Đường về thủy phủ, tiểu thuyết Trịnh Y
Thư,
Văn Học Press xuất bản, 2024.
Tiểu
thuyết Đường về thủy phủ của Trịnh Y
Thư là một bức vẽ, mang nhiều đường nét ấn tượng, về sự thất lạc của con người trong
chiến tranh. Nói như thế người đọc vẫn có thể không rõ lắm, và hiểu rằng, dựa
trên lịch sử, bám vào lịch sử, đây là một trình bày với những nét cọ, cho dù có
những chỗ mạnh bạo, chỗ lơi tay, với những bôi xoá, những bệt màu đậm nhạt của
người vẽ, nhưng về tổng thể vẫn là một sự trình bày ít nhiều mang tính “hiện thực”,
về chiến tranh, về lịch sử. Về những khổ đau, oan khiên của con người. Về sự
tan tác của những mảnh đời trong vòng lửa đỏ của cuộc chiến, trong cái mù loà của
lịch sử vốn đưa dẫn bước chân của chính nó. Và tất cả được bao phủ bởi cái hơi
thở đầy thán khí độc hại của lửa, khói, của máu và nước mắt.
Thật sự, ở một mức độ nào đó, người đi vào
quyển sách đều có thể nhận ra ít nhiều, ở chỗ này hay chỗ khác, qua những góc
quay khác nhau, với những mức độ đậm nhạt khác nhau, tất cả các dự cảm vừa được
trình bày ở trên. Nhưng nếu nghĩ đây là một cuốn tiểu thuyết lịch sử, hay một
tiểu thuyết chiến tranh, chúng ta sẽ ngộ nhận tác giả. Tiểu thuyết này, với
tính chất và cái nhìn đặc thù của tác giả, không hề có mục đích ấy. Lịch sử có ở
đó, cùng với khuôn mặt kinh hoàng, gian trá, điên đảo, và tàn bạo của chiến
tranh. Nhưng đây là một cuốn tiểu thuyết chỉ lấy lịch sử làm một cái nền với những
gam màu rất mờ nhạt, và, dĩ nhiên, nổi bật lên vẫn là một màu đỏ nhờ nhờ, điên
quái, bất tín và bất-khả-tín, khi thì chỉ ươn ướt, chỗ lại đặc quánh những vết
thương làm mủ của lịch sử.
Trong trí tưởng tượng (và hẳn cũng là trong nỗi đớn đau) của mình, tác
giả Trịnh Y Thư đã nhìn lịch sử chiến tranh Việt Nam trong suốt ba mươi năm giữa
thế kỷ XX, cùng với những hậu chấn buồn đau và xót xa của nó, với một cái nhìn
của một kẻ sáng tạo. Với những “ấn tượng” riêng của mình. Tác giả nhìn vào cái
bối cảnh của cuộc chiến ấy, và thấy ra bao điều đau xót. Tính chất hư cấu cho
phép của thể loại, dù sao, không đẩy tác giả vào sự phá tác tuỳ tiện. Ông vẽ ra
những chi tiết một phần từ ký ức riêng của tuổi thơ, một phần qua sự học hỏi,
tìm hiểu, và một phần khác, qua ký ức tập thể. Và nhất là, trong cái nhìn của
tôi, qua vô thức tập thể. Cái vô thức ấy, có thể được gọi như thế này chăng, là một
“vô thức quỷ ám”. Có thể cái vô thức ấy đã được chủ thể hoá, được tạo nên, được
phóng ra từ những ấn tượng riêng của người viết. Nó “đúng” ở mức độ nào, và nó
có lý ở những khía cạnh nào, chúng ta không dám quyết đoán. Nhưng nó, cái “vô
thức tập thể” ấy, có ở đấy. Trong dạng “nguyên sinh” của nó, cái vô thức ấy làm
cho chúng ta quằn quại, không yên. Nó bám vào những hình ảnh, những giấc mơ người,
và nó phóng chiếu, ánh xạ, nhẩy múa điên cuồng trong ý thức ta khi con người mở
mắt. Ngoài những ám ảnh luôn nắm lấy hơi thở và mọi giác quan của sự sống ấy,
làm nên cái chất, cái nền của bức vẽ, mọi sự còn lại tác giả dựa vào hư cấu,
vào ấn tượng, và vào sự tưởng tượng riêng của mình.
Hư cấu của một nhà văn có thể giúp kẻ ấy
sáng tạo nên những điều không hề có trong hiện thực. Nhưng những điều ấy sống
trong trí óc hắn, trong các tế bào mang DNA của hắn, sống trong chữ viết, trong
mắt nhìn hắn vào tấm sơ đồ của hiện thực. Và từ đó, nhà
văn tạo xương thịt và thổi sức sống vào cái sáng tạo của mình. Trong tiểu thuyết
này, Trịnh Y Thư vẽ nên một bức tranh khá rộng và tàn bạo, kinh khiếp về cuộc
chiến ba mươi năm giữa thế kỷ XX trên đất Việt. Có máu, có lửa, có những cơn co
giật, đau xé của lịch sử. Có điên đảo, gian trá, say cuồng, mê lầm, ảo tưởng,
lý tưởng, thất vọng, vùi dập, oan khiên của những con người. Tuy nhiên, giữa những
nét vẽ hung bạo, bóp thắt và chảy máu ấy, nhà văn lại đưa được vào đó những cảnh
đẹp thiết tha, thơ mềm và say lòng của thiên nhiên, của những dáng nét quê
hương:
Tôi bỏ Hà Nội lại sau lưng. Ôi, biết bao kỷ niệm. Tôi vừa đạp
xe vừa cố nhìn lần chót những hình ảnh của Hà Nội mà chẳng biết bao giờ mới có
dịp về nhìn lại. Hồ Hoàn Kiếm vẫn xanh biếc với tháp Rùa, cầu Thê Húc, đình Trấn
Ba. Đường Hoàng Gai, nơi bán đèn Trung Thu mà hằng năm mẹ tôi dắt chị em tôi ra
mua đèn về chơi. Trường nữ học Đồng Khánh với những tà áo bay. Rồi vườn trại Ngọc
Hà với chợ hoa những ngày cận Tết […] Tôi còn nhớ cả tiếng chày chí chát của đám
thợ đập vàng trên phố Hàng Bông Đệm, hay tiếng chuông leng keng, tiếng bánh xe
nghiến trên đường sắt của chiếc tàu điện chật cứng người mỗi ngày tôi lấy đi học
hay đi chơi. Những bức tường rêu phong loang lổ, những vỉa hè, những con ngõ nhỏ
như ngõ Phất Lộc với những căn nhà bé xíu thụt ra thụt vô, dây leo chằng chịt,
trông rất ma quái […] Và ngõ Cấm Chỉ phố Hàng Bông gần nhà, nơi tôi hay ngồi ăn
quà buổi sáng. Cũng không thể phai mờ
trong tâm trí tôi là rặng bàng khô lá, lối đi quen thuộc từ những ngày còn cắp
sách đánh vần với những kỷ niệm tuổi học trò thơ dại. Rồi năm Cửa Ô, cửa nào
cũng có vết chân tôi. Cửa Ô
Quan Chưởng với gạch ngói cổ xưa, loang lổ dấu vết thời gian. Cửa Ô Cầu Giấy với
hàng phượng vỹ mùa hè đỏ ối rợp bóng hai bên đường. Cửa Ô Cầu Dền nơi thuở nhỏ
tôi hay theo mẹ đi chợ Tết. Với Cửa Ô Đống Mác, đường đi Bát Tràng, thì tôi
không thể quên những quả ổi ương ương chấm muối ớt ăn ngon nhớ đời. Và Cửa Ô Chợ
Dừa, muốn ra đó phải đi ngang phường Dạ Lạc, phố Khâm Thiên, có thằng con trai mới
lớn đỏ mặt, trống ngực đánh thình thịch mỗi lần thấy các cô gái má đỏ môi son đứng
trong nhà nhìn ra cửa. Tất cả quay về tuần tự như khúc phim dĩ vãng vàng ố chiếu
giọi chờn vờn trước mắt tôi.
Hay của sự nhớ về
một kỷ niệm đẹp, riêng tư, làm mê lòng, trên bước đường lưu lạc của nhân vật
chính trong truyện đầu, giữa khung cảnh lửa khói phủ lấp cuộc toàn quốc kháng
chiến đang bùng dậy:
Thân thể các cô thôn nữ này toát ra một mùi vị lạ lùng, khó
diễn tả bằng lời. Nó ngai ngái như mùi hoa dại, mà nồng ấm ngọt ngào chứ không
chua. Cái mùi ấy quyện lấy tôi trong lúc giã gạo và lưu lại mãi trong khứu giác
tôi.
Lần đầu tiên tôi được đi thuyền xuôi dòng sông mà lại đi vào
ban đêm. Quả chẳng có cái thú nào bằng. Đêm trong vắt, bầu trời đầy sao lấp
lánh, không một tiếng động nào ngoài tiếng sóng vỗ vào mạn thuyền oàm oạp nghe
như một điệu hát ru em.
Thanh Đàm thôi biệt duệ
Nhị thuỷ tiễn hành khâm
Sa khoát hoàng vân mộ
Thiên đê bạch nhật trầm
Khách châu hàn phiếm phiếm
Giang sắc vãn âm âm
Bất kiến ba đào tráng
An tri vạn lý tâm?
Những đoạn tả cảnh của Trịnh Y Thư, và bài thơ Thanh Trì Phiếm Châu Nam Hạ* của Cao Bá Quát, trong trí nhớ còm cõi của tôi, làm cho bao cảnh ghê người, bạo liệt và “vô tâm” của cuộc chiến trước mắt tôi, khi đối diện với trang sách, được xoa dịu đi nhiều.
Tác phẩm của Trịnh Y Thư kết hợp ba truyện
vừa, không phải là một tiểu thuyết theo đúng dạng “truyền thống” của nó. Nhưng
ba truyện này được viết để diễn tả cùng một chủ đề. Đó là sự thất lạc của con
người trong cuộc sống, trong chiến cuộc, và rồi tiếp tục trong cái sống thoi
thóp sau đó. Nói như tác giả, đó là “sự thất lạc
của con người trong cuộc sống hiện đại. Thất lạc trong chiến tranh, thất lạc
trong đời sống, và thất lạc cả trong cõi chết”. Ba truyện, một cách nào đó,
có sự gắn kết vào nhau, qua những ý tưởng hướng về chủ đề, qua cái ánh sáng nhờ
nhờ màu đỏ của cuộc chiến (trong cái nhìn của tôi), cho dù chúng cũng được đan
xen đâu đó, thi thoảng, bằng những khoảng xanh trong, đẹp tươi, của lục diệp, của
bầu trời, ánh nước, và của những tình cảm con người. Hơn nữa, chúng lại còn được
nối kết vào nhau qua hành trạng của các nhân vật, nhất là trong hai truyện Dưới những gốc nho biển và Đường về thủy phủ.
Hành trạng của các nhân vật đan cài vào
nhau, nối tiếp nhau, xoắn xuýt vào nhau. Có khi, sự đan cài xoắn xuýt đó chỉ được
tác giả cất giấu trong một dòng chữ. Nhưng cũng có khi, đó là sự xuất hiện trở
lại một cách rõ rệt của các nhân vật. Họ xa cách nhau trong thời gian, và rồi
tìm lại được nhau trên dòng chảy phù du của cuộc đời. Một thứ “le temps retrouvé”, của Proust. Một thứ
“thời gian tìm lại được”. Cho dù sự “tìm lại được” này thấm
đẫm cái thời tính của phôi pha, thấm đẫm cái chất
và cái màu thời gian xanh lục của rêu rong đắp tụ, cũng như thấm đẫm, đong đầy
chất và lượng khổ đau trong nó. Ba câu truyện là ba hành âm của một tổ khúc. Một
tổ khúc đớn đau và tan nát. Nhưng vẫn có những ánh sáng lấp loé đâu đó.
Những đoạn tả cảnh chết đói hết sức đau xót
của người dân năm Ất Dậu, cảnh tình yêu giữa hai nhân vật ở hai phía trong cuộc
chiến, và, thậm chí, cảnh những chàng trai trẻ, mới lớn, tò mò khám phá cái ham
muốn trong con người mình qua việc đi xem trộm một người con gái tắm, có thể gợi
cho người đọc nhớ đến những câu truyện, hay những phân cảnh, trong những tác phẩm
khác của văn chương thế giới. Như cảnh cùng khốn, đau thương của những cái khổ,
cái nhục, cái chết vì đói trong những tiểu thuyết của Dư Hoa, đặt trong bối cảnh
đặc thù của Trung Quốc thế kỷ XX, khoảng thập niên
’50-’60. Như cuộc tình giữa cô gái Pháp, Lucille – trong thời thế chiến, thập
niên ’40, khi lính Đức tràn về một thị trấn nhỏ ở
Bussy (Pháp) – với viên sĩ quan người Đức, Bruno, trong Suite Française của Irène Némirovsky. Hay như cảnh tác giả cùng mấy
người bạn nghịch ngợm, đang hồi tuổi lớn của mình, khám phá dục tình bằng cách
rủ nhau đi xem trộm con gái tắm, trong khung cảnh xóm đêm nghèo khổ của
Limerick, Ireland, qua bức tranh toàn cảnh của một đất nước Ireland còn nhiều
xung đột, khoảng thập niên ’50-’60 của thế kỷ XX, trong hồi ký Angela’s Ashes của Frank McCourt. Tất cả
những sự gần gũi, mang tính nhân loại này, cho thấy cái đồng dạng muôn thuở và
muôn nơi của con người trên cõi thế.
Đường
về thủy phủ, trong sự chia sẻ rất
con người ấy, cho dù tất cả những cảnh, những chuyện vừa nói, trong tiểu thuyết
của Trịnh Y Thư, đều mang đậm nét Việt, tâm tình Việt, cảnh thổ Việt, qua nét vẽ
ấn tượng của tác giả, cho ta thấy cái khổ đau, cái rung động trong tình yêu,
hay cái nghịch ngợm, tò mò của tuổi trẻ, là của con người nói chung. Của con
người muôn thuở và muôn nơi. Tất cả đều phản ánh những nét nhân sinh. Từ sự đớn
đau quằn quại, đến cái tế vi, những ngã quặt bất ngờ và mong manh trong những mối
tơ của đời sống, của tình cảm con người, cho đến cái tự nhiên, phải khởi phát
như những đọt non bùng thức trong nhịp sống của muôn loài. Của nhân loại giữa
“cõi người ta”.
Toàn bộ câu truyện, kết hợp bởi ba hành âm
của một tổ khúc như đã nói, được viết bằng một cái nhìn tỉnh táo của tác giả, với
kỹ thuật pha trộn giữa metafiction – siêu
hư cấu, cho thấy sự cố tình để lộ việc thâm nhập của tác giả vào câu truyện,
sự đan xen tinh quái của chính tác giả trong đó, nhắc nhở người đọc về sự có mặt
của người viết, với những chỗ tác giả xưng “tôi” chen ngang vào mạch kể, để nhấn
mạnh đến tính hư cấu của truyện – và cách viết theo phong cách hiện thực huyền ảo.
Ở những không gian khác, chẳng hạn như trong phần đầu truyện thứ ba của quyển
sách, hình ảnh, ngôn ngữ ở đây lại rất hiện thực. Nhân vật nữ chính, ở thời điểm
này, có chút gì “tâm thần”. Có chút gì của Haruki Murakami. Thế nhưng, nó lại
phản ánh thật sát cái “gốc rễ” của hai nhân vật chính. Cái tâm lý. Cái bối cảnh xã hội, lịch sử mà, từ
đó, họ được sinh ra và lớn lên.
Thế nhưng, dù ý thức, qua sự nhắc nhở của
tác giả, rằng đây là một câu truyện hư cấu, người đọc vẫn rơi vào khung cảnh và
sự cuốn hút của những câu chuyện, những tình tiết, vào cái toàn cảnh sinh động
của cuộc chiến, mà tác giả khéo léo tạo nên. Pha trộn một vài nét triết lý và
thơ mộng xuyên suốt cuốn truyện, nhà văn, trong khi lôi kéo người đọc vào những
suy nghĩ sâu xa về cái bi khốc của chiến tranh, của những cuộc chém giết tàn bạo,
của ý nghĩa về phận người, của các lý tưởng-ảo tưởng-huyễn tưởng-mộng tưởng
chen kẽ lẫn lộn, xâm chiếm cái sống cái chết của con người, vẫn đẩy người đọc đối
diện với cái kinh hoàng của cuộc chiến trước mắt, của một lịch sử sôi động. Và
của những gì xảy ra sau đó. Cuốn sách vẽ ra được một toàn cảnh với các chi tiết,
tạo được một ấn tượng về cuộc chiến, về không gian và cuộc sống xã hội, lịch sử
của các giai đoạn gối tiếp nhau. Và về cuộc bể dâu mà con người phải đối mặt,
với những quyết định sai lầm của chính nó. Hay với cái “quyết định”, cái hướng
đi mù loà, xiên xẹo và xộc xệch của lịch sử.
Nhưng, ở phần cuối của cuốn sách, nơi truyện
thứ ba của tổ khúc đớn đau này, nhân vật nữ chính, trở về ngồi dưới những gốc
nho biển, nơi Bố và Mẹ của cô trước đây vẫn hay ngồi. Và cô đã nhìn thấy gì?
Trước mặt, hoàng hôn vàng đỏ vỗ về mặt biển nhấp nhô sóng.
Những cánh hải âu chao liệng. Một đàn cốc biển bay thành hàng một về phía chân
trời xa xa, nơi có những hòn đảo lờ mờ nổi trên mặt nước. Những hình ảnh này,
có lẽ mẹ tôi đã trông thấy y như tôi thấy bây giờ. Ý nghĩ này làm tôi ấm
lòng.
Chia sẻ mong ước ấy của tác giả, nhà văn Trịnh Y Thư, tôi hy vọng người đọc tìm
được cái ánh sáng và niềm tin ấy nơi tiểu thuyết nói chung. Và nơi quyển sách
này, nói riêng. Nỗ lực của tác giả, tôi tin, người đọc có thể nhìn thấy, luôn
ánh lên đâu đó, trong suốt hành trình đi vào và đi ra khỏi quyển sách của mình.
Tustin
Ranch, Calif.
Tháng Năm,
2024, trong mưa Xuân.
@@@
326 trang, bìa cứng, 6”
x 9”, giá bán: US$25.00
Xin bấm vào đường dẫn
sau:
Hoặc liên lạc với tác giả / NXB qua hai
địa chỉ email sau để mua sách có chữ ký của tác giả:
清池汎舟南下
清潭催別袂,
珥水濺行襟。
沙闊黄雲暮,
天低白日沈。
客舟寒汎汎,
江色晚陰陰。
不見波濤壯,
安知萬里心。
(dịch nghĩa)
Bên
Thanh Đàm giục giã chia tay
Nước sông Nhị thấm áo người đi
Cát
rộng mây vàng bảng lảng
Trời
thấp vầng kim ô dần lặn
Thuyền
khách bập bềnh trôi
Chiều
xuống âm u trên sông
Chưa
thấy ba đào hùng tráng
Sao
biết chí lớn muôn dặm