Monday, June 24, 2024

CHÂN DUNG: Ngày Đó, Bây Giờ. Bút ký của Việt Dương & Trần Thị Nguyệt Mai.

 




Sách do Nhân Ảnh xuất bản năm 2024, gồm 386 trang.

 Hai tác giả Việt DươngTrần Thị Nguyệt Mai viết về 18 nhân vật

từ Miền Nam trước kia, một số tại hải ngoại hiện nay,

từng có những thành tích, hoạt động đáng được nhắc tới

trong lãnh vực văn hóa, nghệ thuật.


 Có những vị đã khuất như Thầy Tuệ Sỹ, nho sinh Đào Mộng Nam,

bác sĩ Trần Xuân Dũng, nhà văn Trần Hoài Thư,

bình luận gia Lý Đại Nguyên, họa sĩ Vị Ý, họa sĩ Đinh Cường ...

 Trong những vị còn tại thế có những vị sống trong nước như nhà văn / nhà thơ /  bác sĩ

Đỗ Hồng Ngọc, nhà thơ Phạm Thiên Thư, nhà văn Nguyên Minh.


Có những vị sống ở Pháp như nhà biên khảo Phạm Xuân Hy.

Có những vị ở Hoa Kỳ như nhà văn / bác sĩ Ngô Thế Vinh,

nhà biên khảo Ngô Nhân Dụng, giáo sư Trần Huy Bích,

nhà văn / họa sĩ Khánh Trường, nhà thơ Thành Tôn.

Đặc biệt có một bài tóm lược cuốn hồi ký của bà

Nguyễn Tường Nhung, trưởng nữ của nhà văn Thạch Lam,

và là phu nhân của cố Trung Tướng Ngô Quang Trưởng.

 

Sách ghi giá bán 25 Mỹ kim.

Có thể mua (hoặc đặt mua) tại nhà sách Tự Lực:

14318 Brookhurst St,

Garden Grove, CA 92843

Điện thoại: (888) 204-7749

 

Home Page -Tự Lực Bookstore (tulucmall.com)


  


Saturday, June 22, 2024

NGƯỜI ĐÀN BÀ KHÁC Tập truyện TRỊNH • Y • THƯ

Văn Học Press

22 Agostino, Irvine, CA 92614 USA • vmail: +1-949-981-3978

email: vanhocpress@gmail.com • Facebook: Van Hoc Press

 

PR 06/22/2024

SÁCH MỚI

                                     

                   

Trân trọng giới thiệu:

 

NGƯỜI ĐÀN BÀ KHÁC

 

Tập truyện

 TRỊNH • Y • THƯ

 VĂN HỌC PRESS tái bản, 2024

 

 Tựa: PHẠM XUÂN NGUYÊN

Tranh bìa: ĐINH CƯỜNG

Thiết kế bìa: ĐINH TRƯỜNG CHINH


Các nhân vật trong tập truyện bị mắc vào tam giác: Cô độc – Khép kín – Định mệnh. Tác giả không ngại nói ra những từ này đối với nhân vật. Họ sống một nửa cho người, một nửa cho mình. Họ bất lực trước những tình huống xảy ra trong đời, trước những ngã rẽ tâm tư, tâm trạng. Như người đứng trước ngôi nhà của mình bị cháy mà không cách gì cứu chữa được – một hình ảnh, một câu văn, một ẩn dụ được lặp lại nhiều trong các truyện. Họ vật vã, đau đớn. Họ hoài nghi. Quá khứ đối với họ khủng khiếp, ghê rợn, muốn quên mà không thể quên, muốn chôn vùi nhưng cứ hiện về. Hiện tại đối với họ là mong manh, quên lãng. Hai cơ thể gần nhau. Hai xác thịt trộn vào nhau. Nhưng hai thế giới con người vẫn là tách biệt, song hành. Họ níu kéo nhau nhưng biết là không níu kéo được. Và như vậy, truyện của Trịnh Y Thư không chỉ là ám ảnh và hậu quả cuộc chiến. Hình như nó còn chạm đến “condition humain” của nhân loại thời nay. Buồn bã, day dứt, bế tắc.

– Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên.

 

Chọn ngôi thứ nhất cho chủ thể sáng tác của mình, Trịnh Y Thư đã dẫn dắt người đọc đi tìm lại thời gian đã mất. Tìm lại, nhưng không phải để chìm đắm trong nó mà chính là để “phủ nhận” nó. Trong Tự truyện của kẻ đi tìm quá khứ, Trịnh Y Thư viết: “Tôi là kẻ không sở hữu quá khứ nên khao khát đi tìm kiếm quá khứ. Nhưng quá khứ vây khổn tôi vào giữa. Nó làm tôi nghẹt thở. Nó trói tôi bằng sợi dây chão vô hình nhưng vô cùng chắc chắn, và tôi vô phương cục cựa. Tôi biết tôi sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi vòng vây đó.” Quá khứ trong các truyện của Trịnh Y Thư bao vây tác giả, không phải chỉ ở Tự truyện, mà nó còn có mặt ở Cuộc chiến của anh tôi, Ngôi nhà thờ trắng, Người đàn bà khác, Rừng đen, Đồi Hồng… Trịnh Y Thư dẫn dắt người đọc vào một thế giới chứa đựng cái quá khứ cay nghiệt của ngôi thứ ba và cả cái hiện tại vừa lạnh lẽo vừa cháy bỏng của chủ thể ngôi thứ nhất. Sự lôi cuốn của truyện ngắn Trịnh Y Thư không chỉ ở bút pháp mà còn mang hơi thở và da thịt của đời sống. Nó chính là hợp âm của hai dòng chảy đầy cuồng nộ đó.

– Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng [1940-2014].

 

@@@

 

Sách có bán trên BARNES & NOBLE

332 trang, bìa cứng, 5.5” x  8.5”, giá bán: US$25.00

 Xin bấm vào đường dẫn sau:

 Nguoi dan ba khac by Trinh Y. Thu, Hardcover | Barnes & Noble® (barnesandnoble.com)

 

Từ tìm kiếm: nguoi dan ba khac, trinh y thu

 

Hoặc liên lạc với tác giả / NXB qua hai địa chỉ email sau để mua sách có chữ ký của tác giả:

 

trinhythu@gmail.com

vanhocpress@gmail.com

ĐƯỜNG VỀ THỦY PHỦ Tiểu thuyết TRỊNH • Y • THƯ

 Văn Học Press

22 Agostino, Irvine, CA 92614 USA • vmail: +1-949-981-3978

email: vanhocpress@gmail.com • Facebook: Van Hoc Press

 

PR 06/22/2024

SÁCH MỚI



             

 Trân trọng giới thiệu:

 

ĐƯỜNG VỀ THỦY PHỦ

 Tiểu thuyết

 TRỊNH • Y • THƯ

 VĂN HỌC PRESS xuất bản, 2024

 Tựa:

BÙI VĨNH PHÚC

 Bạt:

NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH

 Tranh & Thiết kế bìa:

ĐINH TRƯỜNG CHINH

 Cuốn sách vẽ ra được một toàn cảnh với các chi tiết, tạo được một ấn tượng về cuộc chiến, về không gian và cuộc sống xã hội, lịch sử của các giai đoạn gối tiếp nhau.  Và về cuộc bể dâu mà con người phải đối mặt, với những quyết định sai lầm của chính nó. Hay với cái “quyết định”, cái hướng đi mù loà, xiên xẹo và xộc xệch của lịch sử […] Cuốn tiểu thuyết này, với lịch sử được dùng làm một phông nền qua những gam mầu rất mờ nhạt, và ước muốn của nó, theo tôi thấy, là hướng về phía ánh sáng, về sự yên bình, về sự xoa dịu, qua lòng hiểu biết và niềm tin vào cái thiện, cái tốt.

Bùi Vĩnh Phúc, nhà phê bình văn học.

 Với thủ pháp dùng hư cấu, phi hiện thực để người đọc lần ra chân tướng hiện thực, khiến Trịnh Y Thư có một thái độ khách quan khi viết về sự tương quan giữa các nhân vật với những sự kiện liên hệ đến lịch sửý thức hệ […] Thân phận con người quả là chiếc lá nhỏ nhoi trong cơn lốc lịch sử, đấy là một thông điệp nhắc nhở hay một kết luận buồn bã? Dù là gì nó đều nói lên nỗi thống khổ của phận người từ đó khích động các cảm xúc về lòng Trắc Ẩn, Nhân Đạo, Lương ThiệnVị Tha. Đó là luồng ánh sáng chiếu xuyên suốt tác phẩm này, lấp lánh qua văn phong tả chân, bạo liệt mà không thiếu tính trữ tình của lòng nhân ái, đa cảm.

Nguyễn Thị Khánh Minh, nhà thơ.

 

@@@

 Sách có bán trên BARNES & NOBLE

326 trang, bìa cứng, 6” x  9”, giá bán: US$25.00

Xin bấm vào đường dẫn sau:

 Duong ve thuy phu by Trinh Y. Thu, Hardcover | Barnes & Noble® (barnesandnoble.com)

 

Từ tìm kiếm: duong ve thuy phu, trinh y thu

 

Hoặc liên lạc với tác giả / NXB qua hai địa chỉ email sau để mua sách có chữ ký của tác giả:

 

trinhythu@gmail.com

vanhocpress@gmail.com



Wednesday, June 19, 2024

Phân Ưu trước sự ra đi của Giáo sư Thi sĩ Phạm Khắc Hàm


Vô cùng xúc động và thương tiếc trước tin

Giáo sư PHẠM KHẮC HÀM

Pháp danh Thiện Pháp

Bút danh Vô Ngã

 

Nguyên Giáo sư Đại học Khoa học Sài Gòn

và các Đại học Đà Lạt, Cần Thơ

Tác giả các bộ sách biên khảo Triết Lý Lý Đông A,

Văn Học Đời Ngô-Lê-Lý, Văn Học Đời Trần,

Các tập thơ Gối Gốc Mai, Nắm Cỏ Bồ Xuân Quấn Bánh Xe

 

Đã tạ thế ngày 1 tháng 6 năm 2024

(nhằm ngày 25 tháng 4 năm Giáp Thìn)

tại Westminster, California, Hoa Kỳ

 

Hưởng thượng thọ 97 tuổi.

 

Bên cạnh sự việc là một Tiến sĩ Khoa học chuyên về Lý thuyết Nguyên tử,

Giáo sư Vô Ngã Phạm Khắc Hàm còn là một nhà biên khảo giàu tâm huyết,

một nhà thơ với những vần tràn đầy Phật tính, thiền tính, và tình yêu thương:


Ta tụng ngàn năm Quán Thế Âm

Chúng sinh, ta khóc, nỗi mê lầm

Ngàn năm quỳnh nở trong đêm vắng

Rung động ba ngàn cõi viễn thâm.

 

Chúng tôi xin chân thành phân ưu với Bà Phạm Khắc Hàm,

tức bác sĩ Phạm Minh Châu, cùng toàn thể tang quyến.

Nguyện cầu hương linh giáo sư, nhà biên khảo, nhà thơ

Vô Ngã Phạm Khắc Hàm sớm được hưởng phúc trên Cõi Phật.

 

Gia đình Doãn Quốc Sỹ -- Bùi Tuấn Dương -- Đặng Thơ Thơ – Đinh Quang Anh Thái –  

Đoàn Viết Hoạt & Trần Thị Thức – Đỗ Quý Toàn & Hà Dương Thị Quyên –

Đỗ Thái Nhiên -- Hạt Cát -- Huy Văn Trương – Lâm Vĩnh Thế -- Lê Hữu –

Lê Thành Tôn – Lê Đình Ysa & Hạo Nhiên – Lê Hòa Bình -- Mai Tuyết An –

Ngô Thế Vinh – Nguyễn Công Khanh & Đức Quý – Nguyễn Công Thuần –

Nguyễn Duy Chính – Nguyễn Hùng Vũ – Nguyễn Kim Dung (Bà Hà Tường Cát) – 

Nguyễn Kim Hằng – Bà Nguyễn Mộng Giác -- Nguyễn Ngọc Dung –

Nguyễn Thị Mỹ Ngọc – Nguyễn Thị Nga – Nguyễn Vũ – Ngự Thuyết – 

Phạm Hảo -- Phạm Lệ Hương – Phạm Phú Minh – Phạm Quốc Bảo –

Phạm Thị Huê & Nguyễn Vĩnh Long – Phạm Tín An Ninh – Phạm Xuân Hy (Pháp) – 

Winston Phan Đào Nguyên – Quách Như Nguyệt -- Song Thao --Tràm Cà Mau –

Trần Dạ Từ & Nhã Ca – Trần Huy Bích – Trần Mạnh Toàn -- Trần Mộng Tú –

Trần Ngọc Khôi -- Trịnh Y Thư – Trúc Chi Tôn Thất Kỳ & Đoan Thư –

Việt Dương Hoàng Văn Giang – Võ Minh Phượng -- Bà Võ Phiến

 

ĐỒNG THÀNH KÍNH PHÂN ƯU


Từ đấy ngàn năm vách lắng tai, 

Lời kinh vi diệu thấm linh đài. 

Tình thương, từng giọt, rơi trên đá, 

Nở đoá hoa Từ, năm cánh Mai.

Sunday, June 16, 2024

Nguyễn Duy Chính: Cha Tôi, Nguyễn Duy Trân (1929-2004)

 

 

CHA TÔI

NGUYỄN DUY TRÂN

(1929-2004)

 


 


Buổi sáng nơi tôi ở dù có ai dậy sớm cỡ nào thì cũng thường gặp một người Á Ðông đi tản bộ lòng vòng quanh các khu nhà, trong công viên. Ông cụ ăn mặc xuề xoà, đôi khi hơi có vẻ lôi thôi, nhưng đi đâu cũng nhìn ngang nhìn ngửa, thấy một mảnh chai vỡ, một cái đinh rỉ ... thì cúi xuống nhặt đem vứt vào thùng rác, hay quá lắm cũng tìm được một nơi thật khuất nẻo dấu vào đó.

Ngay đầu ngõ có một trường tiểu học, buổi sáng trẻ con qua lại rất đông nên mặc dù đứa nào cũng giày dép chỉnh tề, ông cụ vẫn còn thói quen như khi ở Việt Nam sợ trẻ con đi dép nhựa, có khi đi chân đất, lỡ dẫm phải sẽ bị thương.

Thỉnh thoảng ông cụ cũng nhặt được một đồng xu – 1 cent của Mỹ, loại tiền chỉ còn dùng trong các siêu thị để thối lại cho người mua chứ thực tế chẳng còn giá trị bao nhiêu - nhưng niên đại khá cũ, liền đem về cho thằng cháu nội thích sưu tầm tiền cổ. Cũng có khi cụ nhặt được một cái lon nước của ai đó vứt bỏ ngoài đường thì cũng đem về để tập trung trong mớ vật liệu tái chế.

Chỉ nhìn dáng ông cụ từ xa tít chúng tôi cũng nhận ra ngay vì đó chính là bố tôi. Hơn mười hai năm ở trên đất Mỹ, cha tôi trở thành một khuôn mặt quen thuộc với đủ mọi người. Ông lão cựu quân nhân Thuỷ Quân Lục Chiến đầu đường, chú Mễ làm nghề cắt cỏ gần đó, ông già Mỹ về hưu hàng xóm cho chí những thầy giáo, cô giáo, bà chỉ dẫn cho trẻ con qua đường ... tất cả đều quen biết dù khi thấy nhau chỉ giơ tay vẫy kèm theo một tiếng hello. Khu vực trở thành gần gũi hơn khi có thêm các cụ người Việt rủ nhau vào tập thể thao trong công viên mỗi sáng, sau đó họp lại thành một “hội nghị Diên Hồng” – hay “Hoa Sơn luận kiếm” như mấy đứa em tôi thường nói - bàn về đủ chuyện trong nước, ngoài nước, xưa cũ hay đang xảy ra. Thế là lại có thêm một cái tập thể nho nhỏ trong một cộng đồng lớn hơn, chia xẻ với nhau đủ mọi loại tin tức, giả cũng như thật, có khi đúng và cũng có khi chỉ là tin ... vịt.

*

*        *

Cha tôi làm giáo viên từ thuở còn rất trẻ và đi dạy cho đến tuổi về hưu. Vừa nghỉ việc thì qua đoàn tụ do tôi đứng tên bảo lãnh. Phải nói rằng cuộc đời ông cụ cũng lắm nỗi long đong, chẳng phải vì tính thích phiêu lưu mà vì sự tình bắt buộc, nói cho văn hoa là “nổi trôi theo vận nước”. Có điều với nếp sống lạc quan nên việc gì rồi cũng qua dù thời nào thì lúc nào gia đình chúng tôi cũng ở vào nấc thang “tận cùng bằng số” của xã hội. Với đồng lương ít ỏi vậy mà chẳng biết bố mẹ tôi xoay sở làm sao để nuôi được mười đứa con ăn học, lại còn dành một phần cho ông bà nội tôi lo cho các cô các chú. Những gia đình lam lũ trong những tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn thời tiền chiến có lẽ cũng không khác biệt với chúng tôi bao nhiêu. Tuy thế, hạnh phúc vẫn có thể thăng hoa từ sự nghèo khó, nếu con người biết thoả mãn với chính mình. Câu châm ngôn “trông lên thì chẳng bằng ai, trông xuống chẳng ai bằng mình” tưởng như là một cái phao cho những kẻ khốn khó bám vào để tìm thấy đôi chút an ủi. Năm 2001, khi về thăm quê hương kể lại chuyện cũ, anh em tôi lại tìm được cái nguồn hoan lạc thuở còn bé và chính những kỷ niệm của cảnh bần hàn kia là những gì êm ả nhất gắn chặt với nhau và mãi mãi là một phần của chính mình.

Dù sao chăng nữa, chúng tôi cũng đi lên bởi vì cái khởi điểm của nó vốn dĩ đã thấp nên ngoi lên không nhiều thì ít vẫn thấy thoải mái hơn cái thuở ấu thơ. Và có lẽ đó cũng là niềm an ủi cho cha mẹ tôi khi tuổi già thấy con cái đều trưởng thành và vượt qua được cái “bức tường vô hình” đã ngăn cản nhiều gia đình khác mặc dù mỗi sự thành công nhỏ nhoi nào cũng phải đánh đổi bằng mồ hôi, nước mắt.

*

*        *

Năm 1954, cha tôi liều chết chở tôi và cô em trên chiếc xe đạp cọc cạch từ nhà lên Thạch Thất, trốn về Hà Nội theo đoàn người vào nam. Nếu hồi đó ông không quyết định như thế, có lẽ tôi đã thành một nắm xương vô danh trên đường Trường Sơn, hay may mắn sống sót thì cũng chỉ là một anh cán bộ xã ở một làng quê ngoài Bắc.

Trình độ ít ỏi, cha tôi chỉ đủ sức dạy cho tôi những bài học vỡ lòng để tôi theo đó làm nấc thang học tiếp lên Trung Học. Khi tôi bước chân lên đệ Thất trường CVA thì cái vốn học vấn của cha tôi đã cạn và đứa con trai lớn phải tự mình tìm lấy con đường mà đi. Thế nhưng tôi vẫn còn nhớ lại được khuôn mặt tươi vui của ông khi đưa tôi đi mua những cuốn sách mà nhà trường đòi hỏi, tưởng như dòng dõi nhà mình đã qua được một bước mới trong đời sống. Cha tôi lại tiếp tục dạy các em tôi và mỗi một người qua khỏi bậc tiểu học thì ông lại thấy như một con chim non đã ra ràng bay trên một bầu trời cao rộng chứ không còn lệ thuộc vào mẹ cha bú mớm.

Những phần thưởng cuối niên học đem lại cho cha mẹ tôi một sự tự hào. Khi cha tôi đưa tôi đi thi Trung Học hẳn trong lòng ngầm hãnh diện vì con mình đã đi hơn mình một bước. Rồi Tú Tài I, Tú Tài II, đại học ... dù không nói ra nhưng cũng thấy con chim đầu đàn kia đang từ từ vươn lên khỏi nơi tối tăm bùn lầy nước đọng.

Thế nhưng cái niềm hi vọng như một bầu trời sụp xuống cũng vào những ngày này 29 năm trước. Như hàng triệu người dân hiền lành khác, cả nhà cam chịu cái thảm hoạ đến với dân tộc và với gia đình. Chính sự bàng hoàng và khủng hoảng của những người cả đời hiền lành như ông nội và cha tôi mà tôi hiểu được rằng lòng dân vẫn là tấm gương thần rọi lại cho chúng ta thấy cái bản lai diện mục của một chế độ dù được tô vẽ hoa mỹ, bóng bẩy thế nào chăng nữa.

Cuộc sống sau ngày 30-04-1975 chẳng nói thì ai cũng biết. Người dân miền Nam vùng vẫy trong cơn tuyệt vọng và truyền tai nhau đủ mọi loại tin đồn. Những gì mà người ta tưởng chỉ là tuyên truyền nay đã thành sự thật, hơn cả những điều người ta tưởng tượng được. Tuy không chết đói nhưng lắm người chết vì suy dinh dưỡng trong đó không ít người thân của tôi. Cha tôi nhặt nhạnh mấy cành cây, mấy thanh gỗ nát dựng được một giàn mướp bên cạnh lớp học và trồng mấy luống rau. Nhờ thế gia đình và các bạn đồng nghiệp cũng có thêm “thực phẩm phụ trội”.

Ðời sống vật chất đã cùng cực mà đời sống tinh thần lại càng ngột ngạt. Những cuốn sách, những tài liệu tôi tom góp được trong nhiều năm qua định để sau này viết sử đành phải đốt đi. Không còn gì đau lòng hơn. Qua đến Mỹ rồi, nhiều năm sau tôi vẫn ứa nước mắt mỗi khi nhìn thấy một cuốn sách nói về Việt Nam và phải một thời gian khá lâu mới đủ can đảm dựng lại một tủ sách mới.

 Năm 1979, tôi vượt biên nhờ vào lòng hảo tâm của một người bạn đồng nghiệp cũ. Anh đóng một chiếc thuyền nhỏ để chở gia đình, cho tôi và ông chú tôi, thêm một người bạn khác đi cùng. Khởi hành từ Long An một sáng mùa thu, chuyến đi phó thác cho số mệnh đó chính vào đúng cơn bão số 13, cơn bão lớn nhất trong năm. Con thuyền bị mưa gió không còn định hướng nên giạt ra gần quần đảo Trường Sa, một nơi mà nước chỉ còn đen thẫm, không một bóng người, không cả một bóng chim. Trong khi tôi ngồi giữ lái để con tàu trồi lên hụp xuống, chờ khi hết dầu máy ngưng chạy sẽ chìm xuống biển thì xa xa thấy một chiếc tàu buôn. Tôi đánh thức ông chú và người bạn chủ ghe dậy nhờ giữ lái chạy về phía con tàu.

Tới gần hơn, thuỷ thủ trên cao lố nhố chỉ trỏ. Chúng tôi lao thẳng chiếc thuyền mong manh vào con tàu lớn để khỏi bị xua đuổi như những lần trước. Anh bạn tôi ngã lộn xuống nước, tôi may mắn bắt được chiếc dây thừng vừa ném xuống đang toan buộc vào cạnh thuyền thì đã được kéo vụt lên cao. Chiếc neo sắt nhọn trượt ngang bụng, chỉ nhích thêm một chút thì đã lòi ruột chết ngay tại chỗ.

Vậy mà phải mất hai tiếng đồng hồ sau mới vớt được cả mười người trên thuyền. Tuy nhiên vì lệnh lạc nhập cư nghiêm nhặt, người ta không thể đưa chúng tôi vào đất Thái, chỉ giúp cho một chiếc bè làm bằng sáu chiếc thùng phuy hàn lại để làm phao bơi vào một ngọn hải đăng. Khổ nỗi chiếc bè kiên cố ấy tuy an toàn nhưng lại không thể lèo lái gì được. Lênh đênh mấy ngày không định hướng, một chiếc thuyền đánh cá có lòng tốt kéo chúng tôi vào một hoang đảo nhỏ.

Sống lây lất bằng rau cỏ dại và những con hàu đào được trên vách đá được mươi ngày, sau cùng ba vị “khách” chúng tôi đành phải bơi qua eo biển vào bờ, hi vọng sẽ kiếm được người tiếp cứu cho gia đình Robinson còn ở lại. Bám vào một cây tre chúng tôi bơi lũm chũm như ba con ếch. Sau tám giờ ngâm mình dưới nước, nhìn ra chung quanh, bờ bên kia không thấy mà hòn đảo cũ của mình cũng không còn đâu.

Khi tôi sắp sửa hôn mê để buông tay chìm xuống thì một chiếc thuyền con đi ngang vớt lên, cứu đem về một thành phố nhỏ nằm ờ Ðông Nam bờ biển trong vịnh Thái Lan tên là Rayong. Bị giam thêm mấy ngày, chúng tôi được chuyển sang Chantaburi rồi sau đó đưa vào trại tị nạn Leamsing. Những lá thư cầu cứu tôi viết cho LHQ không sao chuyển được. Gia đình anh bạn tôi sau mấy ngày nữa cũng bơi ra nhưng bất hạnh không gặp ai, khi giạt vào bờ thì năm người đã chết, trong đó có cả anh bạn tôi. Chỉ còn bà vợ và một đứa con gái sống sót, về sau cũng vào cùng trại với tôi rồi định cư ở Canada.

Chuyến đi 43 ngày ấy tuy hãi hùng và bi thảm với gần như tất cả mọi biến cố có thể xảy đến cho một chuyến tàu vượt biên – bão, đắm tàu, được vớt, hoang đảo, cướp biển, bơi vào bờ, người sống và kẻ chết, tù đày, nhịn đói – nhưng cũng lắm kỷ niệm chan chứa tình người. Dù nhiều người Việt Nam khác phải chịu bao nhiêu đắng cay tủi nhục, riêng phần tôi vẫn chịu ơn rất nhiều người Thái Lan, từ thuỷ thủ đoàn trên con tàu Vinh Ðông (Eastern Glory) đến những người đi thăm thân nhân bị giam tại Rayong, những người cảnh sát trẻ đối với tôi như một người thầy, dù chỉ dạy họ bập bẹ vài chữ, và một số Việt kiều tị nạn từ Campuchia. Ðặc biệt nhất là một tay anh chị người Thái gốc Việt đã biệt nhãn với tôi trong tình đồng hương. Tôi sẽ kể lại chi tiết trong một hồi ký khác.

Kỷ niệm duy nhất của tôi còn lại trong chuyến đi, là chiếc đồng hồ đã rỉ sét.

Sáng hôm ấy, khi cha tôi dắt xe để đi làm, tôi đến gần thông báo cho ông quyết định tôi sẽ ra đi. Ông nhìn tôi vừa mừng rỡ, vừa sững sờ. Việc vượt biên là một ước mơ mà những người nghèo khổ như chúng tôi không bao giờ dám nghĩ tới. Ông lính quýnh không biết làm gì, nhìn quanh quất chỉ còn chiếc đồng hồ – vật dụng duy nhất còn gọi là quí giá, món đồ gắn liền với cuộc đời dạy học của ông – liền cởi ra đưa cho tôi. Từ hôm đó trở đi, mỗi lần cho học sinh ra chơi, hẳn ông phải chạy sang một bạn đồng nghiệp để hỏi giờ.

Chiếc đồng hồ ấy hiệu Zodiac đã ngừng lại một thời khắc nào đó khi tôi ngâm mình dưới nước - ngày 23, 6 giờ 30 phút 21 giây - vẫn còn đặt nơi bàn làm việc của tôi ngay trong giờ phút này.



Cuối năm 1991, cha mẹ tôi và ba đứa em sang đoàn tụ. Việc đầu tiên cha tôi làm là sửa chiếc vườn sau nhà thành một vườn rau, mùa nào thức nấy. Ông cụ đi xin bạn bè những hạt giống, cải, su hào, mướp ... biến khu vườn thành một cái nông trại nho nhỏ. Gần như cha tôi không bỏ phí một tấc đất. Ăn không hết, chúng tôi đem cho thân nhân, bạn bè và cả những người hàng xóm. Cây hồng ông cụ chăm bón năm nào cũng đầy quả đỏ au. Cây cam nở hoa thơm ngát. Gia tài quí nhất của bố tôi là hai cây đào trồng ngay trước nhà, một đỏ, một trắng, đúng Tết là nở đầy hoa mà đi đâu ông cụ cũng tự hào. Cha tôi lấy hột ươm hàng chục chậu để tặng cho người quen.

Về sau may mắn, cha mẹ và các em tôi mướn được căn nhà ở kế bên nên tuy đã ở riêng mà vẫn như còn ở chung. Ba đứa con tôi một mình ông chăm sóc. Các con đã lớn rồi, nay đến cháu. Mỗi buổi sáng ông cụ đưa cháu đi học rồi vào công viên nói chuyện với mấy người bạn già, trở về làm vườn rồi đọc báo, buổi chiều đón cháu đi học về. Những lúc không có việc gì làm, ông cụ đi bộ lang thang khắp nơi. Mỗi khi hai vợ chồng vắng nhà, dù việc công hay tư thì cũng an tâm khi biết bên cạnh cháu có ông bà nội và các chú.

Nhờ có cha mẹ, tôi can đảm quay lại học thêm sau giờ làm việc. Gần mười năm đèn sách, mỗi lần xong một chương trình, đưa cha tôi đi dự lễ tốt nghiệp, khuôn mặt ông rạng rỡ xiết bao. Trong khi rảnh rỗi, tôi cũng viết tham luận và dịch sách, xong bài nào đều đưa cha tôi đọc trước để kiểm chứng lại tư tưởng và quan điểm của mình xem có điều gì bất ổn chăng. Chỉ truyện kiếm hiệp là cha tôi không đọc. Nhiều người quen biết vẫn tưởng đó là công trình của riêng tôi, có biết đâu nếu không có cha mẹ thì không bao giờ hoàn tất được – nói về cả vật chất lẫn tinh thần.

Tuy sinh sống nơi một quốc gia có đời sống cao như nước Mỹ, cha tôi vẫn giữ nếp sống bình dị như thời còn ở Việt Nam. Ông nhặt nhạnh từ mẩu bút chì ngắn đến xấp giấy in nháp tôi bỏ ra, chịu khó đóng lại thành một cuốn sổ luôn luôn bỏ trong túi, gặp chữ nào là lạ thì chép vào đem về nhà tra tự điển. Buổi tối ông đạp xe đi học ESL (English as a Second Language), đến gần đây mới thôi. Những đồng tiền ít ỏi tiết kiệm được ông để dành tuần tuần đi chợ trời mua khi thì cục xà bông, tuýp kem đánh răng, khi thì cái áo, cái quần ... để có dịp đem về nước cho những người nghèo khổ. Ðến gần đây chúng tôi phải can ngăn vì hiện nay hàng trong nước đã nhiều, những nhu yếu phẩm đó công lao chuyên chở tốn phí lắm khi còn hơn giá trị thực, thà đem tiền về cho còn hơn.

Cha tôi cũng liên lạc lại với mấy ông bạn già thuở bé và thân nhân ở miền Bắc, khi thì trao đổi kỷ niệm, khi thì xướng hoạ thơ văn và dự định sẽ cùng tôi về thăm quê hương một chuyến nhân tiện sửa lại mấy ngôi mộ tổ tiên luôn thể.

*

*        *

Cuối năm ngoái, cha mẹ tôi về Việt Nam làm đám cưới cho đứa em trai út. Khi trở qua cha tôi than mệt, một việc hiếm hoi ít khi tôi nghe. Tôi đưa ông cụ đi khám bệnh mới hay cha tôi bị ung thư phổi. Hình như căn bệnh quái ác này hay xảy ra cho những người làm nghề dạy học. Ðúng mồng một Tết, cha tôi lên bàn mổ để cắt đi một bên. Những tháng sau tuy sức khoẻ có dần dần khá hơn, vết thương cũng lành nhưng không còn nói ra tiếng được nữa, muốn gì phải viết. Mới hôm nào tiếng còn oang oang, ở bên nhà nói chuyện với chú tôi bên này cũng nghe, nay chỉ thều thào. Sau khi dưỡng bệnh một thời gian, cha tôi trở về nhà. Ông cụ bây giờ đi lại, đứng ngồi rất khó khăn. Chúng tôi cố khuyến khích cụ tập lại một số cơ năng tạm mất. Ngày 09 tháng 4 năm 2004, cha tôi thấy khó thở. Gia đình tôi vội vàng gọi 911 chở ông cụ vào nhà thương. Những ngày sau tuy tình trạng có ổn định hơn nhưng người yếu dần. Mỗi ngày vào thăm, mở mâm đồ ăn thấy chỉ đụng đũa qua loa mà ứa nước mắt.

Sáng thứ tư 14 tháng 4, đang họp trong sở tôi nghe vợ tôi báo tin cha tôi trở bệnh nặng. Tôi liên lạc với bác sĩ Vũ Thanh Vân, người bạn thân chăm sóc cho ông cụ thì nghe anh thông báo giờ phút cuối của cha tôi chỉ còn trong gang tấc.

Tôi rụng rời chạy về nhà định đưa mẹ tôi vào bệnh viện thì vợ tôi đã đưa đi trước rồi. Cũng may tuần này các cháu được nghĩ Spring Break nên ở nhà, tôi vội vàng bảo các cháu lên xe vào thăm ông. Ðến nơi, cha tôi còn tỉnh, tuy mắt có hơi lờ đờ hơn trước. Vợ chồng người em trai tôi cũng đã đứng kế bên. Các cháu thấy ông đứa nào cũng rơi lệ, đến cầm tay. Vợ tôi bảo các cháu hôn ông nội và hứa sẽ ngoan ngoãn học hành. Bác sĩ Vân cho biết chỉ còn được từ giờ đến tối.

Ðến quá trưa, chúng tôi quyết định để hai vợ chồng em tôi lại bên giường bệnh còn tôi đưa mẹ và các con về để tránh cho bà cụ những xúc động chưa cần thiết, e ngại có điều bất trắc vì tình trạng sức khoẻ của mẹ tôi rất kém. Ăn qua loa vài miếng, trong dạ bồn chồn, tôi lại chạy lên thăm bố tôi và bảo đứa em dâu xuống lo cho con còn bé. Em trai tôi chạy về sở sắp xếp công việc để xin nghỉ làm.

Một mình ở lại bên cha, tôi nghẹn ngào hỏi ông cụ còn muốn trối trăn gì hay nợ nần ai cần phải trả. Cha tôi gượng mỉm cười lắc đầu. Một lát sau, đứa em trai khác cũng về đến nơi, hai anh em mỗi người đứng một bên. Chân cha tôi đã lạnh đến đầu gối, bàn tay cũng không còn ấm áp như trước nữa, chỉ há mồm như người ngộp thở. Tôi gọi người nhà đưa mẹ và các cháu lên gấp.

Cầm tay cha, tôi lâm râm niệm Phật để tiễn đưa vong linh ông cụ về cõi Tây Phương. Em tôi đứng bên kia cũng sụt sùi. Ông cụ thở hắt mấy lần, mạch máu trên cổ giựt giựt mấy cái rồi nằm yên như người đang ngủ say nằm mơ. Những người y tá trực thấy báo động chạy vào. Tôi nhìn họ gật đầu rồi lặng lẽ đỡ cha tôi nằm lại cho ngay ngắn. Lúc ấy là 3 giờ 17 phút.


*

*        *

Thứ năm 15 tháng 4 năm 2004 - một ngày sau khi cha tôi từ trần - các cháu quây quần an ủi bố. Tôi bảo các cháu viết về ông nội để đọc trong đám tang, những đứa trẻ ngơ ngác không biết phải viết ra sao.

-        Tiểu sử ông nội ra sao hả bố?

Tôi mỉm cười:

-        Ông nội không có tiểu sử, chỉ là một người nhà quê, lớn lên đi dạy học suốt đời, qua đây đoàn tụ với bố cho tới khi qua đời.

Thực như thế. Cha tôi không có tiểu sử, chỉ bình thường như phần lớn người Việt Nam khác. Khi còn trẻ thì người ta gọi bằng ông, đến tuổi già thì người ta gọi bằng cụ. Không chức tước, không danh vị.

Tôi đưa các cháu ra vườn, chỉ vào một cây hồng đầy những lá mùa xuân mơn mởn, xanh mướt như được tạc bằng ngọc quí. Dưới gốc cây lưa thưa vài chiếc lá héo úa của năm qua.

-        Các con là những chiếc lá xanh này. Còn ông nội con và tổ tiên là những chiếc lá đã rơi xuống đất. Có những chiếc lá vẫn còn hình hài nhưng cũng có những chiếc lá đã tan biến thành mùn. Thế nhưng bên trong những chiếc lá xanh kia có một phần của những chiếc lá đã mục nát mà chúng ta không nhìn thấy được.

Các cháu dường như đã hiểu biết hơn một chút. Tôi lại đưa các cháu vào trong nhà chỉ lên bàn thờ tổ tiên:

-        Các con cũng thấy hình ảnh những người đã qua đời, ông bà ngoại, các cụ ... và nhiều người khác không có hình. Cứ đi ngược lên mãi, từ muôn triệu kiếp mỗi đời lại truyền xuống đời sau một phần sự sống và trở thành một chuỗi dài không đứt đoạn, cho tới ông nội, ông nội truyền sinh mệnh đó cho bố, rồi bố lại truyền xuống cho con.

-        Vậy thì con sẽ viết những gì đây?

-        Các con ơi! Cha không bảo các con viết về tiểu sử, cũng như sau này một khi cha mất đi, con không cần phải viết một bài điếu văn thật dài, ca tụng cha bằng chức tước, bằng cấp hay đức độ. Những điều đó chỉ là những ảo ảnh mà thôi. Khi cha nhớ tới ông nội, cha nhớ tới một cây bút chì xanh đỏ ông nội mua cho cha khi cha đến trường, một cái lồng nho nhỏ cho con chim mới bắt được, một tập sử khi đi hội chợ hay một tập đánh vần khi cha mới bi bô. Và cha cũng muốn các con nhớ tới ông nội như thế thôi.

Những đứa trẻ nhíu mày rồi nét mặt rạng rỡ hơn như hiểu ra.

-        Con nhớ tới ông nội hồi con còn bé dẫn con đi chơi, ra ngoài công viên rồi để bảo con tự tìm đường về, ông đi theo. Ông nội dạy con đọc những số nhà bằng tiếng Việt khi đi vòng quanh khu phố.

-        Còn con thì nhớ tới ông nội dẫn con đi học, đón con về. Ông nội sửa xe đạp cho con, làm hotdog cho con ăn.

-        Ông nội cũng đưa con đi học nữa, dẫn con vào chợ Food-for-Less và 99c Store mua hột giống.

-        Phải đó con ạ! Những điều mà cha nhớ tới ông con cũng là những điều như thế thôi. Từ cây rau ông trồng đến cành hoa ông chiết, hột mướp ông dâm ...

Trung hỏi lại:

-        Vậy ba ơi, ba nghĩ thế nào về sau khi chết? Ông nội bây giờ ở đâu?

Tôi đáp:

-        Thực tình mà nói, cha không biết. Mỗi tôn giáo có một kiếp lai sinh với những tên gọi khác nhau, Thiên Ðàng, Niết Bàn, Cực Lạc, Bồng Lai ... Cha chỉ biết một điều là để có cha, có các con hôm nay thì một sinh mệnh không đứt đoạn đã kéo dài hàng muôn triệu kiếp mà mỗi đời lại nhận một phần từ đời trước, thêm vào, mất đi nhưng không bao giờ ngừng.

Kỳ hỏi:

-        Thế gia đình mình cầu nguyện cho ông nội như thế nào?

Tôi suy nghĩ cố tìm cách giải thích cho các cháu hiểu:

-        Việc cầu nguyện hay lễ lạc chỉ là hình thức biến chuyển theo không gian, theo thời gian. Những nghi lễ đó không có tiêu chuẩn nhất định, và cũng không ai dám bảo thế này là đúng, thế kia là sai. Bố không đòi hỏi các con cầu nguyện cho ông nội mà chỉ muốn các con nhớ tới ông nội và hiểu rằng ông nội vẫn hiện diện như một phần của mình. Về thể xác, sinh lực của ông truyền xuống bố, bố truyền xuống con. Về tinh thần, ông nội cũng như bố để lại trong lòng con một số dấu ấn mà con sẽ đem theo suốt cuộc đời. Con nhìn thấy ông nội trong hình ảnh của bố mà bố cũng thấy một phần ông bà tổ tiên ở nơi các con.

*

*        *

Tang lễ gia đình tôi tổ chức cực kỳ đơn giản theo nghi thức Việt Nam. Phát tang chiều thứ sáu, hoả thiêu trưa thứ bảy. Tuy vậy số thân nhân và bạn bè gần xa đến dự cũng rất đông. Những người biết cha tôi ai nấy ngậm ngùi, không tin rằng cha tôi lại ra đi sớm như thế.

Than ôi! Quả là nước mắt chảy xuôi. Cha tôi lo cho con cho cháu đến tận lúc lìa đời. Ðúng là công lao trời bể. Thôi thì số mệnh đã an bài, cái lẽ tử sinh không ai tránh khỏi. Một điều đáng mừng là những gì cha tôi vun trồng dù vật chất hay tinh thần đều đơm bông kết trái, ắt hẳn cha tôi nơi chín suối cũng ngậm cười. Bây giờ tôi mới thật thấm thía cái đạo hiếu của người Việt Nam, nỗ lực bản thân, sống đời thiện lương cũng là một cách báo đáp công ơn nuôi dưỡng. Chiều chiều đi bộ quanh khu nhà, tưởng như vẫn còn thấy bóng hình cha tôi thấp thoáng.

Cái lá vàng đã rụng xuống nhưng những chiếc lá xanh vẫn tiếp tục vươn lên.

Nguyễn Duy Chính

Cuối tháng 4-2004