MỞ ĐẦU
Đại Nam Thực Lục, quyển XXIII, trang 2b có chép một ghi chú chữ nhỏ về tặng phẩm mà
vua Gia Khánh đem sang khi sai Tề Bố Sâm sang phong vương và quốc hiệu cho nước
ta đầu đời Gia Long. Ghi chú đó như sau:
故事邦交例贈蟒緞八疋,粧緞八疋,錦緞八疋,獐絨八疋,閃緞八疋,線緞二十七疋,春紬二十七疋。至是復加蟒緞,粧緞,閃緞各四疋,磁器四件,漆桃匣四件,磁鼻煙壺四件,螺甸漆檳榔匣二件,茶葉四瓶。
Theo lệ bang giao cũ [nhà Thanh] tặng cho mãng đoạn
(8 tấm), trang đoạn (8 tấm), cẩm đoạn (8 tấm), chương nhung (8 tấm), thiểm đoạn
(8 tấm), tuyến đoạn (27 tấm), xuân trừu (27 tấm). Đến nay lại tặng thêm mãng đoạn,
trang đoạn, thiểm đoạn (mỗi thứ 4 tấm), đồ sứ (4 món), hộp sơn mài hình quả đào
(4 món), tị yên hồ (4 món), hộp trầu cau sơn khảm xà cừ (2 cái), trà lá (4
bình).
Quà tặng của nhà Thanh trong mỗi trường hợp đều
đã qui định chặt chẽ trong điển lệ, và đây đều là những món thông thường hầu
như cho bất cứ phiên thuộc nào nên không cần bàn đến. Chỉ có những trường hợp hết
sức đặc biệt vua Thanh mới ban phát riêng những món ngoài lệ thường mà chúng ta
thấy trong trường hợp vua Càn Long ban cho vua Quang Trung như ngọc cầm tay cho
ấm (noãn ngọc), hà bao (túi gấm), bát bảo (tám món ngọc, vàng, bạc), ngự thi
hay chữ Phúc do chính tay nhà vua viết … Những món đặc biệt ấy cần những biên
khảo riêng để trình bày cho cặn kẽ.[1]
Trong những thứ mà nhà Thanh ban cho vua Gia Long
có một món gọi là “tị yên hồ” (鼻煙壺) mà các học giả của Viện Sử Học đã dịch là “điếu
sứ hút thuốc”[2].
Dịch như thế chúng ta dễ nhầm với các loại điếu bát mà các cụ xưa nhà nào hầu
như cũng có. Thực ra, tị yên hồ là bình nhỏ đựng thuốc ngửi và tập tục dùng “tị
yên hồ” của người Trung Hoa đời Minh – Thanh không lưu truyền ở nước ta (dù chỉ
thu hẹp trong một tầng lớp quyền quí nhỏ) khiến chúng ta không thể hình dung được
một cách chính xác. [3]
Theo các nhà nghiên cứu, việc sử dụng thuốc ngửi đã
thông dụng từ trước khi người Mãn Châu làm chủ Trung Hoa. Ðến đời Khang Hi (làm
vua từ 1662 đến 1722) việc sản xuất bình ngửi trở nên phát đạt và hình dáng, phẩm
chất cũng trở nên đa dạng.
Thoạt đầu bình ngửi được sản xuất tại Bắc Kinh
nhưng về sau triều đình giao cho ba tỉnh Giang Ninh, Tô Châu, Hàng Châu chuyên
sản xuất cho cung vua những hàng nhật dụng, kể cả vải vóc, tị yên hồ, triều
châu ... để cho hoàng đế dùng làm vật ban thưởng, số lượng xuất nhập và sổ sách
giao cho Nội Vụ Phủ trông nom.
Các sứ thần khi đến triều cống thường được thưởng
những chiếc bình nho nhỏ này. Loại bình được coi như quí giá nhất được tạc bằng
ngọc (jade hay nephrite), thuỷ tinh, hay bằng sứ, được chế tạo thành từng bộ 10
cái đựng trong hộp.
Thuỷ tinh đời Thanh cũng đã phát triển để thành một
kỹ nghệ độc đáo. Vua Khang Hi thành lập một xưởng đúc thuỷ tinh, dưới quyền
giám sát của giáo sĩ giòng Jesuit tên là Kilian Stumpff, vốn là một kỹ sư rành
nghề và khéo léo. Kỹ thuật đúc, pha màu và điêu khắc trên thuỷ tinh đã đạt mức
tinh thục. Từ thuỷ tinh những nhà truyền giáo đem áp dụng những khám phá mới của
họ – chiều theo sở thích của người Trung Hoa, nhất là giai cấp quí tộc – sang
lãnh vực tráng men kim loại. Dưới sự chỉ đạo của hoạ sĩ lừng danh Castiglione
(Lang Thế Ninh) và hai nhà truyền giáo khác là Attiret và Gravereau, kỹ thuật
tráng men lên đồng và thuỷ tinh đã lên đến cao điểm vào đời Càn Long.
Lẽ dĩ nhiên, việc chế tạo bình ngửi không bỏ qua
những vật liệu thiên nhiên như ngà, mã não, gỗ, sơn mài ... nên tới cuối thế kỷ
XVIII thì việc dùng thuốc ngửi trở thành một “mốt” của các nhà quyền
quí. Một trong những nghệ thuật trang trí cái lọ nho nhỏ này được nhiều người
ưa thích là việc dùng bút đưa vào cổ chai để vẽ bên trong bình (內畫鼻煙壺 nội hoạ tị yên hồ). Bức vẽ đó có thể là một bức tranh nhỏ li ti hay
khuôn mặt một danh nhân. Nghệ thuật này khởi thuỷ từ đầu thế kỷ XIX nhưng đạt đỉnh
cao của nó vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Biên khảo này chỉ là một bài viết đánh dấu những
ngày cuối năm. Người viết không sưu tầm đồ cổ nên không quen thuộc với những từ chuyên môn của người chơi cổ ngoạn. Những
từ sử dụng trong bài là âm Hán Việt dịch theo một số văn bản chữ Hán và dựa vào
cuốn tự điển Modern English-Chinese Encyclopedia Dictionary (科學名詞大辭典).[4]
LỊCH SỬ
Trung Hoa vốn không có chính sách ngoại thương mà
phần lớn buôn bán với bên ngoài là hoạt động bất hợp pháp do những nhóm buôn lậu
và cướp biển tuồn vào. Từ những hoạt động “xã hội đen” đó một số sản phẩm đã du
nhập vào Trung Hoa để trở thành một nhu cầu chính yếu trong sinh hoạt hàng
ngày. Đó là khởi thủy của một số cây cỏ mà hiện nay người ta không mấy người biết
đến xuất xứ của chúng.
Theo Iain Gately trong
tác phẩm Tobaco – A Cultural History of How an Exotic Plant Seduced
Civilization (New York: Grove Press, 2001) thì thực vật trong họ
Nicotiana rustica và Nicotiana tabacum đã xuất hiện trên lục địa Mỹ châu khoảng
18,000 năm trước cùng với nhiều loại cây khác như khoai (potatoes), cà
(tomatoes), cao su (rubber), sô-cô-la (chocolate) và bắp (maize). Thực vật họ
Nicatiana chính là cây thuốc (lá) mà người ta dùng lá thái nhỏ để làm thuốc hút
như ta thấy ngày nay. Cũng theo Iain Gately, khi Christopher Columbus đến Mỹ
châu năm 1492 thì cây thuốc lá đã có khắp châu lục và cả những hòn đảo ngoài
khơi như Cuba. Việc trồng các cây thuốc (tobacco plant) này có thể đã bắt đầu từ
5000-3000 năm trước Công Nguyên.[5]
Nhiều thế kỷ trước khi người Âu châu đến, cây thuốc
lá đã là giống cây bản địa và thổ dân Mỹ châu đã có thói quen hút thuốc
(smoked) hay nghiền thành bột, trộn với các hương vị khác để hít vào mũi (sniffed).
Khi người Âu châu chinh phục được châu Mỹ, thuốc
lá (tobacco) được sử dụng dưới ba dạng thức: thuốc hút, thuốc nhai và thuốc ngửi.
Hít thuốc bột mau chóng trở thành một tập quán của giới quyền quí, không phải
chỉ quí ông mà cả quí bà vì người ta cho rằng việc “hít thuốc” là một dạng thuốc
trị bệnh (medicinal properties). Sau đó người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã đem
cây này sang Philippines (khi đó còn gọi là Luzon) vào cuối thế kỷ XVI.[6]
Từ Âu châu truyền vào Trung Hoa
Cây thuốc lá truyền vào Trung Hoa theo hai đường,
một đường từ Philippines làm vật tiến cống cho triều đình nhà Minh. Khi đó, các
thuỷ thủ Âu châu gọi loại cây làm thuốc này là Rượu Khô (Dry Alcohol) và họ đem
trồng ở Phúc Kiến, vào giữa thế kỷ XVII (1650) hầu hết các binh sĩ tại đây đều
tập hút thuốc.[7]
Một đường khác độc lập với Phúc Kiến do người Bồ
Đào Nha đưa vào Nhật Bản khoảng giữa thế kỷ XVI và từ Nhật Bản vào Triều Tiên rồi
sang Trung Hoa. Trong số thuế nhà Thanh đời Khang Hi có khoản thuế thuốc lá Nhật
Bản cho thấy đến thời kỳ đó (1687), lá thuốc vẫn còn nhập cảng từ Nagasaki, khi
đến Trung Hoa sẽ được nghiền và chế biến thành thuốc ngửi.
Có lẽ vì hai đường đưa tới hai tập quán khác
nhau, miền bắc hít thuốc, miền nam hút thuốc nên thói quen hít thuốc không phổ
biến ở các tỉnh nam Trung Hoa và khu vực Đông Nam Á tới tận ngày nay. Bình ngửi
là một pha trộn văn hóa vì nguyên thủy là một sản phẩm của Tây phương nhưng lại
trở thành một tập quán Đông phương [chủ yếu là Trung Hoa]. Việc sưu tầm bình ngửi
cũng lên xuống theo từng thời kỳ, bắt đầu từ vua Thuận Trị trải qua các triều kế
tiếp, Khang Hi, Ung Chính, Càn Long nhưng vẫn được coi như sản phẩm của riêng
triều Thanh chứ không kéo dài từ đời này sang đời khác như các đồ sứ, đồ đồng,
đồ ngọc.
Thuốc hút dùng trong tị yên hồ không phải là sản
phẩm bản địa của Trung Hoa mà từ Âu châu truyền sang theo chân những giáo sĩ
truyền đạo. Người ta lấy các lá cây thuốc, bỏ gân lá rồi nghiền nát thành bột,
sau đó để lên men hoặc cho thêm hương liệu để trong bình, khi dùng thì lấy một
nhúm nhỏ hít vào mũi. Người ta đồn nhau rằng hít thuốc có thể chữa được bệnh
hoa mắt, trừ hàn thấp, thông hô hấp và có thể làm mắt sáng ra.
Trong Hồng Lâu Mộng, hồi thứ 52 khi Tinh Văn bị bệnh,
lên cơn sốt, mũi nghẹt, mất tiếng nên mời thái y họ Vương đến chẩn bệnh, uống
thuốc giảm sốt nhưng vẫn nhức đầu. Bảo Ngọc mới sai Xạ Nguyệt mang thuốc ngửi đến
khiến cho cô ta hắt hơi luôn mấy cái liền thông cổ, hết nghẹt mũi.[8]
Trong Dũng Lô Nhàn Thoại (勇盧閒話) của Triệu Chi Khiêm (趙之謙), một học giả kiêm
thư pháp gia, soạn năm Quang Tự thứ 6 (1869), Tông Minh Nghĩa nói là tị yên (thuốc
ngửi) từ nước Ý Đại Lợi của Tây Dương do Lợi Mã Đậu (Matteo Ricci) theo đường
biển đem đến Quảng Đông, năm Vạn Lịch 9 khi tới kinh sư hiến phương vật đã truyền
vào Trung Quốc. Thế nhưng theo sử sách thì mãi đến năm Vạn Lịch 29 Lợi Mã Đậu do
viên thái giám tên là Mã Đường dẫn tiến, mới được chấp thuận cho lên kinh đô
dâng phương vật gồm có Vạn Quốc Đồ Chí (bản đồ các quốc gia trên thế giới), tượng
chúa Jesus, tượng bà Maria, Thánh Kinh, thập giá làm bằng ngọc trai, đàn,
chuông Tây phương các món nhưng không thấy nói tới thuốc ngửi.
Năm Sùng Trinh 12 (1639), giáo sĩ Ý Đại Lợi là Tất
Phương Tế (Franciscus Sambiaso) đem hiến phương vật gồm có dư bình (輿屛) tức bản đồ lớn ghép nhiều mảnh lại, tọa bình (坐屛)[9],
dương cầm, đồng hồ tự đánh giờ … Cũng không thấy có thuốc ngửi trong các phương
vật.
Vua Khang Hi
Nguồn: Tử Cấm Thành đế hậu sinh hoạt
Cuối đời Minh, đầu đời Thanh, Bộ Truyền Giáo Hải
Ngoại của giáo hội La Mã mở rộng ảnh hưởng đều nhờ vào các giáo sĩ. Những người
được gửi đi đều là thành phần uyên bác, giỏi khoa học, hội hoạ, kỹ thuật để
giao tiếp với nho sĩ Trung Hoa. Họ để nhiều năm nghiên cứu về Đông phương, học
thổ ngữ, thông kinh điển và dùng sản phẩm khoa học mới của Âu châu để tiếp cận
với vua chúa, quan lại phương Đông.
Đời Minh, chức quan khâm thiên giám (quan coi về
thiên văn và tính toán lịch số) được giao cho Thang Nhược Vọng (Johann Adam
Schall von Bell) là một giáo sĩ người Đức. Ông này thường đem rượu bồ đào (tức
rượu vang làm bằng nho) để biếu các quan người Trung Hoa ở kinh đô như một lễ vật
giao tiếp.
Tới thế kỷ XVII thuốc ngửi trở thành một lễ phẩm
rất quí trọng của Âu Châu, những chiếc hộp đựng thuốc thường là bằng ngọc dát
vàng, chế tác tinh xảo mỹ lệ rất được ưa chuộng. Từ giới quí tộc, thói hít thuốc
lan xuống tầng lớp thương nhân và thú vui này được phân cách bằng những loại hộp
đựng mỗi lúc một tinh vi, đa dạng phổ biến trong giới quí tộc và coi đó như một
phong thái thượng lưu.
Trước khi người Mãn Châu nhập quan, tại cựu đô
vùng Thẩm Dương, Phụng Thiên có người Nữ Chân thường đem trâu bò, dê cừu buôn
bán với người Triều Tiên cũng đã trao đổi yên thảo. Chứng cớ quan trọng nhất mà
người ta còn tìm được là những lọ bằng đồng đựng thuốc có khắc niên hiệu Thuận
Trị (1644-1661) tuy có người nghi ngờ là không đúng sự thật nhưng về sau đã được
minh xác.[10]
Ngoài Triều Tiên ở phương bắc truyền xuống, người Philippines từ Luçon truyền từ
phương nam, và ở Phúc Kiến, Giang Tây người ta đã trồng cây thuốc. Tuy nhiên,
bình ngửi có từ bao giờ thì không ai dám nói chắc, có lẽ từ cuối đời Minh nhưng
chỉ thịnh hành vào khoảng đầu đời Thanh.
Tranh vẽ của Trung Hoa nhạo báng người Âu Châu
khi họ xuất hiện tại Chiết Giang
Dưới thời Thanh Khang
Hi (trị vì 1662-1722), Vương Sĩ Trinh (王士禎) (1634-1711)[11] soạn bộ Hương Tổ Bút Ký (香祖筆記) 12 quyển vào khoảng năm 1703-1704 trong đó có viết:
呂宋國所產煙草,本名淡巴菰,又名金絲薰,餘既詳之前卷。近京師又有製為鼻煙者,云可明目,尤有辟疫之功,以玻璃為瓶貯之。瓶之形象,種種不一,顏色亦具紅紫黃白黑綠諸色,白如水晶,紅如火齊,極可愛玩。以象齒為匙,就鼻嗅之,還納於瓶。皆內府製造,民間亦或仿而為之,終不及。[12]
Nước Lữ Tống (tức Luzon, nay là Philippines) sản
xuất ra yên thảo, tên gốc là Đạm Ba Cô, lại có tên là cỏ tơ vàng đã viết rõ ở
những quyển trước. Gần đây kinh sư có người chế ra làm thuốc ngửi nói rằng có
thể giúp cho sáng mắt, lại có thể tránh được bệnh dịch, chứa trong bình bằng
pha lê. Hình dáng chiếc bình có nhiều loại khác nhau, màu sắc thì có màu đỏ,
màu tím, màu vàng, màu trắng, màu đen, màu lục, trắng như thuỷ tinh, đỏ như hun
lửa thật là đẹp đẽ. Dùng ngà làm thìa, xong lại để vào trong bình. Tất cả đều
do Nội Phủ chế tạo, trong dân gian cũng phỏng theo mà làm nhưng không đẹp bằng.
Về cái tên 淡巴菰 “đạm ba cô” thì từ
điển giải thích là từ gốc tiếng Tây Ban Nha tabaco nguyên từ Nam Mỹ tức cây thuốc
lá ngày nay, cũng còn dịch là 淡巴菇. Tài liệu cũng cho thấy một xưởng thuỷ tinh đã
được thành lập trong Tử Cấm Thành năm 1696 đủ biết vào thời kỳ họ Vương viết bộ
sách này thì việc hít và chế tạo bình ngửi đã thịnh hành.
Về việc tại sao người Âu châu chứa thuốc trong hộp
để ngửi và nhai nhưng khi sang Trung Hoa lại để vào trong lọ nhỏ thì người ta
giải thích rằng người Trung Hoa có thói quen đựng thuốc trong bình nhỏ bằng sứ
và lúc đầu thuốc ngửi được coi như một loại dược liệu nên bình đựng thuốc ngửi
cũng là một loại thuốc mang theo trong người và rồi thành một phong trào của giới
thượng lưu.
Vua Khang Hi đã có 6 lần nam tuần (đi xuống
phương nam), trong lần đầu vào năm 1684 (Khang Hi 23) khi ông đến Nam Kinh thì
có giáo sĩ Joannes Gabiani (Tất Gia 畢嘉) và Joannes Valat (Uông
Nho Vọng 汪儒望) đến quì tiếp giá, hai người dâng lên bốn món phương vật, hoàng đế
truyền chỉ:
Các món phương vật các ngươi đem đến đều là hàng
hiếm có nhưng trẫm đã từng thu lưu rồi. Riêng có thuốc ngửi thì (lần này) nhận mà thôi.
Theo như lời của vua Khang Hi thì ông đã biết đến
loại thuốc ngửi của Tây dương. Đoạn này trích trong Hi Triều Định Án có lẽ là
văn bản sớm nhất về loại này.
Cũng năm đó, một hoạ gia nổi tiếng đầu đời Thanh
là Ngô Lịch, đã cải giáo sang đạo Thiên Chúa và vào làm việc trong giáo hội, đã
tự nghiên cứu và chế tạo được thuốc ngửi để tặng cho bạn bè. Trong những đời
Khang Ung Càn, phong khí hít thuốc ngửi trở nên thông dụng và những quốc gia Âu
châu cũng hay dùng loại dược liệu này làm quà tặng khi mang sang Trung Hoa.
Năm Ung Chính thứ 3, giáo hoàng Benedictus gửi
phương vật trong đó có rất nhiều bình đựng thuốc ngửi bằng mã não và pha lê.
Năm Ung Chính 5, quốc vương Bồ Đào Nha Joseph sai sứ thần Metello mang phương vật
sang cũng có nhiều bình đựng làm bằng mật lạp, mã não, kim tương, ngân độ, đồi
mồi, lam thạch các loại. Năm Càn Long 17, quốc vương Bồ Đào Nha lại đem hiến
phương vật gồm có tị yên, xích kim, loa điền, mã não, lục thạch các loại hộp đựng
thuốc ngửi. Vua Càn Long khi nhận các món lễ phẩm này ở Viên Minh Viên đã đem
ban lại cho các thân vương, đại thần.
Vua Ung Chính
Nguồn: Thanh
Sử Đồ Điển
Theo nghiên cứu của Trương Lâm Sinh (張臨生) trong Tế Thuyết Tị Yên Hồ (細說鼻烟壺)[13]
thì “tây lạp” chính là dịch âm của chữ “snuff” tức loại thuốc ngửi, cũng có khi
dịch thành “sĩ na” (士那). Trong sách Sĩ Na Bổ Thích (士那補釋) của Trương Nghĩa Chú (張義澍) cuối đời Thanh
tác giả định nghĩa như sau:
Sĩ na: tức tị yên, âm dịch từ tiếng Hà Lan, cũng
còn gọi là “sĩ na phú” hay “sĩ nã”, dùng yên thảo loại cao cấp trộn với dược phẩm
trân quí nghiền thành bột mà chế thành, không dùng lửa mà chỉ dùng ngón tay chấm
vào nhét vào lỗ mũi rồi hít nhè nhẹ có thể giúp người ta tỉnh táo, không mỏi mệt.
Thịnh hành cuối đời Thanh. Sách này cho biết có viết sơ lược trong sách Dũng Lô
Gián Chuế của Triệu Chi Khiêm, nên có tên là Sĩ Na Bổ Thích.[14]
Một người Trung Hoa đang hít thuốc
Nguồn:
Trevor Cornforth (2002) tr. 16
Từ hộp chuyển sang bình
Hộp đựng do ngoại quốc đưa sang chỉ là một số lượng
nhỏ nên khi hít thuốc trở thành một phong thái thì việc người Trung Hoa phải tự
chế tạo riêng cho mình là chuyện đương nhiên. Loại hộp đựng thuốc ngửi của người
Tây phương không mấy tiện dụng vì khi mở nắp hộp ra, bột thường bay tung toé.
Vì thế người ta mới thay đổi dùng các loại bình đựng thuốc đời Minh có miệng nhỏ.
Cái nắp gắn một chiếc thìa dài và nhỏ, đầu hơi to hơn như hình một chiếc xẻng.
Cái thìa đó làm bằng ngà voi, đồi mồi, phổ thông hơn cả là dùng kim loại, xương
cá để múc từ trong bình ra một chút bột thuốc, để lên đĩa nhỏ hay lòng bàn tay
rồi đưa lên mũi hít mạnh.
Cũng theo Trương Nghĩa Chú thì “đồ chứa thuốc
ngửi gọi là bình 甁, cũng còn gọi là hạp 盒, đồ mang thuốc theo gọi là hồ 壺, lấy thuốc ra bỏ
vào hồ gọi là lậu 漏, thuốc ở trong bình lấy ra mời khách gọi là
điệp 疊, khuấy vào hồ để cho đều gọi là khiêu 挑 …”. Phần trên của bình ngửi có miệng nhỏ, trên miệng có nắp, cái thì
làm bằng bảo thạch, cái thì làm bằng trân châu, cái thì làm bằng ngọc mắt mèo,
đủ loại màu sắc.
Tị yên hồ lúc đầu mô phỏng bình đựng thuốc thời cổ
làm bằng pha lê nhưng càng về sau hình dáng càng đa dạng mà chất liệu cũng
không giống nhau. Có cái hình tròn, có cái hình quả đào, hình thạch lựu, hình hồ
lô, hình trái cà, hình con cá, hình con heo con.
Về chất liệu thì có cái làm bằng sành, sứ, ngọc
thạch, thuỷ tinh, pháp lang, ngà voi, mã não, hổ phách.
Đĩa nhỏ để đựng thuốc ngửi trước khi đưa lên mũi
Nguồn: Cornforth & Cheung (2002) tr. 22
Hương vị
Ti yên hay bột thuốc ngửi không dùng miệng mà
dùng mũi hít vì là lá thuốc đã nghiền thành bột mịn rồi thêm hương liệu mà chế
thành. Theo Trang Cát Phát trong bài “Tị yên hồ đích diệu dụng”[15]
thì tị yên có 6 vị khác nhau. Đường Lỗ Tôn (唐魯孫) trong Đàm Tị Yên
(談鼻烟) có nói rằng thuốc ngửi coi vị tanh hôi là đứng đầu, chua là thứ hai,
vị chocolat là thứ ba, thanh là thứ tư có thể chống cảm cúm, ngọt là thứ năm
cho người mới tập, mặn là thứ sáu ít thấy hơn cả.
Đời Thanh, Thuỵ Cảnh Tô (瑞景蘇) là giám đốc Việt Hải Quan nói rằng thuốc ngửi từ bên ngoài đem vào
có vị rất đặc biệt như phi yên (飛煙), đậu yên (豆煙), mã nghị thỉ (螞蟻屎), toan táo miến nhi (酸棗麵兒) bốn loại, trong đó phi yên là hạng nhất, để lâu trong bình vón lại
thành cục, dùng tay miết nhẹ, người ngoài không hay biết, đó là trân phẩm dùng
trong cung vua. Đậu yên là loại bột giữ lâu năm nên thành những hạt nhỏ như hạt
đậu, giữ được hương rất lâu và chắc chắn. Mã nghị thỉ nghĩa đen là phân con kiến
là loại tồn trữ lâu gặp lúc ẩm thấp nên lên men biến thành những hạt li ti.
Toan táo miến nhi là loại chưa khô hẳn nếu để lâu thành cục lớn nhỏ không đều,
giống như tổ ong, hít vào mắt sáng dễ chịu.
Trước đây khi người ta hít thuốc, hoặc nhúm một
ít bỏ vào mũi, hoặc lấy một chút thuốc dùng ngón tay cái và ngón trỏ vê vê nhét
vào mũi rồi hít vào.
CHẾ TẠO
Bình ngửi ở trong dân gian rất đa dạng nhưng nói
đến sinh hoạt cung đình thì có cái làm bằng sứ, bằng ngọc, mã não, hổ phách,
pha lê nhiều loại. Bình ngửi làm bằng pháp lang có vẽ hình là món được yêu
thích hơn cả.
Ngay từ đời Thuận Trị việc sưu tầm và lưu trữ
bình ngửi đã có và lên đến cao triều vào thời Khang Hi (1662-1722), Ung Chính
(1723-1735) và Càn Long (1736-1795). Theo tài liệu trong cung, một số lượng
bình ngửi rất lớn được ghi nhận trong hoàng cung và cũng là quà tặng cho sứ thần
ngoại quốc. Các hoàng đế nhà Thanh cũng chỉ thị rất nhiều trong việc sản xuất
và hoạ kiểu các bình ngửi nhất là để làm cho các bộ sưu tập riêng của triều
đình thêm phong phú.
Khang Hi
Năm Khang Hi 32, Tạo Biện Xứ (造辦處) – tức cơ xưởng chế
tạo vật dụng dùng trong triều đình - đã thiết lập các tác phòng bao gồm pháp
lang tác, kim ngọc tác, như ý quán, pha lê xưởng … và đến năm Khang Hi 35 thì
tăng lên thành tất cả 14 phòng. Thợ của các xưởng này do Nội Vụ Phủ, Chức Tạo Cục
của Tô Châu và Việt Hải Quan đốc thúc các nha môn tuyển chọn còn thợ làm đồ pha
lê thì do tuần phủ Sơn Đông đưa đến. Trước đây, những sản phẩm này được đặt làm
tại nhiều xưởng bên ngoài kinh đô nay tập trung vào một nơi dưới sự chỉ đạo vào
điều động của quan chức triều đình.
Vua Càn Long
Vua Khang Hi thích đồ pháp lang có vẽ hình nên
tìm đủ mọi cách để đưa kỹ thuật đó vào tác phường trong cung. Vẽ trên đồ pháp
lang nay có nhiều lớp và chỗ nổi, chỗ chìm khiến cho thêm hiện thực mà màu sắc
cũng tươi đẹp hơn. Một số món đồ pháp lang theo chân các nhà truyền giáo được
đưa vào Trung Hoa. Cuối đời Khang Hi tuần phủ Giang Tây Lang Đình Cực (郞廷極) trình lên danh sách tiến cống trong đó có hai chiếc tị yên hồ hình
quả cà (水茄 Solanum torvum), 2 chiếc bình ngửi Tây dương.
Ngoài kinh sư, trên toàn quốc cũng có nhiều nơi
như Giang Ninh, Tô Châu, Hàng Châu chế tạo bình ngửi. Ba nơi trên được gọi
chung là Giang Nam Tam Chức Tạo (江南三織造). Đời Khang Hi, chức
tạo Giang Ninh là Tào Dần (曹寅), chức tạo Tô Châu là Lý Hú (李煦), chức tạo Hàng Châu là Tôn Văn Thành (孫文成) ba người trông lo
việc cung cấp cho hoàng cung những món cần thiết, cũng có khi tiến cống trân
ngoạn, chẳng hạn như ngày 26 tháng Sáu năm Khang Hi 49 (1710), Lý Hú tiến cống,
trong các cống phẩm có bút Hồ Châu, phật thủ mới hái và tị yên hồ.
Năm Khang Hi 55, tuần phủ Quảng Đông là Dương Lâm
đã tìm ra được hai người Quảng Đông tên là Dương Sĩ Chương và Phan Thuần có thể
nung được đồ pháp lang nên lập tức cấp cho sở phí để lo gia đình rồi đưa ngay
lên kinh đô. Năm Khang Hi 58, Dương Lâm lại tìm được một giáo sĩ đạo Gia Tô là
Jean Gravereau biết cách nung pháp lang nên đưa lên kinh và được trọng dụng. Đồ
pháp lang Trung Hoa xuất hiện từ thời đó.
Kỹ thuật nung và chế tạo đồ pháp lang có vẽ hình vốn
không phải là sáng tạo của người Trung Hoa mà xuất phát từ vùng Flanders (nằm ở
giao giới của ba quốc gia Âu châu là Bỉ, Pháp và Hà Lan) từ giữa thế kỷ thứ XV.
Cuối thế kỷ XV, vùng Limoges ở giữa nước Pháp đã trở thành một thị trấn quan trọng
chuyên về pháp lang.
Năm Khang Hi 60, sứ thần nước Nga sang Trung Quốc,
vua Khang Hi ban cho mỗi người một chiếc bình ngửi pháp lang. Cùng năm đó giáo
hoàng Clement XI sai sứ thần là C. Mezzabarba sang Trung Hoa để đàm thảo về vấn
đề giáo đồ Thiên Chúa giáo có được cúng tế tổ tiên hay không? Họ cũng được ban
thưởng tị yên hồ pháp lang, cho thấy vua Khang Hi rất coi trọng những sản phẩm
mới chế tạo này.
Ung Chính
Vua Ung Chính cũng ưa thích đồ pháp lang không
kém gì vua cha. Từ khi Jean Gravereau cáo bệnh về nước, không còn chuyên gia
pháp lang nào người ngoại quốc ở trong triều nên tác phường nay không còn người
chuyên môn chỉ đạo. Chủ trì Tạo Biện Xứ là Di Thân Vương Dận Tường lo lắng
thành bệnh, may nhờ có một số phụ tá như lang trung Hải Vọng, Tống Thất Cách,
Bá Đường A, Đặng Bát Cách bàn luận trao đổi để nghiên cứu, đến năm Ung Chính 6
thì Tạo Biện Xứ đã chế tạo được các vật liệu để làm ra các màu trắng, vàng, hồng,
lục, đỏ, xanh (nhuyễn bạch sắc, hương sắc, đạm tùng hoàng sắc, ngẫu hà sắc, thiển
lục sắc, tương sắc, thâm bồ đào sắc, thanh đồng sắc, tùng hoàng sắc).
Vua Gia Khánh
Nguồn: Thanh
Sử Đồ Điển
Tị yên hồ đời Ung Chính có đặc tính mà người ta đặt
tên là “cẩm địa khai quang thức” (錦地開光式)[16],
dùng đề tài xưa nay người ta thường vẽ lấy hoa, điểu là chính, cành lá hữu
tình, linh hoạt sinh động biểu lộ sự thanh nhã của văn nhân. Về màu sắc thời
dùng nhiều màu, thích màu đen, lấy màu pháp lang đen làm cẩm địa (nền) để cho nổi
bật chủ đề lên. Con dấu trên pháp lang đời Ung Chính thì bốn chữ Ung Chính niên
chế không theo hình vuông, hình tròn như thông lệ mà vẽ hình linh chi, tiên đào
bao quanh. Khi đồ pháp lang dâng lên nhà vua rất đẹp lòng, ông thường hỏi kỹ
xem ai là người đã vẽ và thực hiện để khen thưởng bằng tiền và tị yên hồ đời
Ung Chính còn lưu lại tới ngày nay đều được giá cao trong những kỳ đấu giá.
Càn Long
Triều Càn Long là một trong những thời kỳ toàn thịnh
của nhà Thanh, đất nước tương đối an bình, các tác phường trong cung cũng đạt
được nhiều thành tựu. Vua Càn Long cũng đặc biệt chú trọng đến nghệ thuật Tây
phương nên hội hoạ, miêu tả phong cảnh, sinh hoạt ở Âu châu cũng được dùng như
một bản nền cho đồ pháp lang. Nguyên tắc viễn cảnh (perspective) đã khiến cho
hình ảnh có chiều sâu nên con người, giáo đường, thôn xóm trở nên linh động và
thật hơn lối vẽ cũ của Trung Hoa nhiều.
Đời Thanh chưa thành lập hoạ viện, các hoạ công
tuỳ thuộc vào các cơ quan bên trong Tạo Biện Xứ chẳng hạn Như Ý Quán sử dụng những
người trước đây là hoạ tượng (thợ vẽ) sau được dùng như chuyên môn. Ngoài một số
lớn thợ vẽ được tuyển mộ ở Tô Châu, phần đông các hoạ sĩ triều đình là những
giáo sĩ chẳng hạn G. Castiglione (Lang Thế Ninh 郞世寜), Attiret (Vương Chí Thành 王致誠)[17].
Dù bất cứ bức hoạ nào, họ phải trình lên bản vẽ nháp (phấn bản 粉本) để cho hoàng đế xem trước và chấp thuận rồi sau đó mới bắt đầu vẽ.
Các tranh vẽ phần nhiều do họa sĩ Tây phương phác họa bố cục, rồi sau đó các hoạ
nhân người Hán như Tải Hằng (載恒), Thang Chấn Cơ (湯振基), Hạ Kim Côn (賀金昆) … vẽ và thêm thắt chi tiết.
Các bức hoạ trên tị yên hồ bằng pha lê đời Càn
Long nổi tiếng và lan ra rất xa, nguyên liệu từ Bác Sơn, tỉnh Sơn Đông cung ứng
rồi do Pha Lê Xưởng của Tạo Biện Xứ chế tạo. Pha lê gốc màu trắng đục có hai loại
ánh sáng thấu qua và không thấu qua nên thường vẽ những hình ảnh rậm rạp, dát
vàng và khắc bằng tay. Những tị yên hồ pha lê pháp lang thường vẽ người hay
phong cảnh trên những bình hình vuông, chữ nhật rất công phu.
Ngày 18 tháng Tư năm Càn Long 20 (1755), quản lý
Việt Hải Quan là giám đốc Lý Vĩnh Tiêu (李永標) nhận được văn thư
từ Quân Cơ đại thần Phó Hằng yêu cầu lo liệu 20 chuỗi triều châu bích nha, 100
chuỗi triều châu tây nha, 300 bình ngửi, 300 hộp nữ nhi hương đến tháng Bảy đưa
lên kinh đô.
Từ hoàng đế, việc sử dụng bình ngửi phổ biến ra
các quan. Phó sứ George Leonard Staunton trong phái đoàn Macartney sang Trung
Hoa năm 1793 đã viết trong nhật ký của ông rằng:
Thuốc hút nghiền thành bột rất được người Trung
Hoa ưa chuộng. Một đại quan hiếm khi không có một chiếc bình nhỏ đựng thuốc hút
để thỉnh thoảng đổ ra một chút lên hổ khẩu bàn tay trái rồi đưa lên mũi hít vài
ba lần mỗi ngày.
Tuy nhiên ở phương nam người ta hút thuốc chứ
không nhai hay hít thuốc. Bác sĩ Osbeck có mặt tại Quảng Châu từ tháng 8-1751 đến
tháng 1-1752 cũng nhận xét rằng “Người Trung Hoa chưa thực hành việc hít thuốc
(snuff) và nhai thuốc (tobacco-chewing) mà dùng lá để hút”. [18]
Gia Khánh
Qua đời Gia Khánh (1796-1820) và Đạo Quang
(1821-1850) việc sản xuất bình ngửi giảm sút nhiều không phải vì triều đình
không còn ưa thích mà vì tình trạng kinh tế đi xuống và loạn lạc khắp nơi. Các
thương nhân, binh sĩ từ bên ngoài đến Trung Hoa thấy có nhiều sinh hoạt xã hội
đáng ghi nhận hơn những thói tục xa hoa của triều đình hay quần chúng. Bình ngửi
nay có nhu cầu cao hơn nhưng việc sản xuất qui mô đưa công nghệ này vào việc
dùng những chất liệu khác. Trong khi thế kỷ thứ XVIII thì thuỷ tinh, ngọc và đồ
pháp lang là những chất liệu chính thì từ cuối đờ Càn Long, đầu đời Gia Khánh về
sau người ta dùng những vật liệu rẻ tiền và đa dạng hơn như tre hay ngà. Loại vật
liệu thông dụng nhất là đồ sứ.
Đồ sứ Trung Hoa ở Cảnh Đức Trấn vốn dĩ hoạt động
từ thế kỷ thứ 10 và trong 800 năm kế tiếp họ là nguồn cung cấp phong phú nhất
cho triều đình. Tuy nhiên, việc làm bình ngửi bằng sứ không được giới quan viên
ưa chuộng, có lẽ vì đồ sứ thường là những vật dụng lớn như bình hay bát, tô mà
đặc tính thấu quang của các món đồ này là một ưu điểm. Ngày nay, các bình ngửi
bằng sứ thường được sản xuất theo từng bộ, có khi đến 10, 12 hay 20 chiếc cùng
loại để trong hộp bán cho người sưu tầm.
Thế kỷ XIX cũng là thời kỳ mà bình ngửi trở thành
đại chúng nhất là đồ sứ men xanh trên nền trắng đã thay thế đồ pháp lang, đồ sứ
nay có thể dùng khuôn và điêu khắc, lại thêm kỹ thuật vẽ ngược từ bên trong
hàng thuỷ tinh hay đồ pha lê.
Tị yên hồ trong cung chủ yếu do Nội Vụ Phủ chế tạo,
đời Khang Hi khéo và giản phác, sang đời Ung Chính càng thêm tiến bộ, đến đời
Càn Long thì lại càng tinh xảo, việc khắc hoạ vẽ vời lên đến mức tinh vi, đa dạng
từ rồng phượng, cá chim cho đến hoa cỏ, núi non không gì là không chi tiết từng
li từng tí. Hồ sơ trong cung nhà Thanh còn tồn trữ nhiều chỉ thị viết tay của
vua Càn Long chỉ đạo về việc làm bình ngửi.[19]
BÌNH NGỬI VÀ NGOẠI GIAO
Ban thưởng sứ thần
Năm Khang Hi 60 (1721), giáo hoàng La Mã sai sứ
thần sang Trung Hoa đã được tặng cho bình ngửi pháp lang, sứ thần nước Nga khi
sang đến Bắc Kinh vua Khang Hi cũng ban cho mỗi người một chiếc tị yên hồ pháp
lang.
Năm Ung Chính 3 (1725), giáo hoàng Benedict XIII
đã gửi thuốc ngửi tặng vua Ung Chính và năm 1727 thì sứ thần của vua Bồ Đào Nha
cũng có thuốc ngửi trong những món quà gửi sang Trung Hoa.
Năm Càn Long 4 (1739), vua Bồ Đào Nha gửi biếu một
hộp thuốc ngửi cho vua Càn Long (1736-1795). Để đáp lễ, vua Càn Long cũng gửi tặng
bình ngửi và thuốc hút cho triều đình các quốc gia liên hệ cho thấy việc sử dụng
bình ngửi trong lễ tiết ngoại giao nay là một tập tục của hoàng cung.
Năm Càn Long 55 (1790) vua Quang Trung sang Bắc
Kinh ngày 11 tháng Bảy năm Canh Tuất khi triều cận ở Tị Thử Sơn Trang, theo
danh sách đặc biệt những món quà mà Quân Cơ Xứ soạn riêng để ban thưởng cho vua
Quang Trung, ta thấy có những món sau đây:
Mãng bào |
5 chiếc |
蟒袍 |
五領 |
Đai ngọc |
1 cái |
玉帶 |
一條 |
Ngựa |
1 con |
馬 |
一匹 |
Yên cương màu vàng |
1 bộ đầy đủ |
黄韁 |
全副 |
Đai bằng vàng |
1 cái |
金帶 |
一條 |
Mão bằng vàng |
5 cái |
金帽 |
五頂 |
Phật bằng ngọc |
1 pho |
玉佛 |
一尊 |
1 thanh |
玉如意 |
一柄 |
|
Bình sứ |
1 cái |
磁瓶 |
一個 |
Trà lá lớn và nhỏ |
6 bình |
茶葉 |
六瓶 (大小) |
Trà bánh lớn |
1 bánh |
大團茶 |
一個 |
Tị yên bình |
2 cái |
鼻煙 |
二瓶 |
Quạt |
2 cái |
扇 |
二把 |
Ngự chế thi chương |
1 bài |
御制詩章 |
一幅 |
Bạc |
1 vạn lượng |
銀 |
一萬兩 |
Ngày 17 tháng Bảy khi vào triều kiến tại Đạm Bạc
Kính Thành Điện lại được thưởng thêm (gia thưởng) những món sau đây:
Như ý bằng ngọc |
1 thanh |
玉如意 |
一柄 |
Đoạn |
2 tấm |
緞 |
二疋 |
Chương nhung |
1 tấm |
漳絨 |
一疋 |
Lăng |
3 tấm |
綾 |
三疋 |
Bình Tây phương |
2 cái |
洋瓶 |
二個 |
Đĩa Tây phương |
1 cái |
洋碟 |
一個 |
Bát ơn mài |
1 cái |
漆碗 |
一個 |
Tị yên bình |
1 cái |
鼻煙甁 |
一個 |
Bồi thần 6 người mỗi người được 1 tấm đoạn, 1 tấm
chương nhung, 2 tấm lăng, 1 cái bát sơn mài, 1 cái tị yên bình, 1 bộ đồ đánh lửa
(火鏈). Cũng ngày hôm đó, ban thưởng cho chánh phó sứ Miến Điện và các đầu
mục mười người, mỗi người một chiếc tị yên hồ bằng sứ.
Ba năm sau, ngày 12 tháng Bảy năm Càn Long 58
(1793), khi tiếp đón sứ đoàn Macartney của nước Anh, quân cơ đại thần cũng
trình lên một danh sách các món tặng thưởng cho quốc vương Anh Cát Lợi George
III trong đó có một chiếc bình ngửi hình hồ lô. Chánh phó sứ khi vào triều cận
vua Càn Long ở đông lộ châu Như Ý cũng được tặng mỗi người một cái bình ngửi bằng
sứ.
Ngày mồng 10 tháng Tám, chánh và phó sứ nước Anh
đã được mời đi du ngoạn Vạn Thọ Viên, khi đang xem kịch tại đó, vua Càn Long có
thưởng cho con trai của phó sứ là cậu bé Staunton một phần thưởng gồm 25 thứ, tất
cả 43 món trong đó có 1 cái bình ngửi.
Năm sau, ngày 11 tháng Chạp năm Càn Long 59
(1794), quân cơ đại thần dẫn quốc sứ Hà Lan Titsingh và Van Braam đến Vạn Thọ
Sơn chiêm cận, trong những món vua Càn Long ban thưởng thì trừ những món đồ sứ,
thiểm đoạn, hà bao lớn và nhỏ, chánh sứ và phó sứ cũng đều được thưởng bình ngửi.[20]
Tị yên hồ trong giới quan lại
Trong quan trường đời Thanh, tị yên hồ đóng một vai trò quan trọng. Một chiếc bình ngửi chế tạo tinh mỹ có thể là một đề tài thảo luận thích thú, khen chê so sánh giữa người này với người khác. Tị yên hồ cũng còn được dùng như một phẩm vật trung gian để tiếp xúc với giới quyền quí, là món đồ để tiến thân. Người nổi tiếng đời Càn Long là Hoà Thân (1750-1799)[21] rất thích bình ngửi.
Theo Trang Cát Phát, năm Gia Khánh 4 (1799) quân
cơ đại thần Hoà Thân bị tru diệt, gia sản bị tịch thu bao gồm kim khố (kho
vàng), ngân khố (kho bạc), ngân khí khố (kho đồ làm bằng bạc), tiền khố (kho tiền),
nhân sâm khố (kho chứa nhân sâm), châu bảo khố (kho châu báu), ngọc khí
Hoà Thân đương quyền 20 năm, gia sản tích
súc còn nhiều hơn tổng số thu nhập của quốc gia trong 10 năm. Trong số tài sản
của ông ta có đến 2,390 cái bình ngửi trong đó có 48 cái bằng ngọc, hơn 100 cái
bằng Hán ngọc, hơn 300 cái bằng bích ngọc, hơn 100 cái bằng mã não.[22]
Sang thế kỷ XVIII, bình ngửi trở thành một tập
quán của triều đình và trở thành một trong những món quà ban thưởng cho đại thần,
ngoại phiên. Đây cũng là thời kỳ mà người ta đặt tên là thời kỳ “bình ngửi”
(snuff bottle period) vì bình ngửi đã trở thành một món hàng sưu tầm chứ không
phải chỉ là một vật dụng. Chúng ta có thể so sánh việc sưu tầm bình ngửi với
phong trào sưu tầm đồ cổ hay ấm tử sa, thoả mãn cho nhu cầu tinh thần hơn là
nhu cầu thường nhật. Tuy có nguồn gốc từ Âu châu, văn hoá “bình ngửi” đã pha trộn
với tập quán Trung Hoa để trở thành môt mô hình độc lập và một kỹ nghệ chế tạo
vượt xa nguyên bản.
Nhiều quan viên văn võ sưu tập tị yên hồ. Năm Càn
Long 60 (1795), tổng đốc Mân Chiết Ngũ Lạp Nạp (伍拉納) trong một vụ án
ăn hối lộ, khi bị tịch biên gia sản, danh sách tài vật có ghi một hộp bình ngửi
bằng bích ngọc 9 chiếc, một hộp bình ngửi thủy tinh 9 chiếc. Trong danh sách
tài vật của tuần phủ Phúc Kiến Phổ Lâm (浦林) cũng có tị yên hồ
bằng thủy tinh.[23]
Ngự dụng trân phẩm
Tháng Chín năm Khang Hi 55 (1716), Thanh đế ban
cho tuần phủ Quảng Tây Trần Nguyên Long (陳元龍) một cái bình ngửi
làm bằng pha lê pháp lang năm màu. Đến tháng Sáu năm Càn Long 57 (1792), tổng
binh Quảng Tây Tả Thế Vĩnh (左世永) trong những đồ ban thưởng được ban cho 1 tị yên
hồ pháp lang.
Vua Ung Chính cũng thường dùng bình ngửi để ban
cho các đại thần ở bên ngoài. Ngày 30 tháng Giêng năm Ung Chính nguyên niên
(1723), ban cho Tào Vận tổng đốc Trương Đại Hữu (張大有) các món trong đó
có một chiếc bình ngửi. Ngày 12 tháng Hai khi ban cho tuần phủ Chiết Giang Lý
Phức (李馥) một chiếc tị yên hồ là chiếc bình mà bình thời vua Khang Hi đã dùng
rất trân quí. Ngày 21 tháng Hai, thưởng cho tuần phủ Phúc Kiến Hoàng Quốc Tài (黄國材) đồ ngự dụng trong đó cũng có một chiếc pháp lam nê kim tị yên hồ, một
chiếc thiên nhiên hồ lô tị yên hồ với dụ chỉ có câu:
Thánh tổ hoàng khảo khi còn sống không ưa thích
các món quí giá kỳ lạ, những món để lại đây đều là những vật mà chính tiên đế
đã dùng, hễ đại thần hay đốc phủ quan lại nào được ân dày của tiên đế thì mới
được ban cho những món này. Nay ban cho để chủ tớ các ngươi truyền cho đời sau,
thường thường chiêm ngưỡng, cũng chẳng khác gì thấy tiên đế vậy.
Ngày mồng 9 tháng Ba, tuần phủ
An Huy Lý Thành Long gửi triệp do thiên tổng Trương Đình Tá mang về kinh cũng
kèm theo một cái hộp trong đó có một chiếc bình ngửi. Ngày mồng 3 tháng Tư, nhà
vua đặc tứ cho tuần phủ Sơn Đông Hoàng Bính một chiếc tị yên hồ và nhiều món ăn
trong cung. Liên tiếp trong nhiều kỳ ban thưởng, vua Ung Chính đã cho các quan
bình ngửi đủ biết đây là một món quà rất được quí trọng ở thời kỳ đó.[24]
Số lần và số lượng còn ghi chép về việc ban thưởng
tướng sĩ không phải là ít. Sử chép năm Gia Khánh nguyên niên, nhà vua ban thưởng
cho đại học sĩ đã về hưu là Sái Tân năm ấy 90 tuổi một biển ngạch ngự bút Lục
Dã Hằng Xuân (綠野恒春) và nhiều món quà trong đó có như ý, hà bao và
bình ngửi.
Năm Gia Khánh 2 (1797), tổng đốc Lưỡng Quảng Cát
Khánh sau khi dẹp được loạn Thiêm Địa Hội[25]
ở Quảng Đông cũng được thưởng một chiếc bình ngửi bằng ngọc. Năm 1801, tham tướng
Tôn Ứng bắt được tướng của Bạch Liên Giáo là Trương Khởi Luân triều đình cũng gửi
bình ngửi thuỷ tinh 5 chiếc, bình ngửi Tây dương 5 chiếc để ban thưởng những
người có công.
Gia Khánh 6 (1801) khi nghe tin thắng trận, vua
Gia Khánh thưởng cho Ngạch Lặc Đăng Bảo, Đức Lăng Thái ngọc bài và ngọc bàn chỉ
(玉搬指)[26],
ngọc tị yên hồ … Trong những năm đời Gia Khánh, tị yên hồ là món đồ thưởng rất
phổ biến khi tướng sĩ lập được công lao bài trừ các hội đảng và các nhóm nổi
lên ở vùng núi gần biên giới nước ta.
THỂ LOẠI
Hình dáng
Tuy chỉ là một món đồ nhỏ nhưng vì người Trung
Hoa làm thành nhiều kiểu khác nhau, chất liệu cũng đa tạp nên danh xưng cũng phức
tạp không kém. Trang Cát Phát khi đích thân nghiên cứu các bình ngửi còn lưu giữ
trong Cố Cung Bác Vật Viện (Đài Bắc) đã nhận định như sau:
Có bình ngửi hình trái cà, bình ngửi bằng pháp
lang, pháp lang nê kim, pháp lang mã não thuỵ chi, pháp lang nền hồng hoa mai
trắng, hình trái bầu thiên nhiên, mã não, đồ sứ Tây phương, ngọc xanh, vân ngọc,
thuỷ tinh, văn trúc ... Đồ ngự tứ (tức do vua ban cho) thường kèm chung với các
loại trân phẩm như hà bao lớn, nhỏ, như ý, nghiên đá, mãng bào cùng ban thưởng
một lượt cho thấy bình ngửi dưới đời Thanh cũng được coi trọng không khác gì những
đồ ngự dụng khác. Trân phẩm do hoàng đế ban thưởng hay đồ mà người dưới dâng
lên để hai bên thấu cái tình của nhau nên tị yên hồ rất hợp với đạo qua lại của
người xưa.
Lilla S. Perry liệt kê 22 hình dáng khác nhau của
bình ngửi mặc dù chỉ là những hình dáng thông thường để làm mẫu cho người sưu tầm.
Các kiểu bình ngửi
Nguồn: Perry
(1960) tr. 42
Chất liệu
Theo Lilla S. Perry, một chuyên gia nghiên cứu và
sưu tầm bình ngửi viết trong Chinese Snuff Bottles (1960) thì chất liệu
dùng để làm bình ngửi gồm 5 nhóm chính:
Nhóm 1: Thuỷ tinh bao gồm 5 loại khác nhau
từ đơn sắc đến vẽ trong hay ngoài, nhiều lớp hay làm giả đá quí …,
Nhóm 2: Đồ sứ bao gồm các loại đồ gốm, đồ
sứ, đơn sắc hay trang trí, khắc hoạ, kể cả đồ sành …,
Nhóm 3: Đồ đá nói chung các loại ngọc, thạch
anh, và đá không quí lắm …,
Nhóm 4: Đồ hữu cơ bao gồm mã não, san hô,
sừng, ngà, gỗ, tre …,
Nhóm 5: Linh tinh gồm kim loại, pháp lang
…
Việc nghiên cứu đầy đủ cho từng loại là những
công trình to lớn, chúng ta có thể tìm đọc những bộ sách qui mô của các chuyên
gia và tài liệu viện bảo tàng nhất là từ Cố Cung Bác Vật Viện (Đài Bắc hay Bắc
Kinh) nếu quan tâm, không thể trong vài trang mà nói cho hết được. Ở đây chúng
tôi chỉ đề cập sơ qua một số vật liệu chính rút ra từ sách vở có sẵn trong nhà.
Thuỷ tinh (玻璃 glass)
Ngay từ đời Hán (206 BC-220 AD) người Trung Hoa
đã biết đến thủy tinh và dùng làm vật dụng nhưng lại không coi trọng sự mỹ thuật
và công dụng của chất liệu này cho đến khi người Âu châu mang đến những lợi ích
qua những thấu kính thủy tinh dùng trong quang học.
Đời Nguyên và đời Minh cũng có đồ thủy tinh nhưng
rất ít và chỉ đến đời Thanh thì việc sản xuất thủy tinh mới qui mô. Khi vua
Khang Hi được những giáo sĩ biếu một số bình bằng thủy tinh cùng các dụng cụ
khoa học thì triều đình nhà Thanh bắt đầu chú ý đến loại chất liệu này. Một thừa
sai là De Fontanoy yêu cầu giáo hội cung cấp thêm những chuyên gia
(glass-makers) và thợ tráng men (enamellers) vì hoàng đế đã rất quan tâm. Cũng
vì lẽ đó, các nhà truyền giáo có mặt tại Bắc Kinh báo cáo về Âu châu rằng thủy
tinh do địa phương chế tạo phẩm chất kém và yêu cầu gửi sang một số chuyên viên
để giúp cho họ dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với giới quan lại và quyền quí.[27]
Bình ngửi thuỷ tinh
Nguồn: Cornforth & Cheung (2002) tr. 30, 40
Năm 1695 một chuyên gia là linh mục dòng Jesuit
tên Kilian Stumpff từ Batavia được gửi đến Bắc Kinh và năm 1696, vua Khang Hi
ra lệnh thành lập một xưởng thủy tinh dưới quyền quản trị của Tạo Biện Xứ ngay
bên cạnh khu dành riêng cho người Pháp ở Tây An Môn (là khu vực ban cho người Pháp
năm 1693 khi họ thành công trong việc chữa trị bệnh sốt rét cho nhà vua). John
Bell, một người Âu du hành đến Trung Hoa năm 1720 đã viết:
Sau mấy khúc quẹo, chúng tôi được đưa tới xưởng
thủy tinh của hoàng gia là nơi mà chính hoàng thượng đã vui thú đến thăm rất
thường xuyên. Chính nhà vua ra lệnh xây dựng và cũng là cơ xưởng đầu tiên thuộc
loại này ở Trung Hoa. Nhân vật được chỉ định trông coi và tiến hành họa kiểu là
Kilian Stumpff, một thừa sai người Đức về sau đã qua đời. Ông này là người rất
được hoàng đế ưu sủng và cũng rất nổi tiếng ở Trung Hoa về sự thông minh sáng tạo
và văn chương. Hoàng thượng rất ưa chuộng đồ thủy tinh do ông này làm nên ông
đã gửi vài món đồ tinh tế nhất mà ông ta chế tác làm quà cho Đức hoàng.[28]
Năm 1698, hoàng tử Dận Đề 胤禵 (1672-1734) thiết lập một xưởng thủy tinh riêng và năm 1702, danh sĩ
Vương Sĩ Trinh 王士禛 (1634-1711) đã xác định được rằng xưởng thuỷ
tinh được thiết lập trong cung cũng vào khoảng cuối thế kỷ XVII.
Những sản phẩm bằng thủy tinh lúc ban đầu do Thủy
Tinh Xưởng sản xuất có lẽ chỉ một màu chẳng hạn trắng, đỏ, vàng, xanh mặc dù đầu
thế kỷ XVIII cũng đã có món hai màu. Thủy tinh được cung cấp từ tỉnh Sơn Đông,
nơi đó thủy tinh được đúc thành từng cây hay ống rồi gửi về Bắc Kinh. Khi đã đến
xưởng thì những thanh thủy tinh này lúc ấy mới được những người thợ nấu chảy,
thổi và chế biến.
Những món đồ thủy tinh lúc đầu còn nhiều alkali
theo thời gian sẽ bị thoái hóa, có nhiều đường nứt (crizzling) thành mạng nằm
dưới mặt thủy tinh. Những đường tơ đó khiến cho vật dụng làm bằng thủy tinh bị
kém giá trị và người sưu tầm không ưa. Do đó hiện nay không thấy có bình ngửi thủy
tinh đề niên hiệu Khang Hi, cũng không phát triển trong đời Ung Chính và chỉ tới
đời Càn Long đồ thủy tinh mới được chú ý nhiều. Nhiều kỹ thuật mới được cải thiện
và nhiều sản phẩm làm bằng thủy tinh được chế tạo. Thủy tinh được thổi vào
trong khuôn đúc sẵn và khi còn nóng chảy thì nhiều màu được pha trộn bằng cách
xoay tròn và người thợ sẽ khắc ở bên ngoài để lộ cái lõi màu khác ở bên trong.
Đồ thủy tinh có thể đơn sắc hay chạm khắc, cũng
có loại vẽ hình bên ngoài hay bên trong và thường dễ kiếm hơn cả. Thủy tinh màu
thường được chế tạo do những công thức pha trộn nhất định và ngay từ đầu đời
Thanh đã được ghi chép trong sách vở.[29]
Đến đầu thế kỷ XIX, vì loạn lạc và tình trạng kinh tế đi xuống, đồ thủy tinh ở
Trung Hoa sa sút hẳn và chỉ phần nào khôi phục ở cuối thế kỷ này.
Đồ sứ (陶質ceramic)
Đồ sứ là một mặt hàng nổi tiếng của Trung Hoa và
triều đình Việt Nam vẫn thường đặt hàng khi cử phái đoàn sang Trung Hoa. Có lẽ
việc đi sứ và đồ sứ mà chúng ta gọi có liên hệ với nhau.
Người Trung Hoa đã chế tạo được đồ sứ từ 4000 năm
trước và đã phát minh ra nhiều kỹ thuật mới bằng cách kết hợp hai loại nguyên
liệu là kaolin và đất trắng (petuntse), nếu được nung ở nhiệt độ cao hơn 12800C
sẽ có được sản phẩm cứng và không thấm nước. Các loại vật liệu đó lại dẻo trước
khi nung nên việc nặn thành hình dạng và kích cỡ nào cũng được. Những loại sứ mỏng
khi soi lên ánh sáng có thể chiếu qua.
Bình ngửi bằng sứ
Nguồn:
Cornforth & Cheung (2002) tr. 114
Trung tâm sản xuất đồ sứ lớn nhất Trung Hoa là tại
tỉnh Giang Tây ở một thị trấn tên là Cảnh Đức. Nơi đây có sẵn vật liệu nên hầu
hết các bình ngửi làm bằng sứ chế tạo tại đây. Hầu hết các bình ngửi làm bằng sứ
vào thế kỷ XIX đều là loại rẻ tiền dành cho đại chúng không mấy giá trị. Có 4
loại bình ngửi bằng sứ chính:
a/ loại bình đúc khuôn có pháp lam bên ngoài
b/ loại bình đúc bằng khuôn với trang trí nổi
c/ loại bình màu xanh hay màu đồng
d/ loại khắc không tráng men hay nung lần thứ hai
A. Loại đầu tiên là loại thông dụng nhất. Thân bình được đúc thành hai mảnh
và được dán lại bằng đất. Sau đó người ta tô bên ngoài một lớp men thường là
màu trắng nhưng cũng có khi màu vàng, màu xanh, hay màu đỏ. Sau đó chiếc bình
được trang trí bằng pháp lam ở ngoài rồi nung lại lần thứ hai.
Trang trí các loại này cũng giống như trên bình lớn
hay trên bát đĩa thường là hoa lá có viết chữ, đề thơ. Loại bình này thường làm
theo bộ 10 hay 20 chiếc cùng loại và được gửi lên kinh đô bán cho quần chúng. Một
số bộ loại này nay còn tồn tại và được trưng bày trong Cố Cung Bác Vật Viện
(Đài Bắc). Các nắp đậy đều là đồ sứ giả san hô. Tuy có bình đề niên hiệu Càn
Long nhưng đều là đồ làm sau này. Hầu hết đề niên hiệu Gia Khánh. Chỉ có một số
ít là loại hàng cao cấp mà thôi.
Bình ngửi sứ pháp lam sản xuất nhiều đời Đạo
Quang, trang trí cũng phong phú hơn thường là rồng, chim bồ câu, chó và phong cảnh.
Cảnh Đức Trấn bị phá hủy dưới thời loạn Thái Bình Thiên Quốc trong những năm
1850s nhưng cũng có một số đề niên hiệu Hàm Phong. Năm 1864, các xưởng đồ sứ được
tái thiết theo lệnh thái hậu Từ Hi nên đồ sứ pháp lam đã phục hồi, tồn tại đến
cuối đời Thanh.
B. Cải cách lớn cuối thế kỷ XVIII là việc người ta đã chế tạo đồ sứ nhưng
lại được sử dụng giống những loại vật liệu khác như ngà, sơn mài, gỗ, san hô,
lưu li. Tuy chỉ là bắt chước để làm bát đĩa, đồ dùng nhưng chính từ đó mà các
bình ngửi trở thành đa dạng vô kể. Thông dụng nhất là bình được đúc theo khuôn với
hình long, phượng, hổ, báo hay những nhân vật thần thoại.
Những cốt làm khuôn có lẽ dùng những chiếc bình bằng
ngà. Những bình sứ sau khi đúc xong sẽ được chạm khắc lại cho tinh xảo. Hiện
nay người ta tìm được rất ít đồ có niên hiệu Càn Long mà phần lớn là đóng dấu đời
Gia Khánh. So sánh sản phẩm thời đó, những chiếc khuôn này được dùng đi dùng lại
nhiều năm vì trong những chi tiết lưu dấu nhiều vết tích giống nhau và rõ ràng
một số đã được đúc khi khuôn đã mòn.
Đại đa số các bình trong nhóm này thường đơn sắc
màu san hô, xanh nước biển, xanh dậm hay màu ngà. Cũng có khi những bình này có
pháp lang màu hồng trên màu gốc làm cốt của bình. Không thấy bình loại này đời
Đạo Quang nên xem ra việc sản xuất đơn sắc đã chấm dứt trong đời Gia Khánh.
C. Thường thấy nhất trong các loại đồ sứ Trung Hoa là loại được trang trí
bằng hai màu xanh trắng. Đây là phát kiến của người Trung Hoa từ đầu thế kỷ XIV
là khi họ đã mua được chất cobalt oxide (từ lam 瓷藍) từ Ba Tư. Chỉ có
ba loại oxides (dưỡng hoá vật 氧化物) là chịu được độ nóng cao trong tiến trình làm đồ
sứ, hai loại kia là oxide đồng và oxide sắt. Tuy nhiên những người thợ làm đồ gốm
ở Ba Tư áp dụng chưa thành công vì oxides có khuynh hướng bị chảy.
Bình ngửi men lam
Nguồn:
Kleiner (2010) P. II tr. 181
Nguồn: Perry
(1960) tr. 79
Người Trung Hoa tìm ra rằng nếu thêm chất cobalt
vào thủy tinh đã cứng rồi đem nung lại thì có thể ngăn ngừa được nhược điểm này
và thành một màu xanh tươi sáng. Cùng một cách, nếu thêm vào oxide đồng thì sẽ
có màu từ xanh lục đến màu đỏ, màu xám tùy theo nhiệt độ khác nhau. Tuy kỹ thuật
này chỉ được áp dụng ở thế kỷ XIX trong việc chế tạo bình ngửi nhưng người ta vẫn
để niên hiệu Càn Long như thói quen của người Tàu thích ghi một dấu vết cũ hơn niên
đại sản xuất.
Đến giữa thế kỷ XIX khi dùng bình ngửi được lan rộng
trong mọi tầng lớp xã hội thì các loại bình rẻ tiền không tráng men được sản xuất
với số lượng nhiều để bán cho đại chúng. Tuy nhiên vẫn có hàng men lam cao cấp
ghi niên hiệu Đạo Quang, Hàm Phong, Đồng Trị, Quang Tự do tư nhân đặt làm và
nhiều món còn ghi cả tên của chủ nhân.
D. Hàng không tráng men phải được nung lại thì mới đủ độ cứng. Một khuynh
hướng chạm khắc đồ sứ được hình thành, có lẽ tại khu vực Cảnh Đức Trấn thời Đạo
Quang là giai đoạn mà nhiều món đồ sứ nhỏ dùng trong văn phòng như ống bút,
bình phong để bàn, bình ngửi. Những món đồ này thường có ghi thời điểm và tên
người làm của từng xưởng, từng nhóm. Đây là loại hàng được nhiều người săn lùng
vì có giá trị cao.
Một loại hàng đất không tráng men khác với đồ gốm
là hàng làm bằng đất sét nung với nhiệt độ thấp (khoảng từ 800-11000
C). Đây là đồ gốm Nghi Hưng ở Giang Tô vốn dĩ chuyên làm ấm trà nhỏ nhưng cũng
có làm thêm một số bình ngửi. Bình ngửi Nghi Hưng không nhiều vì dễ vỡ và thường
chỉ có văn nhân mới sưu tầm.
Theo những chuyên gia về đồ cổ và bình ngửi, một
trong những loại hàng hiếm và quí là đồ do Cổ Nguyệt Hiên (古月軒) sản xuất. Hiện nay, bình ngửi Cổ Nguyệt Hiên phần lớn được giữ tại
viện bảo tàng. Ngoài ra một số nhỏ thì lưu lạc qua Âu Châu, Nhật Bản. Những chiếc
bình ngửi loại này nay đã thành truyền kỳ và lẽ dĩ nhiên, rất nhiều đồ giả mạo.[30]
Đá quí (precious stone)
Các loại khoáng thạch cũng được dùng để làm bình
ngửi trong đó đá cứng nhưng nhiều nhất là nephrite (nhuyễn ngọc 軟玉), jadeite (ngạnh ngọc 硬玉) và một trong các
loại chalcedony (ngọc tuỷ 玉髓).
Nephrite và jadeite thường được xếp chung vào loại
ngọc (jade) nhưng thực ra đây là hai loại vât liệu khác nhau.
Nephrite tức nhuyễn ngọc là một loại silicate (tịch
toan diêm 矽酸鹽) có chứa calcium, magnesium và aluminium, độ cứng vào khoảng 6.5 Mohs[31].
Loại này thường đục mờ, màu trắng sữa, quí nhất là loại hoàn toàn trắng hay
vàng nhưng cũng có nhiều màu khác từ xám nhạt và đậm nhạt từ xanh lục sang đen.
Ngọc đã xuất hiện và được dùng điêu khắc từ khoảng 3500 năm BC ở Trung Hoa.
Jadeite tức ngạnh ngọc thì là một dạng silicate
chứa sodium và aluminium, cứng hơn nephrite tính theo độ Mohs (6.5-7) thường
trong mờ và có những kết tinh có thể nhìn được bằng mắt thường. Màu sắc biến đổi
cũng gần như nephrite nhưng quí nhất là màu xanh táo và màu bích ngọc có giá trị
không khác gì bảo thạch.
Bình ngửi bằng đá quí
Nguồn: Cornforth & Cheung (2002) tr. 85
Jadeite được người Trung Hoa ưa chuộng và nhập cảng
từ Miến Điện vào khoảng thế kỷ XVIII, dùng làm đồ trang sức và đồ dùng nhỏ. Ngọc
khí đối với người Trung Hoa rất quan trọng, quí giá còn hơn vàng hay các loại
đá khác, lại được coi là linh thiêng nên vua chúa rất thích. Vua Càn Long cũng
nổi tiếng là người ưa chuộng sưu tầm các loại bình ngửi quí giá bằng ngọc và đến
nay người ta còn tìm thấy một số bình ngửi có mang niên hiệu Càn Long. Những
bình này được chạm khắc rất tinh vi, có cái khắc những bài ngự thi hay không khắc
gì cả.
Chalcedony tức ngọc tuỷ là tên gọi chung những
khoáng liệu trong nhóm thạch anh kết tinh (cryptocrystalline quartz group). Đây
chỉ là đá thường và mặc dù một số loại có tên riêng chẳng hạn mã não (agate 瑪瑙), hồng ngọc tuỷ (carnelian 紅玉髓), tùng lâm thạch
(dendritic 松林石). Đá này có độ cứng 6.5-7 Mohs. Vì tương đối dễ kiếm nên thạch anh được
dùng để làm bình ngửi nhiều nhưng phần đông kém phẩm chất và chạm khắc cũng
không đẹp.
Ngoài bình ngửi chế tạo từ Tạo Biện Xứ nhiều nơi
khác cũng làm bình ngửi nhưng chỉ có bình ngửi làm ở Tô Châu là có giá trị và
thạch anh được dùng để thay thế các loại ngọc trong thế kỷ XIX.
Ngoài các loại ngọc ở trên, một số vật liệu cũng
thuộc về đá được dùng làm bình ngửi, ta thấy có bích thạch hay bích ngọc (jasper碧玉), đá kết tinh họ thạch anh (rock-crystal). Đá kết tinh đôi khi có những
sợi nhỏ như sợi tóc (hair crystal) và được dùng làm các vật dụng văn phòng. Loại
này hiếm và quí hơn thạch anh trong suốt và cũng có nhiều loại tuỳ theo màu như
màu đen điện khí thạch (電氣石tourmaline), actinolite (xanh lục) hay đỏ (金紅石 rutile).
Các loại đá được coi là không quí mấy (semi-precious
stones) cũng được dùng để chế tác bình ngửi trong đó có lapis-lazuli (青金石 thanh kim thạch), malachite (孔雀石 khổng tước thạch),
tourmaline và turquoise (ngọc thổ nhĩ kỳ 土耳其). Ngoài ra các loại
đá khác như tạo thạch (皂石 soapstone), cẩm thạch … cũng có khi được dùng.
Ngà (ivory)
Những chất hữu cơ từ các loài động vật được dùng
để làm bình ngửi cũng đa dạng. Loại thông dụng nhất và cũng nhiều người biết nhất
là ngà voi. Vào thế kỷ XIX, thống kê của cơ quan ngoại thương đường biển ở Quảng
Đông cho thấy trong khoảng 5 năm từ 1868 thì có đến gần 400,000 pounds ngà voi
được nhập cảng theo đường tàu biển ngoại quốc, con số cho thấy số lượng vật dụng
bằng ngà voi mà Trung Hoa chế tạo to lớn là chừng nào.[32]
Tượng Bát Tiên bằng ngà
Nguồn: Warren
Cox (1946) tr. 84
Quảng Châu là một trong những trung tâm chính
điêu khắc ngà voi của Trung Hoa nổi tiếng về những tác phẩm rất chi ly, đẹp đẽ.
Một bộ bình ngửi bằng ngà thường được điêu khắc vô số hình người nhỏ bé, những
đài các huy hoàng và thường được khảm pháp lang bằng màu hồng để làm nổi bật những
chi tiết. Những tác phẩm này phần nhiều chế tác trong thế kỷ XIX.
Bình ngửi bằng ngà
Nguồn: Cornforth & Cheung (2002) tr. 163
Tuy nhiên những tác phẩm bằng ngà tinh xảo nhất lại
được sản xuất tại Tạo Biện Xứ ở Bắc Kinh. Những người thợ khéo nhất cũng thường
được tuyển mộ từ Quảng Châu đưa lên kinh đô vì đã có chỉ phải gửi những ngưởi
có khả năng nhất lên phục vụ trong cung. Những tác phẩm bằng ngà đều dùng những
ngà voi thượng hảo hạng và đều có khắc niên hiệu ở dưới đáy. Bình ngửi bằng ngà
cũng còn được sản xuất ở Nhật Bản và thường được phủ bằng sơn mài nhưng mẫu mã
vẫn được đặt theo kiểu Tàu và đề niên hiệu nhà Thanh nên người ta biết rằng những
bình đó được đặt làm hay là đồ xuất cảng của Nhật vì người Nhật không có tập
quán hít thuốc.
Bình ngửi bằng ngà
Nguồn:
Cornforth & Cheung (2002) tr. 158
Hai loại vật liệu cũng được sử dụng vì khá tương
đồng với ngà voi là răng hải mã (walrus) và mào chim hornbill (Rhinoplax vigil).
San hô (coral)
Bình ngửi bằng san hô có khắc chữ Phúc và chữ Thọ
Nguồn: Cornforth
& Cheung (2002) tr. 175
San hô là những chất vôi đóng lại dưới biển, được
tìm thấy nhiều ở Nhật Bản và người Trung Hoa đã biết đến từ gần 2000 năm qua và
được coi trọng vì là một biểu tượng của trường thọ.
Bình ngửi bằng san hô rất hiếm và có thể chỉ được
chế tạo trong nội cung cùng với những món đồ khác dành cho hoàng gia. Có nhiều
loại san hô, từ nhạt, hồng đến đỏ sậm và thường được phủ một lớp sáp để che đậy
những khuyết điểm. San hô vào thế kỷ XVIII chế tạo rất tinh xảo biểu lộ sự khéo
léo của người thợ, về sau không được tinh mỹ bằng.
Xà cừ (mother-of-pearl)
Xà cừ là những lớp phủ bên trong vỏ ốc mà người
ta dùng một kỹ thuật gọi là laque burgauté (khảm) để dán một lớp mỏng
lên các đồ vật nhỏ. Để làm bình ngửi, người ta dùng một chiếc bình sơn mài sẵn
và khảm từng mảnh xà cừ nhỏ thành những hình như ý muốn. Phương pháp khảm xà cừ
phát xuất từ Trung Hoa từ thế kỷ VIII nhưng lan rộng sang những vùng tiếp giáp
với biển có nhiều vỏ ốc. Nhật Bản và Việt Nam rất tinh xảo trong kỹ thuật khảm
xà cừ và đồ khảm của nước ta cũng nổi tiếng trên thế giới.
Chất hữu cơ (organic materials)
Sơn mài (lacquer)
Đồ sơn mài (漆器) đã tìm thấy trong
những di chỉ của Trung Hoa ít nhất cũng từ đời Hán và phát triển trong các triều
Nguyên, Minh, Thanh. Lacquer lấy từ nhựa cây sơn (rhus vernicifera) mọc nhiều ở
nam Trung Hoa. Nhựa cây được rút ra qua những vết cắt trên vỏ cây rồi đắp từng
lớp (layers) lên mặt của món đồ mình muốn làm. Việc này rất tỉ mỉ, nhiều công
phu và tốn thời gian. Mỗi món sơn mài phải tốn công đắp lên khoảng 150 lớp cho
đủ dày trước khi có thể khắc hình vẽ.
Bình ngửi sơn mài
Nguồn: Perry
(1960) tr. 38
Màu thông dụng nhất của sơn là màu đỏ son
(cinnabar) lấy từ thuỷ ngân khiến cho có màu tươi đẹp nhưng cũng có khi dùng
màu xanh lục, nâu. Bình ngửi sơn mài được chế tạo trong cung cùng với những đồ
sơn mài khác như ống bút, hộp, bát, bình phẩm chất tốt. Những hàng thương mại
thường chạm khắc xấu và bị dòn vỡ khi để lâu.
Kim loại quí (precious metals)
Vàng và bạc là hai kim loại được dùng làm bình ngửi
nhưng tương đối hiếm hoi và phần nhiều chỉ chế tạo trong Tạo Biện Xứ dùng trong
cung. Đồng cũng được dùng nhưng thường chỉ làm cốt lõi cho đồ pháp lang.
Hổ phách (amber)
Hổ phách (琥珀) là nhựa cây đã bị
hoá thạch, có lẫn bên trong xác những con vật nhỏ hay lá cây mà nay không còn tồn
tại. Mã não được đưa vào từ Miến Điện hay từ Nga màu nguyên thuỷ như nâu mật
ong hay màu vàng kim loại. Hổ phách cũng còn được làm giả thuỷ tinh nhưng dễ
phân biệt qua độ ấm và trọng lượng.
Bình ngửi bằng hổ phách
Nguồn:
Kleiner (2010) P. II, tr. 206
Đồi mồi (tortoise shell)
Đồi mồi dễ vỡ và mỏng nên thường chỉ dùng để khảm
lên trên bình bằng gỗ chứ không làm toàn bộ bằng đồi mồi. Ngoài đồi mồi một số
vật liệu khác từ động vật như sừng tê, sừng hươu, sừng bò, răng hay xương cá
voi … cũng có thể dùng làm bình ngửi nhưng ít thông dụng.
Gỗ (wood)
Gỗ thường bị coi là rẻ tiền nên ít người sưu tầm,
cũng được coi ngang với bình ngửi làm bằng đất Nghi Hưng vào cuối đời Thanh. Có
thể những bình bằng gỗ chỉ là những mẫu để trình lên nhà vua trước khi làm bằng
chất liệu quí hơn chứ không phải hàng để trao đổi hay sử dụng.
Tre trúc (bamboo)
Tre trúc là vật liệu rất thông dụng ở Trung Hoa
được dùng vào đủ loại đồ dùng và sinh hoạt hàng ngày, được coi như một tượng
trưng của người quân tử. Bình ngửi dùng vật liệu bằng tre có hai loại, hoặc do
thân tre vót mỏng rồi dán ép lạị thành khối trước khi tạc thành bình hay dùng gốc
tre tiện thành bình nguyên khối.
Bầu nhỏ (gourd)
Trái bầu loại nhỏ nhất là loại có thắt eo như cái
hồ lô được quí trọng nhất. Muốn có những trái bầu hồ lô, người ta nuôi trái
trong một cái khuôn để có được hình dạng theo ý muốn. Bình ngửi hình hồ lô còn một
số niên hiệu Đạo Quang.
Bình ngửi làm bằng quả bầu nhỏ
Nguồn:
Cornforth & Cheung (2002) tr. 174
Linh tinh (miscellaneous)
Một số vật liệu thiên nhiên khác cũng được dùng để
làm bình ngửi chẳng hạn ngọc trai, hạt trái cây, vỏ quít, hột đào, vỏ dừa và cả
than đá. Nhiều bình bằng vật liệu thiên nhiên này vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
Những cách thức đặc biệt
Pháp lang (琺瑯) để chỉ một loại
phó sản của thuỷ tinh (vitreous material) nhưng cũng là tên gọi những món đồ
làm bằng chất liệu đó. Người Trung Hoa dùng từ (porcelain) và pháp lang
(enamel) để chỉ cùng một loại tổng hợp hoá học (chemical compounds) đắp lên một
cái lõi nền, (vessel body) nhưng pháp lang thì dùng kim loại làm lõi còn đồ sứ
thì dùng lõi bằng đất. Sau đó cái cốt này bao gồm cả lõi lẫn hoá chất được nung
để cả hai gắn chặt thành một thực thể. Chính vì thế khi người Trung Hoa nói đến
đồ sứ người ta không dùng riêng chữ từ (porcelain) mà phải kèm theo chữ khí
(ware) hay chi tiết hơn thì kém với chữ chén (sứ), bát (sứ), đĩa (sứ) … để khỏi
lẫn lộn. Nếu như muốn miêu tả màu sắc để nhấn mạnh vào tính mỹ thuật của món đồ
thì người ta dùng màu sắc chẳng hạn thanh từ (青瓷 celadon), đấu thái
(鬪彩 enamel over underglaze blue), dứu lý hồng (釉裏紅 underglaze red), thanh hoa (青花 underglaze blue),
pháp lang (琺瑯 enamel) từ khí …[33]
Về gốc chữ pháp lang ở đâu ra thì các chuyên gia
cũng không thống nhất. Trong Đào Thuyết (陶說), một quyển sách
viết đời Thanh chép:
Pháp lang (珐瑯), còn gọi là phật
lang (佛郞) hay phát lang (發郞) nay gọi là phát lam (發藍), đúng ra phải là phật lâm (佛菻) là tên gọi quốc
gia đầu tiên đã sản xuất ra loại đồ sứ này.[34]
Theo Vật Lý Tiểu Thức (物理小識), một cuốn sách soạn cuối đời Minh thì nói rằng phật lâm được sản xuất
với số lượng lớn. Những hàng này được dát bạc và vàng theo cách của Phật Lâm.
Người Quảng Đông đọc “lâm” thành “lang” và từ đó đã thành hai chữ “phật lang”.
Đường Thư nhắc đến Phật Lâm thì gọi là “Đại Tần” (大秦) là tên để chỉ đế quốc Đông La Mã (Eastern Roman Empire).[35]
Như thế các tên Phật Lang, Phát Lam, Phát Lang đều
là tiếng dịch theo âm và đọc lên gần giống nhau. Hiện nay có hai giả thuyết về
vấn đề này. Một số học giả thì cho rằng pháp lam hay những tiếng nêu trên là tiếng
đọc trại đi của phật lâm, bắt nguồn từ người nói tiếng Quảng Đông đã đọc lâm
thành lang. Quảng Châu là cửa biển ở phía nam Trung Hoa, nơi có nhiều liên hệ với
bên ngoài hơn mọi nơi khác. Sau đời Càn Long, hàng pháp lam đã phát triển nhanh
chóng. Các nước Anh, Pháp và quốc gia Âu Tây đều đến Quảng Đông để buôn món
hàng này và bị ảnh hưởng bởi giọng nói Quảng Đông nên đã gọi kỹ thuật và hàng sứ
này là pháp lam (Fa lang ware).
Theo điển tịch ghi nhận (Hán Thư, Nguỵ Lược, Đường
Thư) thì nước Phật Lâm chính là đế quốc Đông La Mã.
Một giải thích thứ hai của một nhóm học giả khác
cho rằng pháp lang là một sản phẩm của nước Đại Thực (大食) tức nước Quỉ (鬼國) theo cách gọi của người Trung Hoa. Người Hi Lạp
gọi quân sĩ của đế quốc Đông La Mã. Người Hi Lạp gọi thành phố Constantinope với
một cái tên khác là Polin để biểu tượng sự huy hoàng của kinh đô và tôn xưng là
Istanpolin, cũng là một tên gọi khác của Byzantium. Người Trung Hoa phiên âm
Byzantium là Phật Lang Ky (佛郞機) nên pháp lang là nói tắt của Phật Lang Ky. Ảnh
hưởng và thế lực của đế quốc Đông La Mã mở rộng ra tới Arabia và thế lực đế quốc
Byzantine có nhiều giao lưu văn hoá với Arabia nên kỹ thuật làm đồ pháp lang là
do người Ả Rập (tức Đại Thực hay Quỉ quốc) mang sang Trung Hoa.
Những giả thuyết nêu trên không có giả thuyết nào
chắc chắn nhưng có một điểm chung ấy là đồ pháp lang là từ phương tây truyền
sang. Theo Lilla S. Perry, một chuyên gia và cũng là một nhà sưu tầm bình ngửi
nổi tiếng thì đồ pháp lang chỉ được nhập cảng vào Trung Hoa từ đời Thanh và có
ba loại khảm pháp lang (cloisoné), khắc rãnh phủ men rồi nung lên (champlevé)
và vẽ bằng sơn (painted enamels). Người Trung Hoa gọi loại vẽ hình này là đồ sứ
ngoại quốc.[36]
Pháp lam (Enamel)
Đồ pháp lang dù theo cách thức nào thì cũng đều
có một điểm chung. Ấy là dùng một loại vật liệu khác hợp nhất với một cái lõi bằng
kim loại. Vật liệu dùng để phủ lên trên pháp lang phải là trơn như pha lê
(nhưng không phải thuỷ tinh), nhẵn như ngọc, bóng như đá quí và tinh tế như đồ
sứ.
Nghệ thuật chế tạo đồ pháp lang được phát triển từ ngành khảm và loại công nghệ này đã xuất hiện từ ngành làm thuỷ tinh cổ thời tại Tây phương. Đồ pháp lang vì thế tổng hợp cả nghệ thuật luyện kim (metallurgist), kỹ thuật đồ đồng (coppersmith), của người thợ vẽ (painter) và chạm khắc (engraver) với phương pháp dung luyện thuỷ tinh (glass smelting) và khảm nạm (inlay work).
Bình ngửi pháp lang
Nguồn: Kleiner (1994) Plate 3
Cảnh thái lam (Cloisonné)
Cloisonné Enamels là
tên những sản phẩm mà người Trung Hoa gọi là đồ cảnh thái lam (景泰藍) hay kháp ti (掐絲) được coi như một đóng góp độc đáo của người Trung Hoa và theo thời gian cảnh
thái lam được coi như tiêu chuẩn thế giới khi lượng giá loại sản phẩm này.
Pháp lam cảnh thái là
kỹ thuật dùng cốt đồng nên thường được mệnh danh là “đồng thai kháp ti pháp
lang” (銅胎掐絲琺瑯) hay khảm pháp lang (嵌珐琅) cũng có khi gọi tắt là pháp lam (珐藍). Để thực hiện kỹ thuật này, người thợ dùng một
cốt bằng đồng, vẽ tất cả các chi tiết bằng đường mảnh rồi khắc sâu và khảm một
sợi dây kim loại lên đó, sau đó mới đổ bột enamel lên theo đúng màu sắc mà họ
muốn rồi làm cho dính vào trước khi nung. Đồ pháp lam được nung ở ngoài đất trống
và ngọn lửa được kiểm soát cho đúng mức. Đồ pháp lam phải nung vài ba lần và
khi nguội thì chà bằng than. Những chỗ không ưng ý phải mạ bằng màu .
Trong cách kháp ti thì
những chỗ khắc lõm sẽ được tô màu còn vẽ bằng sơn thì cũng như cách thức ở châu
Âu. Cốt bình bằng đồng được tráng men và vẽ hình trước khi nung. Vì đồng mềm
nên sơn ăn xuống và hình vẽ cũng thường là nhân vật, phong cảnh Tây phương.
Vẽ Trong Bình (nội hoạ)
Bình ngửi vẽ từ bên trong
Nguồn:
Cornforth & Cheung (2002) tr. 180
Một hình thức đòi hỏi khéo léo và nhiều công phu
là thay vì vẽ ở bên ngoài, người hoạ sĩ phải dùng một cây bút cực mảnh mai để
cho vào miệng bình rồi vẽ từ bên trong thành một bức tranh không khác gì vẽ từ
bên ngoài. Lẽ dĩ nhiên vật liệu chế tác phải là loại trong suốt thì mới nhìn thấy
được. Theo một số tài liệu thì kỹ thuật này khởi đầu từ đời Gia Khánh
(1796-1820) nhưng cũng bị phi bác với lý do là tuy có tìm thấy hai chiếc bình đề
năm Gia Khánh 15 và Gia Khánh 21 nhưng chỉ sau đến 50 năm người ta mới lại thấy
xuất hiện kỹ thuật này. Do đó các sử gia cho rằng hai chiếc bình này niên đại
không thật vì đời Gia Khánh và những đời sau kỹ thuật chế tác tị yên hồ rất
phát triển, không lý gì một kỹ thuật độc đáo như thế lại không tiếp tục. Việc
dùng niên hiệu chế tác đề trên bình chỉ có giá trị tương đối và không hiếm vật
dụng được ghi cổ hơn niên đại thực chế để đánh lừa người sưu tầm. Hầu hết các
nhà nghiên cứu đều đồng ý, kỹ thuật vẽ trong bình chỉ khởi đầu khoảng đời Quang
Tự.
Cuối đời Thanh, nội hoạ danh gia có những người nổi
tiếng hơn cả là Mã Thiếu Tuyên (馬少宣), Diệp Trọng Tam (葉仲三), Chu Lạc Nguyên (周樂元) được người đời tôn xưng Mã là "đăng đường
nhập thất”, Diệp là “nhã tục cộng thưởng” còn Chu là “dương xuân bạch tuyết” đều
là những lời lẽ ca tụng cả.[37]
Người Trung Hoa chia ra làm năm phái trong kỹ thuật
vẽ bên trong bình bao gồm Lỗ phái (魯派), nhân vật tiêu biểu
là Trương Quảng Khánh (張廣慶), Ký phái (冀派), nhân vật tiêu biểu
là Vương Tập Tam (王習三), Kinh phái (京派), nhân vật tiêu biểu
là Diệp Chú Anh (葉澍英), Việt phái (粵派), nhân vật tiêu biểu
là Ngô Tùng Linh (吳松齡) và Tần phái (秦派), nhân vật tiêu biểu
là Trương Thiết Sơn (張鐵山).
Hiện nay nhân vật nổi danh trong phương pháp vẽ
trong bình thì có Sách Chấn Hải (索振海) là người dung hoà
cả vẽ bên trong lẫn vẽ bên ngoài bình ngửi tạo thành một trường phái mới trong
ngành vẽ tị yên hồ.
KẾT LUẬN
Sử sách nước ta không thấy chép rõ ràng những tặng
phẩm mà nhà Thanh ban cho mỗi lần sang Trung Hoa. Tuy nhiên, trong đáng án nhà
Thanh, những chi tiết về các món ban thưởng còn tồn tại khá nhiều và vì thế có cơ
hội khôi phục lại một số hoạt động tưởng như không hề tồn tại. Theo Trang Cát
Phát, tị yên hồ là một tặng phẩm quan trọng mà nhà Thanh ban cho phiên thuộc,
không phải như những hàng hóa bình thường mang tính thông lệ mà là một dấu hiệu
để xác định sự “đôn mục” (敦睦) có nghĩa là thân thiện, hòa mục giữa hai nước.
Nói như thế, bình ngửi có thể đối với nước ta không có gì trọng thị nhưng thực
ra trong những biểu tượng ngoại giao, đây là một cử chỉ được đánh giá rất cao.
Bình thuốc để ngửi (tị yên hồ) không phải là một
sản phẩm mà người viết để tâm đến nếu không vì một sự tò mò khi nghiên cứu sử
sách. Cho đến nay, dường như số người Việt sưu tầm hay nghiên cứu về món đồ này
còn hiếm hoi nên chính các học giả Viện Sử Học đã dịch là “điếu sứ hút thuốc”
như chúng tôi đã nhắc đến trong phần mở đầu. Có lẽ đây cũng là một tập tục
không được nhập cảng từ Trung Hoa mặc dù rất thịnh hành dưới đời Thanh. Cũng
nên thêm, tuy lịch sử bình ngửi đã xuất hiện từ lâu nhưng cũng chỉ đến cuối thế
kỷ XIX mới thành một phong trào quần chúng.
Vào giai đoạn đó, người Việt đã bắt đầu ngả sang
du nhập phong khí Tây phương và đi theo những sinh hoạt mà người Pháp mang đến
hơn là bắt chước Trung Hoa. Vả lại, việc hút thuốc lào, thuốc lá của người Việt
cũng đã tạo được những phong cách riêng như điếu bát cho giới thượng lưu, điếu
cày cho giới bình dân nên không có một trào lưu nào chạy theo các sinh hoạt của
giới thượng lưu Trung Hoa cuối thế kỷ XIX.
Ngược lại, việc sưu tầm bình ngửi ngày nay vẫn hiện
hữu tại cộng đồng người Trung Hoa và một số người ngoại quốc thích sưu tầm. Số
bình ngửi rất phong phú được trưng bày trong các bảo tàng viện của đại lục hay
Đài Loan cho thấy món hàng này vẫn được ưa chuộng trong giới thượng lưu. Cũng
thật ngạc nhiên khi Mao Trạch Đông đã đích thân trông coi việc thành lập các cơ
xưởng sản xuất bình ngửi trong kỳ Cách Mạng Văn Hoá cuối thập niên 1960, đầu thập
niên 1970. Người ta nghĩ rằng họ Mao đã muốn dùng bình ngửi như một phương tiện
thúc đẩy cho tuyên truyền và chủ thuyết Mao, là biểu tượng của lao động để đi tới
tận thiện tận mỹ trong phục vụ quốc gia. Bình ngửi cũng là một niềm tự hào dân
tộc và phản ảnh công trình tinh mỹ để phô trương với bên ngoài.[38]
Tuy nhiên, việc khôi phục đó không thành công vì thói quen hít thuốc nay không
còn và chủ yếu bình ngửi chỉ được tiêu thụ như một món đồ kỷ niệm khi thăm viếng
Hoa lục.
Người ta bảo rằng sản xuất bình ngửi cũng là một
nguồn hứng khởi cho người Trung Hoa ở hải ngoại và quốc nội, tuy không tạo những
tiếng vang đáng kể nhưng cũng đã có thời được nhiều người lưu tâm. Một trong những
lý do là việc hít thuốc bột sau những khoa trương phóng đại thì cũng là một chất
liệu liên quan đến sức khoẻ. Nếu khói thuốc lá có thể gây bệnh ung thư thì việc
hít thẳng bột thuốc vào phổi hẳn là tệ hại hơn mà việc sưu tầm một món đồ thường
phải liên quan đến công dụng của nó chứ không chỉ vì hình dáng hay công phu chế
tạo. Có lẽ vì thế mà nhiều người thích ấm đất tử sa hơn bình ngửi chăng?
Nguyễn Duy
Chính
Ngày
Christmas, 2024
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Chu, Thành Như (朱诚如) chủ biên. Thanh Sử Đồ Điển (清史图典): Thanh Triều Thông Sử Đồ Lục (清朝通史图录) [12 tập] Bắc Kinh: Tử Cấm Thành xbx, 2002.
2.
Cố Cung Bác Vật Viện
(Bắc Kinh). Tử Cấm Thành Đế Hậu Sinh Hoạt (紫禁城帝后生活) 1644-1911. Beijing: China Travel and Tourism
Press, 1983 (second edition).
3.
Cox, Warren E. Chinese
Ivory Sculture. New York: Bonanza Books, 1946.
4.
Gately, Iain. Tobaco
– A Cultural History of How an Exotic Plant Seduced Civilization. New York:
Grove Press, 2001.
5. Kleiner, Robert. Images of Asia: Chinese Snuff Bottles. New
York: Oxford Univerity Press, 1994.
6.
Kleiner, Robert. The
Nordic Butterfly Collection of Chinese Snuff Bottles. Part I & II.
Hongkong, CA Design, 2010.
7.
Liêu, Văn Sinh (寥文生), Cao Vĩnh Tùng (高永松), Lý Khải Bằng (李啓鵬), Hạ Tuấn Ngạn (夏俊彥) hợp dịch. Modern English-Chinese
Encyclopedia Dictionary. Khoa Học Danh Từ Đại Từ Điển (科學名詞大辭典). Đài Bắc:
Ngũ Châu xuất bản xã, 1972.
8.
Lưu, Đạo Vinh và
Phùng Chí Bình (biên soạn) 刘道荣,冯志萍. Ngũ Đại Trân Quí Bảo Thạch Giám Thưởng 五大珍貴宝石鉴赏.Thiên Tân: Bách Hoa Văn Nghệ, 2006.
9. National Palace Museum (Taipei). Masterpieces
of Chinese Enamel Ware in the National Palace Museum (故宮琺瑯器選萃). Taipei: National Palace Museum, 1971.
11.
Quốc Lập Cố Cung
Bác Vật Viện (國立故宮博物院) Văn Vật Quang
Hoa (文物光華) Trương Lâm Sinh (張臨生), “Tế Thuyết Tị Yên Hồ” (細說鼻烟壺). Đài Bắc: Dân Quốc 79
12.
Quốc Lập Cố Cung
Bác Vật Viện (國立故宮博物院). Cố Cung Pháp Lang Khí Tuyển Tuỵ (故宮琺瑯器選萃) Ðài Bắc: Quốc Lập Cố Cung Bác Vật Viện,
1971.
13.
Tào Tuyết Cần 曹雪芹 soạn (Nhiêu Bân 饒彬 hiệu đính). Trung Quốc Cổ Điển Danh Trứ Hồng
Lâu Mộng 中國古典名著紅樓夢 (Đài Bắc: Tam Dân
thư cục xbx, 1972) [tái bản lần thứ 8, 1990]
14.
Trang Cát Phát (莊吉發). “Tị Yên Hồ Đích Diệu Dụng” (鼻煙壺的妙用). Đài Bắc: Cố Cung Văn Vật Nguyệt San 21 (tháng
12, 1984)
15.
Trevor, Cornforth
& Dr. Nathan Cheung. Chinese Snuff Bottles: A Guide to Addictive
Miniatures. Atglen, PA: Schiffer Publishing Ltd., 2002.
[1] Xem thêm “Tặng
phẩm ngoại giao của Thanh triều”, “Cung ứng phái đoàn Tây Sơn” … của Nguyễn Duy
Chính.
[2] Lệ bang
giao cũ tặng đoạn mãng (đoạn thêu rồng 4 móng) 8 tấm, đoạn mỡ 8 tấm, đạo [đoạn]
gấm 8 tấm, nhung dài lông 8 tấm, đoạn bóng 8 tấm, đoạn tơ 27 tấm, trừu mùa xuân
27 tấm. Đến nay lại thêm đoạn mãng, đoạn mỡ, đoạn bóng mỗi thứ 4 tấm, đồ sứ 4
cái, hộp quả đào sơn 4 cái, điếu sứ hút thuốc 4 cái, quả trầu sơn khảm ốc
2 cái, là chè 4 bình. Đại Nam Thực Lục, tập Một do Tổ Phiên Dịch Viện Sử Học
(Giáo Dục: 2002) tr. 581
[3] Theo Khâm
Định Đại Thanh Hội Điển Sự Lệ quyển 506-509, Lễ Bộ, Triều Cống thì lần đầu
tiên nước ta được ban thưởng tị yên hồ là đời Lê Hiển Tông, năm Càn Long 49
nhân dịp vua Cao Tông nam tuần, sứ thần An Nam đến yết kiến. Việc ban thưởng
bình ngửi thông dụng nhất là những năm triều Tây Sơn.
[4] Liêu, Văn
Sinh (寥文生), Cao Vĩnh
Tùng (高永松), Lý Khải Bằng
(李啓鵬), Hạ Tuấn
Ngạn (夏俊彥) hợp dịch. Modern
English-Chinese Encyclopedia Dictionary. Khoa Học Danh Từ Đại Từ Điển (科學名詞大辭典). Đài Bắc: Ngũ Châu xuất bản xã, 1972.
[5] Gately,
sđd. tr. 2-3.
[6]
Ngoài cây thuốc lá, một số thực phẩm hiện nay rất thông dụng cũng từ Mỹ châu mà
ra. Ớt mà chúng ta ăn hàng ngày do người Y Pha Nho mang từ Nam Mỹ đến Á châu (đầu
tiên là Philippinnes) để đổi lấy những mặt hàng bản địa ở thế kỷ thứ XVI và từ
Philippines đã lan ra khắp châu Á. Khó có thể tưởng tượng được những món ăn của
Á Châu sẽ ra sao nếu thiếu vị cay của ớt.
Một sản phẩm quan trọng hơn là khoai lang do một con buôn
Phúc Kiến đưa vào và giống củ mới này đã giúp cho người Trung Hoa có đủ thực phẩm
và là một trong những nguyên nhân nổ bùng dân số ở thế kỷ XVIII. Sau hàng nghìn
năm không thay đổi, lần đầu tiên dân số Trung Hoa đã lên đến 300 triệu người cuối
đời Càn Long.
[7] Theo báo
cáo của Ye Mengzhu, chú thích 12 trong “Coxinga and the Fall of the Ming
Dynasty” tr. 14. Tài liệu gốc Lin Renchuan “Fukien’s Private Sea Trade in the
16th and 17th Centuries” tr. 206.
[8] Tào Tuyết Cần 曹雪芹 soạn (Nhiêu
Bân 饒彬 hiệu đính).
(Trung Quốc Cổ Điển Danh Trứ) Hồng Lâu Mộng 中國古典名著紅樓夢 (Đài Bắc:
Tam Dân thư cục xbx, 1972) [tái bản lần thứ 8, 1990] hồi thứ 52, tr. 436
[9] Theo nghĩa
đen là bức bình phong chắn trước quan viên để dân chúng khỏi trông thấy, e
không phải nghĩa ở đây.
[10] Robert
Kleiner, Chinese Snuff Bottles (1994) tr. 5.
[11] Vương Sĩ Trinh王士禛, thi nhân đời Thanh, tự là Di Thượng, hiệu Nguyễn Đình, lại có tên
Ngư Dương sơn nhân, người Tân Thành đỗ tiến sĩ đời Thuận Trị (1658) làm quan
lên đến Hình Bộ thượng thư đời Khang Hi. Về hưu năm Khang Hi 43 (1704).
[12] Hương Tổ
Bút Ký, quyển V.
[13] Quốc Lập Cố
Cung Bác Vật Viện (國立故宮博物院) Văn Vật
Quang Hoa (文物光華). Đài Bắc:
Dân Quốc 79 tr. 344
[14] Nguyên văn:
士那:即鼻煙,荷蘭語的音譯,亦作士那富,士拿。鼻煙,用高級煙草和名貴藥品研末製成,不用火種,以手指粘煙末送到鼻孔,輕輕吸入,可以提神防倦。盛行於清代。此書旨在補趙之謙《勇盧間贅》之疏略,故名《士那補釋》。
[15] 鼻煙壺的妙用。Cố Cung Văn Vật Nguyệt San (Đài Bắc) số 21
(Tháng Chạp, 1984)
[16]
Dùng núi non, cây cỏ làm nền sau đó vẽ thêm người, hoa, điểu để làm nổi bật ý
nghĩa toàn cảnh.
[17]
Attiret từng viết sách miêu tả đời sống đơn điệu và khổ sở khi ông phải sống
trong cung cấm, suốt ngày đêm cặm cụi với công việc, không hứng thú nhưng cũng
không có cách nào phô bày được tài năng của mình. Ông cũng nói rằng mỗi khi được
hoàng đế ban cho các món thượng phương trân phẩm (tức món ăn dành riêng cho nhà
vua) thì ông thấy không thấy ngon, thua xa rau trái ở quê nhà còn thù lao thì
chỉ là một số vải vóc, nếu không vì muốn đem tài nghệ của ông để đóng góp vào
việc truyền bá Phúc Âm thì ông đã bỏ đi từ lâu rồi.
[18] Robert Kleiner, sđd. tr. 6-7.
[20] Trang Cát Phát, tlđd. tr. 123.
[21] Đại thần trong Quân Cơ Xứ rất được vua Càn Long sủng ái,
nổi tiếng là tham quan. Hình lấy từ Thanh Sử Đồ Điển (Gia Khánh triều).
[22] Trang Cát Phát, tlđd. tr. 125.
[23] Trang Cát Phát, tlđd. tr. 125.
[24] Trang Cát Phát, tlđd. tr. 122-123
[25] Thiên Địa Hội nhưng nhà Thanh không muốn dùng chữ Thiên
(bất kính) nên sách vở đổi thành Thiêm.
[26] Nhẫn bằng ngọc đeo ở ngón tay cái để khi bắn cung tránh
việc dây cung bật vào bị thương.
[27] Robert
Kleiner có nhắc đến yêu cầu của Jean François Gerbillon vào tháng November,
1691 (The Nordic Butterfly Collection of Chinses Bottles) Part I, tr. 4, chú
thích 1 tr. 7.
[28] Hugh M.
Moss, Snuff Bottles of China, tr.35 (dẫn lại theo
Robert Kheiner, sđd. tr. 22)
[29] Robert
Kleiner, sđd. tr. 24.
[30] Xem thêm
“The Mysterious Ky Yueh Hsuan” của Lilla S. Perry trong Chinese Snuff
Bottles (1960).
[31] Mohs scale
là thang để đo độ cứng của khoáng chất tính từ 1 (phấn) đến 10 (kim cương). Thạch
anh vào khoảng 7, hoàng ngọc 8. Xem Ma Thị Ngạnh Độ Biểu (摩氏硬度表) tại Ngũ Đại Trân Quí Bảo Thạch Giám
Thưởng (Lưu Bảo Vinh, Phùng Chí Bình biên soạn) Thiên Tân: Bách Hoa Văn Nghệ,
2006 tr. 8.
[32] Robert
Kleiner, sđd. tr. 49. Nguồn: Hugh M. Moss, Snuff Bottles of China
(London, 1971) tr. 28.
[33] National
Palace Museum (Taipei). Masterpieces of Chinese
Enamel Ware in the National Palace Museum (故宮琺瑯器選萃). (Taipei: National
Palace Museum, 1971) tr. 54 và 114.
[34] Masterpieces of Chinese Enamel Ware, Sđd. tr. 56
[35] Masterpieces of Chinese Enamel Ware, Sđd. tr. 117
[36] Lilla S.
Perry. Chinese Snuff Bottles – The Adventures & Studies of a Collector
(1967) tr. 144.
[37]
Đăng đường nhập thất 登堂入室 là
tiến lên đến chỗ cao thâm, nhã tục cộng thưởng 雅俗共賞 là người sang người hèn gì cũng đều thích thú, dương xuân bạch
tuyết 陽春白雪 là tác phẩm cao thâm tao nhã.
[38] Trevor
Corforth & Dr. Nathan Cheung, Chinese Snuff Bottles: A guide to
Addictive Miniatures (2002) tr. 19-20.