TAM QUỐC
三 國
( 220 CN - 280
CN)
Tôi không nhớ rõ tôi đọc Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa của La
Quán Trung lần đầu tiên vào năm nào và
do ai dịch.
Nhưng gần đây có độc giả đặt câu hỏi: Ai là người đầu
tiên dịch tiểu thuyết Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa của La Quán Trung sang tiếng Việt
?
Câu hỏi này cũng gợi trí tò mò hiếu kỳ của tôi, nên tôi
muốn tìm hiểu cho rõ thêm.
1-Thời
Tam Quốc
Tam Quốc (220CN-280CN) là một giai đoạn lịch sử của Trung
Quốc, khoảng cuối thời nhà Hán, và đầu triều nhà Tấn.Trong đoạn thời gian này
từng xuất hiện ba nước là
Tào Nguỵ, Thục Hán và Đông Ngô.
Chúng tôi mạo muội xin trích một vài số liệu từ cuốn
“Trung Quốc Niên Biểu 中 國 年表 ”của chúng tôi như dưới đây:
-Năm 220 CN, Thừa Tướng nhà Hán là Tào Phi bức vua Hán
Hiến Đế nhường ngôi cho mình, định đô ở Lạc Dương lấy quốc hiệu là Nguỵ, sử gọi
là Tào Nguỵ, đánh dấu chính thức cho sự chấm dứt của nhà Hán. Nhà Tào Nguỵ trải
5 đời vua ( 220-265) tồn tại 46 năm.
-Năm 221 CN, Lưu Bị xưng đế, đóng đô ở Thành Đô, sử gọi
là Thục Hán.
Nhà Thục Hán
2 đời vua (221-263) tồn tại 43 năm.
-Năm 229 CN, Tôn Quyền xưng đế, đóng đô ở Kiến Nghiệp,
quốc hiệu là Ngô, sử gọi là Đông Ngô.
Nhà Ðông Ngô trải qua
4 đời vua (222-280) tồn tại 59
năm.
-Từ năm 190 CN, chế độ chính quyền trung ương tập quyền
của nhà Hán bị suy đồi, đổ nát, bọn quân phiệt đua nhau nổi dậy cát cứ, thiên hạ rơi vào tình
trạng đại loạn.
-Đến năm 208, Tào Tháo bị liên minh quân sự Lưu Bị và Tôn
Quyền đánh bại ở trận Xích Bích, từ đó manh nha ra thế “tam quốc đỉnh lập”, ba
nước thành lập.
Trong thời gian này, Gia Cát Lượng và Khương Duy của nhà Thục Hán nhiều lần đem quân bắc phạt
nhà Tào Nguỵ, nhưng không thành công.
Thực quyền của chính quyền Tào Nguỵ bị Tư Mã Ý khống chế.
- Năm 265 CN, Tư
Mã Viêm diệt nhà Nguỵ xưng đế, lấy quốc hiệu là Tấn, đóng đô ở Lạc Dương (nay
thuộc tỉnh Hà Nam ), sử gọi là Tây Tấn.
Ðến năm 280 CN, Tư Mã Viêm diệt nốt Ngô, thống nhất toàn
quốc, chấm dứt cục diện Tam Quốc (220CN-281CN), tồn tại 61 năm.
2-
Truyện Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa
三國志演義
Tam Quốc Chí Diễn
Nghĩa 三国志演义có tên gọi trọn vẹn đầy đủ là Tam Quốc Chí Thông Tục Diễn Nghĩa 三国志通俗演义của tiểu thuyết gia La Quán Trung, người thời Nguyên mạt Minh sơ sáng tác. La Quán
Trung đã căn cứ vào “Tam Quốc Chí” của Trần Thọ và Bùi Tùng Chi chú giải,
cùng với những truyền thuyết cố sự trong dân gian, rồi trải qua bút pháp điêu
luyện viết thành một tác phẩm “trường biên chương hồi lịch sử diễn nghĩa tiểu
thuyết”.
Tam Quốc Chí Diễn
Nghĩa, cùng với ba truyện Tây Du Ký, Thuỷ Hử Truyện, Hồng Lâu Mộng được
coi là Tứ đại kỳ thư trên văn đàn văn học Trung Quốc.
Sau khi ra đời vào
năm Nhâm Ngọ (1522) đời vua Gia Tĩnh, Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa có nhiều khắc bản
khác nhau.
Đến thời Minh mạt
Thanh sơ, Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa được Mao Tôn Cương chỉnh lý hồi mục, tu sửa
ngôn từ, sửa đổi thi văn, bàn luận, trở thành bản có giá trị cao nhất được phổ
biến, lưu truyền lúc bấy giờ.
Tam Quốc Chí Diễn
Nghĩa có 120 hồi, đại thể phân làm 5 bộ phận chính:
-Hoàng Cân Khởi
Nghĩa.
-Đổng Trác Chi Loạn.
-Quần Hùng Trục Lộc.
-Tam Quốc Đỉnh Lập.
-Tam Quốc Qui Tấn.
Miêu tả gần một
trăm năm lịch sử loạn lạc, các lãnh chúa cát cứ tranh hùng, các cuộc đấu tranh chính
trị, quân sự, kinh tế, từ cuối đời nhà
Đông Hán đến đầu thời nhà Tây Tấn, giữa ba nhà Nguỵ, Ngô, Thục, và cuối cùng bị
Tư Mã Viêm tiêu diệt , thống nhất toàn quốc lập ra nhà Tây Tấn.
Tam Quốc Chí Diễn
Nghĩa là một bộ chương hồi tiểu thuyết, một bộ lịch sử tiểu thuyết đầu tiên,
trong văn học Trung Quốc, được xếp đứng đầu trong “tứ loại kỳ thư”.
Theo các nhà phê bình văn
học Trung Quốc nhận định, họ cho rằng mục đích chính của “Tam Quốc Diễn Nghĩa”
của La Quán Trung là “Tôn Hán Ức Tào”,
tôn sùng Lưu Bị là chính thống, đánh giá thấp
Tào Tháo chỉ là một kẻ gian thần mưu lược, soán nghịch.
Việc “xú hoá” hình ảnh Tào
Tháo, đã tạo cho hậu thế có người đọc Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa nổi cơn căm hờn,
cầm dao đâm vào hai chữ Tào Tháo trong sách. Ô hô! Ai tai! Đao bút quả là đáng
sợ thật.
Và La Quán Trung đã thành công với Tam Quốc Chí
Diễn Nghĩa; căn bản là dựa vào Tam Quốc Chí của Trần Thọ và Bùi Tòng Chi chú
cũng như các truyền thuyết, dã sử trong dân gian.
Chúng tôi cũng xin mạn phép được quanh co thêm đôi
diều.
Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa của
La Quán Trung được coi là “bộ chương hồi tiểu thuyết” đầu tiên trong lịch văn
học TQ. Hình thức này phát triển trên cơ sở “bình thoại” và “giảng sử”, tự thuật
những tình tiết của từng cố sự theo từng hồi. Mỗi hồi là một câu truyện tương
đối hoàn chỉnh, và độc lập, nhưng ở mỗi hồi, khi tình tiết của câu chuyện đạt
đến chỗ lý thú nhất, bỗng dưng dừng lại và dùng sáo ngữ quen dùng: “Muốn biết kết quả thế nào, xin xem hồi sau
sẽ rõ’’, để chấm dứt hồi đó, và để hấp dẫn câu độc giả.
Ngoài ra, khi bắt đầu mỗi hồi, thường có một câu
thơ, làm theo đối ngẫu, trình bầy cái nội dung chủ yếu của hồi đó. Đúng ra, tác
phẩm thoại bản Đại Đường Tam Tạng Thủ Kinh Thi Thoại đời Tống là tác phẩm đầu
tiên viết theo hình thức này.
Sang đến hai triều Minh và Thanh, thể tài này
được phổ biến rộng rãi, như Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, Thuỷ Hử Truyện, Hồng Lâu
Mộng, đều viết theo hình thức này. Và hình thức văn học này rất được quần chúng
ưa chuộng yêu thích.Trong truyện này, ở đầu mỗi hồi đều có một câu thơ. Hình
thức đặc biệt này có nguồn gốc từ tiền thân của nó là “Thoại bản” đời Tống mà
ra.
“Thoại bản 話本”, tức bản gốc mà người “ thuyết
thư nhân 說書人” (tức nghệ sĩ thuyết xướng cố
sự và lịch sử) kể truyện dùng làm bản để nhớ.
Mới đầu, “ thuyết thư nhân 說書人” không có nơi cố định, nghĩa là không có “rạp”, mà
thường phải di chuyển nơi đầu chợ, cuối xóm, rồi khua mõ đánh trống ầm ĩ để
chiêu dụ quần chúng qui tụ đến nghe. Mãi đến đời Tống, Thuyết thoại 說話 (một loại nghệ thuật, kể truyện và hát
xướng lưu hành vào thời kỳ Đường, Tống và thường kể những cố sự trong lịch sử
làm chính), mới trở thành chuyên môn và
có “rạp” cố định.
Để lôi cuốn thính giả đến nghe cho đông đảo, Thuyết thư nhân 說書人Người kể truyện trước khi kể vào chính văn, thì ngâm một câu thơ, hay một bài từ, hay kể một đọan chuyện nho nhỏ, nội dung liên quan đến bối cảnh của chính văn, khái quát chủ đề, tư tưởng của truyện sẽ kể.
Việc làm thơ mào đầu của mỗi hồi trong các chương
hồi tiểu thuyết như vậy, thời đó gọi là “Nhập Thọai 入話”.
Thoại Bản được lưu truyền từ cửa miệng
truyền đến các đời người sau qua bút mực. Do đó Thoại Bản Tiểu Thuyết 話本小說 phát triển thành Đoản Biên Bạch
Thoại Thông Tục Tiểu Thuyết 短諞白話通俗小說, và Giảng Sử Thoại Bản phát triển biến thành
Trường Biên Chương Hồi Tiểu Thuyết. Và Nhập Thoại, tức các câu thơ mở đầu
mỗi hồi, vẫn tiếp tục được giữ lại.
3-Về Tác giả La Quán Trung 羅 貫 中
La Quán Trung tên là Bổn, hiệu là Hồ Hải Tán Nhân, là thông
tục tiểu thuyết gia trứ danh thời Minh mạt, không rõ sống và chết năm nào. Ông
sống ước chừng vào khoảng thời gian Nguyên Thuận Đế và Minh Thái Tổ. Ông là
người Thái Nguyên (nay thuộc thành phố Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây), nhưng lại có
thuyết nói ông là người Tiền Đường (nay thuộc thành phố Hàng Châu tỉnh Chiết
Giang), nên đã có những thuyết khác nhau
về cuộc đời, năm sinh năm mất của ông, như:
*1330-1400
*1315-1385 hoặc 1388
*1310 -1380
La Quán Trung là người quả
giao, không hợp thế tục, chỉ có người bạn vong niên là Giả Trọng, tác giả
"Lục Quỷ Bạ Tục Biên". Ông sống trong một thời đại động loạn, từng ôm
chí phò tá đế vương để lập công nghiệp.Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa ông từng mỹ
hóa Lưu Bị là một vị minh chủ chính thống, và xú hoá Tào Tháo, cũng
như trong Triệu Thái Tổ Long Hổ Phong Vân Hội, ông ca tụng Triệu Khuông Dẫn
thành một vị hoàng đế hết lòng lo nghĩ đến sự cùng khổ của người dân, điều đó
cho thấy ông chịu ảnh hưởng của tư tưởng nho gia rất nhiều.Có thuyết cho rằng
ông từng là môn khách của Trương Sĩ Thành và là sư phụ của Thi Nại Am, cùng
họat động sáng tác với Thi Nại Am.
Ngoài ba tác phẩm hý kịch
"Triệu Thái Tổ Long Hổ Phong Vân Hội", "Tam Bình Chương Tử Khốc
Phỉ Hổ Tử", "Trung Chính Hiếu Tử Liên Hoàn Gían", La Quán Trung còn
là tác giả của năm cuốn thông tục tiểu thuyết "Tùy Đường Chí Truyện",
"Tàn Đường Ngũ Đại Sử Diễn Nghĩa", "Tam Toại Bình Yêu
Truyện", "Phấn Trang Lâu".
La Quán Trung được coi là
một nhà viết tiểu thuyết thông tục kiệt xuất trên văn đàn Trung Hoa. Những sáng
tác phổ biến kiến thức lịch sử Trung Quốc của ông có một tác dụng hết sức trọng
đại.Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, được phổ biến một cách rộng rãi, khắp trong nước,
người già, trẻ con, thành thị, thôn dã đều đọc, họ bàn tán, nói đến những nhân
vật trong Tam Quốc, qua các kịch bản, hí khúc, tạp kịch, Nguyên khúc.
Còn tại ngoại quốc cũng rất
được nổi tiếng, tại các nước Anh, Mỹ, Nga, Nhật, Cao Ly, Nam Dương, Thái Lan,
đều có bản dịch Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa.
4- Tam Quốc Chí Tại Việt Nam
Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa
cũng rất được hâm mộ ưa thích, và phổ biến một cách rất rộng rãi. Chẳng những
thế, Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa được nhiều người dịch ra tiếng Việt, và có những
tác giả dựa vào những cố sự trong đó để tạo ra những hí khúc, tuồng tích, hát
bộ, cải lương, viết ra những áng văn chương, những tác phẩm riêng biệt của mình.
Theo học giả Trung Quốc Vương Lệ Na 王丽娜, trong tác phẩm “Trung Quốc Cổ Điển Tiểu Thuyết Hí Khúc Danh Trứ Tại Ngoại Quốc” xuất bản năm 1984, 中國古典小说戏曲名著在国外 thì những tuồng tích, cải lương, hí khúc, hát bộ , đã ra chào đời trước những bản dịch.Và đặc biệt, có một bản dịch ra chữ nôm, do nhà tàng bản Quan Văn Đường khắc ván vào mùa đông năm Mậu Thân đời Duy Tân, tức năm 1908. Nội dung chỉ có 4 hồi, từ “Tam Cố Thảo Lư” đến “Đương Dương Trường Bản”, không nói rõ là bao nhiêu tờ.
Đặc biệt, có một bản dịch
Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa không phải sang tiếng Việt, mà dịch ra tiếng Pháp do
giáo sư Nghiêm Toản và và Louis Ricaud.
Cũng theo học giả Vương Lệ
Na, các tuồng tích, hát bộ, cải lương hí khúc, kịch bản, của Việt nam lấy đề
tài từ truyện Tam Quốc, được tổng kết là 21 đề tài. Chúng tôi xin liệt kê lại
như dưới đây:
a-Các kịch bản, hát bộ, tuồng tích của VN, phát triển
từ Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa
1-Lã Bố Sát Đinh Nguyên tác
giả Nguyễn Thành Long xuất bản tại Sài gòn năm 1910.
2-Triệu Tử Long Đương Dương
Trường Bản, tác giả Thông Khê xuất bản năm 1926 tại Sài Gòn.
3-Phụng Nghi Đình, tác giả
Trương Quang Tiên, xuất bản tại Sài gòn năm 1926, do nhà xuất bản Cổ Kim Xuất
Bản Xã.
4-Lưu Bị Cầu Hôn, tác giả
Nguyễn Hiền Phu, xuất bản tại Sài gòn năm 1929 do nhà xuất bản Cổ Kim Xuất Bản Xã.
5-Tam Quốc Hí Khúc, tác giả
Đặng Lễ Nghi, xuất bản tại Sài gòn năm 1929, do nhà xuất bản Cổ Kim Xuất Bản
Xã.
6-Quan Công Thất Thủ Hạ Bì,
tác giả Trần Phong Sắc, xuất bản năm 1929, tại Sài Gòn do Cổ Kim Xuất Bản Xã.
7-Triệu Tử Long Phò Á Đẩu,
tác giả Lê Sầm Sơn, xuất bản năm 1929, tại Sài Gòn do Cổ Kim Xuất Bản Xã.
8-Đương Dương Trường Bản,
không rõ tác giả, xuất bản năm 1934 tại Hà Nội, do nhà Thái Sơn Xuất Bản Xã.
9-Tam Quốc Hí Khúc, tác giả
Nguyễn Tấn Chiếu, xuất bản năm 1934 tại Hà Nội, do nhà Nam Mỹ Xuất Bản Xã.
10-Tư Đồ Mưu Đổng Trác Lã
Bố Hí Điêu Thuyền, tác giả Hoàng Thúc Khiêm, xuất bản năm 1936 tại Hà Nội, Thái
Sơn xuất bản.
11-Quan Công Phò Nhị Tẩu,
tác giả Thông Khê, xuất bản năm 1936 tại Sài gòn do Cổ Kim Xuất Bản Xã.
12-Quan Công Phục Hoa Dung
Đạo, tác giả Thông Khê, xuất bản tại Sài gòn năm 1936, do nhà Cổ Kim Xuất Bản
Xã.
13-Triệu Tử Long Đoạt Ấu
Chúa; tác giả Thông Khê, xuất bản tại Sài Gòn năm 1936, do nhà Cổ Kim Xuất Bản
Xã.
14-Lưu Bị Cầu Hôn Giang Tả,
tác giả Thông Khê, xuất bản tại Sài Gòn năm 1936 do nhà Cổ Kim Xuất Bản Xã.
15-Tam Anh Chiến Lã Bố Trảm
Hoa Hùng, tác giả Thông Khê, xuất bản tại Sài Gòn năm 1936 do nhà Cổ Kim Xuất
Bản Xã.
16-Tam Khí Chu Công Cẩn,
tác giả bất tường, xuất bản tại Sài Gòn năm 1936 do nhà Cổ Kim Xuất Bản Xã xuất
bản.
17-Trương Phi Thủ Thành,
tác giả Thông Khê, xuất bản tại Sài Gòn năm 1936 do nhà Cổ Kim Xuất Bản Xã.
18-Đại Chiến Mã Siêu Tào A
Man Cát Tu, tác giả Thông Khê, xuất bản tại Sài Gòn năm 1937 do nhà Cổ Kim Xuất
Bản Xã.
19-Phụng Nghi Đình, tác giả
Thông Khê, xuất bản tại Sài Gòn năm 1939 do nhà Cổ Kim Xuất Bản Xã.
20-Đào Viên Kết Nghĩa, tác
giả Nguyễn Thành Long, xuất bản tại Sài Gòn năm 1944.
21-Tam Quốc Hí Khúc, tác
giả Đinh Thái Sơn và Bồng Dinh, không rõ năm và địa điểm xuất bản.
Bảng tóm lược:
Tên Cố Sự |
Tác Gỉa |
Tên nhà Xuất Bản |
Năm Xuất Bản |
Tại |
Lã Bố Sát Đinh Nguyên |
Nguyễn Thành Long |
- |
1910 |
Sài gòn |
Triệu Tử Long Đương Dương
Trường Bản |
Thông Khê |
- |
1926 |
Sài gòn |
Phụng Nghi Đình |
Trương Quang Tiên |
Cổ Kim Xuất Bản Xã |
1926 |
Sài Gòn |
Lưu Bị Cầu Hôn |
Nguyễn Hiền Phu |
Cổ Kim Xuất Bản Xã |
1929 |
Sài Gòn |
Tam Quốc Hí Khúc |
Đặng Lễ Nghi |
Cổ Kim Xuất Bản Xã |
1929 |
Sài Gòn |
Quan Công Thất Thủ Hạ Bì |
Trần Phong Sắc |
Cổ Kim Xuất Bản Xã |
1929 |
Sài Gòn |
Triệu Tử Long Phò A Đẩu |
Lê Sầm Sơn |
Cổ Kim Xuất Bản Xã |
1929 |
Sài Gòn |
Đương Dương Trường Bản |
Không biết tác giả |
Thái Sơn Xuất Bản Xã |
1934 |
Hà Nội |
Tam Quốc Hí Khúc |
Nguyễn Tấn Chiếu |
Nam Mỹ Xuất Bản Xã |
1934 |
Hà Nội |
Tư Đồ mưu Đổng Trác : Lã Bố Hí Điêu Thuyền |
Hoàng Thúc Khiêm |
Thái Sơn Xuất Bản Xã |
1936 |
Hà Nội |
Quan Công Phò Nhị Tẩu |
Thông Khê |
Ni Kim Sơ Xuất Bản xã |
1936 |
Sài Gòn |
Quan Công Phục Hoa Dung Đạo |
Thông Khê |
Ni Kim Sơ Xuất Bản xã |
1936 |
Sài Gòn |
Triệu Tử Long Đoạt Âú Chúa |
Thông Khê |
Ni Kim Sơ Xuất Bản xã |
1936 |
Sài Gòn |
Lưu Bị Cầu Hôn Giang Tả |
Thông Khê |
Ni Kim Sơ Xuất Bản xã |
1936 |
Sài Gòn |
Tam Anh Chiến Lã Bố-Trảm Hoa Hùng |
Thông Khê |
Ni Kim Sơ Xuất Bản xã |
1936 |
Sài Gòn |
Tam Khí Chu Công Cẩn |
Không rõ tác giả |
Ni Kim Sơ Xuất Bản xã |
1936 |
Sài Gòn |
Trương Phi Thủ Thành |
Thông Khê |
Ni Kim Sơ Xuất Bản xã |
1936 |
Sài Gòn |
Đại Mã Mã Siêu-Tào A Man Cát Tu |
Thông Khê |
Ni Kim Sơ Xuất Bản xã |
1937 |
Sài Gòn |
Phụng Nghi Đình |
Thông Khê |
Ni Kim Sơ Xuất Bản xã |
1939 |
Sài Gòn |
Đào VIên Kết Nghĩa |
Nguyễn Thành Long |
Bảo Tồn Ấn Loát
xuất bản |
1944 |
Sài Gòn |
Quan Công Thất Thủ Hạ Bì |
Nguyễn Thành Long |
Bảo Tồn Ấn Loát
xuất bản |
1944 |
Sài Gòn |
Tam Quốc Hí Khúc |
Đinh Thái Sơn |
Không rõ |
Không rõ |
Không rõ |
b-Các dịch giả Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa sang Việt ngữ.
Cũng theo học giả Vương Lệ Na, thì Việt Nam bắt
đầu dịch Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa khởi
thuỷ từ năm 1908. Đó là bản dịch ra chữ Nôm mà chúng tôi đã nhắc ở trên.
Nhưng nếu tính từ năm 1918 đến
năm 1972, cũng theo tác giả, thì chúng ta có 7 bản dịch Tam Quốc Chí
Diễn Nghĩa khác nhau.
Xin liệt kê như sau :
1-Bản Nguyễn An Khương, dịch năm 1918, xuất bản
tại Sài Gòn do Nông Cổ Mín Đàm xuất bản, không rõ số hồi.
(農賈茗談;
nghĩa là "uống trà bàn chuyện làm ruộng và đi buôn"), cũng có tên tiếng Pháp là Causeries sur l’agriculture et le commerce
là tờ báo tiếng Việt do
Paul Canavaggio - một chủ đồn điền và thương gia người đảo Corse,
hội viên Hội đồng
Thuộc địa Nam Kỳ làm chủ nhiệm, chủ bút lần
lượt là các ký giả Dũ Thúc Lương Khắc Ninh, Gilbert Trần
Chánh Chiếu, Nguyễn Chánh Sắt.
Nông Cổ Mính Đàm bàn về nông nghiệp và thương nghiệp,
phát hành thứ năm hằng tuần tại Sài Gòn bằng chữ Quốc ngữ. Số
1 ra ngày 1 tháng 8 năm
1901.
Một thời gian sau báo được xuất bản một tuần 3 kì. Sau khi phát hành số ra ngày
4 tháng 11 năm
1921 thì báo bị đình bản. Đây được coi là tờ báo kinh tế đầu tiên bằng chữ quốc
ngữ. Chữ Mín âm hán việt là mính茗, nghĩa là trà, miền Nam đọc là mín.
2-BảnTam Quốc Chí Diễn Nghĩa Toàn dịch của Phan Kế
Bính, xuất bản năm 1923 tại Hà Nội, bản này về sau từng được học giả Bùi Kỷ
hiệu đính. Năm 1959, bản này lại được nhà xuất bản Phổ Thông in lại tại Hà Nội.
Năm 1962 lại được tái bản
và năm 1972 do nhà xuất bản Khai Trí ở Sài Gòn in lại, sự hiệu đính của Bùi Kỷ
đã đem lại cho nguyên tác nhiều sửa chữa.
3-Bản dịch
Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa của Nghiêm Xuân Lãm, do nhà xuất bản Tân Dân
tại Hà Nội năm 1931, nội dung từ hồi thứ nhất đến thứ sáu mươi sáu.
4- Bản dịch
Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa của Vũ Hy
Tô, do
nhà xuất bản Phú Văn Đường tại Hà Nội năm 1957, nội dung từ hồi thứ nhất đến
thứ mười bẩy.
5- Bản dịch
Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa của Lê Sơn, do báo Tiền Tiến tại Hà Nội xuất bản năm
1957, nội dung từ hồi thứ nhất đến thứ mười bẩy. Bản này có lời bình của Mao
Tôn Cương.
6- Bản dịch
Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa của Phan Quân, do nhà sách Khai Trí xuất bản
tại Sài Gòn năm 1962.
7-- Bản dịch Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa của Nguyên Huấn Lãm,
do Khai Trí xuất bản năm 1972 tại Sài Gòn.
8- Chúng tôi xin liệt kê thêm bản dịch của Tử Vi Lang (còn bút danh là Thầy
Gòn), đăng hàng ngày trên Báo Ngôn Luận, từ hồi thứ nhất đến hồi một trăm hai
mươi, cuối mỗi hồi đều có lời bàn của Kim Thánh Thán, văn chương điêu luyện,
lưu loát, rất được độc giả Sài Gòn thời bấy giờ hâm mộ, tìm đọc, khen là một bản dịch hay
nhất. Bản này do cơ sở Ngôn Luận bản năm 1961 và năm 1962 tái bản.
Bảng tóm lược:
Số |
Tên Dịch Giả |
Tên nhà Xuất Bản |
Năm Xuất Bản |
Tại |
1 |
Nguyễn An Khương |
Nông Cổ Mín Đàn |
1918 |
Sài Gòn
|
2 |
Phan Kế Bính-Bùi Kỷ hiệu
đính |
|
1923 |
Hà Nội |
3 |
Nghiêm Xuân Lãm |
Tân Dân |
1931 |
Hà Nội |
4 |
Vũ Hy Tô |
Phú Văn Đường |
1957 |
Hà Nội |
5 |
Lê Sơn |
Tiểu Thuyết |
1957 |
Hà Nội |
6 |
Phan Quân |
Khai Trí |
1962 |
Sài Gòn |
7 |
Nguyên Huấn Lãm |
Khai Trí |
1972 |
Sài Gòn |
8 |
Tử Vi Lang |
Ngôn Luận |
1961-1962 |
Sài Gòn |
*****
Gần đây, nhân có dịp lang
thang rong chơi bên lề những trang mạng, chúng tôi có nhặt được một tin vui vui
lý thú, liên quan đến các bản dịch Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa. Đại để mục đích:
Quyển Tam quốc diễn nghĩa chữ quốc ngữ sớm nhất tại
Việt Nam do Nguyễn Liên Phong dịch, ấn hành năm 1907 vừa được trưng bày đặc
biệt tại nhà sách Cá Chép (223 Nguyễn Thị Minh Khai - Q1) từ ngày 9-4
Thông tin trên, cho độc giả
biết người dịch Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa đầu tiên cách đây 109 năm là dịch giả
Nguyễn Liên Phong, ấn hành năm 1907.
Đồng thời cũng giới thiệu
các bản dịch khác, các dịch giả khác, có đôi chi tiết khác biệt về năm xuất bản
so với tác giả Vương Lệ Na.
Như dưới đây :
-Bản Phan Kế Bính in năm
1909 do Nguyễn Văn Vĩnh hiệu đính.
-Bản Nguyễn An Cư do Tín
Đức Thư Xã in lần thứ hai năm 1928 và lần ba 1929
-Bản Nguyễn Chánh Sắt in
năm 1930
-Bản Nghiêm Xuân Lãm in năm
1933
- Bản Nghiêm Toản và Louis
Ricaud dịch ra tiếng Pháp
-Bản Từ Mỹ và Viên Đình lược
thuật in ngày 14-4-1975, được coi là bản Tam Quốc cuối cùng.
***