Tháng
9 năm 1959, thi sĩ Vũ Hoàng Chương được mời tham dự một Hội nghị quốc tế về Thơ
tổ chức mỗi hai năm một lần tại Knokke-le-Zoute bên nước Bỉ. Knokke-le-Zoute là
một thị trấn nghỉ mát bên bờ Bắc Hải (North Sea). Danh hiệu chính thức của Hội
nghị là Biennale Internationale de
Poésie (International Biennale of Poetry--Hội nghị Lưỡng niên Quốc tế về
Thơ). Việc tổ chức Hội nghị có lẽ chỉ khởi sự từ năm 1953, vì năm 1959, khi thi
sĩ Vũ Hoàng Chương được mời góp mặt, là Hội nghị kỳ thứ Tư. Kỳ Hội nghị ấy có
42 quốc gia tham dự. Vũ Hoàng Chương đã chào mừng Hội nghị bằng một bài thơ mở
đầu bằng những câu:
Từ bốn phương về,
đã bốn phen
Gió thu dìu dặt,
hứng thơ lên
Vườn Hoa Bể Bắc
mây tung cánh
Thi sử chào
Ngươi, Hội Lưỡng Niên!
Thơ kết thành hoa
nở bốn màu:
Cúc vàng, lan
trắng, hạnh hồng, nâu
Phấn bình nguyên
quyện hương sa mạc
Nồng đượm hai bên
má Địa Cầu
Hồng Hải dang tay
Hắc, Bạch, Hoàng
Tình Thơ bốn bể
sóng mênh mang
Pha sương đại lục,
mưa quần đảo
Nước mấy trùng
khơi góp tiếng vang
Thi đàn Quốc tế
hội thi nhân
Này bốn mươi hai
nước họa vần
Thế giới không
còn biên giới nữa
Chỉ còn muôn dặm
nức hương lân …
Với
bốn màu hoa (vàng của cúc, trắng của lan, hồng và nâu của hạnh), và bốn biển nhỏ
mang danh hiệu bốn màu (Hồng Hải, Hắc Hải, Bạch Hải, Hoàng Hải), Vũ Hoàng
Chương muốn nói tới những màu da khác nhau của các sắc dân trên thế giới. Phần
đông chúng ta đã quen với những từ Hồng Hải (Red Sea, nằm giữa Á và Phi Châu, ở
cực Bắc có kênh Suez thông với Địa Trung Hải), Hắc Hải (Black Sea, biển nội hải
giữa Nga, Ukraine, Turkey và một vài quốc gia Đông Âu), Hoàng Hải (Yellow Sea, nằm
giữa Trung Hoa và Hàn Quốc), nhưng từ Bạch Hải (White Sea, Biển Trắng) ít nghe
nói tới. Đó là một vịnh nhỏ của biển Barents ở Tây Bắc nước Nga, cũng được gọi
là Beloye More. Nhiều tháng trong năm, biển ấy bị tuyết phủ trắng xóa. Hải cảng
quan trọng Arkhangelsk trên đất Âu Châu của Nga nằm trên bờ biển này.
Từ
Việt Nam bay sang dự Hội nghị, Vũ Hoàng Chương được gặp Ysabel Baes, một trong
những đại biểu của nước Bỉ. Năm ấy nàng mới 15 và rất xinh đẹp. Vũ Hoàng Chương
đã trình bày cảm nghĩ của ông khi mới gặp Ysabel như sau:
Tam ngũ thường nga bất nhiễm trần
Nhu trường uổng đoạn Vu Sơn vân
Thi đàn xưng bá, hoa xưng hậu
Bỉ quốc hà duyên đắc thử nhân?
(Hằng Nga 15 tuổi không nhiễm bụi
trần
Khúc ruột mềm của vị thần nữ làm mây
làm mưa ở núi Vu đứt ra mà không ích lợi gì
Trên đàn thơ là thi bá, giữa các
hoa là hoa hậu
Nước Bỉ có duyên ra sao mà được con
người ấy?)
Trong
câu thơ thứ hai, Vũ Hoàng Chương đã mượn lời Lý Bạch ca tụng Dương Quý phi trong
bài “Thanh bình điệu” nhưng đổi đi một chữ. Nguyên văn câu thơ của Lý Bạch là:
Vân vũ Vu Sơn uổng đoạn trường.
Theo
giáo sư Trần Trọng San, câu ấy có nghĩa: Vị thần nữ làm mây làm mưa ở núi Vu
cũng phải đau lòng mà chẳng ích gì. Vu Sơn là tên núi, ở phía đông huyện Vu
Sơn, tỉnh Tứ Xuyên bên Trung Hoa. Tương truyền vua Tương vương nước Sở đi chơi
đến đất Cao Đường, nằm mơ thấy một nữ thần rất đẹp đến nói, “Thiếp là thần nữ
núi Vu Sơn, sớm làm mây, tối làm mưa ở Dương Đài.” Vũ Hoàng Chương bớt chữ “vũ”
trong câu thơ của Lý Bạch để thêm chữ “nhu” (mềm), có lẽ vì đã liên tưởng đến
câu thơ cổ:
Nhất phiến nhu hoài chỉ vị khanh
(Một mảnh lòng mềm ra chỉ vì nàng).
Năm
1959 Vũ Hoàng Chương được 44 tuổi (Trên giấy tờ, ông sinh năm 1916 nhưng thật ra
ông sinh ngày 1 tháng 4 năm Ất Mão, theo dương lịch là ngày 14 tháng 5 năm 1915).
Theo
Vũ Hoàng Chương, Ysabel đẹp đến độ: Sao
cũng mê nàng, sao bỏ ngôi.
Là
một thiếu nữ Âu châu, Ysabel có da trắng với cặp mắt xanh. Vũ Hoàng Chương đã tả
mắt của nàng như sau:
Xanh tuổi trăng tròn, xanh bát ngát
Trời xanh chết đuối mắt Y Sa.
Nàng
có mái tóc mềm mại như mây. Sau đây là những lời Vũ Hoàng Chương viết để tả tóc
của nàng:
Hồng nhạn truyền
tin báo Hội Thơ
Mây bay trắng
lụa, ruổi vàng tơ
Bỗng dưng mái tóc
nàng mê hoặc
Mây bỏ trời xanh
tự bấy giờ.
Lý
Bạch thấy mây, ngỡ xiêm áo của Dương Quý phi, thấy hoa, ngỡ dung mạo của nàng (Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung). Với
Vũ Hoàng Chương, mây đã bỏ trời cao xuống thế để nhập vào làn tóc của Ysabel.
Trước
khi được chọn làm một đại biểu của nước Bỉ trong Hội nghị Quốc tế về thơ ở tuổi
15, Ysabel Baes đã có một thi tập được xuất bản. Đó là tập O ma Jeunesse, ô ma Folie (Ôi tuổi trẻ của tôi, Ôi sự điên rồ của tôi).
Tập thơ ấy được Maison du Poète tại thủ đô Bruxelles xuất bản năm 1959.
Trong
Hội nghị và bên lề Hội nghị, hai người trao đổi bằng tiếng Pháp. Vũ Hoàng
Chương thành thạo tiếng Pháp, ngôn ngữ chính của Ysabel. Khi Hội nghị kết thúc,
hai người đã thành bạn thân. Trong tập thơ Cảm
Thông của Vũ Hoàng Chương, xuất bản năm 1960 sau khi từ Bỉ về, ông cho in
hai bài thơ ông làm để tặng Ysabel, bài “Y Sa”
và bài “Mây sóng tình thơ.” Trong tập này cũng in bốn bức tranh Ysabel tặng
ông để làm phụ bản: Thông trên tuyết, Biển san hô, Xương rồng, và Thần Chết.
Nàng cũng là một họa sĩ: bốn năm sau (1963) ở tuổi 19, có tranh được triển lãm ở
Galérie Portenant, Bruxelles.
Trong
bài “Mây sóng tình thơ,” Vũ Hoàng Chương có những ý và lời rất mới:
Đêm đêm Bắc Hải,
Thái Bình Dương
Hai chiếc bao lan
dài nhớ thương
Mượn nguyệt cầu
kia làm tín trạm
Mây tình lang gửi
sóng tình nương.
… Hai cõi chênh
nhau một góc ngày
Trăng lên phương
đó, lặn phương này
Đôi ta chẳng thể
cùng chung bóng
Mà tiếc vầng
trăng đẹp tối nay.
Ai gạt dùm ta
trục địa cầu
Xiên về bên trái
của châu Âu?
Để ta chung một
vòng kinh tuyến
Khỏi bị Thời Gian
chia rẽ nhau.
Việt
Nam và Bỉ cách nhau 7 múi giờ. Khi trăng lên ở Bỉ thì ở Việt Nam trăng đã lặn.
Vũ Hoàng Chương đã đưa ra một ý mang hiểu biết của thời đại mới: Hai người
không thể cùng một lúc ngắm trăng vì giờ giấc khác nhau. Nhưng với kiến thức về
khoa học và địa dư, ông ước mong có thể gạt trục địa cầu qua phía trái của châu
Âu để nước Bỉ và Việt Nam chung một đường kinh tuyến. Hai nước sẽ chung một múi
giờ, thời gian không ngăn cách hai người được nữa.
Tập
thơ Cảm Thông có nhan đề Anh ngữ là Communion. Các bài thơ trong tập đều có
bản dịch sang tiếng Anh của giáo sư Nguyễn Khang, một bạn thân của thi sĩ Vũ
Hoàng Chương. Ba bài trong tập ấy có bản dịch sang tiếng Pháp do nữ thi sĩ
Simone Kuhnen de la Coeuillerie, cũng là một đại biểu của nước Bỉ trong Hội nghị
Quốc tế về Thơ. Đó là các bài “Vườn hoa bể Bắc” (để chào mừng Hội nghị), “Bài
ca dị hỏa,” và “Công chúa Paris.”
Trong
tập Thi Tuyển (Poèmes Choisis) in năm
1963 cũng có một số tranh phụ bản của Ysabel.
Trong
tập Cành Mai Trắng Mộng, số đặc biệt phát
hành tháng 11 năm 1968 của nguyệt san Văn
Uyển, Vũ Hoàng Chương cho in hai bài cùng được ghi là “Xa tặng Y Sa.” Bài
thứ nhất là “Mộng chim liền cánh,” ông làm năm 1963.
Với
tâm trạng “Đêm đêm nhìn ảnh mơ người,”
ông mở những tấm bưu thiếp nhận được từ Ysabel, đọc lại lời nàng viết về những
nơi nàng đã đi qua (Paris, London, Rome, vùng bờ biển Côte d’Azure nước Pháp, khu
trượt tuyết trên sườn Mont Blanc giữa Pháp và Thụy Sĩ), tưởng tượng ra bóng
dáng cùng những hoạt động của nàng:
Nằm đây dõi bước chân
ai,
Cánh bưu hoa nở
dấu hài lãng du
Ba Lê đẹp áo vàng
thu
Mặt trời La Mã,
sương mù Luân Đôn
Bờ Thiên Thanh
lắng hoàng hôn
Đổ xuôi Bạch Lĩnh
tâm hồn tuyết băng.
Bài
thơ cũng chứa đựng những lời nhớ mong tha thiết:
Hỡi ôi cô gái
tròn trăng
Duyên bèo mây lại
kết bằng tóc tơ
Ba năm một mối
tình thơ
Núi trông mây,
bến còn mơ tưởng bèo
Tình chưa nổi
sóng mà xiêu
Biết ai nhớ ít
thương nhiều hơn ai?
và:
Cách nhau mười
chín giờ bay
Mà không liền
cánh chim này được ư?
Hình
như Vũ Hoàng Chương chỉ liên lạc được với Ysabel đến trước tháng 4 năm 1967.
Bài thơ thứ hai với lời ghi tặng nàng trong Cành
Mai Trắng Mộng có thêm lời chú “Sàigòn, tháng Tư 1967” và mang nhan đề
“Công Chúa Mười Lăm,” được mở đầu bằng những câu:
Công Chúa Mười
Lăm, nàng ở đâu?
Tìm nàng, thôi đã
nát Âu-châu.
Ba-lê, Nhã-điển
hay La-mã
Đâu cũng rêu in
lệnh Miễn Chầu.
Vũ
Hoàng Chương cho biết đã hỏi tin về nàng hầu khắp châu Âu (“Nhã-điển” là lối
phiên âm Hán Việt được thông dụng thời trước cho Athens, thủ đô của Hi Lạp),
nhưng không hề nhận được tin tức. Hình như nàng đã mất tung tích:
Ngơ ngác rừng xưa
đá chập chùng,
Nơi nào Cửa
Khuyết hỡi Mê-cung?
Nàng đi mang cả
hồn Thi, Họa,
Trời biển nằm trơ
mấy mảnh khung.
Ta biết nàng đi
chẳng một về,
Tìm ai Nhã-điển với
Ba-lê?
Mấy phen La-mã
ghì vân thạch,
Tượng ngủ không
bay gợn tóc thề.
… Hòa-lan,
Đan-mạch nắng vàng thu
Đôi bạn tình xưa
phút mộng du.
Hài gấm chỉ còn
ta nhận dấu,
Chừ xuân ngăn
ngắt tím sa mù...
Ngẩng nhìn: Sông
Bạc chẳng mưa tuôn,
Châu Á khuya nay
đọng khối buồn.
Thăm thẳm mấy
phương lòng rạn vỡ,
Sao trời nhân lệ
một thành muôn.
Trong
câu “Ngẩng nhìn Sông Bạc” chắc Vũ
Hoàng Chương muốn nói đến Ngân Hà (Đêm
đêm tưởng dải Ngân Hà). Ông thấy “Thăm
thẳm mấy phương lòng rạn vỡ” vì các bạn của ông ở châu Âu không ai cung cấp
được tin tức gì về Ysabel nữa:
Hai mươi mốt tuổi
nét xuân đằm
Nàng bỏ trời Âu
tuyệt bóng tăm …
Khi dự Hội nghị Quốc tế về thơ năm 1959,
Ysabel được 15 tuổi. Như thế nhiều phần nàng sinh năm (1959 – 15) 1944. Năm
nàng 21 tuổi hẳn là năm (1944 + 21 =) 1965. Hai năm sau (1967),
nhà xuất bản J. Grassin ở Paris xuất bản tập thơ thứ hai của nàng. Tập thơ có nhan
đề rất lạ: J’avais fermé les yeux
(Paris : J. Grassin, 1967).
Động
từ “nhắm mắt” (fermer les yeux) được để ở thì quá khứ kép, Plus-que-parfait
(nhiều hơn là quá khứ). Trong Pháp văn, thì này được dùng khi nói đến một việc
xảy ra trước một việc khác trong quá khứ, tương đương với thì Past perfect
trong tiếng Anh. Nhan đề trên có thể hiểu là: “Tôi đã nhắm mắt từ trước đó.” Với
nhan đề như thế, phải chăng những người xuất bản muốn nói: Tập thơ được xuất bản
(năm 1967) sau khi tác giả qua đời. Trong câu thơ được dẫn phía trên, Vũ Hoàng
Chương đã cho biết “Nàng bỏ trời Âu tuyệt
bóng tăm” năm 21 tuổi, tức là năm 1965.
Mười Hướng Sao là
một hợp tuyển do Cơ sở xuất bản Nhân Chứng chọn lọc, in năm 1971 ở Sàigòn với
tác phẩm của 10 nhà thơ: Vũ Hoàng Chương, Hoàng Trúc Ly, Thanh Tâm Tuyền, Phạm
Công Thiện, Trần Thị Tuệ Mai, Cao Tiêu, Tô Thùy Yên, Bùi Giáng, Hoàng Hương
Trang, Lê Phổ Đức. Trong tập này Vũ Hoàng Chương chỉ đưa in ba bài: “Ngấn lệ
trăng soi,” ông làm để tưởng niệm Nguyễn Du; “Ấm lạnh,” ông viết về mối tình đầu
đã tan vỡ; và “Mộng chim liền cánh,” ông làm năm 1963 để tặng Ysabel.
Đọc
lại lần thứ hai sau khi được biết “Công Chúa Mười Lăm” đã “bỏ trời Âu tuyệt
bóng tăm,” chúng ta thấy nhiều câu trong bài mang ý nghĩa thê lương, tha thiết:
Đêm đêm nhìn ảnh
mơ người,
Đến mòn da phấn,
môi cười nhòa hương
Ảnh treo dần khắp
bốn tường
Siết vòng vây,
một góc giường đảo hoang
Sóng thu giợn ánh
hồi quang
Gối chăn bốc lửa,
sầu loang canh dài…
Internet
hiện nay (tháng 12-2018) cũng không cung cấp thêm nhiều thông tin về Ysabel
Baes. Chúng ta chỉ biết nàng có một cuộc triển lãm tranh tại Galérie Portenant ở
Bruxelles năm 1963 như trên đã nói, và hai thi tập được xuất bản như đã liệt
kê. Với một nhà thơ có thi tập được Maison du Poète của Bỉ xuất bản và được cử đại
diện đất nước trong một Hội nghị Quốc tế về Thơ năm 15 tuổi, với một họa sĩ có
tranh được triển lãm ở thủ đô Bruxelles năm 19 tuổi, sau tập thơ thứ hai xuất bản
năm 1967, trên Net và trong WorldCat (thư mục thế giới) không có thông tin nào mới
hơn về nàng. Trên đất Mỹ, tập J’avais
fermé les yeux hiện được giữ ở Library of Congress và các thư viện của
Cornell, Columbia, UC Berkeley. Trên đất Pháp, tập thơ ấy được giữ ở Thư viện
Quốc gia (Bibliothèque nationale de France):
Muốn
hiểu thơ Vũ Hoàng Chương một cách đầy đủ, thiết nghĩ những người nghiên cứu nghiêm
túc cũng nên tìm kiếm và chịu khó đọc tập thơ ấy. Hi vọng nội dung một số bài
trong tập cùng lời Tựa, lời Bạt, hay “Ít dòng của nhà xuất bản” sẽ có thể cho
chúng ta biết chuyện gì đã xảy ra cho Ysabel. Cũng nên tìm đọc lại báo chí Âu
Châu, nhất là báo chí Bỉ, giữa thập niên 1960.
Có
vẻ Vũ Hoàng Chương cũng không biết một cách đích xác chuyện gì đã xảy ra cho
Ysabel. Ông chỉ buồn, thấy lo ngại, và có linh cảm về một điều không lành:
Ai hay một sớm tự
non Sầu
Ngập gió bay ra
lệnh Miễn Chầu.
Cánh quạ nối
hàng, đen khủng khiếp:
Tin nàng Công
Chúa bỏ rừng sâu.
… Nàng ôi, Nàng
ôi, Ta mơ chăng?
Biển Đông biển
Tây đều biển băng!
Thôi rồi...! ta
không còn dám nghĩ
Tiếng ấy chim
trời hay cá săng…
Có
lẽ chỉ sau người yêu đầu đời của ông, Ysabel (mà Vũ Hoàng Chương gọi là Y Sa)
là người bạn ở phái nữ được Vũ Hoàng Chương nghĩ đến với những tình cảm tha thiết
nhất. “Công Chúa Mười Lăm” là một bài thơ dài với 40 phân đoạn, mỗi đoạn 4 câu thơ
thất ngôn. Toàn bài có 160 câu thất ngôn. Ông tự giới thiệu bằng một ý khá đặc
sắc:
Ta mỏi đi hoang
chín kiếp dài,
Áo thêu rồng
phượng rách chông gai.
Nhớ năm xưa đến
khu Rừng Cấm,
Lục địa già nua
bỗng đẹp trai.
Kiếp thứ mười nên
bước đã chồn
Ta gieo mình
xuống thảm hoàng hôn,
Ngủ chung giấc
ngủ nàng Công Chúa
Mơ tuổi Mười Lăm
biếc lại hồn.
Vũ
Hoàng Chương nghĩ đến nàng như đến một nhân vật trong cổ tích thần thoại của
Tây phương, vị “công chúa ngủ trong rừng”:
Nàng say sưa ngủ
dưới trời sao …
Ông
tưởng tượng sau khi hết kiếp sẽ hồi sinh, sẽ đến rừng của Thơ và Họa ngủ một giấc
dài, rồi khi tỉnh thức sẽ được gặp lại nàng:
Một gửi xương da
vách huyệt mềm,
Thịt hao mòn, có
Đất cho thêm.
Cả tâm, thân, lại
đầy phong độ,
Ta sẽ hồi sinh
đúng nửa đêm.
Kiếp thứ mười hay
mười một ư?
Cần chi! Rồng
phượng áo chưa hư!
Sông Xanh, núi
Trắng, rừng Thi Họa
Ta đến phen này
kết thảo lư.
Và ta nằm xuống
thảm bình minh
Ngủ giấc sâu hơn
biển Thái Bình.
Công Chúa Mười
Lăm về cạnh đó,
Thay ngôi Chủ
Khách... lại càng xinh…
Công Chúa Mười
Lăm chẳng bỏ ngôi,
Ra đi là để tới
đây thôi?
Cùng ta xum họp
muôn ngàn kiếp;
Chỗ hết
Thời-gian, đích phản hồi?
Vũ
Hoàng Chương cũng tưởng tượng rằng khi gặp lại Y Sa như thế, nàng đã rất thân
thuộc với cảnh sắc Việt Nam:
Nàng uốn mình tơ
dưới áo lông:
"Sông Xanh
nào có khác sông Hồng!
Núi Đen, núi
Trắng nguyên là một;
Kiếp thứ mười sao
chưa cảm thông?"
Vũ
Hoàng Chương nhớ lại thi tập Cảm Thông
(Communion) với hai bài thơ về nàng và những tranh phụ bản của nàng:
Cảm Thông? Hai
chữ nhớ thương đầy;
Thi Họa duyên nào
gốc ở đây?...
Ta vội mở trang
Tình Sử cũ;
Ôi, màu vẽ Tuyết,
ý thơ Mây!
Tình Sử ai ghi?
chuyện xứ nào?
Mộng vàng đôi lứa
sẽ ra sao?
Tay nâng trang
sách, ta nhìn xuống:
Nàng chợt như tia
nắng rụng vào!
Ông
xé đôi những tranh minh họa để Thơ trở về với Mộng, vì khi ở trong Mộng thì sự
ngăn cách của Không gian không còn giá trị nữa:
Chẳng chút hồ nghi,
ta xé đôi
Trang minh họa ấy
để về ngôi...
Vì Thơ đến lúc
nguyên hình Mộng
Uy lực Không-gian
đã hết rồi.
Trong
dư âm của Thi và Họa, Vũ Hoàng Chương sẽ khắc khoải gọi tìm nàng:
Quên hết ngôn từ,
chữ với câu:
Vần phai theo
bóng, nét theo màu.
Dư âm Thi Họa
riêng còn chút:
Có
người cho rằng từ Y SA, cách Vũ Hoàng Chương gọi Ysabel, có thể đảo thành SAY,
trong khi “Chàng Say” là biệt hiệu Vũ Hoàng Chương đặt ra để tự gọi mình. Nếu
đúng như thế, vị “Tam ngũ thường nga bất
nhiễm trần” của nước Bỉ năm 1959, nàng “Công Chúa Mười Lăm” quả có một địa
vị trọng yếu và đã chiếm được những tình cảm thật sâu đậm trong thơ Vũ Hoàng Chương.
Ông đã viết vì nàng và cho nàng những vần thơ vượt không gian và thời gian. Bài
“Thanh bình điệu” của Lý Bạch đã sống lâu hơn Dương Quý phi. Những vần thơ Vũ
Hoàng Chương viết về Y Sa sẽ làm Ysabel sống mãi.