Hoàn cảnh và tâm sự của Trần
Nguyên Đán (1320-1390)
Trần Nguyên Đán là cháu bốn
đời (chắt) của Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải, vị anh hùng phá tan quân
Nguyên ở Chương Dương và khôi phục Thăng Long năm 1285. Cuối đời Trần Dụ tông,
khi Dương Nhật Lễ muốn dứt ngôi nhà Trần, Trần Nguyên Đán đem quân giúp Trần
Nghệ tông (lúc ấy còn là Cung Định vương) dẹp yên. Nghệ tông lên ngôi, phong Trần
Nguyên Đán làm Tư Đồ. Đến cuối đời, Nghệ tông không còn sáng suốt nữa, quá tin dùng và chỉ nghe một người
em con cô là Lê Quý Ly (sau lấy lại họ gốc là Hồ Quý Ly). Quý Ly thông minh, có
sáng kiến, nhưng nham hiểm, nhiều tham vọng. Trong triều nhiều người khuyên can
nhưng nhà vua không nghe, có khi còn đưa những bản sớ ấy cho Quý Ly coi, khiến
những người đã can phải sợ hãi, trốn tránh. Sau nhiều lần can gián không hiệu
quả, năm 1385 Trần Nguyên Đán cáo quan lui về ẩn ở Côn Sơn. Bài thơ này được
làm ra trong hoàn cảnh ấy.
Nhiều sử gia đời sau (Ngô
Sĩ Liên, Ngô Thì Sĩ, Trần Trọng Kim) phê phán Trần Nguyên Đán bằng những lời
khá nghiêm khắc. Theo các vị, thuộc tôn thất nhà Trần, lẽ ra Trần Nguyên Đán phải
chia sẻ mối lo với vua, ở
lại tận lực giúp triều đình.
Cáo quan lui về là một hình thức trốn trách nhiệm, chỉ nghĩ đến bản thân. Những
chê bai ấy không phải là vô căn cứ, nhưng để việc nhận định được công bằng, có một vài sự kiện chúng
ta cũng nên xét tới:
1.
Theo Lược
truyện các tác gia Việt Nam của Trần Văn Giáp, Trần Nguyên Đán sinh năm
1320. Khi cáo quan về hưu năm 1385, ông đã 65 tuổi. Ở thời trước, tuổi ấy được
kể là cao. Tuổi thọ các vua Trần từ
Thánh tông đến Dụ tông chỉ từ 33 đến 57. Vị tằng tổ của Trần Nguyên Đán, Chiêu
Minh đại vương Trần Quang Khải, cũng chỉ 53
tuổi. Về hưu ở tuổi 65 nên được coi là
hợp lý chứ không hoàn toàn chỉ là “trốn trách nhiệm.”
2.
Theo “Băng Hồ di sự lục” do Nguyễn Trãi
(cháu ngoại Trần Nguyên Đán) chép, thì Trần Nguyên Đán cũng từng can vua về chuyện Quý Ly nhưng không thành công:
“Công
tuy thân gửi suối rừng mà chí thì ở tông xã, tấm lòng ưu ái chưa một ngày quên.
Hoặc đi hoặc ở, khi động khi tĩnh, đều có ý can gián. Rút cục Nghệ tông đều
không xét đến. Do đó họ Hồ uy thế càng thịnh, kẻ xu phụ ngày càng nhiều, thế nước
ngày càng suy, không làm sao được nữa, cái chí lui về hưu của công mới quyết.”
Tuy trong thân tộc nhà Trần nhưng liên hệ giữa Trần Nguyên Đán với vua Nghệ tông phải đi ngược lại 4 đời (Chiêu Minh đại
vương Trần Quang Khải là em vua Thánh tông). Trong khi ấy, thân mẫu vua Nghệ
tông là cô ruột Quý Ly (giữa Nghệ tông với Quý Ly có tình anh em con cô con cậu ruột). Nghe lời Quý Ly, nhà vua từng truất ngôi Phế đế Trần Hiện
(con vua Duệ tông, cháu gọi Nghệ tông bằng bác ruột) rồi sai người thắt cổ chết.
Vì không ưa và ngờ vực Quý
Ly, con lớn của Nghệ tông là Trang Định vương Trần Ngạc cũng bị Quý Ly sai người
sát
hại. Năm 1392, ít năm sau
khi Trần Nguyên Đán về hưu, một tôn thất gần Nghệ tông hơn là Trần Nhật Chương
mưu giết Quý Ly. Trước khi việc được thi hành, Nhật Chương bị Nghệ tông xử tử. Liên hệ giữa Trần Nguyên Đán với Nghệ tông không được
thân bằng mối
liên hệ giữa Nghệ tông với các nhân vật kể trên. Ông có nhiều lý do để lo ngại.
3.
Khi
Trần Nguyên Đán xin về hưu năm 1385, người cháu ngoại ông rất
yêu quý là Nguyễn Trãi đã được
5 tuổi. (Nguyễn Trãi sinh năm 1380 trong dinh thự của Trần Nguyên Đán ở Thăng
Long). Thân phụ của Nguyễn Trãi (Nguyễn Ứng Long, sau đổi tên là Nguyễn Phi Khanh), từng được Trần Nguyên
Đán nâng đỡ và che chở. Là một thư sinh giỏi, nhà nghèo, Nguyễn Ứng Long được tuyển
chọn để kèm học cho tiểu thư Trần Thị Thái, con của Trần Nguyên Đán. Hai người
yêu thương nhau, với kết quả là cô Thái thụ thai. Sợ hãi, Nguyễn Ứng Long bỏ trốn.
Khi biết chuyện, Trần Nguyên Đán nói, “Vận nước sắp hết, biết đâu chẳng là trời
xui nên thế, vị tất không phải là phúc,” rồi cho tìm Ứng Long về, khuyên cố học hành. Ứng Long cảm kích, chuyên tâm học
và thi đỗ nhưng không được bổ dụng vì tội “con thường dân mà dám lấy con nhà
quý tộc.” Do từ nhỏ vẫn sống cùng mẹ trong dinh thự của Trần Nguyên Đán, Nguyễn
Trãi được ông ngoại chăm sóc việc học. Năm 1385, Trần Nguyên Đán về hưu, cũng là
dịp để đem người cháu ngoại mà ông thương mến và rất thông minh về Côn Sơn tiếp tục việc giáo huấn. Suốt thời thơ ấu,
Nguyễn Trãi chịu ảnh hưởng sự hướng dẫn của ông ngoại
về kiến thức cũng như về tâm hồn.
4.
Cũng
theo Nguyễn Trãi trong “Băng Hồ di sự lục,”đến cuối đời Trần Nguyên Đán đau ốm
nhưng không uống thuốc. Trước sự nài ép của con cháu, ông nói, “Thời sự như thế, ta được chết là may. Sao còn cầu
sống để thấy họa loạn?” Có vẻ như Trần Nguyên Đán tiên
liệu trước những việc họ Hồ sẽ
cướp ngôi, nước sẽ đại loạn và có thể sẽ mất. Cho rằng thế hệ của ông không còn làm được gì, ông nghĩ đến thế hệ kế tiếp. Cháu ngoại của ông là Nguyễn Trãi và cháu nội của ông
là Trần Nguyên Hãn sau đó đã góp sức một cách đáng kể vào việc khôi phục lại đất nước.
5.
Theo Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư, có lần vua Nghệ tông đến nhà Trần Nguyên Đán để thăm bệnh
và hỏi việc nước nhưng Trần Nguyên Đán không nói gì, chỉ thưa, “Xin bệ hạ kính
nước Minh như cha, yêu Chiêm Thành như con thì nước nhà vô sự.” Căn cứ vào chi
tiết ấy, sử gia Ngô Sĩ Liên phê bình “chỉ là câu nói tầm thường.” Sử gia Trần
Trọng Kim nghiêm khắc hơn, cho là Trần Nguyên Đán “chỉ bàn những chuyện làm tôi
tớ, không có chí muốn nước mình cường thịnh.”
Sau
khi Trần Nguyên Đán về ẩn dật, năm 1387 Quý Ly được cử làm Đồng Bình Chương Sự,
nắm quyền Tể tướng, coi giữ hết mọi việc. Vua Nghệ tông còn sai người vẽ tranh
tặng Quý Ly, ví Quý Ly như Chu Công Đán giúp vua Thành vương nhà Chu, như Gia
Cát Lượng giúp Hán Hậu chúa đời Tam Quốc, như Tô Hiến Thành giúp vua Cao tông
nhà Lý. Khi Nghệ tông đến thăm Trần Nguyên Đán tại nhà riêng, không thể không
có tai mắt của Quý Ly theo dõi. Trong hoàn cảnh ấy, Trần Nguyên Đán khó có thể nói
những điều ông thực sự muốn nói, có khi chỉ nguy hại cho ông, cho con cháu ông,
và cho chính vua Nghệ tông. Trong sử Trung Hoa mà Trần Nguyên Đán chắc chắn thông thạo, không thiếu những trường hợp giả bộ đau ốm nặng hoặc làm ra vẻ già lẫn, gàn dở, để tránh sự nghi kỵ, theo dõi của đối phương.
Để
mở đầu bài “Bình Ngô đại cáo,” Nguyễn Trãi đã viết:
“Như nước Việt ta từ
trước,
Vốn xưng văn hiến đã lâu,
Sơn hà cương vực đã chia,
Phong tục bắc nam cũng khác.
Từ Ðinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc lập,
Cùng Hán, Ðường, Tống, Nguyên, hùng cứ một phương.
Dẫu cường nhược có lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có…”
Vốn xưng văn hiến đã lâu,
Sơn hà cương vực đã chia,
Phong tục bắc nam cũng khác.
Từ Ðinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc lập,
Cùng Hán, Ðường, Tống, Nguyên, hùng cứ một phương.
Dẫu cường nhược có lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có…”
(Bản
dịch của Bùi Kỷ, được in trong Việt Nam Sử
Lược của Trần Trọng Kim).
Đọc
“Băng Hồ di sự lục,” chúng ta cùng thấy rằng Nguyễn Trãi rất ngưỡng mộ ông ngoại
của mình. Người giáo huấn Nguyễn Trãi từ nhỏ và đã gieo ảnh hưởng sâu đậm đến
tâm hồn, tư tưởng của tác giả “Bình Ngô đại cáo” khó có thể là người “chỉ bàn những
chuyện làm tôi tớ” như lời phê bình có phần hơi quá đáng của học giả Trần Trọng
Kim.
Như
trên đã thấy, Trần Nguyên Đán không sợ cái chết cho bản thân. Khi lấy hiệu là Băng Hồ, ông mượn ý một câu thơ của Vương Xương Linh, “Nhất phiến băng tâm tại ngọc
hồ” (Một mảnh
lòng băng trong chiếc hồ bằng ngọc). Trong những hoàn cảnh
khó xử, khó nói, ông chỉ có thể gửi tâm sự vào thơ. Bài “Dạ quy chu trung tác” được
giới thiệu ở trên là một trong những bài như thế. Câu 3 của bài thơ, “Trên chiếc
thuyền quay về, chưa yên tâm với giấc mộng sông hồ” đúng là điều sau này Nguyễn Trãi cũng viết ra trong “Băng Hồ di sự lục”: “Công
tuy thân gửi suối rừng mà chí thì ở tông xã”
(tông miếu, xã tắc, ngụ ý triều đình, đất nước).
Có
một sự kiện chúng ta cũng nên chú ý: Năm 1428, ngay sau khi đuổi xong quân
Minh và công bố "Bình Ngô đại cáo," Nguyễn Trãi đã viết “Băng Hồ di sự lục” để thuật lại cuộc đời của ông
ngoại mình.
Trần Từ Mai
https://tranhuybich.blogspot.com/