngạc nhiên nữa khi thấy đám đông chen chúc trước Ngân-Hàng đổi lấy giấy bạc năm trăm hình con rồng màu xanh thay cho giấy con rồng bạc, giờ bị xem là không còn giá trị (Nguyễn Mạnh Côn, 1945 Lạc Đường Vào Lịch Sử, 1965.)
Trò đổi bạc thường diễn ra cùng với những biến cố làm hoa mắt những người không chỉ là “ngây thơ” như Hoàng. Khi đoàn quân Trung-hoa “nhập Việt” để giải giới quân Nhật, họ đã thu lợi vô số để chi dụng và cho lòng tham, khi buộc dân phải chấp nhận với giá 1 đồng quan-kim như giấy lộn của họ ăn 1.5 đồng bạc đầm xòe. Nhưng đây là chuyện của người viết sử.
3-CHIẾC NÔI CỦA MÂY
Năm 1943, trong vùng Bạch Mai, ngoại ô Hà nội, nhìn ra ngã tư Trung- Hiền có ngôi nhà cổ khang trang nằm lọt trong ngõ Bò. Nơi mà ngày hai buổi, nhà thơ Vũ lấy xe điện làm phương tiện đến nhà in Ngày Nay, sửa ấn cảo tập thơ Mây lừng lẫy. Ngõ hẻm, vì thi nhân mà được đổi tên. Hoàng-Ngưu hạng. Còn tập thơ được chọn làm nơi ra đời trong bóng lờ mờ của ngôi nhà không cửa sổ và vắng ánh sáng điện khí.
Hoàng kể khá chi tiết trong tập hồi ký về nơi sinh hạ tập thơ làm nên danh phận. Nhưng, trước Hoàng, trí nhớ của người bạn có vẻ sắc sảo hơn và như được pha lẫn với trí tò mò, lần thứ nhất được thấy nếp sống riêng tư của người làm thơ tuổi trẻ. Nguyễn Mạnh Côn thuật lại như người làm phim thu trước vào lòng từng tiểu tiết chi ly của cảnh trí được chọn dựng lên trong cuốn phim dự liệu.
“Hoàng là một thi sĩ đã nổi tiếng. Trọng mến phục nhưng không có dịp gần gụi Hoàng, nên có lẽ cả hai người đều không hiểu tại sao họ gặp nhau lại vui mừng đến thế. Trọng có cảm tưởng Hoàng cũng thấy mình lạc lõng, bơ vơ trong cái nếp sống cách mạng với rất nhiều biểu tình và hoan hô đả đảo. Hoàng rủ Trọng về nhà anh, ở thật sâu trong ngõ Bò, một ngõ hẹp quanh co thuộc ngoại ô Bạch Mai. Hai người bạn ngồi chung một xe tay xuống quá đoạn đường tầu điện tránh nhau ngay dưới dẫy phố 24 gian. Họ xuống xe, rẽ vào con đường đất ăn ra vỉa hè tay trái. Trọng lẩn thẩn tính: đi thẳng, quẹo tay trái, đi thẳng men theo bức tường mầu xám đen của một hãng chế tạo sà phòng nội hóa, nhẩy qua rãnh đầy nước bùn đen, đến ngã ba, rẽ tay phải...
Rồi đến một bức tường quét vôi vàng cũ, trên đầu tường có những giây leo đầy hoa mầu tím. Trọng nghĩ đây là một nhà giầu. Hoàng đứng lại ngay trước cánh cửa gỗ mở nơi cuối bức tường ấy.
... ... Hoàng đưa tay cho Trọng vào trước. Sân lát gách bát tràng có vẻ hơi hẹp vì chạy theo suốt chiều dài của ngôi nhà ba gian và căn nhà ngang. Tiếng động bên ngoài chết trên dàn hoa. Trọng đột nhiên thấy ngỡ ngàng trong một thứ không gian im vắng, cổ kính. Ngôi nhà gỗ, bao tường gạch, mái lợp ngói, có đủ bốn hàng cột ngang, năm hàng cột dọc. Cửa bức bàn, mỗi gian bốn cánh, hai cánh cửa giữa mở chung, mỗi bên một cánh phụ mở riêng. Hoàng bước lên thềm gạch hơi cao, đi quá về gian đầu bên trái. Anh cúi xuống, đẩy ngang cái then gỗ cho nó lọt xuống cái khung hình chữ nhật mà người thợ đã đục sâu vào bậu cửa. Hoàng xô mạnh, cánh gỗ nặng kêu kin kít. Hoàng nhắc chân cao lên để bước qua ngưỡng cửa vào nhà. Trọng đứng lại, nhìn theo bộ quần áo trắng của Hoàng chìm dần trong bóng tối âm u. Trọng nghe có tiếng đánh diêm nhưng trong nhà vẫn tối. Hoàng cất tiếng gọi. Trọng cẩn thận theo vào. Anh phải đứng yên một lát mới nhận ra rằng Hoàng chỉ thắp có một ngọn đèn dầu lạc. Một ngọn đèn ở chính giữa một bàn đèn thuốc phiện.” (Nguyễn Mạnh Côn, 1945 Lạc Đường Vào Lịch Sử, Giao Điểm, 1965)
4-GÁC BÚT
Gác Bút. Nơi ở cuối của nhà thơ Vũ cũng có được cái tên, dẫu cho có ngụ ý mỉa mai, theo cách riêng của người thi sĩ. Nơi chốn được Mai Thảo lui tới hầu như hàng ngày trước khi tìm đường bôn tẩu. Không mà nên, con đường dẫn đến Gác Bút được Mai Thảo nằm lòng như thể là con dường duy nhất dẫn đến chốn lỵ trần, nơi chỉ có văn chương và tri kỷ. Hệt như Nguyễn Mạnh Côn, mấy chục năm trước, từng tạc vào lòng sơ đồ chốn của Thơ ngự trị khi đến ngôi nhà cổ trong ngõ Bò Vàng, khu Bạch Mai, Hà-nội, nơi chàng thanh niên thi sĩ Vũ Hoàng Chương bước lên tới đỉnh cao nhất của thi ca với Mây.
“Vượt qua chiếc cầu Calmette soi bóng trên một con kinh tù đọng, con kinh chạy dọc theo vùng ngoại vi tràn lan náo nhiệt nhất của Sài gòn là khu Chương Dương, Ông Lãnh, chiếc xe đạp lọc cọc chở tôi đi trên mặt đường lổi lõm, đụng tới tòa nhà xám bẩn của hãng làm phân bón thì rẽ trái vào một con đường trải đá xanh.
Con đường thoạt đầu nhỏ hẹp vào tới sâu phình rộng dần dần và mở thành một vùng ngoại ô tràn lan náo nhiệt khác là vùng Khánh Hội. (...) Chiếc xe chở tôi rẽ phải trên môt con đường nhỏ, yên tĩnh, rẽ trái vào một con đường yên tĩnh nữa, rồi tới một đầu ngõ khuất khúc. Tôi xuống xe, dắt bộ tới cuối ngõ, tới trước một căn nhà gỗ hai tầng. Đẩy một cánh cổng khép hờ đi vào, tôi đã tới Gác Bút của Vũ Hoàng Chương. “ ( Mai Thảo, Chân Dung, 1985)
Ngôi nhà nhỏ, nơi tá túc của vợ con Đinh Hùng ở phường Cây Bàng heo hút, là nơi nương náu sau cùng nhà thơ Vũ và gia đình. Và, cũng tại đây, may mắn thay, ông đã gặp mặt lại người em Vũ Hoàng Địch, sau cuộc chia ly dài theo nỗi thất vọng của bao người.
Mai Thảo viết, ông đã lui tới Gác Bút, gần như mỗi ngày, trong mười tháng trước ngày ông Vũ bị nạn, và ngày 30.11.1976 ông âm thầm về phường Cây Bàng thắp nén hương trên bàn thờ từ biệt bạn.
Gác Bút, nơi khép lại cuộc đời của một nhà thơ lớn đồng thời trở thành di chỉ có ý nghĩa nhất của một nền văn học bị phát vãng.
Người bạn vong niên của ông Vũ, Mai Thảo, đã vận dụng trí tuệ để hiểu cho bằng được cái mâu thuẫn to lớn nơi ông. Thần trí vẫn vững vàng, thần thức vẫn ung dung trong một thể xác ngày một tiêu mòn. Nơi Gác Bút lặng lẽ này, hoàng hôn chỉ đến với đất trời và với thân xác một con người sáu mươi năm chờ đợi.
5-CON TÀU SAY
Cuối thượng tuần tháng 11 năm 1969, vào một ngày mưa, ngồi nghe Vũ Bằng, người bạn học cũ ở Albert Sarraut, hỏi chuyện, nhà thơ Vũ đã tiết lộ nhiều mảnh chuyện vụn, kể cả chuyện lòng. Lần này họ cùng ngồi bên nhau nơi bộ bàn ghế gỗ ở nhà ngoài, không phải trên chiếc đi-văng nơi nhà trong, giang sơn thực sự của Vũ, mà tháng Hai ta năm sau, Nguyễn Mạnh Côn lưu lại suốt một ngày tại đây, cũng để cho đề tài số tạp chí được dành riêng cho một nhà thơ lớn nhất nước là Vũ.
Có thể mưa Sài gòn vừa cầm chân khách vừa làm lòng người thêm ủ ê, héo hắt nên Vũ đã có giọng chán nản, u uất như lúc tiếp chuyện với Nguyễn Mạnh Côn. Không phải cái buồn chán nản có ít nhiều tính chất triết lý của tuổi trẻ xưa.
Vũ cho biết, trước thời điểm tản cư, đã làm phụ tá kiểm soát viên tập sự (Contrôleur-adjoint à l’essai) cho Sở Hỏa Xa Đông-dương, một ngạch cao cấp trong chính quyền thuộc địa. Vũ đi làm vì tính thích “giang hồ vặt”, không phải do sinh kế. Làm được hai năm, được bổ vào ngạch thực- thụ thì xin từ chức. Bể vô tận xá gì phương hướng nữa / Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh. Mấy bài thơ như Phương Xa, Con Tàu Say...chính là cái lãi văn chương tuy rằng Vũ không nói ra như thế.
Câu chuyện “làm ga” không chấm dứt ở đây. Theo Thanh Nam, chuyện còn liên quan đến hai câu thơ nữa. “ ...anh bỏ ngang đại học để đi làm xếp ga và rồi chửi nhau với xếp Tây, bỏ sở hỏa xa về nằm nhà làm thơ sau khi đã viết lên tường ga Hàng Cỏ hai câu thơ
Kiếp sau nếu có là ta
Làm thơ thì được, làm ga thì đừng
(Thanh Nam, Làng Văn, số 109, tháng 9.1993.)
6-TƠ TRỜI HOA RÚT HẾT VÀO TIM
Thơ Hoàng sang trọng như gấm hoa, nhưng cuộc sống vật chất thanh bạch không kém một hàn sĩ. Trong cuộc ngã giá, đánh đổi ấy, nhà thơ dường như chẳng chút bùi ngùi, nhất là với những người từng tấm tắc trước cơ ngơi nơi Bến Thóc thành Nam dạo trước. Đôi lúc, ông Hoàng của thơ có thể phần nào hài lòng trước gia tài thơ tạo dựng nhưng mặt khác, chẳng bao giờ để nỗi thanh bần phát tiết trong thơ. Không ca ngợi nếp sống nước bầu cơm giỏ mà cũng chẳng đề cập, dù là bóng gió, đến cảnh cơ hàn rình rập. Đó cũng là kết quả của việc điều hướng tâm hồn lánh xa tục lụy. Bao nhiêu cái thú thanh cao của người dường như nằm trọn vẹn trong văn tự chữ nghĩa, kể cả cái thú được gọi là Truyền Kiều khi cắt tỉa chữ nghĩa trong Kiều thay cho cái công săn sóc tỉ mỉ của lớp người có của dành cho cây thế, cây kiểng trong Nam.
Có lẽ chỉ trong mấy năm cuối đời, khi trú tại gác Mây, được bà Mộng Tuyết chiết tặng một chậu hoa quỳnh, thi nhân Vũ mới có dịp đến với cái thú phù hợp tâm hồn cao khiết mà ông từng san sẻ trong thơ và chỉ cho thơ.
Quỳnh, hiếm nhưng không là thứ hoa vương giả. Thuở làm quen và ngóng đợi bóng liêu-trai và thực sự thác thân vào pho truyện cổ. Thời của Mây bồng bềnh như khói, của Rừng Phong lãng đãng với Trang, Vũ chẳng gửi hồn vào bất cứ hoa nào hay chọn hoa nào làm sứ giả. Ngoại trừ trường hợp biệt lệ
Vườn tưởng trọn mùa hoang phế
Còn thơm một nụ quỳnh hoa
(Thiên đường lại mở, Rừng Phong)
Hoa quỳnh hiện ra trong thơ có thể mang tính chất ước lệ của một loài hoa hiếm nhưng đích thực là đóa hoa mà người trông chờ. Lần đó, viết cho một người, không ai khác hơn là sau này là người bạn đời của mình, thi nhân Vũ đã chọn hoa quỳnh không chỉ là biểu trưng. Còn lần này, bên chậu hoa được tặng, việc nhà thơ để hết lòng vào việc nâng niu, chờ đón hoa nở làm câu chuyện thêm nồng nàn ý nghĩa. Từ Đào Trường Phúc, Hồ Trường An, Nguyễn Hữu Nhật ... đều ân cần với kỷ niệm tưởng như đẫm mùi hương quý dù cho chỉ nhận được lời mời.
Những người học trò, những người quen biết đều không quên chuyện này giữa bao điều có thể nói về ông. Ngắm hoa quỳnh nở còn là chuyện nhắc nhở đến một người, dù được Tạ Tỵ ngợi ca – như thay lời mọi người – vẫn lặng lẽ bên nhà thơ như chiếc bóng.
“ Trong một đêm hoa quỳnh, trăng sáng trắng muốt, ông Vũ Hoàng Chương đã nói “Hoa thiên lý nấu canh ăn trừ bữa được. Tiếc thay hoa quỳnh thì không...và cũng không nỡ.” Ông chăm sóc từng bông hoa, đắn đo từng chữ trong mỗi câu thơ như bà Thục Oanh, vợ ông, chắt chiu từng lon gạo. Dầu ngày mai chưa biết lấy gì để sống, chiều nay ông vẫn:” Ờ còn một bông nữa, thế à ? Đêm mốt sẽ nở...” ( Nguyễn Hữu Nhật, Làng Văn, số 109, 15.9.1993)
Ngắm hoa là có thơ vịnh. Nhưng thơ thất tán chẳng còn là bao. Chép lại bài thơ của Hồ Trường An như chút dư hương còn đọng
Đêm rằm lộng lẫy bóng trăng đầy
Vườn Úc hoa về nở gác Mây
Cánh trắng chắc gì say mộng tuyết ?
Lòng thơm há muốn cợt hương mai ?
Chẳng trao lời thục oanh lưu luyến
Đã gửi tình thông điệp cảm hoài
Giao hưởng đôi lòng hoa với khách
Mà quên sương gió lạnh đêm dài
(Hồ Trường An, Làng Văn, số 109, 15.9.1993)
Dịp này nhà thơ Vũ ghi lại duyên với hoa bằng 8 bài nhị-thập bát-tú ghi rõ từng thời điểm của mỗi lần thưởng hoa, trong tuyển tập tháng 10 của Văn năm 1973. Hội thưởng hoa với người thơ không còn là thanh thỏa sự mời gọi cái đẹp của tâm hồn cùng cảm giác mà là chuyến đi xa hơn của tư tưởng người thơ vào cõi thăng hoa và tỉnh thức. Lòng người và hồn hoa cùng cộng thông ở điểm thanh cao. Đèn khuya tâm sự hoa công chúa / không để phù danh lụy phấn hương.
Thi nhân như còn mượn hoa để ca ngợi nhan sắc tâm hồn người mà ba mươi năm trước đã mở lại cánh cửa thiên đường để chàng rời thế. Hoa đã là guồng tơ để ấm lòng người từ đấy
lá xanh nụ đỏ hoa bừng trắng
ôi một guồng tơ mở trước thềm
guồng chẳng quay mà trong khoảnh vắng
tơ trời hoa rút hết vào tim
Thi nhân không mượn hoa để làm cớ xa người như ta thường nghĩ. Người muốn mọi người đến ngắm hoa để có dịp soi lòng trước thử thách từ mọi phía trong ngoài. Tấm lòng mẫn thế là đây.
Quỳnh trong nước mắt sen trong lửa.. .. Cả hai cùng hiện một hoa đàm.
Thi nhân Vũ còn để lại cho đời một bài đề hoa quỳnh vào tiết trùng dương Quý Sửu
tưởng nguyệt đong đầy chén cảm quan
hương quỳnh đặc mãi nhạc mê man
thề hoa đến lúc khô lòng chén
nách lá còn treo nốt nhạc tàn
7-NGÀN KIẾP NHỚ THIÊN DUYÊN
Vân Muội (1942) và cả thơ Mây (1943) tưởng như đã là đám mây xám một buổi trôi dạt và lảng vảng ở thiên đường, chốn mà Hoàng đính ước với nàng-thơ-hiện-thân của thực-tại. Nhà thơ, cũng như bao người thi-sĩ, lòng đã gửi về một cõi trời nhưng không ngại đuổi theo những giấc mộng còn trong tầm tay. Cuốn hồi ký của thi-nhân mới cho phép ta được biết họ đã làm một chuyến lãng du lấy cớ để tránh nạn đạn bom oanh tạc tái diễn trên khung trời đất Thăng Long.
Đất Kinh Bắc mà thi nhân họ Vũ trở lại có khiến người thơ mang theo nỗi lòng người trở về vườn Thúy hay không. Nhưng điều biết chắc rằng, chuyện cũ nơi Dương Ổ đã khiến văn chương được một vốn bốn lời.
Với Vũ, chàng đã ra khỏi giấc mộng mà không băn khoăn. Trong chuyến đi ngược Bắc, lòng quay về thiên-đường được đính-ước, một lần nữa, chàng mang tâm trạng kẻ phiêu bạt trở về, tái xác nhận guồng tơ chưa đứt mối
Đôi lứa ban đầu mất Lạc viên
Cho ta ngàn kiếp nhớ thiên duyên
Chiều nay mộng thắm vừa tơ nối
Vườn cũ ngôi vàng gió lại lên
Mây nước dâng cao hồn chắp cánh
Trần ai rũ sạch nẻo về tiên
Bao la trăng động niềm ân ái
Giọng hát chim trời líu ríu men
Vũ hiểu rằng, thiên đường không khép cửa vì chàng. Tri giác đã không phản bội chàng như tiếng nói ngọt đầu môi. Thiên đường, hay Lạc viên chỉ là nghi chế của hạnh phúc và lòng tin. Một chiều vắng, trên chuyến tàu xuôi, chàng hiểu rằng, bên cạnh người đính–ước, thiên đường không ở đâu xa.
8- CHUYỆN BÊN BỜ SÔNG DỊCH
Bài Ca Sông Dịch (hay Tụng Kinh Kha) tự khi ra đời làm bài khai từ cho vở kịch Kinh Kha đã gây xúc động lòng người ra sao, có lẽ người yêu thơ bây giờ vẫn có thể hình dung âm hưởng bài hùng ca rộn ràng trong huyết quản.
Âm vang của bài còn đi xa, đến tận một nhà báo lừng lẫy kiêm nhà văn hoạt động tại miền Trung. Họ - nhà văn ấy và tác giả bài ca - gặp nhau trên đất Bắc và hình thành giai thoại quanh bài ca từ đấy.
Nhưng, từ khi câu chuyện sông Dịch và kẻ sang Tần bằng thơ nằm lọt trong không khí lắng đọng theo ý hướng tịch mịch siêu thoát của Rừng Phong, lại ra đời gần như lạc lõng giữa những dao động thời cuộc của mấy năm đầu thập niên 50, khiến cho người đọc sau này hầu như không quan tâm gì đến hoàn cảnh ra đời của bài thơ, hoặc có thể đinh ninh là ngẫu hứng. Chuyện sông Dịch có thể kết thúc sau những cảm xúc được khơi dậy trong lòng một số người xem kịch đọc thơ, giúp họ thanh thỏa được phần nào chút dằn vặt trỗi dậy do thời cuộc giúp sức. Nhưng chuỗi cảm ứng hình thành nơi người xem, người đọc không giản dị như với trường hợp Phan Khôi. Bài thơ đến với họ Phan và tức khắc thiết lập nên một mối tri âm đặc biệt với tác giả.
Vũ Hoàng Chương, một trong hai “tác giả” của câu chuyện bên bờ sông Dịch, nhấn mạnh nhiều lần đến sự cách biệt tuổi tác giữa hai người, xem như yếu tố khác thường trong việc tri ngộ. Họ chia tay nhau vĩnh viễn sau bốn ngày đêm cùng nhau trút cạn tâm tư nơi căn nhà lá bãi Phúc Xá bên sông Hồng và tại chiếc gác dài và hẹp bên bờ sông Lấp, Nam Định, theo tập hồi ký của Vũ, in năm 1974.
Thực ra, Vũ đã nhắc đến cái duyên tri ngộ với Phan Khôi vì thái độ khẳng khái của người cầm bút này trong tập san tiếng nói của hội Văn Bút Việt Nam in năm 1958 và như cách thông tri với thế giới cầm bút bên ngoài. Thái độ thẳng thắn, bất khuất trước quyền lực của ông Phan trong bài thơ gửi cho Vũ khi ở phủ-lỵ Xuân-Trường, ít năm sau cuộc gặp gỡ. Thư gửi chỉ là độc nhất một bài thơ. Bài thơ làm động lòng mãnh liệt kẻ tri âm vì “niềm khao khát tự do đã tuôn tràn đè chĩu khắp trang giấy.” Vũ bồi hồi xúc động và tức khắc hồi âm bằng bài thơ họa.
Ông Phan không tự nhận là thi nhân. Sở trường là biên khảo và bút chiến về nhiều lãnh vực. Với thơ, ít khi đặt bút, nhưng khi thành bài nào, ai cũng phải nhận rằng “tư tưởng đều thành thực, ý tứ dồi dào, dễ cảm” ( Vũ Ngọc Phan, Nhà Văn Hiện Đại, quyển 2.)
Những yếu tố mà Vũ Ngọc Phan dùng để nhận diện thơ Phan Khôi đều thấy được trong bài thơ gửi tay đến Vũ. Lòng ông được phơi bày như hình ảnh loài chim rút ruột nuôi con. Thơ là nỗi lòng chân thực được tỏ bày khiến người nhận không thể đáp lại bằng chén đãi bôi. Kẻ tri âm của ông Phan chỉ còn biết trách đất trời đã hờ hững trước một tấm lòng ngay. Nên Vũ đã tự nguyện bỏ lại cái sở trường văn tự tài hoa, lấy ngòi bút giản dị chân phương để hồi đáp chân tình.
Hơn là một mẫu mực của xướng họa, hai bài thơ không-đề còn là thí dụ của tình tri kỷ tri âm, một sự tương thông kỳ diệu giữa hai tâm hồn tiến hành trước khi dùng đến ngôn ngữ. Người lên tiếng không nóng lòng trông đợi sự phản hồi nhưng biết chắc rằng người nhận tin đã cùng với mình san sẻ điều bày tỏ. Khi gửi thơ đi, Phan có thể đã hình dung nỗi băn khoăn của người bạn trẻ ở bên kia sự ngăn cách. Thơ của Phan cũng chỉ ra cho kẻ tri âm sự cách biệt muôn đời giữa ước mơ và thực tại. Và điều không chỉ đáng buồn là ước mơ chẳng còn có nơi dung dưỡng. Khối mộng vờn mơn mãi chẳng thành
Ngừng tim lặng óc bặt giòng tình
Tai mắt như không phải của mình
Thấy dưới ánh trăng muôn khúc nhạc
Nghe trong tiếng ếch một màu xanh
Suối tiên đắm đuối bao cho chán
Khối mộng vờn mơn mãi chẳng thành
Thú ấy từ lâu không có nữa
Ngủ say thức tỉnh, dậy buồn tênh
( Phan Khôi)
Trời vô tâm quá, đất vô tình...
Biết gửi vào đâu cái “chính mình” ?
Tiếng ếch đã trùm lên tiếng sóng
Mầu đen lại ngả xuống mầu xanh
Uổng cho thơ dẫu bày trăm trận
Ngán nhẽ sầu khôn phá một thành
Tưởng tới nguồn Đào thôi lại tiếc
Con thuyền đêm ấy nhẹ tênh-tênh
(Vũ Hoàng Chương)
Vũ không rõ thơ hồi đáp có đến được tay người bạn vong niên khi mà cái tin không hay về Phan lại được biết trước.
Gần bảy mươi năm sau, sau bao nhiêu đổi dời luân lạc, người con út của kẻ sĩ họ Phan, Phan An Sa, mới biết được giai thoại hy hữu giữa hai nhà. Ông đã viết lại câu chuyện bên sông Dịch bằng chính giọng văn mạnh mẽ sôi nổi của Vũ Hoàng Chương thể hiện trong bài bút ký Sao Lại Thế Được. Có lẽ cũng vì bài ký trên không được xuất hiện trong tập hồi ký của Vũ Hoàng Chương được in lại ngót 20 năm sau (Ta Đã Làm Chi Đời Ta, nxb Hội Nhà Văn, Hà-nội,1993.)
Trước sau, chưa có nỗ lực nào thể hiện tinh thần chiêu tuyết mạnh mẽ và minh nhiên như Phan An Sa đã làm với câu chuyện bên bờ sông Dịch về một mẫu mực tri âm thời đại, một mẫu mực không kém huyền thoại Bá Nha Tử Kỳ.
Khúc đàn Bá Nha đã trổi dậy tiếng tơ trên bờ sông Dịch nơi đất Việt, Một huyền thoại mới về bài ca tri âm đã ra đời và lẽ ra từ lâu đã thuộc về lịch sử.(*)
-----------------------------------------
(*) Phan An Sa còn truy tầm thời điểm trao đổi thơ xướng họa giữa Phan Khôi và Vũ Hoàng Chương và đưa ra lập luận riêng như sau:
“ Trong cuộc gặp gỡ tri âm Phan Khôi -Vũ Hoàng Chương cỏ vẻ như trước, sau, phần chủ động đều thuộc về Phan Khôi. Trước, là mùa thu năm 1948 do Phan Khôi được nghe Bài Ca Sông Dịch mà chủ động tìm gặp tác giả. Sau, là từ cuộc chỉnh huấn một tháng ở Phủ Bình,Thái Nguyên vào mùa hè năm 1952 trong tâm trạng bế tắc và thất vọng, Phan Khôi làm bài thơ để trang trải lòng mình, ông không gửi cho ai, mà gửi cho Vũ Hoàng Chương.
Có vẻ như từ năm 1946 Phan Khôi đã phát hiện ra Vũ Hoàng Chương và tìm thấy ở người bạn trẻ một tài năng thơ và một tâm hồn thơ chân chính, rất đáng tin cậy, để mình có thể gửi gắm, chia sẻ mọi nỗi niềm. Nhưng chính Phan Khôi lại hoàn toàn im lặng, không có lấy một dòng viết về cuộc gặp gỡ tri âm của hai người, mà chỉ có Vũ Hoàng Chương ghi lại và đưa vào sách, nên người đời sau mới được biết.
Chắc chắn bài thơ họa nguyên vận của Vũ Hoàng Chương, do hoàn cảnh kháng chiến, đã không đến được tay Phan Khôi nên cuộc gặp gỡ tri âm của họ phải dừng lại ở đó và Phan Khôi mất đi cơ hội để chứng giám tấm thịnh tình của người bạn trẻ đối với mình. Thật đáng tiếc cho Phan Khôi và thật đáng ghi lòng tạc dạ tấm thịnh tình của Vũ Hoàng Chương đối với người bạn văn cao niên !
Còn bằng cách nào mà Phan Khôi từ Thái Nguyên là vùng Việt Minh lại gửi được bài thơ cho Vũ Hoàng Chương ở Nam Định là vùng quốc gia, là một câu hỏi khó trả lời cho chính xác. Tôi thì suy đoán rằng: Phan Khôi đã nhờ một văn nghệ sĩ “dinh tê” – người này cũng biết Vũ Hoàng Chương – cầm cái phong thơ không dán kín, về Nam Định trao tận tay người nhận. Tôi ngẫm đi ngẫm lại, thấy chỉ có cách đó là khả dĩ nhất. Và tôi tin như thế !
Tôi đã đi đến tận cùng cuộc gặp gỡ tri âm Phan Khôi – Vũ Hoàng Chương để bày tỏ lòng ngưỡng vọng của mình đến hai cố nhân có đường đời khác nhau, nhưng cùng yêu tự do và cùng chết trong cảnh mất tự do !” (Phan An Sa, Luận về cuộc gặp gỡ tri âm Phan Khôi – Vũ Hoàng Chương, Người Đô Thị online, 15.11.2020, Văn Việt online 23.12.2020.)
------------------------------------------------
9-CHỈ LÀ “NGHỀ” LÀM THƠ
Chỉ riêng thế hệ thi nhân thời tiền chiến thôi, không có ai chỉ làm thơ mà không có nghề gì khác làm kế sinh nhai. Nghĩa là coi việc làm thơ như là sinh kế. Điểm mặt 46 người làm thơ trong Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh-Hoài Chân (1942) thì không có ai lấy nghề này để tự nuôi thân. Đến như Tản Đà, một đời vất vả với việc làm báo, cho đến cuối đời phải rao thêm việc coi số Hà-lạc. Còn phái nữ được liệt kê như Mộng Huyền, Anh Thơ, Thu Hồng, Hằng Phương.. thì không ghi rõ nghề nghiệp nhưng số lượng sáng tác không đủ cho một sự nghiệp văn chương nói chi đến việc sống bằng việc rao bán thơ.
Vậy mà ông Vũ từng tâm sự với Thanh Nam rằng: “Bọn thi sĩ đúng ra không nên bắt chúng nó làm một nghề nào khác hơn là làm thơ. Ngay cả việc dạy học cũng không được nữa. Thi sĩ, chúng phải được sống chỉ để làm thơ mà thôi.” (Thanh Nam, Làng Văn, số 109, tháng 9.1993)
Thi nhân nói ra lời nửa như phàn nàn như thế cũng là tỏ ra ái ngại cho chính mình. Không phải làm thơ chiếm hết cả thì giờ đáng lẽ dành cho việc mưu sinh. Mà chính vì tâm hồn người làm thơ không thích hợp với công việc thực tế và bó buộc của nghề nghiệp.
Ông Vũ từng cho biết giá của thơ thời tiền và hậu chiến không rẻ chút nào. Khi trở về thành năm 1950, tái bản tập thơ Mây, ông được trả, trước sau 2 nghìn đồng bạc. Có 2 câu cuối bản dịch Tương Tiến Tửu của ông làm chứng cho điều này. “Ta cùng người lại cùng nhau / Uống cho ngàn trước ngàn sau tan buồn.” Theo sự tính toán của Nguyễn Mạnh Côn,1000 đồng hồi đó có giá trị của 8 đến 10 triệu đương thời (Nguyễn Mạnh Côn, Văn, số 150, 15.3.1970.)
Rồi cũng chính thi nhân cho biết trong tập hồi ký, thơ Hoàng vẫn còn có giá trong thời buổi Hà-nội rục rịch tản cư về quê lánh bom đạn. “Ông Hòe chủ báo Thanh Nghị hôm nọ vừa ứng trước một trăm để lấy vở kịch thơ Hồng Diệp in vào số Tết” và “Nhà xuất bản Anh Hoa ở đâu phố Hàng Than lại xin ấn hành cả ba vở kịch thơ: Vân Muội, Trương Chi, Hồng Diệp vào một tập Vân Muội. Trương Chi đã sẵn rồi, bây giờ có Hồng Diệp là ký giao kèo được quá.”
Ý kiến kẻ làm thơ chỉ nên làm thơ mà thôi được Thanh Tâm Tuyền tán thưởng dù rằng ông này có đến mấy nghề tay phải, kể cả việc viết feuilleton trên báo.
Khi tôn vinh Thơ và người làm thơ Vũ Hoàng Chương vào một đêm cuối năm âm lịch (15.1.1975), người thủ lãnh thơ tự do nói như xác định một sự thật. “ Kẻ làm thơ, suốt đời chỉ làm thơ, không biết và cũng không thể làm gì khác. Giữa chúng ta có một vài người, như Vũ Hoàng Chương, Bùi Giáng.” (giai phẩm Văn, số đầu năm, 11.2.1975.)
10-VŨ, NHÀ THƠ TRÀO PHÚNG ?
Thơ Vũ luôn thể hiện nét sang trọng, diễm lệ và trang trọng. Thế mà, một người bạn thân , Thanh Nam, đã từng mách, qua sự tiết lộ của Đinh Hùng, rằng trong thời kháng chiến, Vũ có cho đăng thơ trào phúng trên báo Cứu Quốc, và là thơ tếu có hạng nhưng không ghi thêm là ký bút hiệu gì. Thần Đăng là bút hiệu thơ trào phúng của Đinh Hùng. Bút hiệu này, ông tiếp tục giữ khi đăng thơ trên nhật báo Tự Do, Sài gòn.
Thanh Nam còn kể thêm sự tiết lộ của Đinh Hùng về tài thơ phúng thích của Vũ mà nạn nhân là Huyền Kiêu.
Thời còn ở Hà-nội, Huyền Kiêu, một người bạn thân của Đinh Hùng, có mướn căn gác nhỏ tại Cửa Đông, Hà-nội, vốn là nơi cư ngụ của một số bà vợ lính tẩy và thành phần tương cận. Để tránh người tìm nhà lầm lẫn, Huyền Kiêu treo 2 câu thơ trước nơi ở. “Ở đây cao ngọa Huyền Kiêu / Một trong nhóm Tây Hồ danh sĩ.”
Một bữa, Vũ ghé chơi nhưng Huyền Kiêu vắng nhà. Vũ thấy đôi câu, ngứa mắt, liền đề thêm vào bốn hàng
Một trong bọn Tây Hồ ranh sĩ
Cao ngọa trong nách đĩ: Huyền Kiêu
Gió trăng vào được bao nhiêu
Tè he Ngưng Bích giam Kiều tu mi.
Huyền Kiêu về nhà đọc thấy, chỉ biết gỡ bài thơ và ngậm cho ngọt cục bồ hòn.
Thanh Nam cho biết thêm, thời gian nhật báo Ngày Nay của Hiếu Chân và Vũ Khắc Khoan ra đời sau biến cố 1963, Vũ có cho đăng thơ trào phúng nhưng cũng không rõ lấy bút hiệu gì. Báo Ngày Nay không có mặt lâu và giọng thơ trào phúng của Vũ không còn sắc sảo như xưa nên cũng rơi vào quên lãng.
Chuyện không bịa đặt và như thế, Vũ có hai thứ mực để chép thơ.
11-NGÃ BA NÀO CỦA NHÀ THƠ
Ngã Ba là một vở kịch nổi tiếng của Đoàn Phú Tứ. Viết và đăng trênThanh-Nghị trong suốt 6 số báo năm 1943. Đoàn cũng là một trong những người bạn thiết của Vũ. Nhưng không vì thế mà ngăn cản việc nhà thơ Say, bỏ quên cái dáng điệu bên ngoài “ngây thơ, chất phác”, để tranh luận đâu ra đấy, cùng kỳ lý, về vấn đề chủ từ trong truyện Kiều (Loạn Trung Bút, 1970.)
Ngã Ba ra đời trong bối cảnh mà đa số thanh niên thời đại cảm thấy bế tắc, chán đời muốn tìm một lối thoát. Những nhân vật đại biểu trong vở kịch đều quay cuồng trong ngõ bí, đến nỗi có người không ngại tìm đến cái chết hay xem cái chết “là ổn thỏa nhất.” Nhưng vở kịch hé lộ một cuộc lên đường chưa rõ đi đến đâu khi mà những nhân vật trong kịch chỉ cảm thấy ra đi là lòng nhẹ nhõm. (Văn Tâm, Đoàn Phú Tứ Con Người và Tác Phẩm, Hà-nội, 2001.)
Có lẽ vở kịch chỉ mới hình dung được một nửa vấn đề đối với lớp thanh niên đương thời, nên từ khi vở kịch được tập diễn, nhà thơ Vũ đã không dè dặt nhạo báng dù rằng một số bạn thiết của ông, Nguyễn Tuân, Đinh Hùng, Đỗ Đức Thu, Lê Trọng Quỹ. ..và cả người viết kịch, đều nhận một vai trong vở diễn. Còn nhà thơ của chúng ta, sau này trong hồi ký, ghi rằng “đã tự ý đứng ngoài Ngả Ba. Hay – cho đúng hơn – bay lơ lửng ở phía trên Ngã Ba. Lơ lửng đám mây xanh, nếu đó là khoảng không; còn nếu đó là nước thì lơ lửng con cá vàng cũng vô hại !” (Duyên Thơ Nợ Kịch, Văn, giai phẩm, số ra ngày 15.1.1973.)
Xem ra, nhà thơ có ý thức rõ rệt về cách sống và thái độ sống mà ông lựa chọn, dù cho là bất đắc dĩ. Ít ra là khác biệt với những người bạn đã thuận nhận vai trong kịch. Những người đều vướng vào cái nợ với ả phù dung. Đi xa hơn, Vũ còn phản ứng như cảm thấy bị đẩy vào thế của kẻ tìm đường.
Thêm một lời chú cho rõ nghĩa. Nhà thơ Vũ hai lần nhắc đến “bác trai” nhằm ghẹo 2 người bạn Nguyễn Tuân và Lê Trọng Quỹ vì cả hai, lúc này, đều dan díu với người chủ nhà hát.
Ngã ba hề Ngã Ba !
Có phải chăng hề Ba là Sóng ?
Có phải chăng hề Ngã là Ta ?
Sóng không giết nổi hề chàng thi nhân mặt trắng
Ta không chết được hề vì điệu kèn đám ma !
Ai hát kìa :Bác trai đi vắng ?
Ai cười đây: Bác trai có nhà ..
Lên đường ? Lên đường ư ? Vào cơn Tận túy ?
Ôi ! Ngã là Ngã quỵ ?
Hay Ba là Ba hoa ?
Ông Đoàn, ông Đoàn nhỉ !
Cuộc chơi tàn ru mà ?...
12- CÓ CHĂNG MỘT LOẠI TRUYỆN “HƯ-HUYỀN”
Vũ viết loại truyện này rất ít nhưng đã vội vã đặt tên như đặt tên đứa con cầu tự. Truyện lấy mùi hương kỳ dị nơi đền Bà Kiệu bên Hồ Gươm, Hà nội, làm nền tối cho một mối nghi ngờ lớn dần lên với hình ảnh liên tưởng thoát thai từ làn hương ma quái. Mùi hương chiếm đoạt lòng chàng tuổi trẻ như sức quyến rũ của một nhan sắc. Giả thuyết của hồ nghi về sự có mặt của một linh hồn chết oan tại đây trong cơn binh lửa vừa qua. Truyện ấy ra đời sau lúc hồi cư, như thể tiếp nối gượng gạo không khí lãng đãng liễu-trai của một thời đứng bên lề thực-tại. Truyện được in lần đầu trong giai phẩm Kinh Đô Văn Nghệ của Đinh Hùng, tháng 8.1952 (in lại trong Loạn Trung Bút, Sàigòn, 1970.)
Vũ giải thích về cái Thực bất thường mà thực hơn cả chính sự Thật. Và cho rằng sự can thiệp của khoa học chỉ “cốt đi tìm hiện thể của những cái Không kỳ diệu?”
Thực ra, Vũ đã từng tự đặt mình vào thế giới liêu-trai, một cõi không thực nhưng không hề bị tước đi cái không khi làm nên từ bóng dáng nhân vật. Quỷ với người chung một mái nhà. Vũ viết như thế mà không tị hiềm về cái không Thực và chàng chẳng hề nghĩ đến chuyện khám phá thực hư. Bởi vì sống với liêu-trai, thi nhân đã kết hôn với cái chân ảnh của tâm hồn.
Có thể nghĩ, người thơ đã nhận cảm hứng từ loại truyện yêu ngôn của Nguyễn Tuân. Tính chất ma quái trong truyện gây thêm hoài nghi về chính sự thực họ sống chung cũng như từng hoài nghi về chính cái không thực mà họ từng sống với.
13- CÓ MỘT ‘”KINH ĐÔ” THƠ CHO VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Năm 1951, sau khi hồi cư về Hà nội, nhà thơ Vũ viết xong kịch thơ Tâm Sự Kẻ Sang Tần có thể với ít nhiều gửi gấm, sau tiếng dội của Bài Ca Sông Dịch còn để lại dư âm. Nhưng, với không ít người đương thời, sự giục giã lòng người qua trung gian một hình tượng cũ kỹ, đã làm giảm đi ít nhiều mãnh lực. Những va chạm với hiện tình thực tế đã làm con người dạn dần với gió sương. Kịch thơ, dẫu ngôn ngữ đẹp như ngọc chuốt, nằm trong khoảng cách xa vời của lịch sử nên không còn gây được xúc động như xưa (Diệu Tần, Làng Văn, số 109, 11.1993.)
Có thể thử thách ban đầu nặng về tâm lý người thưởng ngoạn đã không làm nản chí nhà thơ. Ông tiếp tục mở rộng thế giới riêng vừa ảo huyền vừa chứa đựng giấc mộng dài của người nghệ sĩ. Vở kịch thơ Cô Gái Ma mới chỉ được đăng báo năm 1952 sau khi Thằng Cuội được công diễn, có thể nằm trong cố gắng của người nghệ sĩ tiến về cái chân lý của thẩm mỹ mà người tự hào theo đuổi miệt mài.
Hai truyện ngắn, Cô Gái Ma – viết theo vở kịch thơ mang cùng tên, viết năm 1950 và Mùi Hương Quái Ảo viết năm 1951, có thể xem là nỗ lực cuối của việc cố thủ một thành lũy tâm tư của một thế hệ cảm thấy bơ vơ, không định hướng.
Nhà thơ còn đi xa hơn khi muốn xây dựng một lý thuyết sáng tác cho loại truyện này như phương tiện ngăn cản đà tiến của khoa học và lý trí. Nhà thơ mệnh danh là thế giới cần khám phá được thể hiện bằng loại truyện “hư huyền”, một thế giới chứa đựng “những cái Thực bất thường hơn cả chính sự thực.” (lời đầu truyện Mùi Hương Quái Ảo” in lần đầu trong Kinh Đô Văn Nghệ, 1952.) Không khí truyện là bầu khí của liêu-trai mà sự pha trộn thực hư, chân giả của sự việc là sự phản chiếu tâm hồn người nghệ sĩ. Bầu khí được tân tạo bằng nhân vật và bối cảnh thực tại của nước nhà, như cách để hiện thực hóa một giấc mơ vẫn còn nằm trong vùng viễn mộng.
Năm 1952, Đinh Hùng tiếp tục đi theo con đường từng dang dở với Dạ Đài. Một mô hình văn chương mang tên Kinh Đô Văn Nghệ cũng là giấc mộng phù du giữa thực tại không hề tỏ ra là một thuận duyên. Một tuyên ngôn cho sáng tác đượm nét siêu hình làm lung linh huyền ảo thêm cái chân lý được hướng về như một hành tinh mới của văn chương. “Hàng ngũ của chữ, đen và trắng, là một nếp dua thẫm màu giữ lại được cái VÔ CÙNG..” Cái VÔ CÙNG của lòng người cũng như cái VÔ CÙNG trong tâm linh vũ trụ, cái VÔ CÙNG ảo diệu ngự trị trên từng nhịp sống khắc khoải, quay cuồng, đó là những cõi u huyền mà hôm nay, có những người kế tiếp một truyền thống nào xưa, đang muốn lên đường khai thác.” (Tuyên Ngôn, Kinh Đô Văn Nghệ, số 1, 8.1952, t.l. nhilinh.)
Điều gọi là “vô cùng” trong Tuyên ngôn của Kinh Đô Văn Nghệ tương tự “cái Thực bất thường” – cái bản thể của sự vật – trong loại truyện “hư huyền” của nhà thơ Vũ, đều là chiếc bóng nhợt nhạt của chiều tà, hình ảnh tà huy của một xu hướng thơ-văn sau khi hoàn tất vai trò một cách xuất sắc.
Vũ lấy Kinh Đô Văn Nghệ làm vị trí ra đời có chọn lựa cho sáng tác thứ hai thuộc xu hướng hư-huyền, Mùi Hương Quái Ảo. Một bản văn xuôi được thi nhân giao cho nhiệm vụ nặng nề là chấm dứt lịch sử một giai đoạn sáng tác của thi-nhân. Khép lại chương cuối cuộc viễn du với cánh buồm lãng mạn bồng bềnh trước khi thời đại thúc đẩy buông tràn cơn sóng dữ.
14- CHỈ ÁNH TRĂNG VÀO KHUÔN CỬA THÔI
Như thế, nhìn về phía có Vũ Hoàng Chương, do sự gợi ý của Mai Thảo, chính là sự nhắc nhở cần thiết về cái bối cảnh mà nhà thơ đã góp phần xiển dương bằng sự đằm mình vào của con người tỉnh thức.
Phía có Vũ, không chỉ vì sự có mặt Vũ mà là không gian Vũ đã làm nên. Không chỉ bằng thơ mà do Thơ người hun đúc được.
Người từng đứng đầu tầu cho một ước mơ lẫn xu hướng đổi mới văn chương, kêu gọi lìa bỏ dứt khoát cái cũ như Mai Thảo, đã khám phá đầy đủ một không gian mới trong cái nhìn. Ông sánh cuộc sống hiện tại eo sèo đến mức người phải sống như người đi dây trong gánh xiếc. Lần lần rời xa những dây liên hệ thiết thân như tình bạn. “Lắm lúc, nhớ lại những giao tình đằm thắm của người người trước, là những tóc bạc những gậy trúc và những áo nhiễu tam giang trang trọng đi ba bốn mươi dặm đường trong mưa tuyết gió bão đến thăm nhau, nắm tay nhau thăm hỏi một vài câu, rồi về, tôi đã đâm ra hoài nghi cái trọng lượng điệu bạc của những tình bằng hữu còn được nói đến trong đời sống hiện tại.”
Vì thế, phần dở dang của bài viết chính là phần người đọc có thể viết thay nếu hiểu được trường hợp nhà văn này sớm đến với Vũ sau những dị nghị trong văn chương có thể xảy ra.
Phía có Vũ Hoàng Chương là hướng của Thơ được hun đúc, thăng hoa thành những giá trị căn bản của đời sống tình cảm và tinh thần của con người.
Chỉ ánh trăng vào khuôn cửa thôi. Thơ Vũ có không ít hình ảnh như thể gạn trong tâm hồn người đọc bằng việc đặt họ vào một chốn thúc đẩy họ đến với chân tâm. Lấy ánh trăng làm bạn. Khi chỉ ra như thế lòng người không còn gì hiu quạnh hơn nhưng cũng chưa từng thấy được nhẹ nhõm như thế.
Nhìn về phía có Vũ Hoàng Chương là nhìn về hướng mà lòng mình thầm khao khát. Mai Thảo buông bút vì một cơn đau, hay muốn dành cho người đọc thơ Vũ cơ hội tìm kiếm một tặng vật mà người đã để lại trong thơ ngoài hàng hàng sâu chuỗi ngôn ngữ lấp lánh.
15- NGƯỜI CON GÁI TRONG TRUYỆN LIỄU TRAI
Như đã viết, Mai Thảo từng nhìn về phía Vũ với bài viết dở. Nhưng dù không toàn vẹn, bài vẫn được đăng như thể ý nghĩa nằm ở việc dở dang. “ Nhìn về phía có Vũ Hoàng Chương “ là nhan đề bài. Và ngay cả khi đọc nhan đề này, ít người biết được mối giao tình giữa họ sau này, khi mà mâu thuẫn sâu sắc giữa xu hướng nghệ thuật của nhóm Sáng Tạo trong đó có Mai Thảo, với nền văn chương tiền chiến là điều không thể nghi ngờ.
Nhưng đáng lưu ý là vào số Xuân Mậu Tuất (số 17) 1958, Sáng Tạo đã đăng một bài thơ của nhà thơ Vũ. Bài Tuổi Xanh, sau được in vào Hoa Đăng. Bài thơ được đặt trên đầu tập, sau hai truyện ngắn. Truyện được đặt kế cận bài thơ của Vũ do Nguyên Sa viết. Người Con Gái Trong Truyện Liễu-Trai.
Đó thực sự là truyện liễu-trai được khoác áo tân thời nhưng với tình tiết của câu chuyện xảy ra vào thuở, quỷ với người chung một mái nhà.
Người thanh niên và một cô gái rất trẻ khoác trên mình chiếc áo choàng đen, gặp nhau như thể không tình cờ, trong một toa tầu vắng khách. Chỉ có hai người họ trên tầu. Họ có dịp đọc chung một câu chuyện chép trong tập nhật ký nhặt được kể lại cuộc gặp gỡ kỳ lạ giữa một nhà viết văn lui về căn nhà giữa vùng hoang vắng để hoàn tất cuốn tiểu thuyết và một thiếu nữ luôn mang trên mình chiếc áo choàng đen. Thiếu nữ lưu lại đây nhiều đêm và thường bỏ về lúc trời chưa sáng, chỉ để lại “một làn hương dịu của một loài hoa lạ.” Họ trao đổi chuyện cuộc đời và chuyện văn chương. Cô gái không hề tiết lộ tung tích và chàng thì cảm thấy chập chờn vì men rượu lạ hằng đêm. Vào một tối sau cùng gặp nhau, người con gái yêu cầu khi gặp lại thì chàng phải trả lời câu hỏi, “nếu em là ma thì sao ?”
Chàng viết văn mong mỏi dẫu thế nào cũng sẽ đưa nàng về với cuộc sống thực tại. Nếu quả nàng là ma thì “thực tại của dĩ vãng sẽ biến thành hư ảo”, những ngày hạnh phúc vừa qua và cả dự định sẽ đều là chuyện lọc lừa. Nên chàng quyết định giết nàng trước khi tự sát.
Đọc xong trang nhật-ký, người thiếu nữ rời tầu xuống ga, lẩn nhanh vào bóng tối nơi ga vắng. Dáng điệu hệt như người con gái khoác áo choàng đen trong truyện.
Không thể không nghĩ rằng Nguyên Sa đưa ra một quan niệm thực tiễn về hình ảnh liêu-trai, một quan niệm sống được nhà thơ Vũ nhập thân trong thơ, trong kịch và cả trong cuộc sống hàng ngày. Nhìn xa hơn, không hẳn là cần thiết khi đưa liễu-trai ra để xét việc thực-hư. Vì ngay cả là chuyện hư ảo chăng nữa, nhìn nhận liêu-trai vẫn là nhìn nhận cái hư ảo cần thiết trong việc xác định nội dung một ước vọng có thực của con người.
Có lẽ triết lý câu chuyện là đây. Và, sự có mặt của nhà thơ Vũ bên cạnh một chuyện tình đương đại nhưng chất chứa ước vọng được gửi gắm vào liêu-trai, chính là sự tái nhận diện mới nhất về một nhà thơ gần như thường xuyên được đặt trước sự thử thách
lứa đôi tái thế vẫn tương phùng
nguyên-thủy nào đâu khác Cực chung !
anh muốn dìu Em giờ Hiện-tại
nghe trăng hòa điệu nước lên cung
Trước khi khép câu chuyện, xin hãy nhìn lại hình ảnh liễu-trai đương đại của người thi sĩ của tuổi-trẻ, Nguyên Sa, trước khi nàng tan vào bóng đêm. “Tôi nghiêng đầu nhìn khuôn mặt nàng. Dưới màu sáng mềm yếu của ngọn lửa tàn lụi đôi mắt nàng sâu thẳm lại như chìm sâu thêm một chút vào đêm khuya. Một vài hình ảnh dĩ vãng theo ánh lửa bập bùng thoi thóp chập chờn ảo hiện trước mắt tôi (...) Khi tiếng gõ cửa nhỏ nhẹ vang động từ bên ngoài niềm lo âu và nỗi ngạc nhiên xâm chiếm lấy tôi. Tôi có hẹn hò ai đến ngôi nhà khuất nẻo này đâu. Cuốn sách dự định hoàn thành trong những ngày tháng gần gũi đã bắt tôi đi vào những giờ khắc cô đơn. Tại sao lại có người đến tìm tôi ở chốn rừng núi xa vắng này ? Lạ hay quen ? Lạ thì đến làm gì ? Mà quen thuộc thì làm sao biết được mà tìm đến.
Khi tôi mở cửa thì tôi không tìm thấy một bóng người nào cả trước mặt tôi. Nàng đã nằm gục trên lề cửa. Tấm áo đen đậm phủ trên toàn thân làm tôi nghĩ đến một tử thi nằm trong một mảnh đêm khuya.” (Người Con Gái Trong Truyện Liễu Trai, Sáng Tạo, số Xuân Mậu Tuất (số 17), 1958.)
16- NHÌN VÀO TÂM TÌNH NGƯỜI ĐẸP với Phạm Việt Tuyền.
Tập thơ mang cái tên dễ cảm này không chỉ là một tập thơ mang nội dung mới và hình thức mới của nhà thơ Vũ mà còn là chiếc cầu thứ nhất đưa tâm hồn và ước vọng người Việt, qua thi nhân, đến với thế giới bên ngoài đang trông đợi lắng nghe.
Tập thơ ra mắt trong một buổi tiếp tân của hội Văn Bút Việt đón chào một khách văn-chương phương xa, ông Roger Caillois, vào sáng ngày 16.10.1961. Phu nhân nhà thơ đã trao tận tay các tân khách tập thơ còn thơm mùi giấy mực, kèm theo ước vọng của thi nhân, thay lời cho những người cầm bút đồng tâm. Thế giới không còn biên giới nữa / Chỉ còn muôn dặm nức hương lân.
(Vườn Hoa Bể Bắc). Một cách minh nhiên, những người cầm bút đã tự ủy nhiệm công việc của những người hòa giải và tương thông giữa nhân loại, bằng vào khả năng của văn tự, chữ nghĩa.
Chỉ riêng về điểm này thôi, người đọc và cảm thơ Vũ trong bầu khí xã hội những năm 40, bất giác thấy được khía cạnh chuyển biến trong hồn thơ thi nhân theo cách hướng ngoại và mời gọi cảm thông.
Người giới thiệu tập thơ, ông Phạm Việt Tuyền, đã để công giới thiệu kỹ lưỡng thân thế và sự nghiệp thơ của thi nhân, nhưng thật khó có thể giúp hình dung được sự thành hình nguồn thi hứng mới mà chỉ có thể có được bằng vào sự thay đổi ý thức. Nhưng sự giao hoán kỳ diệu đã được thực hiện nơi thi nhân. Chúng ta đã có được Tâm Tình Người Đẹp, hiển hiện ý thức và trí tuệ của một tâm hồn vẫn dạt dào rung cảm. Thế giới thơ của thi nhân được mở rộng thêm cùng với việc khuếch trương sự nhạy bén kỳ diệu với ngoại giới.
Tâm Tình Người Đẹp trở thành một thứ tâm điện đồ biểu thị hiệu ứng của trái tim đông phương, qua hồn thơ một người thi sĩ. Thi nhân là người mau mắn đáp ứng yêu cầu của hội thơ Lưỡng niên Quốc Tế tại Knokke-le Zoute, nước Bỉ mà người có mặt tại đây năm 1959.
Người giới thiệu tập thơ, ông Phạm Việt Tuyền, không quên nhắc tới sự thay đổi nội tâm của người làm thơ cũng là sự thay đổi nội tại của một phần dân tộc kể từ thế chiến 2, được thể hiện trong tác phẩm.
Tâm Tình Người Đẹp còn đưa ra cách trình bày bài thơ dưới hình thức 28 chữ thuần Việt, được mệnh danh nhị thập bát tú. Sự thể hiện của trái tim và suy tưởng trong hình thức mới mang tính chất dân tộc như trên, cho thấy trước sau, thi nhân chẳng bỏ quên đời. Thiết tha, khắc khoải chính là cách riêng tiếp xúc với đời của người thi sĩ.
17- MỘT CÁI NHÌN TỪ HƯỚNG TÂY
Năm 1963, trong cố gắng hướng về phương Tây mà bộc bạch thay cho người trong nước, nhà thơ Vũ gạn lọc một số tinh anh trong các tập thơ trước. Tập hợp tuyển mang tên Poèmes Choisis Thi Tuyển, chỉ riêng những thể hiện bên ngoài, đã là công phu của những tâm hồn được quy tụ xứng đáng với sự ngóng đợi từ phương xa.
Thơ Vũ, đặc biệt trong Rừng Phong, là khối trầm tích tư tưởng đặc thù sánh được với thứ có được do sự tinh luyện tri thức, ý thức được khơi dậy từ nguồn cảm hứng vừa thâm sâu vừa mãnh liệt.
Người đề tựa tập thơ tuyển, giáo sư André Guimbretière, ở phương trời bên kia thăm thẳm, đã bắt được tần số những âm thanh phương đông bằng giác quan tinh tế diệu kỳ. “Một áng thơ mà ở đấy người ta nghe rõ hơi thở của Trái Đất, niềm rung động của các ngôi sao rất gần, gần đến nỗi chúng hồi hộp ngay trong trái tim mình; một áng thơ chứa chất lòng hoài niệm về một dĩ vãng trần-gian lòa chói vàng son, và nổi dậy tung-hoành cái ý-hướng quyết liệt trở lại tận nguồn gốc một thế-giới huyền-bí.” Mà quả thực, những ngôn ngữ như trên chỉ đủ để hình dung những kiến trúc tuyệt mỹ của tư tưởng, triết lý, văn chương được thiết lập trong mỗi bài thơ được lục đăng.
Cái nhìn từ phương Tây còn giúp ta mở rộng thêm chân trời nhưng không phải để kinh ngạc trước những cái khám phá. Phương Tây có thể trầm trồ trước những mẫu mực giá trị trong đời được chúng ta ấp ủ trong mọi hoàn cảnh. Mặt khác, họ có thể gây ngạc nhiên cho ta về nguồn cảm hứng gạn lọc ra từ dòng suối lạnh của trầm tư.
Văn chương mời gọi sự cảm thông và thương yêu mà không là phân biệt, thách đố.
Người đọc hôm nay, nhìn thấu được trái tim người viết tựa năm xưa. Họ không cùng chung một một dòng văn hóa nhưng cùng một bầu trời.
Cái ước mong của Nhất Linh về một cầu vồng nối liền hai chân trời sẽ hiện ở phương nam, mà nhà thơ họ Vũ từng nhắc lại như hoài vọng.
18-VAI TRÒ CỦA THẾ HỆ THƠ
Câu chuyện thế hệ thơ thường đặt ra mỗi khi người cần làm đến việc tổng kết. Việc phân chia thế hệ không chỉ giúp dễ dàng xếp đặt trước sau mà còn là để định vai trò và cả trách nhiệm của từng thế hệ, mỗi thi nhân. Nói không phải quá.
Năm 1969, trong cuộc trò chuyện với Bách Khoa, Thế Uyên có nêu lên việc phân định thế hệ để như cách giải thích sự có mặt của người cầm bút trong xu hướng họ có mặt đương thời. Người thuộc thế hệ tiền-chiến, nếu còn cầm bút thì nay thường tiếp tục xu hướng văn chương thuần túy. Người thế hệ sau thường ít nhiều đề cập đến thời cuộc, thường là “đề tài chính trị.” Một trong những lý do được nêu là “lớp trước hầu như quá tuổi động viên để bị lôi vào cơn gió lốc một lần nữa.” (Vài Vấn Đề Với Thế Uyên, Bách Khoa, 303, 15.8.1969.) Nhưng nhà thơ Vũ là một biệt lệ, theo Thế Uyên. Ông viện dẫn mà không nói lý do nhà thơ được xem không đứng ngoài cuộc như đa số người cầm bút cùng thế hệ. Như thế, nhà thơ Vũ không thuộc xu hướng viễn mơ, ít ra là như Thế Uyên đã nghĩ và lên tiếng. Không nói rõ ra nhưng ai cũng hiểu là trường hợp nhà thơ Vũ có mặt trong biến cố liên quan đến tôn giáo năm 1963 với Lửa Từ Bi và những bài thơ kế tiếp lấy cảm hứng từ biến cố.
Nhưng rồi trong một tổng kết thơ-truyện 1974, Nguyễn Mộng Giác cũng lấy sự phân định thế hệ nhà văn như trên để tìm hiểu vai trò đóng góp của nhà văn thuộc mỗi thế hệ. Nhà thơ Vũ, một lần nữa, được “triệu vời” như người của thế hệ ông, nhưng không để ghi công như kẻ nhập cuộc dấn thân hay ít ra không bị liệt kê trong danh sách viễn-mơ, mà có thể bị suy diễn như một hình thức đào tỵ. Người làm công việc tổng kết thơ-văn trong năm viết, “ Thế hệ của Vũ Hoàng Chương chăng ? Tập tùy bút Ta đã làm chi đời ta, nhan đề lấy từ một câu thơ của Vân Muội, làm cho độc giả nao nức mơ thấy một chàng Hoàng lang thoát xác, hết than oán:
Nhớ thuở xưa chưa có ta thì đường đi thênh thênh
Kịp đến khi có ta là chông gai mông mênh
Cuồng vọng cả mà thôi, bốn phương đều vướng mắc
Ba mươi năm trên vai mà trống không bình sinh
vì đã tìm được hào khí lên đường.
Nhưng không, chúng ta đã lầm. Tập tùy bút (hoặc hồi ký) chỉ cho ta thấy chàng Hoàng lang quen thuộc trong những năm sôi nổi sau mùa thu chỉ lo “hát và hút.” (Nghĩ Về Thơ Truyện, Bách Khoa, xuân Ất Mão +Kỷ niệm 18 năm, 24.1.1974.)
Những người đã đọc và đọc kỹ Ta–đã–làm-chi-đời-ta đều thấy rằng tập hồi ký ghi lại chỉ một phần những năm tháng “phùng trường tác hí” giữa nhà thơ với các bạn văn ở Hà-nội thời còn an ổn, sau đó là giai đoạn tản cư về hậu phương và hồi cư. Không thấy ghi lại những điều đáng đàm tiếu nếu có, xảy ra giữa họ. Cũng trong hồi ký, Vũ ghi lại trường hợp ra đời của Bài Ca Sông Dịch (hay Tụng Kinh Kha) – từng khiến Phan Khôi rung động ra sao để tìm gặp nhau, bộc lộ tình tri âm. Trường hợp bài thơ dài Trả Ta Sông Núi được hoàn tất trong một đêm, đã gây phấn khích như thế nào nơi khán giả trong vở diễn Nguyễn Thái Học tại Hà-nội.
Điều khá gây ngạc nhiên, theo suy nghĩ của chúng ta bây giờ, một màn của kịch thơ Vân Muội được tác giả đưa ra trình diễn trong đại hội Văn nghệ ở Khuốc trong hoàn cảnh và bối cảnh của một cuộc lánh nạn và đề kháng. Nói không ngoa, tinh thần và ước mơ cùng những rung động mà những người yêu văn chương gửi gắm, qua vở kịch thơ, vẫn không biến đổi, ít nhất là vào thời điểm này. Lúc đó, Vũ và phần lớn các bạn ở lứa tuổi đầu 30. Tuổi không từ chối ước mơ và những chuyến lên đường trong tâm tưởng.
Bấy giờ, thế hệ của Vũ thường than thở với cô đơn. Dĩ nhiên, không phải cái cô đơn siêu hình tìm thấy quen thuộc trong văn chương đương thời. Họ hầu như bị bỏ quên mặc dầu Vũ có mặt thường xuyên trong xã hội văn chương. Riêng Vũ, có lần bộc lộ rõ rệt rằng. “Lắm lúc muốn tự tử. Thơ không viết nữa, giá viết cũng không có người đọc.” (Nửa Thế Kỷ Làm Thơ Vũ Hoàng Chương, Văn, 150, 15.3.1970.)
Không lẽ cõi văn chương ngày một hẹp lại vì việc ngày một lớn rộng thế giới của mỗi người.
19- VŨ, NHÀ THƠ TƯỢNG -TRƯNG Á ĐÔNG
Dường như Tam Ích mới là người thứ nhất xem Vũ là nhà thơ tượng trưng trong một bài viết năm 1964, nhưng 3 năm sau mới được in thành tập. Ông nhân đề cập đến Bích Khê mà nhắc đến vai trò, vị trí của nhà thơ Vũ và Đinh Hùng trong thi phái tượng-trưng. Bên cạnh những người vay mượn rõ rệt tứ thơ Tây phương, thì Vũ và Đinh “có vị trí của những người làm khuôn thước cho mai sau” và là “những ngưởi “dệt gấm á đông” cho thanh niên trí thức tiền bán thế kỷ (và cả bây giờ.).” Tam Ích xem Vũ, Đinh cũng như Hàn Mặc Tử, Bích Khê là những người làm thơ mà không vay mượn tư tưởng phương tây “một mẩu âm thanh” nào ( Tam Ích, Ý Văn I, Lá Bối, 1967.) Theo ông, tính chất tượng trưng nằm ở nhạc tính trong thơ, là nhịp thơ. Thơ, như thế, theo Tam Ích, là “sự phối hợp của âm thanh”, và hơn thế, là “tinh túy của âm thanh.”
Như thế, qua Bích Khê của Tam Ích, người ta có thể tìm thấy trong thơ Vũ, yếu tố nhạc tính được thể hiện chẳng những dồi dào mà còn phong phú tiết điệu.
Lê Văn Siêu đã tách bạch nhạc tính thành : âm thanh, nhạc điệu và nhịp điệu, để đặt thơ Vũ vào vị trí tiêu biểu trong thơ mới với sự đóng góp về nhịp điệu. Và, đặt Vũ bên cạnh Hàn Mặc Tử và Bích Khê. Như thế, có thể nghĩ, một cách gián tiếp, Lê văn Siêu đã xem thơ Vũ chung dòng với Hàn, với Bích Khê mà không qua nguyên lý nhạc tính của thơ tượng trưng.
Minh Huy (Nguyễn Đình Tuyến) lại xem nhà Thơ Vũ thuộc xu hướng lãng mạn nhưng có những bài thơ hay có sắc thái tượng-trưng. Thơ lãng mạn của Vũ được thẩm định trên yếu tố chung là sự chi phối sâu đậm của văn hóa Đông phương, và “đẹp như một lâu đài cổ trong ấy thi sĩ vẫn hằng tin ở giá trị gợi cảm của thơ tiên giáng bút.”
Tiếng Gọi Mẹ (Trời Một Phương, 1962) được xem là bài có sắc thái thơ tượng-trưng, được ca ngợi là một bài thơ phá thể “có những hình ảnh vĩ đại, tượng trưng trừu tượng, như trong thơ của Saint-John Perse “ (Minh Huy, Những Khuynh Hướng Trong Thi Ca Việt Nam (1932-1962), 1962.)
Như thế, nguyên lý nhạc tính của thơ tượng-trưng không được sử dụng làm yếu tố phân biệt.
Có thể, không phải do tình cờ, Nguyễn Mạnh Côn cũng đặc biệt chú ý đến nhịp điệu trong thơ Vũ, “nhịp lạ mà vẫn thăng bằng - thăng bằng trong chơi vơi của kẻ có tài đi trên dây của những gánh xiếc.” Ông Nguyễn còn đi xa hơn trong việc mô tả cảm giác của người đọc thơ. “... thơ của Vũ Hoàng Chương cần được cắt thành đoạn nhỏ, dùng li-mét mà đo chiều dài, dùng ly-khối mà đo hơi thở của người đọc, dùng cân tiểu ly để chứng tỏ trạng thái đều đặn mà bềnh bồng, thoáng nghe êm êm tưởng là cũ mà thật ra rất mới” (Nửa Thế Kỷ Làm Thơ Vũ Hoàng Chương, Văn, 150. 15.3.1970.)
Thơ Vũ đậm đặc chất Đông phương đến mức mà việc sử dụng kỹ thuật phân tích đến tự phương Tây có thể ảnh hưởng đối nghịch với bầu khí mà chính thơ Vũ tạo được nơi người đọc.
20- THỬ ĐẾN VỚI VÂN MUỘI
Vân Muội, có thể nghĩ, là giấc mộng đẹp nhất của thi nhân sau khi đặt được vương miện truyền kỳ lên một chuyện lòng còn chưa nguôi hờn giận. Vũ đã đi ngược với con đường xây dựng lầu mộng cho Thơ nếu so với khi trước, người làm thơ đã tìm kiếm mộng vàng hóa thân tự trang sách ngỏ bên song. Vân Muội trở thành một giấc mộng truyền kỳ cho những ước mơ còn trằn trọc.
Theo hồi ký, sau cuộc tình lãng đãng không lâu với Vân, cô gái thôn ổ “làng bên”, thi nhân thực hiện một chốn vĩnh cữu bằng văn tự cho khối hận lòng chưa kịp đầy vơi và lấy tên nàng đặt trên mộ chí.
Vân Muội hoàn thành trong không gian tĩnh lặng xa cách với thị thành, tận cùng đạm bạc trong cuộc sống, hai bữa rau dưa, hệt như cách trai tịnh cả cõi lòng cho giấc mộng được đến bên. Bấy giờ, thi nhân như kẻ nhập thất, gột sạch thân tâm để mong đón được ánh sáng chân lý.
Vân Muội lẽ ra trở thành đường đi đến sự tự giải vây khỏi ràng buộc của nghiệp duyên, nhưng rút cuộc chỉ để lộ ước mơ nửa trần thế. Nó gần như truyện Tú Uyên. Một giải pháp tạm thời cho những người chưa thể dứt khoát trước sự mời mọc của bữa tiệc nơi thiên giới.
Giải pháp Vân Muội dầu sao cũng vừa với tầm với của nhiều người. Được công diễn ngay tại Nhà Hát Lớn Hà-nội trong cái chập chờn bâng khuâng của người chưa thực sự ra khỏi giấc mộng. Và đúng như tác giả thường nói, việc viết kịch thơ phải đi liền ngay với việc dựng kịch.
Việc dựng kịch mới là giai đoạn để kịch thơ hoàn tất việc ra đời. Vũ muốn được chính mình có mặt trong việc khai sinh giấc mộng của chính mình.
“Đêm thứ bảy 12-12-1942, ban kịch Hà-Nội đã tổ chức tại nhà Hát Tây Hà-Nội một buổi kịch giúp quỹ cứu tế quốc gia. Sân khấu là cả một bức tranh hoạt động đủ màu, ánh, bóng đầy thi vị. Vân Muội (Tiểu Vân) trong bộ áo xiêm thời cổ, nền lụa bạch, cổ viền đen, là nhũng nét thủy mặc đơn sơ, mấy vòng khăn quấn giữ cái búi tóc to và cao cùng tấm áo dài hồ thủy của Hoàng lang (Vũ Hoàng Chương) là những nét thuốc dịu dàng tô, còn những quệt bút dầu sơn dạm đậm chính là vuông nhiễu điều quàng cổ của Vương Sinh (Lan Khai) hai đầu lơ đãng tỏa buông trên thân áo màu lam.
Vầng sáng của đèn chiếu mơ hồ khi đậm khi nhạt như càng tăng vẻ dìu dập chập chờn của Vân Muội, nàng hiện ra cùng một chiều, cùng một điệu với bức tranh treo, giữa lúc Hoàng lang, tựa bên bàn độc, dưới ngọn đèn dầu, đang thẫn thờ mơ tưởng tới vị tiền thân từ kiếp trước, giữa lúc tiếng gà xa trong xóm đã bắt đầu vẳng lên, khoan thai âu yếm gọi ngày về.
Có ai quên được lớp thi nhân Hoàng lang kiểm điểm những di vật nàng Vân còn để lại ? Khuôn gương tư mã trên tay vô tình đã thu in bóng dáng ai kia ở bức tranh treo, khiến người thi sĩ si tình nọ phải bàng hoàng lảo đảo vội quay gót mà ôm choàng lấy Vân Muội, Vân Muội của Vương Sinh chàng đã ghi họa trên tờ tranh...(Cây Thông, Xem diễn kịch Đồng Bệnh và Vân Muội, Tri Tân, số 77, 12.1942, dẫn theo Phê bình văn học, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, 1999.)
Vở kịch được công diễn lần đầu tiên tại nhà Hát Lớn. Vai diễn Hoàng lang do Vũ đảm nhiệm, Vân Muội do Đinh Hùng vì chưa tìm được nữ diễn viên, vai Vương sinh do Lê Trọng Quỹ.
Trước sau, Vân Muội được trình diễn không dưới mười lần, ngay cả trong Đại hội văn hóa toàn quốc tại làng Khuốc thời tản cư. Cái triết lý bao hàm trong kịch về lẽ thực-hư, chân-giả dường như không làm người lưu tâm cho bằng cái không khí mê hoặc của thực và mộng giữa thời đại mà con người cảm thấy không thể làm chủ được mình, cùng với làn sóng lãng mạn trong văn chương đã dâng trào trước khi lui vào dĩ vãng.
Nói không ngoa, người yêu kịch thơ xem Vân Muội như ánh trăng của giấc mơ xanh muốn có bên mình nhất là khi trắc trở. Nó không là điều mâu thuẫn với tâm hồn vì trong nắng hạn, lửa nồng, người ta thường ao ước bên mình ngọn gió lành trong mát.
21- CÂU CHUYỆN SANG TẦN
Cuộc gặp gỡ giữa tác giả Bài Ca Sông Dịch với Phan Khôi không chỉ là điểm giao thoa hiếm hoi giữa hai thế hệ. Vũ, khi ấy chắc chắn đã bỏ xuống thái độ của một gã Say để cùng người khác thế hệ, luận bàn không chỉ chuyện văn chương.
Câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa họ khiến vào cuối đời, trong thiên hồi ký, họ Vũ đã lập thành một chương riêng cho bài viết ông đặt bút từ ngày nguyên-tiêu năm Mậu Tuất, 1958.
Thiên tùy bút trên được dùng làm thoại cho bài thơ đối đáp giữa hai người trong hoàn cảnh mà một người lâm cảnh trong lòng không yên và được Vũ ứng đáp tức khắc.
Nếu như theo Vũ, duyên gặp gỡ giữa hai người là do tình cảm nẩy nở của một người lân tài thì chính cuộc gặp gỡ trên còn mở ra giai thoại về Bài Ca Sông Dịch, hồi đó còn mang tên Tụng Tráng Sĩ Kinh Kha. Là bài thơ thai nghén từ 1940, làm đề từ cho vở kịch Kinh Kha của Vi Huyền Đắc khi được công diễn năm 1943.
Bài tụng có thể khiến người ta cảm thấy sự nồng nàn mãnh liệt lẫn khẳng khái không kém trong câu chuyện giữa họ kéo dài đến ba bốn ngày đêm tại hai bãi sông, Phúc Xá tại Hà nội và sông Lấp, tỉnh Nam. Cho thấy chỉ bằng vào văn chương, việc “nhận đường” của Vũ không mấy khó khăn và không cần đến hoàn cảnh thúc đẩy. Trong thời gian này, 1946, Vũ vẫn giữ áo quần xúng xính của thư sinh trong trang sách cổ. Và, cái chủ trương duy mỹ của một phần lớn người sáng tác và thưởng ngoạn vẫn được xem là nền tảng cho tự do nghệ thuật
một nét dao bay ngàn thuở đẹp (một ánh dao, trong nguyên tác Tụng Tráng Sĩ Kinh Kha)
dù sai hay trúng cũng là dư
Nên việc thành danh không cốt ở thành hay bại. Và, nhà thơ chúng ta, thời đó, không ngớt lời bảo vệ cho nghĩa cử thành nhân
ai trách Kinh Kha rằng việc người đã lỡ
ai khóc Kinh Kha rằng thềm cao táng thân
ai tiếc đường gươm tuyêt diệu
mà thương cho cánh tay thần
Nhưng, có thể tinh thần của nhân vật Kinh Kha mới là điều còn tiếp tục gây day dứt nơi thi nhân khiến nhà thơ mở rộng thành vở kịch thơ mang tên Tâm Sự Kẻ Sang Tần năm 1951, thời gian ông trở về thành. Kinh Kha giờ đây, có thể buộc phải mang cái khắc khoải trong lòng của người làm thơ cũng như của những người muốn gửi gắm.
Năm 1957, vở kịch được tục diễn tại Sài gòn (Diệu Tần, Làng Văn, số 109, 9.1993.) Năm 1961, tập kịch thơ xuất bản. Tất cả diễn ra, dĩ nhiên trong tình thế đổi khác. Lần này tâm sự của người lên đường Kinh Kha được xét nét dưới con mắt người đương thời và tính chất ước lệ dành cho nhân vật cũng không còn được chấp nhận trong bối cảnh của lịch sử. Vở kịch thơ được nhìn lại trong lúc thể loại đã thoái trào. Con người đã muốn ly khai với những giềng mối của hệ thống suy nghĩ và thể hiện đã bị thời gian buộc phải lui bước.
Diệu Tần, người được nhà thơ Vũ chấm giải văn chương dành cho thoại kịch năm 1967, cũng là người yêu mến kịch thơ. Ông cũng nhận rằng “ kịch thơ đã đóng trọn vai trò trong bối cảnh lịch sử và nhu cầu thời thế dùng đến nó.”
22- TÂM SỰ KẺ SANG TẦN và cái nhìn duy mỹ.
Kịch thơ Tâm Sự Kẻ Sang Tần được ban kịch Hoa Quỳnh công diễn lần đầu tại Nhà Hát Lớn Hà-nội vào đúng ngày đầu năm 1951. Vở kịch viết xong vào cuối năm 1950 và được đem diễn khi vừa ráo mực. Đúng với ý muốn của tác giả là với kịch thơ, việc viết và diễn phải là một hợp tấu (Văn, số 150, 15.3.1970.) Nhưng khác với Vân Muội, tác giả không nhận một vai diễn nào vì lý do sức khỏe, nhà thơ Vũ chỉ đứng trước màn nhung để giới thiệu sản phẩm được gửi gắm của mình. Người xem kịch không ai quên giọng ngâm tuyệt diệu Văn Phú trong vai Cao Tiệm Ly. Giọng ngâm để lại dư ba vời vợi quyện trong không khí thơ bảng lảng trong phòng diễn.
Cao Tiệm Ly vốn ở ẩn như một cao sĩ được Kinh Kha xem trọng như bậc đàn anh mỗi lần hành động đều đến thỉnh ý.
Họ Cao chọn sống đời cao khiết, trước hiện tình thiên hạ nhiễu nhương chia năm xẻ bảy, chủ trương chẳng nên đoái hoài danh vọng, lụy đến thân danh. Kế toàn vẹn là, “ ta về ta ẩn non cao / giang sơn riêng Suối Hoa Đào thênh thênh.” Nhưng đến khi Kinh Kha được Thái tử Đan của nước Yên trọng đãi, buộc lòng phải nhận sứ mạng sang Tần hành thích Tần vương, Cao Tiệm Ly lại đổi ý, bày mưu giúp Kinh Kha. Kinh Kha thất bại và mạng vong, họ Cao thay lời thanh nghị, lên tiếng biện chính cho hành động dũng cảm của Kinh Kha. Rằng không vì hư danh cá nhân mà là nghĩa cử của kẻ trượng phu, hành động mà không quan tâm gì đến kết quả
việc làm ấy xá chi thành hay bại
chỉ cần ai kẻ dám làm thôi
Với không ít người xem diễn hay đọc bản kịch, họ Cao phải là người được ký thác một phần tâm hồn và cả những trằn trọc băn khoăn của thi nhân vốn tự hào khi đánh đổi cuộc đời lấy cơn trường mộng. Chính họ Cao là người đã giải thích và biện chính hành động của Kinh Kha. Hành động của người quả cảm lên đường, kẻ thi gan với chữ Thời, không bị chi phối bởi việc thành bại.
Năm 1961 là năm vở kịch thơ Tâm Sự Kẻ Sang Tần được chính thức in ra tại miền Nam và được đọc. Một sự đọc lại khá muộn màng khi mà cuộc thế, hoàn cảnh và tâm trạng người đọc đã khác, so với mười năm trước, vào lúc vở kịch được công diễn lần đầu trên đất Bắc. Thực ra, sự muộn màng có lẽ đã được nhận ra sớm nữa, ngay tự buổi đầu trình diễn vở kịch thơ này. Vì dưới con mắt của người theo dõi trào lưu của kịch thơ như Diệu Tần, cái nhân sinh quan và thế giới quan được tác giả ký thác vào nhân vật Cao Tiệm Ly trong Tâm Sự Kẻ Sang Tần, không còn sức thuyết phục người xem như một nhu cầu giải thoát cho tâm tư “Tâm sự kẻ sang Tần không đáp ứng được niềm suy tư của thanh niên lúc bấy giờ, không có điểm nào liên hệ đến thực tế cuộc sống năm 51 và 57 “ (Diệu Tần, Làng Văn, số 109, 15.9.1993)
Sự tồn tại mười bảy năm của kịch thơ, theo sự tính toán của Diệu Tần, là khoảng cách thời gian ra đời giữa Vân Muội và Tâm Sự Kẻ Sang Tần. Nhưng, bên cạnh cái lạc điệu, không còn phù hợp với cảm quan, thì vẫn còn văn chương với những giá trị gìn giữ được và phát huy. Hay nói cách khác, nếu như tâm trạng kẻ sang Tần chưa thuyết phục hay dẫn đến cảm thông thì một số nét đẹp văn chương thể hiện được trong vở kịch là điều khó có thể phủ nhận.
Cái đẹp không là vẻ lộng lẫy hào nhoáng của ngôn từ mà là cái đẹp được tuyên xưng như một giá trị vì sự cao khiết của tâm hồn được thể hiện trang trọng tuyệt vời và lòng tin cậy ít thấy.
Như thế, Tâm Sự Kẻ Sang Tần còn lại những cái khả thủ của một tác phẩm nghệ thuật thuần túy, những cái hiển hiện hơi thở đích thực của hồn thơ bên cạnh những toan tính, xếp đặt không thành được nhận ra trong vở kịch.
Trước hết là đoạn “tiếng ngâm” mở đầu hồi thứ hai, giới thiệu cảnh Kinh Kha ở phủ đệ Thái tử Đan của nước Yên sau khi vị lão quan Điền Quang của nước này tự sát để thúc đẩy Kinh Kha nhập Tần.
Tiếng ngâm này tựa như khúc dạo đầu mở đường cho làn gió lạ đến tự thinh không, là cách báo hiệu sự có mặt một cảnh giới khác biệt, không thuộc về phàm tục, âm hưởng trong vắt như mây ngàn, suối vắng. Cách xuất hiện mô phỏng sự giáng hiện của nhân vật xuất trần đến với bầy hạc tháp tùng và nhạc tiên dìu dặt. Tiếng thơ là ngôn ngữ an nhiên thoát trần như phong thái chủ nhân, không còn chút dấu vết tục lụy bên cạnh cái đẹp dụng công của ngôn ngữ. Cái đẹp để ngưỡng mộ mà không thể đến gần vì nằm ngoài khả năng lãnh hội
hoa mai nở tuyết đầu khe núi
làn sóng kỳ hương nhập ánh trăng
Thi nhân trở thành đệ tử của cái đẹp trước khi nhận việc rao truyền con đường thoát khỏi trầm luân, không vướng vào tục lụy. Cái đẹp được ngưỡng mộ thay cho một đức tin và riêng với thi nhân, được ngợi ca bằng hàng hàng xâu chuỗi ngôn từ tráng lệ như truyền kỳ. Trong thế giới cái đẹp được thụ phong, tương quan giữa chủ thể với khách thể được hình thành và tồn tại bằng khả năng mỹ hóa
ta nghe vạt áo cô Hằng
nổi lên trận gió chim bằng ngày xưa
nhạc tan thành một bài thơ
dòng Ngân quạ réo đôi bờ phân ly
Trong việc rao truyền một hướng đi, thi nhân được cái đẹp hóa thân dẫn lối. Ánh sáng tri thức mới là nét đẹp của tâm hồn chỉ bừng nở khi nhận chân, phân biệt giữa cái hư-ảo, thực-hư
ta gõ mà chơi hề vang giấc hoàng lương
nhắn chơi về cuộc tang thương
bông hoa mai rợp con đường trầm luân
Đấy là tiếng thơ mở đường cho sự xuất hiện Cao Tiệm Ly. Trong vở kịch thơ, nhân vật này được xem như nơi gửi gắm tâm trạng và suy tưởng của tác giả. Quan điểm ấy không chỉ là điều được bày tỏ trong văn chương khi mà chính sự lên tiếng bằng vở kịch thơ cũng đã hàm chứa ít nhiều băn khoăn của người thi nhân trước hiện tình.
Một thái độ tương tự đã được thi nhân diễn đạt trong Rừng Phong, tập thơ chưa có dịp ra đời vào lúc bấy giờ. Tâm hồn thi nhân lắng sâu hơn trong cõi tịnh mịch, siêu thoát của sự khai ngộ chân tâm cùng tính chất thực-hư của vạn hữu.
Cái đẹp cái lành của tâm hồn vẫn là giá trị bao trùm và là động lực giúp người tìm đến con đường đích thực cho việc gìn giữ chân giá trị của tâm hồn
thiên lương quằn quại giữa màu tươi
thể chất còn thoi thóp nhạc trời
dạo xứ phân tranh mùa hỗn độn
biết lòng ta vẹn nhé xa khơi
(Duyên Mùa Tận Thế, Hoa Đăng, 1954)
Đây là trọn vẹn Tiếng Ngâm mở đầu hồi thứ hai vở kịch thơ (*)
Hoa mai nở tuyết đầu khe núi
làn sóng kỳ hương nhập ánh trăng
ca giữa lời mây hề đàn trong tiếng khói
hồn cũ trời Nghiêu hề ai có nghe chăng ?
ta nghe vạt áo cô Hằng
nổi lên trận gió chim bằng ngày xưa
nhạc tan thành một bài thơ
dòng Ngân quạ réo đôi bờ lưu ly
từ phen Trái Đất ra đi
lệ chia phôi đã xanh rì trùng dương
chiều nay hề lòng khe nở nguyệt
đầu khe hề rừng tuyết đưa hương
tám suối âm thanh hề dồn trong nhịp trúc
ta gõ mà chơi hề vang giấc hoàng lương
nhắn chơi về cuộc tang thương
bóng hoa mai rợp con đường trầm luân
đời hiểu gì chăng hề chữ Đạo ?
ta có hay không hề cái Thân ?
nước trôi sáu ngả vào Tần
chẳng qua một phút mây vào sườn non...
Cái đẹp được tôn vinh lần nữa trong bài hát của oan hồn Ngọc Tý, người ca kỹ trong phủ đệ Thái Tử Đan. Vì ánh mắt si mê của Kinh Kha khi theo dõi điệu múa và đôi cánh tay ngà, khiến viên thái tử quyết định tặng đôi tay này cho Kinh Kha để tỏ lòng rất mực lân tài với người mình ủy thác.
Thực ra, Kinh Kha là người ít nhiều phải chịu trách nhiệm về cái chết của người con gái đáng thương trên nhưng Ngọc Tý không nghĩ thế, nàng vẫn xem Kinh Kha là khách phong trần nhưng biết thưởng thức cái đẹp của nghệ thuật
Ôi mùa xuân nào đâu ? xuân mới nở
trong mầu hoa và hót ở lời chim
hỡi ơi sắc úa hương chìm
tạnh cơn mưa, có ai tìm ngày xuân ?
ai rằng ảo mộng chân thân
nghìn thu ngà đúc một lần tuyết tiêu
thương cho ngọc dát vàng đeo
ánh trăng suông để buồn theo xuyến vòng
tiếc cho quỳnh nở mười bông
giữa đêm kỳ thú non bồng bềnh tan
vườn xưa nhịp điệu chưa tàn
cánh xiêm mở chếch cung đàn khép lơi
vầng trăng sụp đổ lưng trời
vì nhau thôi đã rụng rời cánh tay
xót thay mà ngậm ngùi thay
nào ai hay một mình hay nỗi mình
trời đất vô tình
mây gió vô tình
gẫy trâm rồi đã rơi bình
sầu lên chưa tắt màn dư lệ
sầu có hồn chăng, lệ có hình. (**)
Bài hát viết dành cho oan hồn Ngọc Tý mới là cố gắng rõ rệt của thi nhân làm lời điếu cho cái đẹp lâm vào oan trái. Đưa cái đẹp được tôn vinh tới hoàn cảnh quyết liệt như thế có lẽ người làm thơ chỉ nhằm đặt sự tìm kiếm cái đẹp trong hoàn cảnh khó xử nhất. Người ca kỹ không than thân trách phận mà chỉ tiếc cho cái đẹp lại trở thành vật để bách hại, chiếm hữu. Cái đẹp trở thành nguy hiểm với người.
Ngọc Tý còn là hiện thân cái đẹp của một tâm hồn. Cái đẹp mà người kiếm khách Kinh Kha chiêm ngưỡng và suýt trở thành gã si tình, cái đẹp ấy chỉ là cái mỹ miều của vật thể. Người ca kỹ còn dành cho người khách lên đường tình cảm của một mối cảm thông mà ngại rằng nỗi lòng mình không được biết đến khi mà chung quanh đều như hững hờ
vì nhau thôi đã rụng rời cánh tay
xót thay mà ngậm ngùi thay
nào ai hay một mình hay nỗi mình
Và, đến cả người đọc lại sau này, có ai để mắt đến nỗi lòng u uẩn này khi còn mải quan tâm đến cái còn sót lại của ước lệ cổ văn nơi câu thơ ca tụng cánh tay ngà. Quỳnh nở bông mười ngón (Tràng Thiên, Bách Khoa, số 111, 15.8.1961)
Không nằm trong ý chính của vở kịch cũng như không là tiếng nói hay hành động của nhân vật được ký thác tâm tư, sự tồn tại của một tâm hồn đẹp chỉ bộc lộ ra sau cái chết của người ca nữ có đôi tay ngọc ngà. Nhưng tâm hồn ấy đã bị bỏ quên cũng như sự có mặt vốn dĩ rất mực khiêm tốn của nàng trong vở kịch, trong trò đời. Sầu có hồn chăng, lệ có hình ?
Thực lòng, Vũ đã xao xuyến trước những chuyện trâm gẫy bình rơi diễn ra trong và ngoài lịch sử. Bài Ca Trâm Gẫy năm nào nằm trong một chuỗi trầm lặng suy tư hướng về siêu thoát nhưng cũng để lộ nỗi xót xa trần thế và niềm xúc động nhân bản
niềm ái ân gào gọi thiết tha
tóc mới buông vai hề sợi đời tan nát
lòng gái cài trâm hề chưa bướm ong qua
trên trần ai đoái thương ta
cô đơn lạnh thấm hồn ma Dạ Đài
(Bài Ca Trâm Gẫy, Rừng Phong, 1954)
Sau xưa, người ta có thể tiếp tục bàn về hoàn cảnh không còn thuận lợi cho kịch thơ cũng là sự có mặt muộn màng của Tâm Sự Kẻ Sang Tần trước đổi thay dồn dập của cuộc thế. Nhưng cái đẹp tâm hồn của con người khiêm tốn, vô danh, cái đẹp đôi khi chịu sự khuất lấp, trong nhiều trường hợp vẫn là cái cần giữ gìn, bảo vệ.
----------------------------------
(*) Phần Tiếng Ngâm mở đầu hồi 2 được in lại nơi đầu tập Hoa Đăng ( Văn Hữu Á Châu, 1959) dưới nhan đề Nhịp Trúc Mùa Thơ.
(**) Đoạn thơ tiếng oan hồn Ngọc Tý được in lại trong Hoa Đăng dưới nhan đề “Khúc Hát Chìm Châu.”
------------------------------
TRẦN MẠNH TOÀN