Nguyễn Đức Nhân sinh năm
1951, con trai út của một gia đình
nông dân tại Phong Nhị,
xã Điện An, Điện Bàn ( Quảng Nam.)
Năm 1966, đã có thơ đăng
trong tạp chí Vấn Đề qua sự giới thiệu
của thầy học là nhà thơ Thanh Tâm Tuyền.
Cho đến năm 1975, chưa có tác phẩm in.
“ Hiện tại, tôi an trú nơi “Am Đời Gió Bụi” tại thôn Tà
Ngào, B’lao,
Lâm Đồng. Am do vợ chồng người bạn ở California cất cho,
tọa lạc
trên sườn đồi, nhìn xuống thung lũng xanh, chung quanh
núi non,
mây trắng bao bọc. Tôi là người hàng xóm thầm lặng của
tộc người
K’hor, H’mong.
Thật thú vị! Tôi chọn cuộc đời tri túc như đạo sĩ giữa rừng
xanh”
( trích damau.org.).
Nguyễn Đức Nhân xuất hiện như vì sao lặng lẽ trong đêm bên vầng trăng úa vàng vì chờ đợi thanh thỏa được mơ ước cho đời. Ước mơ được gửi gắm hằng đêm như hồi thanh đáp ứng tiếng chuông ban chiều ngân nga lời phủ dụ. Vì sao ấy như đã già trước tuổi vì lời đã nặng chĩu đăm chiêu báo trước hình ảnh những nếp nhăn trên vầng trán. Khó khăn và khổ nạn quê nhà được phân chia trước cho những tâm hồn chịu rướm máu trước thách thức của mây thành nhiều năm sừng sững. Trái tim người dễ rung động như chuông sớm hay chiều nhưng tự chọn cung bậc thăng trầm thay cho lời thở than riêng cho trần thế. Người, tiếng hát măng tơ báo trước nỗi niềm của thế hệ mình, nghi ngờ cả cái buồn lẩn quất bên mình như người bạn thiết. Người, vừa bước vào tuổi trẻ, đã thấy ráng chiều nơi một buổi sớm chưa qua. Thời gian rảo bước cho kịp giờ đầu thai của những ước mơ còn lỡ dở. Người, cậy sương muối đến với lòng cho chai vết thương chưa kịp mưng mủ. Người đã sớm thành nhân khi thơ đến bên mình. Thơ mừng tuổi người như cành lộc mừng tuổi mùa xuân trước mặt. Thơ bước rảo bên người cho kịp với giấc mơ thời thịnh trị vừa lảng tránh.
1
Cuộc khảo nghiệm về cuộc đời là cái nhìn đầu đời của người về thế giới
chung quanh chứa đựng những nguyên tố của nỗi buồn mà bao người không chia sẻ
hết. Người ta có thể phải kiên nhẫn đợi chờ sự phát giác mới cũng như không thể
ngăn chặn được nỗ lực song song của chính họ vùi lấp bằng sự lặp lại vụng về.
Cuộc đời được lặp lại nơi mỗi người và chính nơi người với sự mẫn cán uể oải
như tâm trạng phản chiếu nơi chính họ. Cuộc đời với những sáo ngữ mà nó buộc
phải mang theo trên đầu môi hay đầu ngọn bút, được di lưu như phấn hoa trước
gió, còn đọng lại đó đây như chút ký thác của thời đại gửi chung cho mọi tâm
hồn còn sót lại. Hương thặng phấn tìm
thấy nơi tinh anh hồn người nên được giữ lại trong lòng bao dung cái đẹp trí
tuệ của đời mang đến. Người đến với đời bằng ánh sáng của tâm hồn và xúc cảm
như vết dao ăn sâu xuống vùng tri thức mới rạng hồng. Thơ là những bước chân
chậm mà chắc, vững mà khoan thai, tiến về phía trước như vừng đông chọn hướng
dù dấu vết của thời đại chưa thể buông bỏ.
Thơ đã xa lạ với nét hồn nhiên của tuổi vì đây là tự dạng của tâm hồn người
vừa rời khỏi cái khuôn định mệnh. Không thể tránh được sự tài định này, khi mà
ngay cả giấc mộng mỗi người cũng chịu thực tại xâm chiếm. Từ đây, người đọc
đương thời có thể ghi nhận phản ứng, nếu có, của người trước sự thôn tính này
như là bản chất của một tâm hồn duy cảm.
Nguyễn nằm trong sương gió mà không nghĩ đến tàn phai vì người kết ước với
thiên nhiên về những mùa đào không năm tháng. Trước khi được mệnh danh (hay tự
nhận) là ẩn sĩ, Nguyễn đã gửi lại lòng trần cho thành phố lộng lẫy chuỗi cười
nhịp khóc, tìm về chốn hoang vu như tìm về chính lòng mình, như cõi nguyên
sinh. Biệt cư không phải là lánh đời mà là tìm về với cuộc đời giấu mặt sau
rừng khuya im tiếng. Tương tự một cõi nguyên xuân quen thuộc mà Bùi Giáng chưa
được lúc trực tiếp đặt chân sau một đời tìm kiếm.
Ẩn sĩ không phải là cách thu mình hay mạnh mẽ khước từ thế giới được thiết
lập tân kỳ mà lui vào chốn tịch mịch đăm chiêu. Nơi mà Bửu Ý vén màn sương
chiều cao nguyên để chỉ ra một cách sống nhưng không ở bên lề thực tại đầy
vướng mắc.
Nguyễn không là một bản của mẫu người này, mà như một nguyên dạng của sự
dung dị được chắt lọc thấu đáo như ánh trăng còn sót trong chén trà đã
cạn.
Nguyễn đã hoàn tất một giấc mộng khi giấc mộng lớn chưa qua. Người đã làm
xong cuộc trở về với chính mình khi năm tháng còn trải dài trước mặt.
Nguyễn Đức Nhân và Nguyễn Đức Sơn, không hẹn mà cùng giao ước với núi rừng
về một triết lý sống chung như người minh triết. Không nghi ngờ hay ruồng rẫy
tha nhân, cuộc sống của họ là bài ca phong nhiên, ca ngợi sự bao dung của đất
trời, khác với điều suy nghĩ của Bửu Ý mang ý nghĩa một sự gửi gắm rắn rỏi như
một nhát dao, xem núi rừng là “ bối cảnh
hữu dụng cho khởi đầu và kết thúc của hành động.” ( Bửu Ý, Con Người Tịch
Mịch, Văn, số 126, 15.3.1969, tr. 52)
Vào thời mà núi rừng không còn là bóng mát của những người muốn lấy kinh
nghiệm tại nơi xa lánh với guồng máy cơ trí, con người không dễ gửi phận buồn
vui cho trăng rừng thay cho ánh đèn trên bàn viết. Tiếng bánh xe nghiến răng
trong khuya là tượng hình của giấc mộng dữ hằng đêm mặc cho ánh trăng đã mang
màu sốt vàng da. Người của văn chương và cảm tính nhìn vào cuộc đời đã sắc sảo,
hoài nghi hơn xưa, khi không còn dung túng cho núi rừng chiếm cứ tâm hồn người
bằng sự quyến rũ huyền hoặc của việc thoát ly thực tại. “ Ngàn thông đang cười sặc sụa bên tai, tiếng thác đổ như búa bổ trong
đầu. Trật tự bị phá vỡ, phá vỡ cùng khắp, không vãn hồi nổi. Phải đốc thúc phá
vỡ đến chỗ tất thành, từ đó trật tự mới có cơ trùng sinh. Thác và rừng sẽ lui
về yên vị và Đại nhạc hội sẽ phục hồi nguyên nghĩa” ( Bửu Ý, Con Người Tịch
Mịch, sđd. tr.60.)
Núi rừng đã nổi dậy, hay nói cách khác, dưới mắt họ, đã xúi người con của
rừng núi dập tắt ngọn lửa tịch mịch trong lòng. Họ muốn thay bằng ngọn lửa
khác.
Những người con của rừng núi như Nhân ( Nguyễn đức) như Sơn (Nguyễn đức), và cả Bùi Giáng, đã giữ
núi rừng của họ như giữ lửa trong đêm canh thức.
Thời của Nhân, của Sơn, rừng núi đã cựa mình vì sự quấy rầy hay nghi hoặc
nhưng rồi núi rừng vẫn kín tiếng, giữ im lặng như xưa. Không vì sự ly gián hay
tị hiềm mà đổi ý. Họ - Nhân và Sơn – là những người làm thơ, giữ vững được bản
chất cho núi rừng bằng kinh nghiệm làm người của chính họ. Thơ đã che chở cho
núi rừng và truyền lưu cho chúng một sức mạnh mới, không cần dựa vào sức mạnh
của một trật tự nào đó mà họ đã mặc nhiên từ bỏ. Từ nguyên sơ và khi nhận thức
ra đời, núi rừng đã thoát ra khỏi thiên nhiên để làm nên một không gian khác,
phong phú trí tuệ, dồi dào hương sắc sự sống. Núi rừng như bước ra khỏi hoang
sơ nhưng tương tự cái nôi của kinh nghiệm làm người lánh xa trật tự và cơ cấu.
Núi rừng đã hàm ý an nhiên bằng việc để yên người sống bằng suy nghĩ của chính
họ, rung động bằng trái tim của chính họ, khuyến khích họ tự tìm kiếm môi
trường giao cảm trong lãnh địa của mình bằng những khám phá của riêng họ. Núi
rừng không nhận quyền làm chủ mà trái lại, lắng nghe, chiêm ngưỡng cuộc hóa
thân kỳ diệu của ngôn ngữ từ nơi những người khách văn chương. Và, núi rừng góp
lời muôn thuở bằng sự im lặng một đời.
Điển hình là rừng núi đã làm nên truyền thuyết khi đón người đến Phương Bối
năm xưa, mở cửa rừng khuya đón người mở cuộc giao hòa của nhận thức. Đêm rực
sáng lên khi trí tuệ bập bùng. Con người phát giác ra trái tim rực ấm vì mạch
máu dâng lên những ngôn ngữ của tinh thần cảm thông và phụng hiến. “ Trăng cũng tuyệt đối im lặng và rừng cũng
tuyệt đối im lặng. Nhưng mà trăng với rừng quả là đang nói chuyện với nhau, nói
chuyện bằng thứ ngôn ngữ gì chúng ta không thể nào biết được...” ( Nhất
Hạnh, Nẻo Vế Của Ý, Lá Bối, 1967, tr. 47).
Rừng núi đã thủ thỉ với họ về những lời của sự im lặng cũng như sự hiện
diện của khoảng không, và đàm đạo với khách văn chương về một mùi hương của
trăng khuya rơi trên vai áo. Núi rừng không còn là không gian cách biệt nhưng
sự có mặt của con người đều mang ý nghĩa xâm nhập, chiếm cứ. Nó thực sự là một
không gian mở, và chỉ người đến với núi rừng mới bị dư luận hoài nghi. Và, ngay
cả rừng khuya, khi đêm nuốt chửng vạn vật, cũng là sự mời gọi tìm kiếm. “ Khu rừng hùng mạnh, và dưới ảnh hưởng của
trăng khuya, tự tạo cho mình một hấp dẫn lực kỳ lạ. Có một sức gì thu hút phát
xuất từ khu rừng, một cái gì rất hoang dại và cũng rất hùng biện ( Nhất Hạnh,
Nẻo Về Của Ý, sđd, tr. 48.)
Điều gọi là sức mạnh của núi rừng chính là sự quyến rũ khác thường của một
thực thể có mặt cả bóng lẫn hình. Rừng núi như thứ mùi hương để lại khi chỉ còn
là hình ảnh trong ngăn ký ức. Sự mời gọi đó cũng là thứ vô ngôn. Tiếng nói của
núi rừng là sự lặng im và quyến rũ người cũng bằng việc không lên tiếng. Chính
núi rừng đã khiến im lặng thành một giá trị tự thân, một nét trang điểm kín đáo
đến mức phải trông cậy đến trí tuệ.
Rừng núi còn là cõi mơ hồ đến mức huyền hoặc trước khi chất xám và trái tim dẫn con người khám phá. Nhưng con người đem ánh sáng đến cho rừng sâu, mặt khác lại phủ lên nó vẻ hoang đường huyền bí. Bóng tối của rừng thẳm do con người lập nên, phá vỡ, rồi tái tạo không ngừng bằng trí tuệ và cảm xúc. “ Thế giới của rừng núi quả đã khôi phục được quyền hành của nó. Ta có thể cảm thấy được những bước chân chậm rãi của chúa sơn lâm và tiếng xào xạc của khu rừng tranh cao quá đầu người khi chúa sơn lâm đi ngang. Rừng núi hết sức yên lặng, nhưng cũng hết sức linh động “ ( Nhất Hạnh, Nẻo Về Của Ý, sđd. tr. 42.) Những con người của núi rừng ấy để mặc cho cảm xúc và linh tính dẫn đường, như cách riêng, cảm ơn cánh tay rộng rãi dành cho hơi ấm. Họ không đến để làm công việc nhận diện lại núi rừng nhân một hành động tương tự như thế với bản thân bên ngọn lửa khuya chứng kiến. Núi rừng sẽ hiện thân trọn vẹn và chân thực vào lúc con người cảm thấy không còn nương tựa vào điều gì. Núi rừng vẫn còn đó, nguyên vẹn như khi có mặt.
3
Thuở Sơn ( Nguyễn đức) lên cao làm bạn với núi rừng, thơ đã nghiêng đổ như
theo cơn cuồng túy. Cái say không men thả lỏng tâm hồn như thúc giục rừng già
đừng im lặng nữa. Sơn, theo cách riêng, nhập làm một với núi rừng như thấy
trong nhau một mạch huyết luân lưu. Sơn phó thác tình cảm ấy cho người, thay vì
chính mình lên tiếng. Núi rừng và Sơn chung một định mệnh. Nói đúng ra, Sơn
ràng buộc rừng vào định mệnh của chính mình.
Núi rừng im lặng. Sơn ồn ào. Núi rừng nhũn nhặn, trầm tư. Còn Sơn luôn
sỗ sàng, ngạo nghễ. Ôi nắng vàng dòng
thác Gougah / rừng và chị ôm nhau hát /
sẽ đẻ ra một đứa con / rừng và chị ôm
nhau chết ( Nguyễn Đức Sơn, Đêm Thăm Bạn Sắp Đẻ Ở Di Linh). Không phải là
lời chúc dữ, mà chỉ là Sơn nhắc đến định mệnh chung giữa rừng với người do
chính anh ràng buộc. Mối dây này nghiệt ngã như sợi dây tự ải. Khi rừng già thấp xuống thấp xuống / buổi
sáng chị tắm sương mù / buổi chiều chị đốt cỏ hong đời chị ( Nguyễn Đức
Sơn,bđd.)
Sơn đã đóng góp vào sự có mặt của rừng, bản ngã của chính mình, như sự tận
hiến. Rừng núi không còn vô danh khi Sơn đặt chân, không còn bí mật, thâm u vì
cách chiếu cố của người nghệ sĩ. Từ đó, Sơn lên tiếng thay cho rừng, truyền đi
một thông điệp đau xót về thân phận con người mà lẽ ra con người phải nhân danh
chính mình lên tiếng. Ta thức giấc lúc
trăng tà biến mất / cả khu rừng mù mịt bóng sao rơi / ta lẩn quẩn suốt đời trên trái đất / chợt thấy lòng đau đớn rất xa xôi (
Nguyễn Đức Sơn, Mất Dấu Trăng Sao, Khởi Hành, số 59, 23.4.1970, tr. 9.)
Trở lại với Nhân ( Nguyễn đức ), người học trò mà về sau đã trao tập vở cho
núi rừng, đã nối lời thơ bằng những dòng lục bát vương vấn ngôn ngữ và hình ảnh
được thời đại ký thác. Thơ tập lớn lên từ sức mạnh kết tập tự muôn phương theo
đúng quy luật của sự trưởng dưỡng. Người đã sớm bước vào đời bằng giấc ngủ quên
với hy vọng lúc trở về cũng bằng cánh mộng. Cuộc thoát ly thực tại “hợp thức”
này thực chất là nhận thức khai mở về cuộc đời và cũng là cuộc thám sát đầu đời
của chàng tuổi trẻ về chính mình giữa tiếng réo gọi của những đợt sóng ra khơi
lẫn ngọn thủy triều ước vọng. Anh ơi !
con nước về nguồn / anh ơi ! đừng hỏi nước buồn hay không ? Chàng đã đặt
tuổi trẻ vào một nước cờ như một kẻ am tường trò chơi trí tuệ. Chàng đã chọn
chính mình trong việc thử phận lênh đênh trong lúc bao người đồng lứa còn ôm
chặt giấc mộng lành. Cuộc thử nghiệm ban đầu của chàng mang tính chất thúc đẩy,
gợi sáng của ý thức nhiều hơn là cảm xúc tự thân. Nơi chàng, trí tuệ đã thay
mặt cho rung động của trái tim, để khởi đầu một cuộc lên đường, mà có lẽ với
gã, là hình ảnh một cuộc dấn thân, một cuộc mặc cả khó khăn với ngôn ngữ diệu
vợi. Đêm về vỗ sóng ngàn phương / tim tôi
đập cánh mù sương máu nhòa.
Nếu đúng thế, ít ra chàng đã dành một phần tuổi trẻ cho sự ngã giá chặt chẽ
này khi biểu trưng của ngôn ngữ vẫn là ưu thế dưới mắt chàng. Bấy giờ, thơ
thuần túy là sự kết tập vị trí mới của ngôn từ cùng ảnh tượng một cách thuần
nhất. Những rung động thuần thành đều
phải khép mình trong kỷ luật diễn đạt mà chàng đã mẫn cán như bầy
ong hút nhụy. Đêm về vỗ sóng ngàn phương
/ tim tôi đập cánh mù sương máu nhòa.
Người học trò ấy bước vào cõi thơ đem theo ý thức về cuộc đời tương tự ánh
sáng bên bàn học. Thực tại của chàng là thực tại được thẩm lậu qua tầng trí tuệ
chịu thử thách khốc liệt từ khách quan nghiệt ngã. Người học trò đã khước từ vô
tư để đánh đổi lấy cái trầm ngâm, đa mang của con người xây dựng bản ngã và bằng
bước chân kẻ du tử. Tôi về lay động thằng
tôi / ngủ trên cánh én da sồi san hô. Trở về với bản thân có ý nghĩa của
cuộc đi xa thứ nhất trong đời, một cuộc viễn du đích thực khi tầm mắt chưa ra
ngoài khung cửa lớp. Có thể Nhân khởi sự cuộc hành trình này nhân sự gợi ý từ
xa. Hôm nay tôi kiếm vào tôi / bon bon xe
chạy trong trời ô sương ( Viên Linh, Trên Đường, Khởi Hành, số 127,
27.10.1971, tr. 9.) Đường trở về, đối với họ, trở nên thăm thẳm. Với chàng, là
sự phát giác ngỡ ngàng trước điều chân giả. Cơn
mê sực tỉnh, tế bào sáng trăng. Còn với người, cái tìm thấy cũng lạc loài
như cánh chim rời tổ, đến chiếc bóng cũng không để lại trên đầm lạnh. Từ đây, không thấy không nghe / kiếm tôi, trong
những vết xe hàng ngày ( Viên Linh, bđd.)
Nhưng, trở về không phải để xác nhận sự hư vô như vết hằn in trên trán kẻ
tội đồ. Chọn bước đầu đi vào ý thức, người làm thơ tuổi học đã làm trọn công
việc của mình một cách nghiêm chỉnh trước trang sách giáo khoa trước mặt. Ý
thức lên đường đã đặt chàng vào vị trí tương tự
một màu hoa, thu vào việc gợi ý cõi lòng xôn xao. Ý thức khiến lòng
chàng dao động mà không đem lại ủ ê như người đi trước. Cõi này đèn sáng đêm đêm / thân tôi đã tắt lửa bên giường chiều (
Viên Linh, Khởi Hành, số 103, 6.5.1971, trang bìa,)
Chuyến trở về của người đi trước mang về nhiều gia vị cay đắng cho thực
phẩm trần gian. Ý thức càng sáng thì càng soi tỏ thực đơn khó nuốt dành cho bữa
tiệc đời. Về đây đối diện thân xưa / chim
muông trên đỉnh, ngựa lừa dưới chân ( Viên Linh, Hình Nhân, Nghệ Thuật, số
1, 1.10-7.10.1965, tr. 22.) Trở về là sự thắp sáng tâm hồn mà không nhằm thiêu
hủy những gì phát giác. Thơ đã giúp họ điều tiết cái nhìn về chính họ trước khi
rảo bước về phía trước. Thơ không giữ chân họ trong tro tàn của những điều thức
giác. Người làm thơ không nghĩ đến việc nguyền rủa bóng đêm khi đã có ánh sáng
trong tay. Bàng hoàng một kiếp chim dơi /
lưng khom dáng thú bụng phơi hình người ( Viên Linh, Hình Nhân, sđd.)
Với Nhân, cuộc trở về không bội phản
chàng như khi đã rắp sẵn một ước hẹn chia tay. Cái nhìn sơ kiến về mình của
chàng nhiều thi vị hơn là khám phá ra
điều chua xót. Ảnh tượng trong thơ cũng mông lung bóng dáng như giấc chiêm bao
gửi gấm. Tôi về lau nhẹ chiêm bao / cơn
mê sực tỉnh, tế bào sáng trăng. Giấc Trang của con ngưới thời đại chỉ tương
tự cái ngả lưng của ý thức trên thơ. Vì với Nhân, chiêm bao ở bên kia bờ ý thức
và chỉ giúp ta phân biệt với thực tại. Cái thực tại lẩn khuất mà khi trở về với
mình, chàng chưa gặp được chân diện tỏ tường. Tôi về lay động thằng tôi / ngủ trên cánh én da sồi san hô.
Nhân đã ra vào giấc chiêm bao với bước chân du tử, nghĩa là chàng không hề
kiếm tìm một định sở. Bước chân chàng là bước chim non. Lấy tiếng hót thay cho
kinh cầu cho thực tại.
Sánh với người đi trước, là tiếng thở
dài não nuột khi đối bóng bên đèn; tiếng thơ đầu đời của Nhân tựa như ánh mắt
trầm ngâm sớm bắt gặp nơi tuổi đời mới lớn
hồn tôi chết đắng chuông cao
gió đưa trăng bãi, ngàn sao chia
buồn
anh ơi ! con nước về nguồn
anh ơi ! đừng hỏi nước buồn hay
không ?
đêm về vỗ sóng ngàn phương
tim tôi đập cánh mù sương máu
nhòa
loài dơi cút bắt sơn ca
chỉ còn hơi thở nở hoa trên đời
tôi về lay động thằng tôi
ngủ trên cánh én da sồi san hô
tôi về lau nhẹ chiêm bao
cơn mê sực tỉnh, tế bào sáng
trăng
( Nguyễn Đức Nhân, Chiêm Bao Cuối Đời, Vấn Đề, số 14, 09.1968, tr.86.)
Dấu vết lưu lại trong tâm hồn người, hồn nhiên và tĩnh lặng như vết răng
trên trái táo chín mùa, hiển hiện như chiếc bóng trở về với người khi đêm
xuống. Thuở mà ngôn ngữ chuyển mình trong thơ như con sông thay dòng chảy. Sự
đổi thay cần thiết cho sự tiếp tục có mặt dù của một dòng sông. Thơ cũng nhập
vào biện chứng tồn tại ấy để tiếng nói người mang dấu vết mùa gặt mới. Thuở
Nguyễn Đức Nhân làm thơ, dòng mới của con sông thơ đã định vị và thuộc về lịch
sử; còn chăng là bóng dáng người khơi nguồn dòng thơ khởi sự khắc khoải về định
mệnh của dòng sông. Ngôn ngữ và ảnh tượng không thể là những phù vật nổi trôi.
Trên đường trở về với chính mình, Nhân tự nhận làm kẻ thu nhận ánh sáng thừa
lưu của mặt trời xế bóng. Kẻ thừa lưu ấy đã tái hiện, có thể là lần hiếm hoi,
về hình ảnh một cuộc đổi dòng, mà nay chỉ còn là dư vang của bước chân đi tới.
Dòng sông của Nhân là tượng hình một quy ước. Chỉ có màu đen là mang dung
mạo mới của một mối bất bình sẵn sàng
bùng vỡ, màu của vô minh bao phủ thế giới quan của bao người. Dòng sông đen
chưa hẳn là khám phá mới của Nhân nhân chuyến trở về nhưng tập hợp được một số
ành tượng tân kỳ làm nên một chuỗi “ âm thanh” nền tảng mà thể thơ mong đợi. Chiếc sao hôm gõ cửa cuộc đời / giòng sông
đen đưa lưỡi dài thơm cánh gió.
Dòng sông đen của Nhân là hình ảnh thực của dòng sông định mệnh không chỉ
luân lưu trong huyết quản mỗi người. Bóng dáng của dòng sông bao trùm lên kiếp
sống như thiên tai mà mỗi người hầu như chia phần đồng đẳng. Hơn là người làm
thơ, kẻ học trò đã đứng lên, lên tiếng kết tội điều mặc khải. Trong đền xưa / trăng xóa vạn câu kinh. Trăng, không chỉ là bầu sữa mộng của thi nhân
( trăng vú mộng của muôn đời thi sĩ – Xuân Diệu) mà còn là nguồn suối trữ tình
chảy ngược về huyết quản. Trăng vừa hiện thực, vừa là hình tượng của ảo ảnh,
của cái có mơ hồ và cái không vững chắc. Trăng triệu dụng được trái tim và lập
nên một biên cương, sai khiến và phong tỏa hình hài. Dòng sông đen của Nhân
xuất thân từ ý thức nhưng đã mau mắn tiên tường về hiệu quả từng sợi tơ trăng
ràng buộc lòng người như dây thất tình quấn quít bên mình.
Nếu ngược về nguồn, nơi dòng sông đen xuất phát, là ý thức về thân phận
chìm trong buồn tủi, bất bình của màu da. Một
người da đen một khúc hát đen / bầu trời đen sâu không cùng / những dòng nước mắt
( Thanh Tâm Tuyền, Đen, trong Liên Đêm Mặt Trời Tìm Thấy, 1964.) Người chọn màu
da làm một biểu tượng đã khai sinh nỗi buồn kẻ nhược tiểu u uất bằng thanh âm.
Nỗi buồn đen lạ lẫm như hương xa nhưng khơi dậy giác quan bằng sự nhiếp hồn của
tiếng kèn tình tự. Chọn thế giới va chạm
những loài kim réo gọi. ( Thanh Tâm Tuyền, bđd.)
Dòng sông đen của Nhân là dòng sông của ý thức chờ đợi khách qua sông.
Không còn là sự lựa chọn quá giang mà là cuộc đấu tranh trí tuệ không kém nhọc
nhằn của mỗi người lữ khách. Cùng mang
chung màu của biều tượng, người làm thơ học trò sớm về với quê hương trong nỗi
trằn trọc, thao thức về một ý thức chung cần thiết.
Những lúc chàng thử nhẹ ướm chân vào dấu chân
người đi trước, cũng là lúc chàng thực hiện cuộc thí nghiệm hồn nhiên của ý
thức dần khai mở dẫu mang theo chút bóng dáng mơ hồ người đi trước. Bên kia sông / im lặng / bên này sông / chiêm bao. Trầm tư quả đã làm xôn xao
giấc mộng tuổi thiếu niên giữa lúc nó đã là một đời sống của người đi trước. Nơi tay người / nhiệm mầu then cửa / mở hay
đóng / để chúng lui về nơi xuất phát / một mình tôi / bên đôi đường đóng mở /
giữa hai nẻo xuống lên / bàng hoàng / vang động tiếng chân xưa/ gọi về / tỉnh thức ( Nhất Hạnh, Tiếng Đập Cánh
Loài Chim Lớn, 1967.)
tượng đá hôn linh hồn vào cõi chết
chiếc sao hôm gõ cửa cuộc đời
giòng sông đen đưa lưỡi dài thơm
cánh gió
trên đá xanh loài quỉ hiện nguyên
hình
trong đền xưa
trăng xóa vạn câu kinh
thềm đại thể
ta là tất cả
trong màu đen màu đen
trong đêm đen đêm đen
trên chiếc cầu
một chàng trai mỉm cười
bên kia sông
im lặng
bên này sông
chiêm bao
sự sống và chết
ông lái đò ngồi im
( Nguyễn Đức Nhân, Trên Giòng Sông Đen, Vấn Đề, số 14, 09.1968, tr. 86)
Người ta có cảm tưởng chàng khua chèo dọ dẫm trên dòng thơ khi còn mải tìm
cho thuyền một bến đậu, ít ra trước mặt. Chiếc bóng của người đi trước to lớn
dường nào, nhưng dường như chàng hiểu hơn ai về hình ảnh cây non cớm trong bóng
cả. Như thế, những bài thơ đầu, ngoài dáng vẻ của nét bút trinh nguyên còn nồng
nàn hương vị của ước mơ gửi gắm. Những xúc động chưa kịp ráo trong lòng đã chịu
bao rộn ràng của ý thức vừa trỗi dậy như mầm xuân vừa ý. Những ngôn ngữ chưa
kịp lột xác để tái sinh. Những ảnh tượng chưa kịp đầu thai nhận kiếp mới.
Có thể chàng tuổi trẻ không ngăn được bước chân muốn đi nhanh hơn những
người có mặt trên đường hơn là chàng vừa ý với nhịp tuôn trào của nguồn cảm
xúc. Tôi bắt đầu lắng nghe từng tế bào
thay đổi / tôi bắt đầu lắng nghe từng nhịp bước con tim. Trầm tư, buổi đầu
đã giúp chàng trụ vững trong tự tin nhưng lại khiến chàng xa dần cõi mà thơ ngự
trị. Thơ không là một cố thể mà chuộng lẽ đổi thay, không thể tái diễn. Người
làm thơ tuổi học, vội tìm một diện mạo thuộc hình tướng cho thơ trong khi thơ cần
có mặt đích thực bằng phong cách. Cho nên những trầm tư chưa kịp thăng hoa và
còn nguyên dạng nguyên liệu trong thơ, vẫn chỉ thuần là ngôn ngữ. Tôi bắt đầu lắng nghe bước chân tiểu ngã về
trong đại ngã.
Nhưng, trước khi vào cõi thơ, trầm tư vẫn là của báu của mọi người và cần
thiết cho mọi cuộc lên đường, dầu là bước vào thi giới. Bằng cách nào đó, người
chưa qua hết tuổi thiếu niên đã để lại trong thơ hầu hết tuổi trẻ của mình hệt
như bao người đồng lứa đã làm cho chính họ. Trầm tư của chàng là tài sản hiếm
hoi của tuổi thiếu niên trước khi nghĩ đến trường hợp của một mùa bội thu trong
cõi thơ có được.
Cuộc trở về với bản thân khiến chàng sớm thành triệu phú tâm hồn, trái tim
đầy ắp. Giác quan mẫn tiệp của người như một thứ xúc tu bám chặt lấy cuộc đời
với ý thức của người tự chủ. Chàng có mặt giữa đời bằng sự lắng nghe, một hình thức soi sáng vạn hữu bằng trí tuệ cá nhân,
không bằng ánh sáng vay mượn từ trang sách. Con dơi mù đã vượt qua đêm dài bằng
năng lực và ý chí tự thân, riêng chàng đã đốt nốt trang kinh với thái độ của
người quyết rời xa bóng tối
tôi bắt đầu lắng nghe những lời
vang trong gió
tôi bắt đầu lắng nghe tiếng rã
mục của thời gian
tôi bắt đầu lắng nghe loài mối
gặm nhấm thế giới ba ngàn
tôi bắt đầu lắng nghe hơi thở
nghèo trăn trối
tôi bắt đầu lắng nghe từng tế bào
thay đổi
tôi bắt đầu lắng nghe từng nhịp
bước con tim
tôi bắt đầu lắng nghe sự dừng lại
của tâm hồn
tôi bắt đầu lắng nghe tâm hồn
mình căng trên mặt phẳng
tôi bắt đầu lắng nghe bước chân tiểu
ngã về trong đại ngã
tôi bắt đầu lắng nghe
tôi bắt đầu lắng nghe
bước chân người yêu trở về ngự
trong lòng vạn vật
tôi với người yêu là một
tôi với anh là một
tôi với em là một
một như hạt cát
như con dơi mù bay quạng ngoài
kia thể nhập
vào lòng mẹ
tôi bắt đầu lắng nghe...
( Nguyễn Đức Nhân, Tôi Bắt Đầu Lắng Nghe, Vấn Đề, số 14, 09.1968,
tr.88-89.)
Chỉ một năm sau, người học trò khoác áo thi nhân đã thực hiện cuộc xuống núi ngoạn mục ngầmcho thấy đầy đủ hành trang của người không thiếu tự tin. Đêm xuất động của chàng không hẳn khởi đầu con đường nhập thế, mà trái lại lộ rõ hành tung của người đã chọn u cư làm chỗ ngả lưng. Cái nhìn của người xuống núi đã mang vẻ trầm ngâm khác thường của người ẩn sĩ. Gió núi, mây ngàn, trăng rừng, sương bãi thường nhật góp bữa cho người và bằng việc rũ sạch lớp bụi trên song. Mối ràng buộc duy nhất còn lại giữa chàng với thiên nhiên kỳ diệu. Nhận thức đã nuôi nấng chàng nhanh như sữa mẹ. Chàng bước ra khỏi chiêm bao để xác nhận sự có mặt của thực tại quanh mình. Thực tại vốn khổ đau là nguyên lý về cuộc đời, được chàng lặp lại như điều mặc khải thứ nhất của kẻ sống cùng chân lý. Lời tôi rơi xuống khoảng trăng / tiếng ru quất xuống từng làn roi đau. Như thế, ý thức ban đầu của người đã tượng hình trong bể khổ.
Nguyễn ( đức Nhân) lấy cuộc đời làm chốn giảo
nghiệm tâm hồn và ý thức nên vẫn phải sánh vai cùng thực tại. Dường như điều mà
chàng để tâm quay về là chốn thanh tịnh nguyên sơ, trong trẻo như tiếng suối
thẳm sâu từ trong tiềm thức. Từ thêm con
suối qua mau / rợn hình như thể tìm màu hoang sơ. Thực tại mà chàng ấp ủ
được lui về ẩn náu là thực tại được chắt lọc qua tâm hồn giản dị, chuộng đơn
sơ, được tượng hình lâm thời bằng một chốn u cư, vắng mặt mối tương quan xây
dựng bằng kỹ thuật và lý tính. Phác họa chốn quay về, ngay khi rời chỗ “công
phu”, người thanh niên dường như nhìn xa
hơn người đi trước về quy luật biện chứng của cuộc vận động bản thân.
Khi chấp nhận thế giới ba
nghìn. Lỡ tay đụng phải ba ngàn hoang vu.
Chàng hiểu rằng cõi thế nhỏ nhoi và chật hẹp và con người còn bao nơi để ươm mơ
và vun trồng duyên khởi. Du yên thiên thế
khơi mù / giật mình xuất động trùng tu
thiên tài.
Chàng không tự đánh chìm mình trong vũng sâu tư
tưởng tuy vẫn xem trí tuệ là ánh sáng cho mọi chuyến đi. Chàng cũng không xem
bi quan như vị thuốc đắng hợp thời, cần thiết với những tâm hồn mẫn cảm thường
nghĩ. Những chặng đường mà thời đại là
một viên bi / lăn lông lốc trên ghềnh
vực thẳm ( Hoài Khanh, Cây Pháo Bông Của Trẻ, 1965.)
Như đã nói, con người tư-tưởng là hiện thân của khổ đau. Hay, đau khổ là
sinh khí duy nhất dành riêng cho con-người-biết-suy-nghĩ. Thuở lớn dậy của
Nhân, của Sơn ( Nguyễn Đức), đau khổ đã lớn nhanh gấp bội tuổi người, và thơ mà
người mượn để giãi bày thường chất chứa thặng dư đau buồn của từng kiếp sống.
Thân phận hay phận người đã là mối ám ảnh hãi hùng với thơ và là chiếc bóng ma
lướt thướt sau lưng không ít người cầm bút. Thân phận, một thời đã là định mệnh
của văn chương, là tiếng hú giữa khuya
phả vào lòng người cầm bút, có vọng âm từa tựa tiếng gọi hồn. Có không nhục thể linh hồn / dưới
kia đất lạnh tiếp nguồn thịt xương ( Thành Tôn, Vào Lòng Đất, trong Thắp
Tình, 1969.) Từ thân phận, đã hình thành thế giới quan gần như chung nhất mà
con người chấp nhận trong vô thức, cách tượng hình cho mỗi người cả về xác lẫn
hồn. Hãy cúi xuống gõ bốn chân như ngựa /
hãy đứng lên từng bước như đười ươi ( Thành Tôn, Thuyết Giáo, trong Thắp
Tình, 1969.) Và không hẳn tương phùng, họ đã tao ngộ khi cùng nhìn lại chính
mình với cái khắc khoải của người tỉnh thức. “Bàng hoàng một kiếp chim dơi / lưng khom dáng thú bụng phơi hình người
( Viên Linh, Hình Nhân, 1965.)
Những dằn vặt như thế đã vây bọc người tưởng như không lối thoát và mang
đến linh tính về điều không may với người trong cuộc. Con-người-suy-tư đã thành
nạn nhân của chính họ khi thực tại góp thêm lợi thế cho sự vây hãm. Mỏn thân chết đuối giữa đàng / xin ai làm dấu cho ngàn kẻ sau ( Hữu
Phương, Cát Bụi, 1964.)
Người làm thơ trẻ ấy đã thoát khỏi định mệnh chính chiếu cũng như sự vây
bọc của mối phiền muộn đa mang nơi những người lâm lụy trong tư tưởng
xanh rừng cổ
thụ trong em
là chiêm bao rụng giữa đêm giao đằng
lời tôi rơi xuống khoảng trăng
tiếng ru quất xuống từng làn roi đau
từ thêm con suối qua mau
rợn hình như thể tim màu hoang sơ
biển đùa mây trắng bơ vơ
khát khao nẩy hạt ươm đơ cõi người
tượng em rêu đá thêm tươi
môi em tịnh mặc nụ cười trần gian
dựng người đứng ngắm dung nhan
lỡ tay đụng phải ba ngàn hoang vu
du yên thiên thế khơi mù
giật mình xuất động trùng tu thiên tài
( Nguyễn Đức Nhân, Đêm
Xuất Động, Khởi Hành, số 22, 25.9.1969, tr. 13)
Quả thế, bất an ngày một tạo thành cuộc cháy ngầm nơi tâm hồn những người cảm thấy liên quan xa gần đến cội nguồn của nó. Cuộc cháy ngầm khơi dậy một hình thức phòng thủ thụ động nơi họ, ít ra trong tình trạng vô thức. Ngọn lửa vô hình đó có thể là khởi nguyên cho nỗi bất bình bùng vỡ nơi một số người sau khi những tưởng có thể hòa giải với bản thân bằng ý thức của con người suy nghĩ. Chăn đơn đời ngủ không đành dậy / tay vắt ngang mày đợi bóng trăng (Phan Duy Nhân, Cuối Năm Rời Nhà Trọ, Bách Khoa. 1963.)
Có thể đây là một trong những bằng chứng thơ về khởi thủy một dòng thơ mang theo thái độ củamột thành phần trẻ tìm kiếm cho mình một lối thoát trước bất an. Điều mà chỉ vài năm sau đã hình thành một dòng thơ cưu mang ý thức làm đường giải thoát. Khi nhập dòng, Nguyễn Đức Nhân đã chọn tình khúc làm bài khai từ mà thực chất là cái nhìn về thực tại qua lăng kính người tỉnh thức. Khác với những người chỉ phô bày cảm xúc đơn thuần, người tuổi trẻ này nghĩ và làm như một hành giả thực hành điều ý thức được. Tượng đời anh chở chon von / còng vai khổ hạnh tay mòn dặm không. Kinh nghiệm làm người của chàng chỉ là hành trạng của một khổ tu nên tình yêu là duyên cớ đọa chàng sám hối. Dòng sông trầm tư thiếuhẳn nhạc tình vì có thể người làm thơ ngại làm xao động ý thức. Tình có được nhắc đến chỉ như phép thử về độ kiên gan của người theo đuổi ý thức mà thôi. Ô em trời đổ heo may / tim anh thành kẻ ăn mày trần gian. Tình khúc đã vội trút bỏ vẻ dịu dàng, trữ tình để nhận vai trò tuyên
xưng sứ mệnh kẻ tội đổ của một đức tin. Không khí thơ u ám như ngày nhật thực. Thơ khao khát ánh sáng của những ngày bất an chưa rình dập. Lời giãi lòng của họ chỉ để che giấu bất bình chưa thể lắng chìm. Những chiều những vết dao đâm / tôi đưa lưỡi liếm hết tâm hồn mình.
( Nguyễn Lương Vỵ, Cảm Nghĩ, Khởi Hành, 1971.) Từ mức độ sâu thẳm của tâm tư, thơ xuất hiện thay cho tiếng nói thiết tha của con người trước định mệnh dân tộc. “Cớ sao thiên hạ người ta / vẫn chưa tròn một quê nhà bao dung” ( Bùi Giáng, Nhớ Nguyễn Du, Tư Tưởng, 1970)
Tình khúc Nguyễn Đức Nhân chính là vọng âm nhịp đập của trái tim dội qua tầng ý thức. Âm thanh ấy gợi ra tiếng nói tỉnh táo đến mức độc đáo của chiều sâu trí tuệ, tách bạch với khí vị mênh mang của cảm xúc. “ Mai chiều gặp túi lang thang / ngửa tay xin nửa mặt nàng lao xao.”
Người ta bỗng cảm thấy bóng dáng của người thầy nhập bút, không phải ở sự chuyển giao ngôn ngữ mà là việc không thể cầm lòng tìm kiếm một phong cách khác cho thơ, một nghĩa ẩn tế cho ngôn từ. “Anh xô ngã em từ chóp đỉnh hạnh phúc / khuôn mặt vỡ tan / như cẩm thạch “
( Thanh Tâm Tuyền, Đêm,
trong Liên Đêm Mặt Trời Tìm Thấy, 1964)
Nơi con người trầm tư, tình yêu chỉ là cái cớ để người đi tìm kiếm định nghĩa sao cho vừa cái khuôn tự tạo. Vì thế, khi tự nhận là kẻ đăm chiêu đứng đợi một con thuyền ngược dòng, chàng đã hoài công khi đón chờ một ảo ảnh.
Trên cầu anh đứng trông khơi
chờ con thuyền ngược rạng ngời dáng em.
Thành xưa bước cũ rêu mờ
chân em hóa đá trên bờ thần hôn
tượng đời anh chở chon von
còng vai khổ hạnh tay mòn dặm
không
bến bờ nhung nhớ trên kia
mau đi em ... cho vừa tối nay
ô em trời đổ heo may
tim anh thành kẻ ăn mày trần gian
mai chiều gặp túi lang thang
ngửa tay xin nửa mặt nàng lao xao
xe đây ngựa đó hôm nao
chiều nay gió thổi cồn cao ngất
lời
trên cầu anh đứng trông khơi
chờ con thuyền ngược rạng ngời
dáng em
( Nguyễn Đức Nhân, Đêm Chờ, Khởi Hành, số 31, 27.11.1969, tr.9)
Có thể nghĩ rằng, dòng thơ trầm-tư thêm mênh mang khi nhận thêm lưu lượng
từ nguồn thiền uyên áo. Nguồn tư tưởng ấy nhuốm vị nhập thế từ khi trở thành
một dòng thơ ưu thời mang phong cách một cuộc vận động văn hóa. Thơ sẽ là thực
phẩm nhân sinh dù không thực tiễn như nhu cầu khác nơi trần thế. Thơ nhập cuộc
trong Giữ Thơm Quê Mẹ (1965) dung hòa
được tư chất cần thiết của một phong trào đồng thời khơi dậy thêm hương sắc của
loài hoa vốn được phép ngủ đông theo nọa tính. Hoài Khanh, Thành Tôn, Trụ Vũ,
Kim Tuấn, Nhất Hạnh... và những người
đồng điệu, nhanh chóng hình thành một không gian mới cho thơ, ăm ắp bao dung,
nhân ái và trí tuệ. Thơ có được vị trí trong cuộc vận động và tinh thần của
cuộc vận động trở thành hơi thở của ngôn ngữ trong thơ. Dòng thơ ấy chưa kịp
được đặt tên vì cuộc vận động dừng lại bất ngờ, nhưng bản sắc của dòng đã để
lại dấu của một mùi hương, vết chân của cuộc lữ hành và dấu tay nhân ái. Xin em
bóng mát đường về / cõi nào đây giữa bốn
bề hư không ( Huy Lực, Trùng Dương, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 5, 1965.)
Dòng thơ đã trở thành nguồn nước ẩn mình và vài năm sau đã có cơ hội xuất
diện lại như một khuynh hướng văn chương thuần túy. Ở một khía cạnh, thơ đã
thoát ra khỏi một hoàn cảnh đặt định để cò thể phóng khoáng ra khơi như cánh
buồm no gió. Nay,thơ trầm-tư bàng bạc vị sắc-không thường được dư luận xem là
dấu vết rõ rệt của tinh thần xuất thế quen thuộc. Thơ trở về với ước mong giữ
cho lòng bình lặng, khoan hòa. Và, nếu thế, thơ không thể xem như khuyến khích
lánh đời bụi bặm. Cuộc sống và cái nhìn hướng về điều cao khiết mới thuộc về
người minh triết. Thơ gần như phục hoạt cái nhìn lịch duyệt của người xưa, cái
nhìn chắt lọc cuộc đời khi gió bụi lấm thân còn không ngừng tiếp diễn.
Thơ như thế là phản ứng tích cực với cuộc đời, không là tiếng thở dài ngao
ngán hay biểu lộ việc quay lưng trước thực tại kêu cầu. Người làm thơ xem việc
gạn đục khơi trong là công việc cần dành cho lòng mình và lòng người trước đã.
Một đóng góp của Võ Chân Cửu năm 1970, Chùa
Cổ Bên Sông ( Khởi Hành, số 75, 15.10.1970) dường như đã truyền thêm cảm
hứng cho những người đã nuôi sẵn ước mơ hóa giải thực tại một cách nồng nàn
trên bình diện văn chương. Thơ không chỉ là lời bộc bạch mà cùng người bước lên
đàn giải tội của cuộc đời xin gỡ ách trầm luân. Chùa cổ chính là di chỉ của cái
quan niệm nhầm lẫn về cuộc đời và mối tương quan, biến con người thành như kẻ
suốt đời đứng chờ hoài công bên sông vắng. Tìm em vạn ngả / bạc áo nâu sòng / kiệt trên đồi tưởng / ơi em vô hình / một đời bay vút / ỏi
em bóng dáng / sóng nước chập chùng /
nước xô thiên địa / chùa cổ bên sông.
Ngôn ngữ và ảnh tượng của triết lý sắc –không đã đầu thai kỳ diệu trong thơ bốn
chữ.
Dòng thơ trên tiếp tục lớn lên, phù sa là lớp tư tưởng hóa thân một cách
nghệ thuật như trăng tan trong chén khuya một bóng.
Ba năm qua vườn cũ
đầu nhà chim chóc kêu
nhìn hàng cau mưa rũ
người đâu mây bay nhiều
( Nguyễn Đức Nhân, Đi Qua Vườn Cũ, Văn, 176, 15.4.1971, tr.76)
Người làm thơ trẻ trên đã nhanh chóng cảm ứng trước luật vô thường và nhìn
ra hình tượng chùa cổ của người chính là ngôi vườn xưa dãi dầu trong mưa gió.
Người thanh niên đã bước vào cõi
có-không khi mây trắng hững hờ thay mặt người xưa vắng bóng, và mưa gió làm thê
lương cảnh cũ từng gợi lại ấm lòng. Thơ kiệm lời hai-mươi chữ mang bóng dáng
của ngôn ngữ được cô đúc theo khuôn của tư tưởng được gửi gắm. Hình ảnh gần gũi
với ảnh tượng của một thứ triết lý bàng bạc trong không gian và trong tâm tư kẻ
đi qua nhưng không là khách qua đường. Tâm người không phải là lòng của người
nặng với kỷ niệm. Bài thơ là ánh sáng của ý thức được khai mở, giản dị như rạng
đông. Tư tưởng không làm bận người làm thơ như có người tưởng. Bởi vì tư -tưởng
tưởng như đã nhận kiếp mới, khi người làm thơ mời gọi.
“Thi ca và Tư tưởng luôn luôn là
những tương ứng của Chung và Riêng” ( Tuệ Sỹ, Thi Ca và Tư Tưởng, Văn,
18.5.1973, tr. 27) Hơn nữa, cũng theo Tuệ Sỹ, “ Thảm kịch khốn cùng dù có đổ ào
lên Thi ca cách mấy đi nữa, Thi ca vẫn như điềm nhiên, ngao du theo ngày tháng,
trong ngày tháng ngao du” ( Tuệ Sỹ,
bđd. tr. 25.) Như thế, Thơ trước sau vẫn giữ ở thế phiêu hốt, khơi vơi, lãng đãng, và không vì có mặt của Tư tưởng mà
thơ mất đi đặc chất của Thơ.
Theo sự diễn đạt theo cách riêng của người làm thơ, ta đã thấy cuộc gặp gỡ giữa Thi ca và Tư tưởng mà Tuệ Sỹ
mệnh danh là hội thoại gồm hai bước, tương ứng và song trùng, thực chất là cuộc
thôn tính của thi ca với năng quyền đồng hóa.
Dòng thơ từ khi phát tích đã mạnh mẽ truyền lưu như một dòng thơ nhuốm màu
tư tưởng. Màu và vị thiền vốn đàm đạm như mây nhạt nhưng khi thành thơ thì còn
đòi hỏi đức “khiêm cung” hơn nữa. “ Thiền tự nó là một kiêu ngạo sâu kín, ám tàng những huyền bí
thâm diệu. Khởi điểm như một “niêm hoa...vi tiếu” ( cánh hoa và nụ cười trầm
lặng của Ca Diếp khi đức Phật giơ cành hoa ra trước hàng chúng môn đồ) Dụng tâm
đem những văn tự Phật giáo vào thi ca, gán ghép cho đầy danh từ “thơ thẩn” hoặc
là chỉ muốn ngôn thuyết và ngộ nhận thực tế thâm u và đầy siêu việt của thơ
hoặc chỉ là muốn thỏa mãn cái trí thức
mê muội và lòng kiến chấp cao độ trước năng lực bảo tháp của chữ nghĩa văn tự
Phật giáo” ( Thục Khưu, Thi Ca Thiền, Khởi Hành, số 104, 13.5.1971, tr. 2.)
Không chỉ với thơ chuyên chở khí vị thiền môn, thơ tư-tưởng vẫn phải chấp
nhận thực tế ưu đãi dành cho Thơ trước đã. Tư tưởng phải được chuyển hóa theo
thơ trước khi hòa nhập vào thơ để làm nên thơ tư-tưởng. Yếu tính của thơ thiền
là “ những gì mọi siêu tính u mặc được
Ngộ bằng trực giác, chỉ có trực giác là được những kinh nghiệm đó.” ( Thục
Khưu, bđd. tr. 4.)
Kinh nghiệm với thơ Thiền cũng là kinh nghiệm trước bất cứ thực tại nào đi
vào thơ như thuộc tính của nơi có mặt. Tư tưởng trong đó có thiền cần đến đức
hy sinh cho thơ, như nhụy hoa đã làm cho hương mật, như sương đêm đã phụng hiến
cho mây ngàn.
Thơ thiền đã vượt qua thách thức của Thơ, đã đi qua sự hoài nghi của một
giai đoạn xem như “ một hiện tượng, một
mơ màng hứa hẹn nhiều cuộc rong chơi tàn khốc của thi nhân” ( Thục Khưu,
bđd. tr. 4) bởi vì thơ mang khí vị có-không được người làm thơ phó thác như một
cách giải vây giữa bất an và muôn điều ngang trái.
Mịt mờ tri giác giả chân / nửa không nửa có cõi trần là ta ( Nguyễn Trọng Nhân, Ngã
Sinh, Khởi Hành, số 91, 2.1971)
Nguyễn ( đức Nhân ) trở về với núi rừng như để chứng nghiệm cách nuôi dưỡng
một tâm hồn trước khi cho một hồn thơ. Cùng với trăng sao, hồn thơ đã vươn tới
chốn thiên hạ vọng cầu. Người đã “ đắc pháp” cùng thơ khi ung dung cùng gió
trăng ngàn nhận chân được cái thực hư của phù vân cuộc sống.
nhìn một đời mây trắng
bờ kia rơi mấy bông
( Nguyễn Đức Nhân, Cô
Tịch, Khởi Hành, số 104, 13.5.1971, tr. 9)
Trần Mạnh Toàn