Thursday, February 20, 2025

Trần Mạnh Toàn: Phương Bối, cánh gió theo chân

 Nhớ những ngày cạn kiệt niềm tin. Bên giá sách trống trải như lòng, cuốn sách ấy như ngọn đèn khuya, đánh thức cùng soi tỏ con đường tìm về với chính mình, về với những giá trị, những rung động bị bỏ quên trong tẻ lạnh, âm thầm và gió chướng.


Nẻo Về Của Ý ( Nhất Hạnh, Lá Bối, Sài gòn,1967), trước hết bản tường thuật kinh nghiệm làm người sau lúc ước mơ bị đánh mất, đồng thời  thay mặt tác giả, giới thiệu với mọi người, quen hay không, thân hay sơ, một thực tại người vừa tìm thấy, chính xác, đáng mến hơn cái thực tại người vừa sống với và khiến bị tổn thương. Không thất vọng, hay bi quan theo đúng nghĩa, mà là nụ cười của sự phục sinh nở trên môi người tỉnh thức.

Khởi viết và đăng trên Giữ Thơm Quê Mẹ tập 2 ( tháng 8.1965) và tạm dừng vào đêm trước ngày tác giả rời xứ cho một cuộc vận động chấm dứt chiến tranh (02.5.1966), được in trên số áp chót tạp chí ( số 11, tháng 5.1966.)  Nẻo Về Của Ý,  không chỉ thể hiện tâm trạng người thất bại nghiền ngẫm một nỗi đau về dự phóng chưa thành mà còn được viết ra khi người tăng nhân đã có được thời cơ thực hiện 3 ước nguyện trong cuộc canh cải tôn giáo và xã hội đề ra trước đây. Phương Bối Am không còn là địa chỉ “chữa lành những vết thương rướm máu “ ( Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 2, tháng 8.1965, tr. 93) mà là chứng tích một chặng đường phát triển tư tưởng, đứng lên bằng chính nhận thức và ý thức mới của người tỉnh thức.” Chỉ có một con đường phải đi – con đường của sự tranh đấu bền bỉ và gian khổ.” (, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 4, tháng 10.1965, tr. 94.)

Nẻo Về Của Ý ( Lá Bối xuất bản thành sách năm 1967) khác hơn một truyện dài đầy dữ kiện lôi cuốn, mà thực chất là một hồi ký ghi nhận tâm trạng, suy tư và hành động của tác giả ngay tự bước đầu xây dựng nơi an dưỡng cho tâm hồn bị thương vì chí lớn bị ngăn trở trước khi có hoàn cảnh  để tái tục thực hành chí nguyện. Khó khăn xuất hiện không chỉ thuộc lãnh vực vật chất, tài chính mà còn là những trăn trở, băn khoăn đột khởi trong tâm như màn đêm dăng mắc. Tầm mức ảnh hưởng của những suy tư, gợi ý trong sách đã vượt ra ngoài ranh giới  mà đến với những người trẻ đi theo, có thể dang dở hoặc tình cờ, bằng những khơi dậy tế vi len nhẹ vào lòng người như những tác nhân có hiệu ứng.

“ Ánh lửa đốt ban chiều bây giờ không còn lách tách reo vui nữa, Chúng đang “cháy” trong yên lặng. Tôi đang nằm im ở đây không trở mình. Các bạn tôi đang yên lặng ngắm vòm trời đầy sao sáng. Tất cả đang trả lại hoàn toàn sự yên tĩnh cho Phương Bối Am. Chỉ có sự thanh tịnh là đáng quý. Quay cuồng cho lắm rồi cũng là hư ảo;  mình sẽ không bao giờ gặp lại mình nữa; bởi cái “tôi bản thể” đã lui về để nhường chỗ cho cái “tôi hiện tượng” đầy ố bỉ ? Càng lớn lên càng chìm sâu vào sự u tối cái “tôi bản thể” mà tôi nghĩ chắc nó trong sáng lắm.” Đêm Blao lạnh quá. Hồn thiêng của núi đồi đang chừng như u uất hẳn. Tôi đang nằm trong lòng ánh sáng bạch lạp. Tôi muốn đem ánh sáng của ngọn nến soi vào sâu thẳm của núi rừng. Tôi đã thất bại, bởi bên trong một trở mình, trong một khoảnh khắc đổi hướng đời, tôi cũng đủ vừa mất ánh sáng đó mà giờ đây là nguồn sáng đã chết. Ánh sáng 100 watts của thị thành chỉ làm tôi chóa mắt. Đem nó đến đây nụ trà sẽ không thơm nữa, núi đồi, sẽ trơ trẽn và chúng tôi sẽ không cùng nhau yên ổn đứng nhìn vòm trời đầy sao sáng.” ( Hằng Hà Sa, Huy Hoàng Trường Cửu, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 6, tháng 12.1965, tr. 20,24)

Đoạn văn trên cho thấy là kết quả một cuộc thực tập trao truyền mà vầng sao vằng vặc trên trời là hình ảnh của bản thể con người cần giữ gìn, tránh để ngoại giới làm nhầm lẫn. Đó là “ trăng sao trên trời những đêm rằm “ mà Nhất Hạnh nhắc đến trong bài thơ khai từ sự ra đời của tạp chí. Và, sau này là khi cần nhắc nhở sự trau dồi nhận thức vững vàng trong việc gầy dựng thân tâm. “ trăng tròn đêm nay, xin gọi hết muôn sao về cầu nguyện” ( Nhất Hạnh, Quán Tưởng, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 5, tháng 6.1965, tr. 8.)

Người ta có thể nhận ra cái nhìn về trăng đêm của người “đồng sự”  Hằng Hà Sa nói trên là sự dẫn xuất từ nhận thức về sự ngự trị của trăng khuya mà Nhất Hạnh đã “ngộ” ra vào một đêm nào tại cùng một địa điểm an trú là Phương Bối Am.

“ Có một bữa, ham viết cho đến một giờ khuya, tôi không biết rằng Thanh Tuệ đã thức giấc và đang đứng lặng yên sau cửa sổ nhìn ra khu rừng tẩm ướt ánh trăng. Tôi cũng tắt ngọn đèn bát đi, và lại đứng gần bên Thanh Tuệ. Cả trăng cả rừng đều huyền bí, đều mầu nhiệm, và cùng tạo nên một khung cảnh mà chúng ta chưa hề thấy bao giờ trong đời, trừ ở Phương Bối. Trăng tuyệt đối im lặng và rừng cũng tuyệt đối im lặng. Nhưng mà trăng với rừng quả là đang nói chuyện với nhau, nói chuyện bằng thứ ngôn ngữ gì chúng ta không thể nào biết được. Trăng và rừng trong lúc này không phải là hai mà chỉ là một. Thí dụ ta lấy trăng đi, thì rừng cũng mất. Hoặc giả nếu ta lấy rừng đi, thì trăng cũng tan biến. Vì chính chúng tôi nữa, chúng tôi là gì lúc ấy ? Chúng tôi có thể hiện hữu bên nhau sau khung cửa sáng ấy không, nếu một trong hai thứ trăng rừng kia không hiện hữu ?” ( Nhất Hạnh, Nẻo Về Của Ý, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 3, tháng 6.1965, tr. 85.)

Phương Bối, mảnh đất của nội cỏ mây ngàn, đã trở thành nơi hội tụ và xuất phát tinh thần một cuộc vận động trước hết, cho chính bản thân. Ánh sáng trí tuệ bừng lên như thể tiếp nối ngọn lửa trại hầu tàn giữa rừng khuya, và được đem theo cùng với tia nắng mới của một ngày khi họ chia tay trở về thành phố.

Hằng Hà Sa có lẽ, không phải là người duy nhất chứng nghiệm kết quả một nhận thức được tô bồi nhưng thuộc về số người ít oi đặt chân vào cuộc vận động ý thức như bước đi mở đường cần thiết cho mọi nỗ lực đi tới. Cuộc vận động ý thức để khai mở đúng đắn hướng đi vì xây dựng được nhận thức đúng đắn về thực tại và sự vật.

tôi sẽ là một con chim như những con chim khác   

suốt đời chỉ tìm tới chốn suối ngọt cây lành

hãy là chuyển luân thánh vương

ngọn bút nội tâm em sẽ ký sắc lệnh đầy khổ đau

ra ngoài vòng hiện hữu

và gọi về từ muôn phương tản mác nào hoa, nào bướm

cho chồi non, tuổi xanh căng nhựa sống,

vũ trụ cười khi hai mắt em cười

( Nhất Hạnh, Duy Thị Nhất Tâm, Giữ Thơm Quê Mẹ,  tập 5, tháng 6.1965, tr. 11.)

Trước hết, Nẻo Về Của Ý có vóc dáng và diện mạo bản phúc trình một công cuộc cống hiến cho tha nhân dưới khía cạnh triết lý nhập thế của tôn giáo. Con người, đời sống cá nhân và gia đình phải được chiếu cố, lưu tâm trong tương quan nghĩa vụ với xã hội được tác giả đặt trong phạm trù “công quả”  với ý nghĩa “ việc chùa là việc lợi ích chung cho tất cả mọi người .“

Việc đặt công tác xã hội trong ý nghĩa “công quả” không là sự lạm từ khi công việc mang phúc lợi xã hội đến cho người dân phát xuất từ một hướng đi tôn giáo. Công tác xã hội trở thành nỗ lực chính của chương trình nhập thế do bởi tính chất thiết thực của chúng, thu hút sự chú ý và cộng tác của dân chúng đồng thời khích lệ tinh thần hoạt động của các tác-viên.

Nẻo Về Của Ý khởi đầu bằng sự nuôi dưỡng một nỗi đau thất bại bằng việc ca ngợi nó, theo cách riêng của người tăng sĩ. Không có bằng chứng việc tác giả đã để cái đau nguyên sơ ấy dàn trải trên giấy mà trái lại là sự nhiệt thành của người bắt tay vào một chuyến đi mới. Việc xây dựng giang sơn cho chuyến đi này không kém hăng say khiến cho người đọc có cảm tưởng tác giả đã hồi phục được niềm tin. Và, nỗi niềm thất bại năm xưa đã thuộc hẳn về một dĩ vãng.

Phương Bối trong Nẻo Về Của Ý ngay từ khi được khởi công, đã là điển hình của ý thức đứng dậy trong khó khăn và không hề mặc cảm. Sự xây dựng Phương Bối là hình ảnh của sự tái thiết tâm hồn thay vì cho một đài tưởng niệm sự thất bại nếu như tác giả còn mang tâm trạng kẻ thất thế. Những trang viết về việc xây dựng một cơ ngơi, cả về mặt tinh thần, biểu lộ ý chí về sự phục hồi và tiếp theo đó, những bước tiến của nhận thức. Phương Bối và thiên nhiên thay mặt nó, được chào đón nồng nhiệt như người thân. Người tìm thấy đất như một niềm tin mới và không hoài nghi. Người đến với đất như gặp một tri âm. Đó chính là cái tình mà Nhất Hạnh đã gửi vào quê nhà,  không phải là cái tình của kẻ hài lòng với một chỗ nương tựa nhất thời. “ Bởi vì chúng ta sẽ không thể làm được gì nếu vẫn phải sống mãi cái đời ăn gửi, nằm nhờ.” ( Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 2, tháng 8.1965, tr. 93.)

Những trang đẹp nhất về phương diện văn chương, không nhằm mô tả sự khám phá kỳ thú vẻ đẹp thiên nhiên, mà chính là sự tương thông kỳ diệu giữa những đối tượng tương tri. Đây là kinh nghiệm của một lần “giao tiếp.” “ Tôi và Nguyên Hưng đã chạy xuống đi lại gần giải mây. Tới gần thì không thấy giải mây đâu. Chúng ta thất vọng, bởi vì chúng ta đã muốn đứng sát một bên giải mây. Nhưng khi trèo lên lại lan can nhìn, thì giải mây vẫn còn đó, tuy đã biến hình và loãng dần ra.” ( Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 2, tháng 8.1965, tr. 99.)

Và có thể lần duy nhất,vì nặng lòng tương tri, người tăng nhân không khỏi nhẹ tình với nhân thế, cái mà vẫn được xem là chủ thể cho hướng đi nhập thế. “ ...chưa ai biết rằng ẩn mình trên rừng núi Đại Lão, Phương Bối đã xòe những cánh đồi hoang vu và êm dịu như một chiếc nôi lớn – một chiếc nôi lót bằng bông đá, hoa dại, cỏ rừng – chào  đón chúng tôi. Ở đây chỉ có cây rừng, có chim có vượn, Ở đây chúng tôi sẽ xa được trong một thời gian tất cả những xấu xa nhỏ mọn của cuộc đời.” ( Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 2, tháng 8.1965, tr. 101.)

Những cái mà ta xem là hiện tượng thiên nhiên – rành mạch như hiện tượng vật lý- nhưng dưới mắt Nhất Hạnh lại chứa đựng sự mầu nhiệm của sự tương thông nơi đất trời Phương Bối. Đêm, bình minh, mây sáng, mưa chiều ... đều là những khúc vinh ca được Nhất Hạnh dành cho cuộc gặp gỡ với thiên nhiên, và khai mở nhận thức mới. Không phải chỉ là cái đẹp tiềm ẩn trong khung cảnh quen thuộc mà Nhất Hạnh nằm trong số ít người khám phá mà ngược lại, có thể nghĩ, chính những hiện tượng trên đã đánh thức được mạch suy tưởng, nhận thức của không chỉ con-người văn-nhân nơi Nhất Hạnh, cho dẫu điều dưới đây chỉ là hồi tưởng. “ Từ hồi bé thơ tôi đã bị những trận mưa đầu mùa quyến rũ rồi. Hồi ấy tôi còn ở đồng quê. Tiếng sấm động. Trời sa sầm xuống thấp. Những giọt nước to nặng đầu tiên rơi lộp độp trên mái ngói. Vài ngọn gió thổi tới đập các cánh cửa sổ ầm ầm. Tôi đã bị kích động ngay sau những hiện tượng đó. Thật giống như prélude của một bản hùng ca vĩ đại. Thế rồi sau một tiếng sấm long trời lở đất, mưa trút xuống rào rào như thác đổ. Những lúc như thế, đố mà tôi ngồi yên cho được. Tôi phải chạy ra, vén màn, dán mắt vào cửa kính. Những đọt cau xa oằn oại, trong lúc trời đất thét gào. Vũ trụ rung chuyển. Những chiếc lá to bị gió hất mạnh vào cửa sổ và vách tường. Nước trút xuống ào ào và chảy ồ ồ ngoài sân, trước rãnh. Trong màn mưa bạc, có những con chim quật cánh chống lại với với  mưa. Trong bản hùng ca đó, tôi cảm nghe rất rõ rệt tiếng gọi của hồn vũ trụ...”

( Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 3, tháng 9.1965, tr. 90.)

Bên cạnh bút pháp tả cảnh trữ tình này, người ta có thể nhận ra một tâm hồn trẻ thơ hướng về thiên nhiên để hòa nhập. Không đến với tinh thần khai dụng, hưởng thụ thiên nhiên. Con người muốn sánh vai với thiên nhiên trong suy nghĩ và hành động.

Một nội dung quan trọng không kém trong Nẻo Về Của Ý là thực tại và nhận thức đúng đắn và đầy đủ về nó. Đây là tiền đề cho nỗ lực dấn thân theo tông chỉ nhập thế theo quan điểm tôn giáo mà còn là sự khuyến dụ đối nghịch mạnh mẽ với xu hướng nhuốm màu bi quan xuất thế vốn quấn quít với cái nhìn về thiền môn từ hằng thế kỷ nay. Hạnh phúc tìm thấy nơi trần thế cần vượt ra ngoài cái nhìn quen thuộc nhưng sai lệch và nông cạn. Hạnh phúc sẽ là kết quả tự thân và tự nhiên đến với thực tại mà ta nhận chân được.

Nhất Hạnh từng minh thị điều mà ít ai dám xác định sự đúng sai. “ Không, tôi không muốn rời bỏ chốn này để đi về cực lạc hay thiên đường.  ( NVCY, tr. 218). Lời nói dường như muốn chối bỏ cái chân lý thường được những người truyền giáo vun đắp. Thực ra, người chỉ muốn chỉ ra cái sai lầm nguyên khởi phát xuất từ cái nhìn với thực tại. Cái nhìn sai lầm đã khiến con người xem nhẹ hay đến mức ruồng rẫy thực tại đang có trong tay. Hình ảnh đứa bé với bát cơm trong tay, vừa ăn vừa ngắm mưa có sức thuyết phục của một bài giảng về sự có mặt của thế giới thực hữu và hạnh phúc dung dị có được.” Tôi ngồi cách nó chừng mười thước, nhưng tôi có thể biết được đứa bé đang ăn cơm với trứng vịt chan nước mắm. Những miếng trứng vịt nhỏ xíu chôn dưới đáy bát. Nó lấy đũa moi lên và ăn từng miếng với cơm một cách dè sẻn. Vừa ăn nó vừa ngắm mưa một cách thích thú vô cùng và cũng bình tĩnh vô cùng. Tôi ngắm nhìn nó và theo dõi nó trong từng cử chỉ từng cái nhìn. Thân hình nó vẻ rắn chắc, mạnh khỏe. (...) Bỗng tôi thấy nó đưa mắt về phía đầu đường. Tôi thấy hai đứa trẻ đẩy một chiếc xe mây có bốn bánh gỗ đi lại, trên xe có em bé  ngồi. Tất cả đều ở truồng. Và cả ba đều nô đùa thích thú trong mưa. Những chiếc bánh xe gỗ lăn mau, thỉnh thoảng gặp những vũng nước trên đường bắn tung tóe ra hai bên. Tôi nhìn trở lại đứa bé đang ăn cơm. Nó ngừng hẳn công việc ăn và theo dõi trò chơi của ba đứa trẻ ngoài đường. Hai mắt sáng như sao.Tôi không biết hai mắt tôi lúc đó có phản chiếu đôi mắt nó không, nhưng có một điều tôi biết rõ là lúc đó tôi cũng sung sướng cực kỳ... “ ( Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 9, tháng 3.1966, tr. 97.))

Một phần không nhỏ trong bốn chương cuối sách vốn được viết khi tác giả đã rời xứ, trở lại Hoa Kỳ ( chương XI-XIX) dành trình bày cho người bạn Mỹ một số nỗ lực phát triển văn hóa, giáo dục, xã hội trong thời gian qua tại quê nhà, vốn đều nằm trong ước mộng ấp ủ từ đầu thập niên 50 nhằm cải thiện cái thực tại hiện hữu.

Là tác phẩm then chốt tường trình về thành tựu của một hướng đi của một tăng nhân, nhưng chỉ riêng về mặt văn chương, Nẻo Về Của Ý còn là điển hình của một cách xây dựng tác phẩm nghệ thuật tự những điều giản dị nhất. Bên cạnh cách mượn cảm hứng từ bài giảng pháp để minh họa cho chính những bài giảng này, người dựng truyện còn lưu lại cảm hứng không kém sâu xa cho những người, tình cờ hay hữu ý, tìm gặp tác giả trong trang sách.  Hơn nửa thế kỷ qua đã làm phôi pha những cảm xúc lẫn suy tư nơi những người cùng chung hoàn cảnh và vận nước, nhưng dường như cách dẫn dắt vào thực tại của Nhất Hạnh vẫn còn tính cách mời gọi như thuở nào. Ngập ngừng hay hăm hở đều là cảm giác ban đầu của người đọc đến với tác giả nhưng không hoài nghi sự chân thực đẳm thắm trong từng trang sách.

Nẻo Về Của Ý còn cho thấy phó thác một sự cưu mang. Thói thường, từ sách, người viết muốn trao hết những điều gửi gắm cho ít ra là một thành phần người đọc. Nơi Nẻo Về Của Ý, việc trao truyền những suy tư hay mong muốn khơi dậy nơi người đọc nhiệt lượng cần thiết vào việc cống hiến cho mục đích chung, công việc ấy không khó khăn với người cầm bút Nhất Hạnh. Dường như, điều tác giả muốn đặt vào xa hơn là sự tiếp nối vai trò của thế hệ được thừa kế trọng trách.

Ở một nghĩa nào đó, người ta thấy tác giả muốn thay thế chuỗi chuyển hóa nhân duyên bằng chu trình bất diệt của tình thương. Hiểu theo cách riêng, tình thương sẽ tiếp tục luân lưu như một nguyên tố cấu thành tương quan trong vũ trụ.  Ngày mai, nếu chúng tôi có cháy thành tro bụi thì tro bụi ấy cũng sẽ là tình yêu. Chúng tôi, lúc đó là tro bụi, sẽ thấm vào lòng đất, sẽ làm chất bón tươi tốt cho một loài hoa, nở những bông hoa cho loài người , những bông hoa không biết oán thù là gì. Chúng tôi sẽ luân hồi trở lại bao nhiêu lần, hoặc là hoa, hoặc là cỏ, hoặc là chim, hoặc là mây, hay trong cứ trong hình thái nào, hiện tượng nào.” ( NVCY, tr. 336-337)

Niềm xác tín ấy bàng bạc trong tác phẩm như hương vị sự có mặt nơi trần thế, như bầu khí của một môi trường vô nhiễm.

Bốn chương cuối, thực tế viết trong hoài niệm dù quá khứ chưa xa, còn đông đặc hình ảnh và cảm xúc của cuộc tận hiến nửa chừng cho hoài bão phần nào trở nên hiện thực. Cuộc vận động cho một xã hội tiến lên cho bằng người mà người tăng nhân cưu mang như hiện nghiệp.

Nẻo Vế Của Ý là hành trình của tình thương và sự kết nối với tha nhân, song hành với cuộc hành trình của nhận thức về thực tại trước mắt. Người đến với tình thương mà hành động thực thi là sự thể hiện việc bừng nở trong trí ánh sáng của nhận thức mới về thực tại quanh mình.

Hiển nhiên là những trang khiến người người say đắm về văn chương chính là thực tại, trong đó có thiên nhiên, đã được xiển dương dưới ý thức được tài bồi. Trăng đêm, rừng khuya, mây núi, nắng sớm, kể cả việc chứng kiến một niềm vui nhỏ nhoi, đều là thực tại tái sinh sau một chặng đường tư tưởng. Những người đến với Phương Bối sáng lòng như nhận được ơn thiêng, trong khi chính họ là người gầy được ánh lửa khi nắng mai chưa đủ xua đi bóng tối. Nhất Hạnh thường nhắc đến quyền uy của rừng thiêng dưới màn đêm ( Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 3, tháng 9.1965,  tr.85) cũng  như sức thu hút mạnh mẽ của rừng khuya, phải chăng muốn ám thị nỗi khó khăn để vượt thoát khỏi màn vô minh dày đặc để thấy được chân lý ban mai và thuộc về chân lý ấy.

Đây cũng là nhận thức nơi những người đến với Phương Bối và còn trăn trở về một thực tại có trong tay mà chân diện chưa được minh tường. “ Phương Bối là một thực tại rồi đó, nhưng mà, cũng như chiều hôm trước, chúng ta vẫn không chắc là nó có thực. Nó hiện hữu như một cái ráng trời. Ta có thể nghĩ rằng nó muốn tan biến đi lúc nào thì nó tan biến. “ ( Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 3, tháng 9.1965, tr. 87.)

Hơn là một thực tại, Phương Bối còn là mẫu của thực tại cần được nhận chân, cũng là qua đó, là con đường dẫn đến một thực tại cần được sống với. Ít ra là hơn một thế hệ cần nuôi tinh thần đến với nơi này khi mà tình thương cần hơn bao giờ như một thực phẩm không thể thiếu nơi trần thế.

Những người cảm thấy xung khắc với bạo lực, khi trá, hoài nghi, cảm thấy ngay rằng Nẻo Về Của Ý là một gợi ý quyến rũ cho một thái độ mặn mà với đời sống, một ý thức bao dung với những điều nghiệt ngã vây quanh hay khuyến khích sự mở rộng tâm hồn bằng việc nhân lớn những rung động tinh tế.

Thật thế, có lẽ chưa có văn chương nào hàm xúc điều mời gọi đến với thực tại cho bằng Nẻo Về Của Ý đã làm hôm qua, hôm nay nơi những người tìm đến dù không có kinh nghiệm làm người trong trắc trở. Hôm nay, người ta không còn đến với Phương Bối với tâm trạng và hành lý của người mang thương tích hay mong đợi hàn gắn một tổn thất. Nhưng Nẻo Về Của Ý vẫn là hình ảnh một bóng mát dành cho người cảm thấy sự cần thiết của một chốn nghỉ trên đường, một giếng nước không vơi giữa mùa hạn kéo dài trên đất sống.

Nẻo Về Của Ý là hình ảnh một hằng-đẳng-thức đáng nhớ với một hằng số duy nhất là tình thương. Tình thương hay những từ ngữ gợi ý tương tự chiếm hữu không gian của Phương Bối và làm nên kiến trúc tinh thần của Phương Bối trong tình cảm mỗi người. Tinh thần ấy tồn tại nơi những người còn tin tưởng nơi những giá trị mà Phương Bối đề cao và dù chưa một lần đặt chân, nên hơn năm mươi năm đã qua, Phương Bối chưa hề bị xem như di sản. Tương tự như bầu khí, như mây trời, như sương khuya, như nắng sớm, như ngàn thông nội cỏ, Phương Bối hiện diện bên ta, bên người, hôm qua, hôm nay, và ngày mai như một thực tại. Cho dẫu là trong quá khứ, Phương Bối đã coi như vượt khỏi tầm tay của chúng ta trong một thời gian. (NVCY, tr. 105)

Điều còn lẩn khuất trong tâm hồn người đọc mà Nẻo Về Của Ý đem lại, hôm qua và hôm nay, là sự gợi ra mãnh liệt về ý thức đóng góp cho thực tại đương thời. Thực tại dù cay đắng hay bất như ý nhưng vẫn là thực thể không thể từ chối hay xem nhẹ dù dưới hình thức nào. Con người khi nhận chân ý thức đóng góp sẽ tự xa rời cõi cô đơn, bơ vơ  hay thế giới vị kỷ vây quanh để  đến với tha nhân trong mối tương quan đúng nghĩa.

Đây chính là ý nghĩa thời đại của tác phẩm khi mà thực tại xã hội thời chiến đương thời là hoàn cảnh thuận lợi cho sự phát sinh và dung dưỡng những tác nhân làm suy giảm hay triệt tiêu những giá trị nhân bản. Không còn là hình ảnh của ước mơ hay viển vông khi nhìn dự phóng của công cuộc cải thiện và xây dựng xã hội mà tác giả cưu mang. Chính vi hoàn cảnh bức bách đặc biệt của cuộc tranh chấp đã đẩy con người vào thế cùng để tự tồn, tự xem nhẹ những giá trị hằng gìn giữ. Văn chương đương thời đã ghi nhận, chẳng hạn điển hình trong Mèo Đêm về hoàn cảnh sa cơ của cô gái hành nghề bán thân xác cho lính viễn chinh  ( Nguyễn thị Thụy Vũ, Hồng Đức, Sài gòn, 1965) hay hình ảnh con người trở nên bơ vơ, bị ruồng rẫy trong nghi kỵ của thời chiến trong truyện ngắn Dọc Đường ( Thanh Tâm Tuyền, Nghệ  Thuật, số 47, 10.9 – 16.9.1966 .) Hoặc, nhìn thực tại xã hội suy đồi gần như toàn diện dưới con mắt nghiệt ngã hơn trong một truyện ngắn của Phan Du ( Hang Động Mới, Tin Văn, số 1, 6.6.1966.) Nhưng dường như văn chương chưa được ghi nhận đúng mức của sự báo động và báo nguy, chưa kể không có mối liên quan “biện chứng” giữa con người hành động với con người thưởng ngoạn văn chương thuần túy.

Ý nghĩa thời đại của tác phẩm sẽ hiển lộ khi chính một thành phần của xã hội đương thời có những dấu chỉ khao khát về một hướng đi hay dù mới chỉ là ý thức về sự bế tắc tinh thần nơi họ, đó là chưa kể nỗi bực rọc cùng cực với thực tại khiến có lúc nhà thơ thời danh của tình yêu không ngại  xem cái chết là sự giải thoát

Diễn đã chết, Diễn đã chết

Chúng tôi nhảy múa hò reo

Như những người da đen

Chúng tôi nhảy múa hò reo

Thế là nó thoát, thế là nó thoát !

( Nguyên Sa, Đám Tang Nguyễn Duy Diễn, Nghệ Thuật, số 2, 8.10 – 15.10.1965, tr. 25)

Vun xới nỗi bực dọc ấy có lúc trở thành thói quen tinh thần của những người cảm thấy không thể làm gì khác. Ý thức lâm vào thế bất động khiến cho người quay vào việc tự dằn vặt và dường như  lấy làm cách an lòng

tặng cho em một xe plát-tích

xe plát-tích nổ giữa phố đông

giữa phố đông nổ tung từng mảnh thịt

đó là đời ta em biết không  

( Trần Dạ Từ, Tặng Vật Tỏ Tình, Văn, số 40, 15.8.1965, tr. 75-76)

Cảm giác của kẻ như bị phong tỏa tinh thần, không thể định hướng dường như là trạng thái tâm hồn chung của bao người, đặc biệt nơi những người trẻ gắn bó với, như người lữ hành gửi niềm tin vào ốc đảo bên đường có thể làm vơi nhẹ niềm thất vọng

mỗi chúng ta là một niềm hối tiếc

của giọng sương mai im lìm bốc hơi

mỗi chúng ta là một hành tinh lạnh lẽo

tự quay quanh quỹ đạo chính mình

và quay quanh một mặt trời xa lạ

trong khoảng không mênh mông...

( Đynh Hoàng Sa, Kinh Cầu, Nghệ Thuật, số 55, 5..11 – 11.11.1966, tr. 18)

Dẫu sao, ý thức được như trên đã là bước đầu để đi xa hơn trên chặng đường nhận thức.

Nẻo Về Của Ý trở thành ngọn gió đưa ý thức tiến lên phía trước, tiến gần đến một lộ trình. Mầu sắc tôn giáo của tác phẩm chỉ là khía cạnh của một công cuộc mang tính chất phổ quát của cả cộng đồng, liên quan đến việc thảo-chương giải quyết một vấn đề lớn trong xã hội hiện hành.

Hiển nhiên là Nẻo Về Của Ý còn hàm chứa một thái độ hành động của tác giả đối với cuộc xung đột khốc liệt đương thời. “ ... chiến tranh đã tàn phá đức tin, tàn phá hy vọng, tàn phá mọi chương trình kiến thiết lâu dài.” ( NVCY, tr. 254.) Nghĩa là có thể đe dọa nghiêm trọng đến số phận những gì mà chương trình tác giả kỳ vọng và theo đuổi và ngay cả yếu tố mà công cuộc xem là điểm tựa. Nhưng, một cách tích cực hơn, Nẻo Về Của Ý đã mời gọi sự lên đường với một kế hoạch rõ rệt, thay vì dừng lại ở việc “ đóng cửa tĩnh tâm, nhập từ bi quán để cầu nguyện cho sự vượt thắng” ( NVCY, tr. 293.)

“ Cuộc đời không phải chỉ là quá khứ. Nó còn là hiện tại và tương lai. Chúng ta phải nhìn về phía trước mặt.” ( NVCY, tr. 297) Dường như đây mới là ý nghĩa thời đại đích thực của tác phẩm khi mà thực tại khốc liệt đã và đang dồn đẩy con người vào việc lãng quên hay xem nhẹ, bằng nhiều hình thức, và dưới nhiều khía cạnh, những giá trị nhân bản của cuộc sống hiện tại.

Sự lên tiếng của tác giả về thái độ của chúng ta đối với quá khứ là điều cần đặt ra vì phải chăng trong thực tế con người luôn đặt mình dưới sự bao bọc của quá khứ, và trong không ít trường hợp, sống trong cái mà họ xem là hào quang của dĩ vãng.

Ý nghĩa của nhận định trên có thể xuất phát từ phản ứng của tác giả đối với xu hướng bảo thủ, xem trọng cựu truyền và thường tỏ ra đối nghịch với quan điểm cải cách của tác giả. Nẻo Về Của Ý ra đời trong bối cảnh sau-cuộc-bất-đồng giữa hai xu hướng và mở đầu cho thời cơ hoạt động của xu hướng đổi mới về nhiều mặt của tổ chức nhà Phật. Câu phát biểu “phải nhìn về phía trước” hàm ý một tuyên ngôn hành động.  Phổ quát. Nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa trong nội dung làm việc. Và tuy rằng mới chỉ được giãi bày bằng ngôn ngữ của thơ và bằng rung động của trái tim người thi sĩ

trong bóng đêm

địa cầu quê hương tôi đã mòn mỏi trông chờ

giờ mầu nhiệm để vô biên hé mở

cho bóng tối tan đi với niềm lo sợ

cho hội Long-Hoa về

để pháp âm tiếp nối bằng lời ca

                        tiếng hát em thơ ....               

..... đêm nay cầu cho khổ đau kết trái, hoa thành

cho sinh diệt đi ngang dòng pháp thân bất diệt

cho suối tình thương chảy tràn trên vạn lòng tha thiết

để loài người học nói tiếng chân như

để tiếng nói trẻ thơ thành giọng chim ca.

( Nhất Hạnh, Đêm Cầu Nguyện, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 7&8 (1&2.1966, tr. 4.)

Rõ rệt hơn là tấm lòng của người trong cuộc, xem nhẹ gian nguy, hướng về nghĩa cả. Có thể nghĩ một nội dung quan yếu của chương trình hành động chính là thông điệp về việc xây dựng lòng tin vào con đường đi tới

đứng nhìn bên khung cửa sổ sáng nay của cuộc đời

tôi thấy em ngã xuống rồi em đứng dậy mỉm miệng cười

cầu nguyện cho em đường để thân em lấm bụi thẹn thùng,

đừng để tên em mang mặc cảm cô đơn vụng về yếu đuối

môt lần ngã là một lần vùng dậy

để trưởng thành

để cuộc đời nhường một bước đứng lên

( Nhất Hạnh, Dựng Tượng Tuổi Thơ, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 6, tháng 12.1965, tr. 3)

 


 Nẻo Về Của Ý, Lá Bối Sai gòn xuất bản, 1967, in lần thứ nhất, 352 trang, bìa của Hiếu Đệ

 Nẻo Về Của Ý còn chứng tỏ sự tự chủ của bản thân và nỗ lực vượt ra ngoài cái bóng của dĩ vãng, Trong một ý nghĩa nào đó, sự xung đột với mâu thuẫn bản thân tạo thành sức mạnh để tiến tới. Con người được giao việc kế thế truyền thống lại hăng hái với công cuộc đổi thay nhằm tìm kiếm một đời sống mới cho tổ chức. Ngọn lửa được thắp sáng hôm qua  phải cần nhiên liệu của ngày mai cho việc duy trì ánh sáng. Ý nghĩ trên khiến cho Nẻo Về Của Ý không còn là cách giải quyết riêng của trường hợp Nhất Hạnh. Với dáng vẻ một bản tường trình con đường khúc mắc của một hướng đi, Nẻo Về Của Ý  lấy tình thương làm một thứ la bàn định hướng khiến cho công việc mà tác giả theo đuổi  gần như hoàn toàn chi phối bởi nhân tố con người, con người phổ quát và đồng nhất theo chuẩn mực đã định. Do đó, dường như đây là đặc điểm đồng thời cũng liên quan đến nhược điểm lớn nhất của hướng đi.

Tình thương, ngoài ý nghĩa của thứ tình cảm quen thuộc được khơi dậy, còn trở thành một động lực hầu như duy nhất được xem có khả năng hóa giải được xung đột, sau khi triệt tiêu được mâu thuẫn nội tại nơi mỗi cá nhân. Phải lạc quan đến mức nào mới có thể đạt được niềm tin rắn rỏi như Nhất Hạnh. “ Chúng tôi nhất quyết không thù ghét con người, dù con người có tỏ ra ác độc đến mấy đi nữa. Kẻ thù của chúng ta không phải là con người; kẻ thù của chúng ta là vô minh, là cừu thù .” ( Nẻo Về Của Ý, sđd. tr. 304)

Dẫu sao, giữa dòng xã hội ngày một sớm tỏ ra xa rời những nguyên tắc căn bản của sự phát triển cộng đồng, bỏ quên nhiều giá trị nhân bản, Nẻo Về Của Ý, gần như ở vị trí đơn độc giãi bày thành khẩn một niềm tin vào một giá trị đã phôi pha hoặc bị thử thách gay gắt. Trong sáng và giản dị như sương mai - những yếu tố cổ điển làm nên giá trị văn chương của tác phẩm, một lần nữa, làm mối mâu thuẫn nội tại thêm rõ ràng nơi con người đặt hết lòng tin vào sự cách tân, vào việc tiến về phía trước.

                                                                                                                           Trần Mạnh Toàn