秦婦吟 韋莊1.中和癸卯春三月,洛陽城外花如雪。Trung
hoà quý mão xuân tam nguyệt, lạc
dương thành ngoại hoa như tuyết. lục dương tiễu tiễu
hương trần diệt. độc hướng lục dương
âm hạ tiết. Phượng trắc loan y mấn
cước tà, hồng toàn đại liễm
my tâm chiết. Hàm tần dục ngữ thanh
tiên yết. 5.回頭斂袂謝行人,喪亂漂淪何堪說!Hồi
đầu liễm mệ tạ hành nhân, táng loạn phiêu luân
hà kham thuyết! y hy ký đắc tần
trung sự. thiếp diệc dữ quân
đình ngọc chỉ. chính bế kim lung giáo
anh vũ. nhàn bằng điêu lan
dung bất ngữ.20 10.忽看門外起紅塵,已見街中擂金鼓。Hốt
khán môn ngoại khởi hồng trần, dĩ
kiến nhai trung lôi kim cổ. triêu sĩ quy lai thượng
nghi ngộ. 12.是時西面官軍入,擬向潼關為警急。Thị
thì tây diện quan quân nhập, nghĩ hướng Đồng Quan
vi cảnh cấp. 13.皆言博野自相持,盡道賊軍來未及。Giai
ngôn Bác Dã tự tương trì, tận đạo tặc quân
lai vị cập. 14.Tu
du chủ phụ thừa bôn chí, hạ mã nhập môn si
tự tuý. 適逢紫蓋去蒙塵,已見白旗來匝地。 15.Thích
phùng tử cái khứ mông trần, dĩ kiến bạch kỳ
lai tạp địa. thượng ốc duyên tường
bất tri thứ. 17.南鄰走入北鄰藏,東鄰走向西鄰避。Nam
lân tẩu nhập bắc lân tàng, đông lân tẩu hướng
tây lân tỵ. hộ ngoại băng đằng
như tẩu thú. 19.Oanh
oanh côn côn càn khôn động, vạn mã lôi thanh
tùng địa dũng. 20.火迸金星上九天,十二官街煙烘烔。Hoả
bính kim tinh thượng cửu thiên, thập
nhị quan nhai yên hồng đồng烔. thượng đế vô ngôn không
mạch mạch. Hoạn giả lưu tinh
như huyết sắc. yêu quang ám xạ đài
tinh sách. 24.家家流血如泉沸,處處冤聲聲動地。Gia
gia lưu huyết như tuyền phí, xứ xứ oan thanh
thanh động địa. 25.舞伎歌姬儘暗捐,Vũ
kỹ ca cơ tần ám quyên, 26.嬰兒稚女皆生棄。
anh nhi trĩ nữ giai
sinh khí. khuynh quốc khuynh thành
bất tri giá. tài thượng điêu yên
giáo tẩu mã. 31.西鄰有女真仙子,一寸橫波剪秋水。Tây
lân hữu nữ chân tiên tử, nhất thốn hoành ba
tiễn thu thuỷ.妝成只對鏡中春,年幼不知門外事。Trang
thành chỉ đối kính trung xuân, niên
ấu bất tri môn ngoại sự. Nhất phu khiêu dược
thượng kim giai, tà đản bán kiên
dục tương sỉ. Khiên y bất khẳng xuất
châu môn, hồng phấn hương chi
đao hạ tử. tạc nhật lương môi
tân nạp sính. 琉璃階上不聞行,翡翠簾間空見影。 35.Lưu
ly giai thượng bất văn hành, phí thuý liêm gian
không kiến ảnh. Hốt khán đình tế
đao nhận minh, thân thủ chi ly tại
nga khoảnh. toàn sách vân hoàn
thức my lục. Dĩ văn kích thác
hoại cao môn, bất giác phan duyên
thượng trùng ốc. Tu du tứ diện hoả
quang lai, dục hạ hồi thê thê
hựu tồi. lương thượng huyền thi
dĩ tác hôi. bất cảm trì trù cửu
hồi cố. 旋梳蟬鬢逐軍行,強展蛾眉出門去。 Toàn sơ thiền mấn
trục quân hành, cường triển nga my
xuất môn khứ. lục thân tự thử vô
tầm xứ. 42.一從陷賊經三載,終日驚憂心膽碎。Nhất
tùng hãm tặc kinh tam tải, chung nhật kinh ưu
tâm đảm toái. triêu xan nhất vị nhân
can khoái. 44. Uyên
vi túng nhập khởi thành hoan? Bảo hoá tuy đa phi
sở ái. kỷ chuyển hoành ba
khán bất đắc. diện thượng
khoa công điêu tác tự. lan tỉnh
chư lang giai thử mị. Hoàn tương đoản phát
đới hoa trâm, bất thoát triều
y triền tú bị. 48.翻持象笏作三公,倒佩金魚為兩史。Phiên
trì tượng hốt tác tam công, đảo bội kim ngư vi
lưỡng sử. Triêu văn tấu đối nhập
triêu đường, mộ kiến huyên hô
lai tửu thị. 49.一朝五鼓人驚起,叫嘯喧呼如竊語。Nhất
triêu ngũ cổ nhân kinh khởi, khiếu khiếu
huyên hô như thiết ngữ. 50. Dạ
lai thám mã nhập hoàng thành, tạc nhật quan quân
thu Xích Thuỷ. Xích Thuỷ khứ thành
nhất bách lý, triêu nhược lai hề
mộ ưng chí. 皆言冤憤此時銷,必謂妖徒今日死。 Giai ngôn oan phẫn
thử thì tiêu, tất vị yêu đồ kim
nhật tử. 逡巡走馬傳聲急,又道官軍全陣入。 52.Thuân
tuần tẩu mã truyền thanh cấp, hựu đạo quan quân
toàn trận nhập. 大彭小彭相顧憂,二郎四郎抱鞍泣。 Đại bành tiểu bành
tương cố ưu, Nhị lang Tứ lang
bão yên khấp. 53. Trầm
trầm sổ nhật vô tiêu tức, tất vị quân tiền
dĩ hàm bích. Bá kỳ điệu kiếm
khước lai quy, hựu đạo
quan quân tất bại tích. 四面從茲多厄束,一斗黃金一升粟。 54. Tứ diện tùng tư
đa ách thúc, nhất đẩu hoàng kim
nhất thăng túc. 55. Thượng Nhượng trù trung
thực mộc bì, Hoàng Sào cơ thượng
khuê nhân nhục. thất giá dinh trung
điền ngạ biễu. Phế thị hoang nhai
mạch miêu tú. Hoa hiên tú cốc
giai tiêu tán, giáp đệ châu môn
vô nhất bán. 昔時繁盛皆埋沒,舉目凄涼無故物。 Tích thì phồn thịnh
giai mai một, cử mục thê lương
vô cố vật. thiên nhai đạp tận
công khanh cốt! 62.來時曉出城東陌,城外風煙如塞色。Lai thì hiểu xuất
thành đông mạch, thành ngoại phong yên
như tái
sắc. 63.路旁時見遊奕軍,坡下寂無迎送客。Lộ bàng thì kiến
du dịch quân, pha hạ tịch vô
nghinh tống khách. Bá Lăng đông vọng
nhân yên tuyệt, thụ toả Ly Sơn
kim thuý diệt. hành nhân dạ túc
tường khuông nguyệt. 65.明朝曉至三峰路,百萬人家無一戶。Minh triêu hiểu chí
Tam Phong lộ, bách vạn nhân gia
vô nhất hộ. Phá lạc điền viên
đãn hữu hao, tồi tàn trúc thụ
giai vô chủ. Kim Thiên vô ngữ
sầu vu nhân. 67.廟前古柏有殘枿,殿上金爐生暗塵。Miếu tiền cổ bách
hữu tàn nghiệt, điện thượng kim lô
sinh ám trần. Án tiền thần thuỷ
chú bất thành, bích thượng âm binh
khu bất đắc. nguy thì bất trợ
thần thông lực. Ngã kim quý nục
chuyết vi thần, thả hướng sơn trung
thâm tỵ nặc. 70.寰中簫管不曾聞,筵上犧牲無處覓。Hoàn trung tiêu quản
bất tằng văn, diên thượng hy sinh
vô xứ mịch. Toàn giáo yểm quỷ
bàng hương thôn, tru bác sinh linh
quá triêu tịch. hà tu trách vọng
Đông chư hầu! 前年又出楊震關,舉頭云際見荊山。 73.Tiền niên hựu xuất
Dương Chấn Quan, cử đầu vân tế
kiến Kinh sơn. 如從地府到人間,頓覺時清天地閑。 Như tùng địa phủ
đáo nhân gian, đốn giác thì thanh
thiên địa nhàn. 74.陝州主帥忠且貞,不動乾戈唯守城。Thiểm Châu chủ suý
trung thả trinh, bất động can qua
duy thủ thành. Bồ Tân chủ suý
năng tập binh, thiên lý yến nhiên
vô khuyển thanh. mộ sáp kim thoa
duy độc hành. 76.明朝又過新安東,路上乞漿逢一翁。Minh
triêu hựu quá Tân An đông, lộ thượng khất tương
phùng nhất ông. 77. 蒼蒼面帶苔蘚色,隱隱身藏蓬荻中。Thương thương diện đới
đài tiển sắc, ẩn ẩn thân tàng
bồng địch trung. Vấn ông bản thị
hà hương khúc? Để sự hàn thiên
sương lộ túc? khước toạ chi di
ngưỡng thiên khốc. 80. 年輸戶稅三千萬。niên thâu hộ thuế
tam thiên vạn. 小姑慣織褐絁袍,中婦能炊紅黍飯。 Tiểu cô quán chức
hạt thi bào, trung phụ năng xuy
hồng thử phạn. Hoàng Sào quá hậu
do tàn bán. nhật dạ tuần binh
nhập thôn ổ. Hạp trung thu thuỷ
bạt thanh xà, kỳ thượng cao phong
xuy bạch hổ. Gia tài ký tận
cốt nhục ly, kim nhật thuỳ niên
nhất thân khổ. 84. Nhất thân khổ hề
hà túc ta, sơn trung canh hữu
thiên vạn gia. Triêu cơ sơn thượng
tầm bồng tử, dạ túc sương trung
ngoạ địch hoa! cánh nhật lan can
lệ như vũ. Xuất môn duy kiến
loạn kiêu minh, canh dục đông bôn
hà xứ sở?220 hựu đạo Bành Môn
tự tương sát. Hà tân bán thị
oan nhân huyết. Tru sừ thiết đạo
nhược thần công, huệ ái sinh linh
như xích tử. 230 phú thuế như vân
tống quân luỹ. trạm nhiên nhất cảnh
bình như chỉ. hoài an khước tiện
Giang Nam quỷ. July,
2021 |
Vi Trang- Đường Đại 1.Năm Quý Mão, Trung
Hòa thứ ba, tháng Ba mùa xuân, ngoài thành Lạc Dương tơ dương liễu bay như bông tuyết. 3.Bên đường chợt thấy
người đẹp như hoa, ngồi một mình nghỉ ngơi dưới bóng mát của dương
liễu. Mũ mạo
lệch lạc, đầu tóc rũ
rượi, mặt nhíu mày nhăn. 4.Hỏi rằng cô nương từ
đâu tới. Chau mày muốn nói nhưng lại nghẹn ngào. 5.Quay đầu chỉnh sửa
tay áo cảm tạ người hỏi, đau buồn ly loạn phiêu bạc nổi trôi làm
sao nói hết. 6.
Ba năm bị
giặc bắt đi theo ở lại đất Tần – chỉ Trường An. Tôi vẫn nhớ được
sự tình ở đó. 7.
Người có thể
vì tôi mà cởi yên, xuống ngựa, tôi cũng xin vì người mà dừng gót
ngọc kể lể khúc nôi. 8.Năm Canh Ty
trước, mùng năm tháng mười hai, đúng lúc đóng cửa lồng vàng dạy
chim anh vũ nói. 9. Đã mở hộp
gương trang điểm mà lười chảy đầu, nhàn nhã đứng tựa bao lơn lặng lẽ. 20 10.Chợt nhìn
thấy ngoài cổng cát bụi tung bay, đã thấy trên đường có người đánh
trống trận cấp báo. 11.Cư dân chạy ra
khỏi nhà thần sắc khẩn trương, quan viên triều đình về nhà vẫn còn
nghi ngờ nghe lầm. 12.Lúc đấy quan
quân từ phía Tây tiến vào thành, dự định đưa về Đồng Quan đối phó
tình hình khẩn cấp. 13.Lại nghe nói
quân Bác Dã ở kinh thành đã tự chống giữ, quân địch một thời gian
chưa tới kịp. 14.Trong khoảnh
khắc chủ nhân vì chạy trốn mà đến, xuống ngựa vào cửa người ngây
ngây như say rượu. 15.Nói vừa gặp
hoàng đế chạy ra khỏi kinh thành, đã thấy bạch kỳ của giặc giăng
khắp nơi. 16.Mọi người
dìu dắt người già yếu, trẻ em, đua nhau hô hoán, lên mái nhà, trèo
tường không kể thứ bậc. 17.Láng giềng phía
Nam chạy lên phía Bắc ẩn náu, cư dân hướng Đông chạy qua hướng Tây
lánh nạn. 18.Các phụ nữ
láng giềng hướng Bắc đều tụ họp. ngoài cửa binh mã rầm rộ như dã
thú chạy loạn. 19.Tiếng bánh xe
lăn ầm ầm làm chấn động trời đất, hàng vạn con ngựa hí như tiếng
sấm từ dưới đất phóng lên. 20. Lửa bùng
cháy ở Trường An lên tận chín tầng trời, mười hai con đường
lớn Trường An khói lửa cháy đỏ sáng
rực. 21. Mặt trời lặn
xuống hướng Tây ánh sáng lạnh lẽo, tẻ nhạt. Bầu trời không nói
năng gì chỉ nhìn chăm chăm. 22. Mây mù khí
ám trùng trùng vây bủa, sao băng Thái Giám đỏ như máu.- ý chỉ điềm
bất tường 23. Hoàng đế
chạy nạn, khí tím -đế vương khí -cũng di chuyển theo. Ánh sáng ma
quái ngầm chiếu, đài tinh – chỉ triều thần- bị hủy diệt. 24. Nhà nhà máu
chảy như suối phun, nơi nơi tiếng oan khuất vang động trời đất. 25. Kỹ nữ, ca nhi
âm thầm quyên sinh, 26. Bé trai bé
gái bị bỏ rơi mặc tình sống chết.. 27. Láng giềng
hướng Đông có con gái mày mới vẽ, sắc đẹp vô giá, nghiêng nước nghiêng
thành. 28. Cây mác dài
đẩy cô gái lên binh xa, quay đầu nhìn lại phòng khuê lệ đầy mặt. 29. Lập tức kéo
chỉ vàng học may cờ, lại bị đưa lên yên cho người dạy cỡi ngựa. 30. Có lúc ở
trên ngựa thấy phu quân, không dám ngoảnh mặt nhìn chỉ có lệ rơi. 31. Láng giềng
phía Tây có cô gái đẹp như tiên, Sóng mắt liếc ngang như nước mùa thu long lanh. Trang điểm xong chỉ ngắm nhìn trong gương, tuổi
nhỏ không biết sự việc xảy ra ngoài cửa. 32. Một tên lính
nhảy lên bậc thềm nhà cô, trật nửa vai áo cô ra muốn làm nhục. 33. Cô dằn co níu
kéo y áo không chịu ra khỏi nhà, thế là má phấn môi hồng chịu
chết dưới lưỡi đao. 34.Láng giềng
hướng Nam có cô gái không nhớ họ tên. Ngày hôm qua người mai mối mới
nạp sính lễ. 35. Trên thềm lưu
ly không nghe tiếng bước đi, trong rèm phỉ thúy chỉ thấy bóng dáng. Chợt thấy ngoài sân nhà có tiếng khua đao
kiếm.Trong chớp mắt đầu đã lìa khỏi thân mình. 36. Ngó lên trời
che mặt kêu khóc một tiếng, em gái và chị của cô đều cùng trốn xuống giếng. 37.Thiếu phụ
phía Bắc cảm thấy bức bối, lập tức gỡ trang sức trên búi tóc mây,
xóa đi mày xanh trang điểm. 38. Nghe được
tiếng đập gõ làm hư cánh cửa, không nghĩ suy leo lên mái nhà cao. Trong phút chốc bốn bề ánh lửa tới, muốn xuống
thang nhưng thang lại hư. 39. Ở trong khói
lửa kêu to cầu người cứu giúp, thi thể treo trên xà nhà đã thành
tro bụi. 40. Thiếp may mắn
thoát được hoạ đao cưa, không dám chần chờ ngoảnh mặt nhìn lâu.Lập
tức chảy đầu theo kiểu cánh ve sầu mà đi theo quân giặc.Gắng gượng
đưa mày liếc mắt mà đi ra cửa. 41.Quê cũ từ đó
không được trở về nữa, thân thích họ hàng không biết tìm kiếm nơi
đâu. 42.Một lần bị
cưỡng bức đi theo giặc trải qua ba năm, suốt ngày sợ hãi âu lo tan
nát lòng dạ. 43. Đêm nằm ngàn
lớp đao kiếm bủa vây, bữa ăn sáng chỉ có một vị là gan người băm
nhuyễn. 44. Buồng the ra
vào luông tuồng há có thể vui? Ngọc ngà châu báu tuy nhiều nhưng
không phải là thứ tôi yêu thích. 45. Quân giặc đầu
bù tóc rối, mặt mũi lấm lem, mày nhuộm đỏ au. Mấy lần liếc ngang
thấy không được mắt. 46. Áo quần xốc
xếch, tiếng nói lạ lùng, những người có công trên mặt xâm hình
khắc chữ. 47.Nhiều quan
viên trong Ngự Sử Đài, Lan Tỉnh là yêu quỷ chuột, cáo. Còn đem tóc ngắn mà cài trâm hoa, đi ngủ không
cởi triều phục mà đắp chăn gấm. 48. Làm quan tam
công mà không biết cái hốt để làm gì, lật qua lật lại. Làm quan
lưỡng sử mà đeo ngược kim bội cá vàng. Sáng nghe tấu biểu ứng đối trên triều, tối đến
người ta nhìn thấy họ kêu réo ồn ào trong tửu lầu, ngoài phố chợ. 49. Một
buổi sáng nổi lên năm tiếng trống khiến người người kinh hãi tỉnh
giấc, tiếng kêu, tiếng rú ồn ào cũng như tiếng
xì xào. 50. Đêm đến quân
dọ thám vào thành, cho biết ngày hôm qua quan quân triều đình đã
lấy được đất Xích Thủy. Xích Thuỷ
cách thành Trường An một trăm dặm, buổi sáng khởi hành thì buổi
chiều tới. 51. Bọn giặc hung
tợn ở trên lưng ngựa lén lút tức
tối nuốt giọng, các bạn gái trong khuê phòng âm thầm vui mừng. Tất cả đều nói những nỗi oan khiên phẫn uất
đến lúc chấm dứt rồi, tất nhiên là nói bọn yêu ma quỷ quái hôm nay
sẽ chết. 52. Trong chốc
lát có người cỡi ngựa đến truyền tin khẩn cấp, lại nói rằng quan
quân triều đình đã vào thành. Quân giặc cấp cao cấp thấp cùng lo âu, anh em của
Hoàng Sào ôm yên ngựa mà khóc. 53. Mấy ngày
lặng lẽ không có tin tức, tất nhiên là nói quân giặc đã đầu hàng. Ai ngờ bọn giặc vẫy cờ vung kiếm quay trở lại,
lại nói rằng quan quân tất cả đại bại. 54. Bốn mặt
Trường An bị vây khốn, một đấu vàng đổi một thăng lúa. 55. Trong nhà bếp
của Thượng Nhượng, thuộc hạ Hoàng Sào, chỉ có vỏ cây để ăn.Trên
bàn ăn của Hoàng Sào là thịt người cắt ra. 56.Đường vận
lương phía Đông Nam bị cắt đứt. Hang hố ngày càng đầy thây người
chết, người ngày càng ít. 57.Xác người
chết đói chất chồng ngoài cửa trại quân binh. Bảy dãy kệ trong
doanh trại chất đầy thây người chết đói. 58.Trường An yên
bình nay còn gì? Đường phố hoang vu, chợ búa bị bỏ phế lúa mạch
bắt đầu mọc lên. 59.Cây cối hoa
cỏ ở Hạnh Viên bị chặt để làm củi. Chỉnh sửa trại binh đốn liễu
ở thành Ngự Câu. Ngựa xe hoa mỹ sang trọng đều tiêu tan, phủ đệ
kiên cố, lầu son rực rỡ không tới một nửa. 60.Trên điện Hàm
Nguyên thỏ, chồn đi rong. Trước lầu Hoa
Ngạc đầy dẫy cây cỏ gai gốc. Thời phồn thịnh xưa đều bị vùi lấp Ngước mắt nhìn cảnh trí thê lương, không thấy
người, vật cũ. 61.Kho chứa bảo
vật gấm vóc trong hoàng cung bị đốt thành đống tro tàn, các con
đường trong đế đô đầy những hài cốt của công khanh quý tộc. 62.Có lúc buổi
sáng đi con đường trên thành phía Đông, ngoài thành gió cuốn khói
bay như cảnh sắc ở quan ải. 63.Bên đường thấy quân lính đi tuần tra, bên dưới
sườn đồi lặng lẽ không đón đưa khách viếng thăm. Nhìn về phía đông Bá Lăng, không bóng người,
bóng khói.
Ly Sơn cây cối xanh tươi nhưng lầu thúy đài vàng
không còn. 64. Đường lớn
đều trở thành rừng gai, người đi đường ban đêm ngủ ở chân tường vỡ bị bóng trăng
soi thấu. 65.Sáng hôm sau đến
đường Tam Phong, trăm ngàn mái nhà giờ không còn một mái.Ruộng vườn
bị phá hại chỉ có cỏ hao, vườn trúc không có chủ nhân chăm sóc xơ
xác úa tàn. 66. Bên đường thử
hỏi Kim Thiên Thần- Thần miếu trên núi Hoa Sơn - Thần không nói gì
cũng buồn như người. 67.Cội tùng
bách già trước miếu từng bị đốn gốc giờ đã nẫy cành con, lư hương
vàng trên chánh điện nhện giăng bụi bám. 68.Kể từ lần
bọn giặc điên cuồng chiếm trung tâm đất nước, chỉ Trường An, trời đất
hôn ám, mưa gió tối tăm.Yểm bùa vào nước thần trên bàn hương án
không thành, điều khiển âm binh trong tranh vẽ trên tường không được. 69. Lúc bình
thường thì hưởng dụng lễ vật người dân cúng tế, lúc nguy nan không
đem thần thông ra giúp đỡ cho dân được.Ta làm thần mà vụng về như
thế thật xấu hỗ, nên ta vào núi sâu mà ẩn trốn. 70. Trong miếu này của
ta, tiếng tiêu tiếng sáo không còn nghe nữa, tế phẩm trên chiếu không biết tìm đâu ra.Tạm thời sai
khiến lũ quỷ ếm bên cạnh thôn làng, hại chết chúng sinh để họ
cúng tế mà độ nhật. 71. Thiếp nghe
lời ấy buồn càng thêm buồn, trời khiến tai họa không phải tự con
người có thể làm gì. 72. Thần còn tìm
vào núi sâu lánh nạn, sao có thể kỳ vọng ở Đông Chư Hầu- phiên
trấn phía Đông của Hàm Cốc quan, ám chỉ Hoài Nam Tiết Độ Sứ Cao
Biền. 73. Năm trước lại
ra khỏi Đồng Quan, ngẩng đầu nhìn mây khói xa xăm thấy được Kinh
Sơn.Giống như từ địa ngục đến nhân gian, đột nhiên cảm thấy thời
khắc trời đất bình yên trong lành. 74.Chủ suý Thiểm Châu
trung thành lại liêm khiết, chỉ bảo vệ thành trì chứ không gây ra nạn
đao binh. Chủ súy Bồ Tân có thể kềm chế binh lính –không
để cho binh lính thừa cơ giặc giã nhiễu loạn dân chúng- Ngàn dặm bình
an không tiếng chó sủa. 75-Buổi sáng mang theo
vật quý trên đường không ai hỏi tới, buổi tối cài kim thoa chỉ đi
một mình. 76-Sáng hôm sau lại qua
phía đông Tân An, trên đường đi lúc xin nước uống gặp một lão ông. 77-Sắc mặt xanh
mét như rêu, lẫn trốn trong đám cỏ lau sậy. Hỏi ông vốn là người thôn làng nào, vì sao ngủ
ở trong đám lau sậy ngày trời giá rét sương sa? 78. Lão ông vừa
mới đứng dậy muốn nói, nhưng lại ngồi xuống, hai tay ôm má ngửa
đầu nhìn trời mà khóc. 79. Nói quê quán
của tôi Hương Viên huyện Đông Kỳ, hàng năm trồng dâu ở vùng ngoại ô,
mỗi năm trồng ruộng mầu mỡ hai trăm công, 80. đóng
thuế ba ngàn vạn. Cô gái nhỏ quen việc dệt vải may áo choàng,
thiếu phụ thường nấu cơm gạo kê đỏ. 81.Hàng ngàn kho
lẫm chứa vạn hộp tơ, giặc Hoàng Sào qua rồi còn lại một nửa. 82. Từ khi quan
binh kéo đến Lạc Dương trú đóng, ngày đêm binh lính tuần tra quấy
nhiễu thôn làng.Chúng rút kiếm ra khỏi vỏ sáng lóe, phất cao cờ
Bạch Hổ 83. Vào cửa
xuống ngựa như cơn gió lốc, làm trống rỗng nhà, trống rỗng túi như
cuốn đất.Tài sản không còn, cốt nhục ly tán. Bây giờ tuổi già một
thân khổ sở. 84. Một thân tôi
khổ có đáng kể gì, trong núi còn có thêm hàng ngàn hàng vạn gia
đình.
Buổi sáng trên núi đói thì tìm cỏ bồng ăn,
buổi tối ngủ giữa trời sương trong lau sậy. 85. Thiếp nghe lời thương tâm của ông lão ấy, suốt ngày bần thần
nước mắt như mưa. Ra cửa chỉ thấy chim cú kêu loạn, muốn đi chạy
trốn thêm về phía đông nhưng không biết đi đâu. 86. Những nghe
đường xe, thuyền về Biện kinh- Khai Phong không có,
lại nói Bành Thành đang có nội loạn, tướng lãnh tự tàn sát nhau. 87.Hồn phách
chiến sĩ lẫn khuất trong màu sắc thê lương nơi hoang dã. Nước bên bờ Hoàng hà phân nửa là máu kẻ chết
oan. 88.Vừa lúc nghe
khách ở Kim Lăng tới, nói rằng phong cảnh ở Giang Nam thì khác lạ. Từ khi giặc Hoàng Sào xâm phạm trung nguyên. Bốn bề chưa từng
xảy ra nạn binh đao. 89.Chủ soái ở
đó diệt trừ trộm cướp năng lực như thần. Yêu thương dân chúng như con
đỏ. 90. Thành quách,
hào lũy bảo vệ vững chắc. Thu thuế nhiều như mây cung cấp cho thiết
bị quân đội. 91.Mặc cho bốn
bể đang sóng gió ầm ầm, Kim Lăng vẫn bình lặng như đá mài. 92.Tôi là người kinh
thành đang lánh nạn nơi tha hương, khát khao bình an nên hâm mộ ma
quỷ Giang Nam. 93. Xin người đi
thuyền về phía đông, diễn tả bài trường ca này dâng tặng Tướng Công
chủ soái Giang Nam. |
Dịch thơ 1.Năm Trung Hoà thứ ba Quý Mão, Trời tháng Ba thay áo mùa Xuân, Lạc Dương phong cảnh hàng năm, Hoa dương như tuyết trắng ngần bay bay. 2.Trên đường đi Đông Tây Nam Bắc, Nhìn trước sau lặng ngắt bóng người, Hàng dương xanh thẳm mây trời, Âm thầm cát bụi ngậm ngùi đường xa. 3.Chợt trông thấy như hoa như ngọc, Một nữ lang bên gốc liễu dương, Gương nga dày dạn phong sương, Xanh xao hương phấn bi thương nỗi niềm. 4.Hỏi cô nương từ miền nào tới, Chau mày như muốn nói lại thôi, Nghẹn ngào thốt chẳng nên lời, Nửa sầu nửa hận đứng ngồi lao đao. 5.Sửa tay áo quay đầu cảm tạ, Nói sao đây chiến họa nổi trôi, Lênh đênh đất khách quê người, Buồn đau ly loạn bời bời ruột gan. 6.Trải ba năm đất Tần với giặc, Đã bao phen dạ thắt lòng đau, Tưởng chừng như mới hôm nào, Hay là một giấc chiêm bao rành rành. 7. Người như đã sự tình muốn rõ, Xin vì ta tháo gỡ yên cương, Cùng nhau dừng gót bên đường Để ta kể nốt tận tường khúc nôi. 8. Mồng năm tháng mười hai năm ấy, Đó là năm Canh Tý nguồn cơn, Nhốt chim Anh Vũ lồng son, Đùa chơi dạy nó véo von chào mời. 9. Mở hộp gương
muốn ngồi trau chuốt Lười chảy đầu dời bước ra hiên, Tựa lan can ngó mang thiên, Ngẩn ngơ lặng lẽ đạm nhiên tâm hoài. 10. Chợt trông
thấy cổng ngoài xao xác, Ai đang gieo bụi cát tung trời, Lại ai nổi trống liên hồi, Trống trận cấp báo sục sôi quân tình. 11. Kìa dân chúng
giật mình hớt hãi, Vội tìm đường lo chạy thoát thân, Nọ quan viên với triều thần, Về nhà còn tưởng nghe lầm hung tin. 12.Vừa lúc ấy quan binh kịp đến, Từ phía Tây đang tiến vào thành Định đưa ứng chiến Đồng Quan, Quân tình khẩn cấp nguy nan trùng trùng. 13. Vừa hay Bác
Dã quân cấm vệ, Ở kinh đô thủ thế chống ngăn, Làm cho chậm bước địch quân, Tạm thời còn chút thời gian xoay vần. 14. Trong chốc
lát chủ nhân chạy tới, Người ngả nghiêng chới với tỉnh say, Xuống ngựa vào cửa như bay, Hốt hốt hoảng hoảng nói ngay một hồi. 15. Nói đã thấy vua tôi chạy loạn, Ra khỏi thành lánh nạn cầu toàn, Kinh đô cờ trắng giăng tràn, Xích My đã chiếm Trường An mất rồi. 16. Hô hoán nhau người người kinh hãi, Giặc đến rồi biết chạy đi đâu, Trèo tường, lên mái nhà cao, Trẻ già bất kể miễn sao thoát nàn. 17. Kẻ phía Nam
chạy tràn lên Bắc, Người bên Đông chạy dạt qua Tây, Biết đâu phương hướng đúng sai, Miễn sao giữ mạng đợi ngày giặc tan. 18. Hàng nữ lưu
thôn lân phía Bắc, Tụ tập nhau bàn bạc kế mưu, Chước phương tránh mặt giặc thù, Chúng như dã thú chẳng từ mồi ngon. 19. Ầm ầm bánh
xe lăn chấn động, Đất bằng như đảo lộn tới nơi, Vạn thớt ngựa hí rân trời, Tưởng đâu sấm dậy dưới trời bão giông. 20. Trường An lửa
cháy bùng dữ dội, Chín tầng mây cho tới kim tinh, Mười hai đường lớn kinh thành Lửa cháy đỏ rực như sinh phượng hoàng. 21. Cuối trời Tây
khói vàng hiu hắt, Bóng tà dương bàng bạc chiều hôm, Đấng cao xanh thẳm bầu không, Chẳng màng lên tiếng chỉ đăm đăm nhìn. 22. Mây tối tăm dặm nghìn vây bủa, Khí âm u lan toả đầy nơi, Sao Thái Giám đỏ máu tươi, Âu là điềm gỡ rủi xui hại nhà. 23. Vua chạy loạn
sơn hà có biến, Khí đế vương màu tím đi theo, Ánh ma trơi chiếu đình triều, Quần thần ắt sẽ tiêu điều nay mai. 24.Nỗi bi thương đó đây chồng chất, Cảnh hoang tàn đổ nát muôn nơi, Tiếng oan khuất động đất trời, Nhà nhà máu chảy như ngòi suối phun. 25. Hàng ca, kỹ người run kẻ sợ, Tránh làm sao được rợ Xích My. Tránh sao khỏi bị đọa đày, Thôi đành tự tuyệt sớm ngày vẫn hơn. 26. Lại nói đến trẻ con trai gái, Mất mẹ cha thơ dại bên đường, Ai đâu rảnh dạ xót thương, Mặc tình sống chết thê lương khôn cùng. 27. Nhà láng
giềng phía Đông có gái, Mày mới trau hình thái đẹp xinh, Cũng hàng nghiêng nước nghiêng thành, Diễm lệ vô giá riêng mình trời ban, 28. Giặc Xích My
đem can qua đến, Thịt xương so đao kiếm sao bì, Cam lòng nhắm mắt bước đi, Lên xe ngoảnh lại lệ thuỳ khuê môn. 29. Trong tay giặc
mất còn thoáng chốc, Đành hạ mình theo học may cờ, Lên yên sao khỏi sầu lo, Sợ phàm phu nó dày vò tấm thân. 30. Có lúc thấy
phu quân thấp thoáng, Giữa lao dân cực dáng khổ hình, Dám đâu ngoảnh lại liếc nhìn, Âm thầm rơi lệ một mình mình hay.60. 31. Nhà láng
giềng phía Tây nào khác, Có gái trinh bóng sắc như tiên, Long lanh sóng mắt thu huyền, Ngây thơ không hiểu não phiền thế gian. 32. Đứa võ phu
làm càn quen tật, Nhảy lên thềm xé toạt áo xiêm, Giở trò ép uổng một phen, Muốn đem ngọc khiết vùi chôn đáy bùn. 33. Kinh sợ lại đường cùng ngõ tận, Biết làm sao chút phận đào tơ, Y trang níu kéo dằn co, Thế là má phấn dưới đao đời tàn. 34. Nhà láng giềng
hướng Nam cũng thế, Cô gái kia không nhớ họ tên, Hôm qua mai mối vừa đem, Sính lễ đính ước tơ duyên sắc cầm. 35. Thềm lưu ly
bước chân chẳng động, Chỉ lung linh hình bóng rèm thưa, Chợt nghe tiếng kiếm đao lia, Phút giây đã thấy đầu lìa khỏi thân. 36. Hận lũ giặc hung tàn bạo ngược, Thương chị em phút chốc ngàn năm, Ngó trời một tiếng khóc than , Chị em nhảy xuống lánh nàn giếng khô. 37. Lại phía Bắc
thôn cư thiếu phụ, Lòng hoang mang héo rũ gương nga, Búi tóc mây gỡ kim thoa, Điểm trang xong vội xóa nhòa mày xanh. 38. Nghe tiếng đập thình thình vỡ cửa, Không nghĩ suy vội vã trèo cao, Bốn bề lửa tới lao xao, Muốn xuống, thang hỏng, biết sao mà lần. 39. Trong khói lửa kêu vang cầu cứu, Nhưng than ôi lửa dữ không chờ, Xà ngang bám víu quanh co, Xác thân phút chốc thành tro bụi tàn. 40. Họa đao cưa
thiếp thân may mắn, Thoát được rồi không dám nhìn lâu, Vội vàng gắng gượng chảy đầu, Đưa mày liếc mắt theo sau giặc thù. 41. Chốn quê cũ
kể từ dạo ấy, Không được về thăm lại nhà xưa, Họ hàng thân thích gần xa, Anh em cha mẹ biết là về đâu. 42. Suốt ngày
những lo âu sợ hãi, Một lần đi đà trải ba năm, Thẫn thờ dạ nát lòng tan, Ép thân tay giặc biết làm gì hơn. 43. Đêm đêm giữa
muôn ngàn đao kiếm, Biết mai này hung hiểm thế nao? Sáng sáng ruột xót tim đau, Cắn răng nuốt miếng gan vào cho xong. 44. Chốn phòng
the luông tuồng lui tới, Có gì vui mà khỏi phân vân, Tuy lắm châu báu kim ngân, Cũng chỉ là vật ngoài thân quý gì. 45. Binh tướng giặc dị kỳ hình tướng, Đầu rối bù mày nhuộm đỏ au, Liếc nhìn thấy chẳng làm sao, Ngoại nhân dị tộc khác nào mọi man. 46. Lại quần áo phô
phang càn dỡ, Lời nói ra quái gỡ khó nghe, Có kẻ trên mặt gớm ghê, Xâm hình khắc chữ ra bề nhiều công. 47. Ngự sử đài
Tam Công Lưỡng Sử, Đều là như chuột quỷ cáo ma, Tóc ngắn lại cài trâm hoa, Mặc triều phục ngủ, chăn là quấn quanh. 48. Quan Tam Công
không rành tượng hốt, Lưỡng Sử quan đeo ngược cá vàng, Sáng nghe tấu biểu triều đường, Tối đến tửu điếm kỹ phường tranh ngôi. 49. Một sớm nọ năm
hồi trống vỗ, Người hãi kinh tỉnh ngủ giật mình, Tiếng kêu réo khắp kinh thành, Xì xào bàn tán thế tình lầm than. 50. Đêm đến nghe
quan quân dọ thám, Báo tin vui thắng trận hôm qua, Trường An Xích Thủy không xa, Nay đất Xích Thủy quân ta chủ quyền. 51. Bọn hung bạo
trên yên tức tối, Gái khuê phòng quá đỗi mừng vui, Oan khiên đến lúc dứt rồi, Yêu ma quỷ quái chết toi phen này. 52. Trong chốc lát tin bay khẩn cấp, Quân triều đình đã nhập kinh sư, Quân giặc cao thấp lo âu, Hoàng Sào huynh đệ khóc nhàu trên yên. 53. Mấy ngày qua
không truyền tin tức, Ắt hẳn là quân giặc đã hàng, Ngờ đâu sự thực phũ phàng, Quan binh đại bại trước Hoàng Sào quân 54. Kể từ đó Trường
An đói khổ, Không nơi đâu là chỗ yên lành, Giặc bao vây bốn mặt thành, Đấu vàng thăng lúa dân tình lầm than. 55. Bếp Thượng
Nhượng chỉ toàn vỏ gỗ, Thay thế cơm từng bữa tạm thời, Bàn ăn dọn món thịt người, Chỉ Hoàng Sào mới nuốt trôi thịt này. 56. Đường vận
lương xưa rày cắt đứt, Thực phẩm không đến được kinh thành, Người chết càng lúc càng nhanh, Đường phố càng lúc vắng tanh bóng người. 57. Kẻ chết đói
thây phơi cửa trại, Trong quân doanh bảy dãy kệ người, Đâu đâu cũng thấy xác người, Chết đói chết khát ngút trời oan khiên. 58. Đất Trường An
bình yên thuở nọ, Nay còn đâu xe ngựa phồn vinh, Đường xá chợ búa điêu linh, Lúa mạch chen lẫn cỏ xanh mọc càn. 59. Cây Hạnh Viên
đem làm than củi, Liễu Ngự Câu tu sửa trại binh, Ngựa xe lầu các đài đình, Lạnh lùng hoang phế mặc tình phong sương. 60. Điện Hàm
Nguyên thỏ luồn chồn lách, Lầu Ngạc Hoa gai gốc đầy nơi, Thuở nao phồn thịnh lấp vùi, Ngước nhìn, ôi, cảnh cũ người xưa đâu? 61. Kho vật báo bảo lưu gấm vóc, Còn lại đây một góc tro tàn, Đế đô đường phố huy hoàng, Phơi đầy hài cốt các hàng khanh công. 62. Dạo tường thành phía Đông buổi sáng, Ngoài xa xa gió thoảng khói bay, Lặng nhìn nửa tỉnh nửa say, Tưởng chừng quan ải đâu đây chập chùng. 63. Bên đường lính
tuần phòng đi lại, Dưới sườn đồi không thấy khách thăm, Bá Lăng người, khói biệt tăm, Ly Sơn xanh lá lầu vàng tiêu ma. 64. Đường lớn nay
toàn là gai gốc, Khách qua đêm trằn trọc chân tường, Trăng soi lạnh lẽo thê lương, Màn trời chiếu đất thảm thương khôn cùng. 65. Sáng hôm sau Tam Phong vừa tới, Trăm ngàn nhà một mái giờ đâu, Ruộng đồng còn lại cỏ hao, Xác xơ vườn trúc ai nào chăm nom. 66. Kim Thiên Thần
Hoa Sơn thần miếu, Gặp bên đường kéo níu hỏi han, Kim Thiên chẳng nói chẳng rằng, Sầu tư có khác thế nhân đâu nào. 67. Cội tùng bách
già cao trước miếu, Nãy cành con gốc đẽo ngày xưa, Lư hương chánh điện phụng thờ, Nhện giăng trước mặt bụi mờ sau lưng. 68. Kể từ giặc
điên cuồng xâm phạm, Đất Trường An hôn ám gió mưa, Nước thần khó nỗi yểm bùa, Binh ma tướng quỷ khó đưa lịnh đòi. 69. Lúc bình
thường hưởng người cúng tế, Khi họa tai không thể giải nàn, Vụng về xấu hỗ làm thần, Ta đành tìm chốn ẩn thân non ngàn. 70. Tiếng tiêu
sáo hết vang trong miếu, Tế phẩm dâng trên chiếu không còn, Tạm sai lũ quỷ vào thôn, Hại người tìm chút món ngon qua ngày. 71.Nghe lời ấy thiếp rày thắt dạ, Buồn thêm buồn tai họa trời làm, Chẳng phải việc tự thế nhân, Làm gì được với ách nàn khổ đau, 72. Thần còn vào
núi sâu lánh nạn, Trông mong gì phiên trấn Đông Hầu. Âm thầm gạt ngấn lệ sầu, Nghĩ thương thân phận bọt bèo thứ dân. 73. Nhớ năm trước
Đồng Quan ra khỏi, Ngẩng đầu nhìn mây khói Kinh Sơn, Từ địa ngục đến nhân gian, Đột nhiên cảm thấy bình an trong lành. 74. Tướng Thiểm
Châu trung thành ngay thẳng, Chỉ thủ thành không nạn đao binh, Bồ Tân quân cũng nghiêm minh, Không tiếng chó sủa an bình dặm xa. 75. Buổi tối cài
kim thoa đi lại, Đi một mình nào hại chi đâu, Sớm hôm vật quý mang theo, Chẳng ai buồn hỏi tiếng nào làm chi. 76. Đông Tân An
mãi đi cũng tới, Nỗi dọc đường gió bụi ngẩn ngơ, Ghé xin ngụm nước đỡ khô, Bỗng gặp ông lão xác xơ bên đường. 77. Mặt xanh mét xem dường rêu mốc, Thấp thỏm ngồi trong gốc sậy lau. Hỏi ông người ở thôn nào. Cớ sao ngủ giữa sậy lau lạnh lùng? 78. Ông đứng dậy
xem chừng muốn nói, Lại thụp ngồi tay gối má chen, Nhìn trời nức nở một phen, Thương tâm trút cạn nỗi niềm khúc nôi. 79. Rằng Hương
Viên già tôi cư trú , Huyện Đông Kỳ trù phú trời ban, Thói nhà chuyên nghiệp tầm tang, Hai trăm công ruộng mỗi năm nuôi trồng. 80. Ba ngàn vạn
tiền nông sưu thuế, Con gái nhà thiện nghệ dệt tơ, Khéo tay may áo choàng thô, Cơm gạo kê đỏ thường chờ bữa ăn. 81. Ngàn kho lẫm
chứa ngàn vạn hộp, Tơ quay xong gom góp chờ thời, Quân Hoàng Sào kéo qua rồi, Còn lại một nửa đứng ngồi đau thương. 82. Kể từ binh
Lạc Dương trú đóng Ngày lẫn đêm quấy động thôn làng, Rút kiếm khỏi vỏ sáng choang, Phất cờ Bạch Hổ hàng hàng kiểm tra. 83. Như gió lốc
vào nhà lục soát, Tóm thâu như cuốn đất vào tay, Tan hoang cốt nhục, tiền tài, Tuổi già cô độc bấy rày sầu bi. 84. Một thân khổ kể
chi chút phận, Trong núi kia hàng vạn nhân gia, Cỏ bồng đỡ đói ngày qua, Đêm nằm lau sậy sương sa giữa trời. 85. Nghe lời ấy
bùi ngùi không dứt, Suốt ngày qua nước mắt như mưa, Cú kêu loạn cửa nhặt thưa, Muốn đi thêm nữa lại chưa sẵn đường. 86.Lại nghe các ngã đường về Biện, Đường xe không đường biển cũng không. Lại nghe nội loạn Bành Môn, Tướng sĩ đồng đội tự tàn sát nhau. 87. Hồn chiến sĩ rầu rầu ngọn cỏ, Bến sông buồn máu đỏ oan khiên, Chiến chinh, nội loạn triền miên, Hỏi ai là chẳng não phiền suy nhân. 88.Chợt nghe khách Kim Lăng vừa tới, Rằng Giang Nam cảnh trí khác thường, Từ Hoàng Sào khiến nhiễu nhương, Giang Nam bốn cõi chưa từng lầm than. 89.Nọ chủ soái trừ gian diệt bạo, Đánh dẹp tan trộm đạo như thần. Xem như con đỏ muôn dân, Dưới trên hòa thuận mùa màng ấm no 90. Thành quách cũ chăm lo bảo hộ, Hào lũy sâu tu bổ vững vàng, Như mây thuế má hàng năm, Cấp cho binh sĩ thêm phần an tâm. 91.Mặc bốn bể ầm ầm sóng gió, Đất Kim Lăng đây đó yên vui, Bình lặng như phiến đá mài, Thênh thang hoa cỏ trong ngoài hoan ca. 92.Người kinh thành phương xa lánh nạn, Mong thanh bình nắng hạn mưa cam, Chẳng bằng lũ quỷ Giang Nam, Làm ma cũng được an nhàn thảnh thơi 93. Xin người cho
thuyền xuôi Dương Tử, Theo đông lưu thăm thú Giang Nam, Trường ca này hãy vịnh ngâm, Hiến dâng Tướng Soái con dân lòng thành./. |
《秦婦吟》是唐末五代詩人韋莊創作的長篇敍事詩。此詩借一位逃難的婦女之口描述了唐末黃巢起義時的社會亂象,反映了戰爭給人民帶來的深重災難。全詩情節曲折豐富,結構宏大嚴密,語言流麗精工,在思想與藝術兩方面都達到相當高的水平,為中國古代敍事詩樹立了一座豐碑。因在詩成當時就深受人們稱賞,詩人還得到“秦婦吟秀才”的雅稱。後人把此詩與漢樂府《孔雀東南飛》、北朝樂府《木蘭辭》並稱為“樂府三絕”;也有人認為它是繼杜甫“三吏三別”和白居易《長恨歌》之後唐代敍事詩的第三座豐碑。https://baike.baidu.hk/item/%E7%A7%A6%E5%A9%A6%E5%90%9F/7544665
《Tần Phụ Ngâm
》thị Đường mạt
ngũ đại thi nhân Vi Trang sang
tác đích trường thiên tự sự thi.
Thử thi tá nhất vị đào nạn đích
phụ nữ chi khẩu miêu thuật liễu
Đường mạt Hoàng Sào khởi nghĩa thì
đích xã hội loạn tượng, phản ánh
liễu chiến tranh cấp nhân dân đới
lai đích thâm trùng tai nạn. Toàn
thi tình tiết khúc chiết phong phú,
kết cấu hoành đại nghiêm mật, ngữ
ngôn lưu lệ tinh công, tại tư tưởng
dữ nghệ thuật lưỡng phương diện đô
đạt đáo tương đương cao đích thuỷ
bình, vi Trung quốc cổ đại tự sự
thi thụ lập liễu nhất toạ phong
bi. Nhân tại thi thành đương thì
tựu thâm thâu nhân môn xưng thưởng,
thi nhân hoàn đắc đáo “tần phụ
ngâm tú tài ”đích nhã xưng. Hậu
nhân bả thử thi dữ Hán nhạc phủ
《Khổng Tước Đông
Nam Phi 》, Bắc triều
nhạc phủ 《Mộc Lan Từ 》tịnh xưng vi
“Nhạc Phủ Tam Tuyệt ”; dã hữu nhân
nhận vi tha thị kế Đỗ Phủ “Tam
Lại Tam Biệt ”hoà Bạch Cư Dị 《Trường Hận Ca 》chi Hậu Đường
đại tự sự thi đích đệ tam toạ
phong bi.
Dịch Nghĩa
Tần Phụ Ngâm là một
bài thơ trường thiên thuộc loại tự sự, do Vi Trang- thời mạt Đường
ngũ đại - sáng tác.
Bài thơ này mượn lời của một thiếu phụ chạy trốn chiến nạn, thuật lại hình ảnh xã hội loạn lạc, trong thời kỳ giặc Hoàng Sào nổi lên chiếm đóng Trường An một giai đoạn vào cuối đời Đường. Bài thơ phản ảnh tình trạng chiến tranh khiến cho dân chúng gánh chịu nhiều tai ương khổ nạn.
Toàn bộ bài thơ tình tiết khúc chiết phong phú, kết cấu đồ sộ, chặt chẽ, ngôn ngữ trôi chảy trau chuốt, về hai phương diện tư tưởng và nghệ thuật đều đạt đến cao độ, được công nhận là một tòa bia ký trong khuynh hướng thi ca tự sự thời cổ.
Khi bài thơ được hoàn thành, nhiều
người đương thời hết sức tán thưởng, thi nhân được danh xưng tao nhã
“Tần Phụ Ngâm Tú Tài”. Người đời sau đem bài thơ này cùng với bài
nhạc phủ đời Hán “Khổng Tước Đông Nam Phi”, nhạc phủ đời Bắc Triều
“Mộc Lan Từ” coi ngang bằng nhau gọi là “Nhạc Phủ Tam Tuyệt”, cũng có
người công nhận bài thơ này của Vi Trang là kế tiếp bài Tam Lại Tam
Biệt của Đỗ Phủ và Trường Hận Ca của Bạch Cư Dị, là Tòa Bia Ký
Thứ Ba trong khuynh hướng thơ tự sự thời Hậu Đường.