Thursday, March 6, 2025

Trần Mạnh Toàn: Người mở hội và một hội thơ đồng vọng tình người

 

Bối cảnh khai hội

1965, năm cuộc chiến được minh danh trong văn chương không qua những uyển từ hay ngôn ngữ ước lệ thường nhắc đến thay cho cái nhìn trực diện. Và cũng trong lãnh vực văn chương, chiến tranh lại đi chậm hơn bất cứ biến chuyển nào như thể là thứ “thực phẩm trần gian” khó tiêu hóa nhất. Trên Bách Khoa - nếu tạp chí này được dùng như một thứ phong vũ biểu đo lường khí hậu văn chương – văn thơ trực khởi từ chiến tranh bắt đầu lộ diện cùng với những dòng cuối của truyện dài Vòng Tay Học Trò, khép lại một xu hướng suy nghĩ và nếp sống xa lạ với bóng tối bất an ngày một hãi hùng. “Trâm gọi xe mặc cả như những ngày cổ tích đó. Ngôi nhà buồn thở khói xám. Khung cửa sổ mở xuống vườn hoang. Cây hoa vàng từ ngày Minh đi gục chết. Trâm về làm người khách đi qua. Đi qua và thoáng thấy trên bức tường hoen ố nước mưa và rêu mốc, những chữ ngoằn ngoèo chằng chịt nét than đen. Ai viết. Ai viết như em khắc tên tôi trong lò sưởi cho khói bụi phủi mờ ngày xưa đó. C’était écrit pour la vie la vie si belle lui et moi... Tất cả là âm vang là di tích là nhân chứng cho một thiên đường cổ tích. Mỗi vì sao, mỗi giọt sương mỗi lá cỏ mỗi bông hóa dưới vòm trời Đà-lạt đều long lanh nhắc nhở mỗi khi về.” ( Hoàng Đông Phương, Vòng Tay Học Trò, Bách Khoa, số 192, 1.1.1965, tr. 56.) Những trang sách ước của chủ nghĩa lãng mạn mà nét đăm chiêu về thân phận chưa đủ mức độ trở thành ưu tư của thời đại, đã sớm để lại dư vị của quá khứ và nỗi hoài hương.

Có lẽ Vòng Tay Học Trò thuộc vào tiếng nói sau cùng của một trào lưu, khi bằng vào tình cảm còn nấn ná với người.

Thực tại hôm nay xa rời ảo ảnh, trông đợi cái nhìn trực diện và lời nói thẳng, nhưng người chứng lại không đưa ra lời cáo tố hay kết án cũng như phơi bày nỗi bất an, mất mát. Do đó, dưới  một khía cạnh, thực tại trở thành gánh nặng với những người muốn chạm vào hay là ảo tưởng khi có ý định phơi bầy bộc lộ. Những bài thơ đầu dành cho cuộc chiến ghi nhận được có vẻ như bài làm viết bằng mực tím. Chiến tranh là bài trắc nghiệm thứ nhất cho những người muốn nói lên điều mà người ta không muốn nhường cho kẻ khác

ôi quê hương mình đó

những nước mắt, mồ hôi

những bàn tay, giọt máu

đã đổ từ bao đời !

tôi ngồi im trên bờ cỏ

nghe súng về xa xa

ôi, quê hương mình đó

chinh chiến vẫn chưa qua !

bỗng nghe chua xót lạ

ôi nước  mắt mẹ cha

ôi máu xương, bè bạn

còn đổ đến bao giờ ?

( Đynh Trầm Ca, Quê Hương Mình Đó, Bách Khoa, số 192, 1.1.1965, tr. 59.)

Người ta có thể  hiểu vì sao mực độ trầm lắng trong văn học đương thời so với nhịp độ bùng phát của tình trạng bất an do bất ổn về mặt chính trị và sự gia tăng cũng như mở rộng địa bàn xung đột tại cả hai miền. Chiến sự gia tăng và chính sự bất ổn nhưng lại không hề có đáp ứng cần thiết tại hậu phương. Các khối áp lực vẫn hoạt động mạnh mẽ để mưu giành ưu thế trong chính trường. Thành phần trẻ vẫn tiếp tục đến trường với điều kiện xem như ưu đãi so với tình thế chung. Việc phó thác trọng trách quốc phòng cho quân đội viễn chinh cùng những hệ quả có lẽ là lý do giải thích về mặt tâm lý người dân cảm thấy cuộc chiến không còn gắn bó chặt chẽ như xưa kể cả khi phải chịu những hậu quả gây thiệt thòi, mất mát. Ý nghĩa về bản chất cuộc chiến từ đây có thể đã đổi thay, dù dưới khía cạnh nào, vẫn không là điều được mong đợi. Cuộc chiến trước hết được gắn liền với khi trá nhưng lòng người lại chú ý nhiều hơn đến mất mát, đổi thay. Đây có lẽ là hình ảnh của chiến tranh trong lần tao ngộ đầu tiên với người trẻ

thôi còn gì ở đó

đồng xanh thành chiến trường

loài chim hiền kinh hoảng

nuối tiếc rời miền thương

mang trên mình tuổi trẻ

em có gì hơn anh ?

tình  yêu còn chưa đủ

theo lửa cháy tan tành !

 

thôi còn gì ở đó

màn kịch vẫn còn dài

mọi người thì mỏi mệt

không còn gì tương lai !

những đêm rồi không ngủ

súng nổ rất gần đây

bà mẹ già rơi lệ

lo cho đứa con trai...

( Nguyễn Nho Nhượn, Cảnh Tượng, Bách Khoa Thời Đại, số 200, 1.5.1965, tr. 46.)

Cuộc chiến dưới cái nhìn chung vẫn là nguyên ủy của những tổn thất to lớn, những sự đoạn tình. Nhưng thái độ chung vẫn là sự bày tỏ theo xúc cảm riêng. Chiến tranh như kẻ lạ xâm nhập, lạnh lùng, tàn bạo, được nhắc đến như một thứ tai họa vô cớ

ơi tất cả trở về xanh cát bụi

còn lại đây một chút nắng linh hồn

cha nằm xuống theo chiều sông hướng núi

con dại khờ, mẹ chiếc bóng hoàng hôn

một chút khói hắt hiu hồn kẻ chết

con trở về như người sắp ra đi

cuộc chiến đó, cha nằm đây mỏi mệt

đằng sau lưng ranh giới những biên thùy

( Thành Tôn, Hương Khói Hồn Cha, Bách Khoa Thời Đại, số 207, 15.8.1965, tr. 52.)

Thuở đó, duy có Thành Tôn trong số những người ôm ấp tình cảm gia đình như một lực đối kháng với bạo lực từ nhiều phía. Tình cảm ấy được hâm nóng đậm đà chính trong hoàn cảnh nó bị đe dọa nặng nề hay thử thách nghiệt ngã.

Ở một khía cạnh, chiến tranh lại là tác nhân khiến tình cảm ấy được thêm vun trồng, nẩy nở hay ít ra là hoàn cảnh, tuy trớ trêu, để được nâng niu, gìn giữ. Trước sau, Thành Tôn đứng trong lãnh địa tình cảm như cách gián tiếp giục giã sự hồi tâm, nhớ về nguồn cội. Người quay lưng với chiến tranh, không cao rao chính nghĩa mà chỉ ra nhau-rốn của một thứ tình

thấy ở đó hình ảnh cha mỏi mệt

luống cày sâu, cây trái ngọt sum vầy

tình nhỏ xuống làm phân nuôi đất chết

nên ngậm ngùi chút nắng vẽ chân mây

 

thấy ở đó mẹ già theo xóm chợ

tóc hoa bay thao thức tiếng ru hời

chúng mình lớn lên giữa nhiều nức nở

giọng âm thầm tay mẹ ngọt coi nôi

(Thành Tôn, Thư Cho Các Em, Bách Khoa Thời Đại, số 204, 1.7.1965, tr. 56.)

Có thể chọn một hình ảnh, Thành Tôn nhẫn nại khơi mạch nước ngầm giúp phục hồi cánh đồng cỏ cháy buổi chiến thời. Tiếng nói có lúc đồng nhất với tiếng nói Giữ Thơm Quê Mẹ cho thấy mạch tình cảm được nhà thơ khơi sâu cũng là dòng nước ngọt quen thuộc bị lãng quên nhưng chẳng cạn dầu thực tại ngày thêm bất trắc. Khơi lại mạch nguồn cũng là trở về với tâm hồn dung dị đơn sơ. Nhưng trở về là cuộc hành trình thật gian nan vì cùng lúc con người cần phải sống còn qua dông bão và khói lửa chiến thời. Khơi nguồn tỉnh cảm cũng là một hình thức võ trang tinh thần bằng cách thoát ra ngoài sự sợ hãi sức mạnh của bạo lực

xin thân này thành lá

xin hồn này thành mây

cho yên bình chân chị

lá trải đường, mây bay...

chút nắng hồng rớt xuống

em cúi hôn từng vùng

hạ từng cành thù hận

em bắc cầu ngang sông...

( Uyên Hà, Di Chúc Của Em, Bách Khoa Thời Đại, số 202, 1.6.1965, tr. 55.)

Tạp chí Giữ Thơm Quê Mẹ ra đời vào tháng 7.1965, chỉ khoảng hơn ba tháng trước khi Tâm ca thể hiện “ nỗi ưu tư chung của tất cả mọi người” bật thành tiếng hát đầu môi của không ít người trẻ tuổi ( Phạm Duy-Tâm Ca-Tuổi Trẻ, Bách Khoa Thời Đại,, số 213, 15.11.1965, tr. 83.) Có lẽ hoàn cảnh lịch sử là điều kiện để ngôn ngữ, tiếng hát và bài ca xuất hiện với năng lực có thể có được khi cần thuyết phục con người bằng sự diễn đạt suy tư và ước mơ nói trên. Văn thơ của tờ tạp chí và ca từ tiếng hát Tâm ca như thể cùng san sẻ một cảm hứng ban đầu nếu không muốn đi xa hơn trong chặng đường được hoạch định. Tình tự dân tộc được sử dụng như một chất men nồng, không xa lạ nhưng vẫn mang triển vọng của thứ rượu mới. 

Giữ Thơm Quê Mẹ không hơn được 12 số (gồm 11 cuốn, số 7&8 là số kép). Tâm ca vỏn vẹn 10 bài. Đời sống ngắn ngủi của cả hai gợi ra số phận của kế hoạch đoản kỳ dù trong lịch sử văn học có không ít thành tựu ngắn tầm. Giữ Thơm Quê Mẹ nằm trong giai đoạn mấy tôn giáo lớn nhất của xứ sở lâm vào hoàn cảnh đặc biệt để chứng tỏ năng lực tồn tại,  hay trực tiếp hoặc gián tiếp phát triển khả năng trên. Giữ Thơm Quê Mẹ là xu hướng của một tôn giáo lựa chọn việc nhập thế, thường được mệnh danh là đi vào cuộc đời, tách rời với đường lối tu trì và sống đạo cựu truyền mà rõ rệt là mạnh dạn bày tỏ quan niệm và cái nhìn về xã hội và cuộc chiến hiện tại. Danh xưng của tạp chí đã chứa đựng tính chất hướng ngoại và tích cực của một hướng đi, đồng thời cho thấy chút tự tin khi đề cao một nội dung vốn tương đối hàm hồ trong phạm vi và lãnh vực theo đuổi.

Điều ấy có thể nhận ra khi tạp chí phát triển tôn chỉ và mục tiêu bằng bốn câu thơ của người chủ trương có nội dung mông lung thay cho bài nghị luận rạch ròi thường thấy trong số ra mắt



quê hương tôi là đây

chỉ có dòng sông, hàng cau, vườn chuối

mặt đất dù mang đầy cát bụi

nhưng trăng sao vẫn đẹp những đêm rằm

( Nhất Hạnh, Chỗ Đứng, Giữ Thơm Quê Mẹ, số 1, tháng 7.1965)

Tình gửi vào hàng chữ kín nhiệm mà dịu dàng như tiếng mẹ ru khi ban trưa dần xuống. Quê nhà không còn là biểu hiện của chữ nghĩa nhưng đông đặc hình ảnh trích ra từ ký ức lẫn trái tim. Mảnh đất ấy trong thử thách đau thương nhưng không tắt niềm tin và lẽ sống.

Thơ như bước ra từ cát bụi trầm luân, an úy, vỗ về người bằng những mùa trăng trước mặt.

Danh xưng của tạp chí  mượn từ ca từ một trường ca có nội dung bàng bạc không kém, gợi ra việc lấy cảm hứng từ một thứ tình cảm tự nhiên, phổ quát và được sử dụng như một thứ dung môi khi cần chuyên chở chính cương, học thuyết

chúng con đã về khát khao hơi Mẹ

chúng con xin thề giữ thơm quê mẹ

cuộc đời rồi phai tàn sau thế giới

chỉ còn tình yêu của Mẹ mà thôi

( Phạm Duy, trường ca Mẹ Việt Nam)

Ở khía cạnh trên, Giữ Thơm Quê Mẹ giữ vững vị thế  một tạp chí văn học ngay cả khi một số sáng tác mang dấu vết quyết liệt trong tư tưởng, hành động xuất hiện trên mặt báo, đặc biệt là trong vài số báo cuối.

Rõ rệt là khi vận dụng tình cảm phổ quát là tình yêu dân tộc quê hương trong mục tiêu nhập thế, người chủ trương cũng nhận ra nỗi khó khăn nơi những người được thuyết phục tin tưởng vào khả năng của tình tự quê hương lại là người bị buộc phải đứng ngoài việc trù tính giải pháp và tương lai xứ sở.

Giữ Thơm Quê Mẹ giữ được tính chất thuần nhất ngay từ sự xuất hiện lần đầu khiến cho một số người lạc quan tin rằng tình tự dân tộc, lòng yêu quê hương được khơi dậy có thể là tiếng nói  được lắng nghe. Trong dáng dấp một tuyển tập văn thơ mang nặng dấu chứng tâm cảm, xúc cảm tự nhiên, tạp chí quy tụ không mấy khó khăn những cây bút ôn hòa trong thái độ và hướng đi, dẫu còn mơ hồ về hiệu lực của một giải pháp lấy tình thương làm nền tảng. Có thể nghĩ rằng giữa bầu khí căng thẳng và gia tăng khả năng xung đột trong tương quan xã hội, ngay những người nhiều ngờ vực, vẫn cảm thấy  phát triển tinh thần hòa ái  hơn là nỗ lực tìm kiếm  ưu thế dù là chính đáng. Ngay cả người vốn tận tụy với xu thế chính trị là Hồ Hữu Tường, trong tạp chí, cũng ngả về giải pháp dân tộc với tinh thần khoan dung.” Muốn “Giữ Thơm Quê Mẹ” thì khắp đâu đâu, tín đồ của đạo thờ tổ quốc đốt xông lên trầm hương của khoan dung và tình thương. Bởi vì, chỉ có khoan dung và tình thương mới có mùi thơm còn căm hờn và hận thù thì bao giờ cũng tanh mùi máu.” ( Hồ Hữu Tường, Ngày Trở Về  Của Đứa Con Hoang, Giữ Thơm Quê Mẹ, số 1, tháng 7.1965, tr.22.)

Những chuẩn bị ban đầu cho tư tưởng, nhất là về nhận thức, điển hình là phân biệt giữa hiện tượng với bản chất sự vật, đã xuất hiện trong số ra mắt với ngụ ý kín đáo trong truyện ngắn Sơ Ý cùng việc vun xới tinh thần bất nhị trong bài thơ ngắn  Bất Nhị; tất cả có thể xem là nền tảng luận lý ban đầu để xây dựng tinh thần bao dung và con đường hóa giải,

Chiếc bóng của người chủ trương còn tiếp tục bao trùm cho đến khi tờ tạp chí tự đình chỉ bằng những bước đi cân nhắc và nằm trong trình tự hợp lý.

Nhất Hạnh, người mở hội.

Nhất Hạnh xuất hiện mà không hề có sự báo trước bằng tác phẩm hay sự nghiệp ngoài văn chương khiến cho sự có mặt có vẻ do sự mời gọi của lịch sử mặc dầu những thành tựu có được  có giá trị tự thân, không thể hoài nghi. Nhận định như thế bởi vì những điều ông đạt được không chỉ  đánh dấu bước đi quan trọng trong lãnh vực tôn giáo, từng gây ít nhiều băn khoăn nơi những người bảo thủ, mà còn tác động không nhỏ đến suy nghĩ, cảm xúc của một thành phần trẻ đương thời giữa lúc tình thế chính trị và nhiều mặt khác thay đổi dồn dập và có tính chất quyết định.

Có người nghĩ rằng chính môi trường phương Tây – chính xác ra là thư viện đại học Columbia - đã giúp khai mở xu hướng cải cách  cho một trong những đại cao tăng người Á trên thế giới ( It’s ironic that one of the world’s great Asian teacher of Buddhism had his tranformative spiritual experience in the West – in the library of Columbia University, to be exact . The Life of Thich Nhat Hanh, Lindsay Kyte, Lion’s Roar – Buddhist Wisdom for Our Time, Oct.11.2019)

Nhưng, có thể môi trường thích hợp của Columbia giúp người tăng sĩ trẻ này cơ hội đào sâu viễn hướng cách tân trong hướng đi tôn giáo hơn là góp vào quyết định một xu hướng chuyển đổi cái mới trong xã hội nông thôn, điều mà ông đã ấp ủ và thực hiện theo khả năng trong thời gian còn ở quê nhà.

Nhận thức được cái mới và cái cần canh cải  cho phù hợp với nhu cầu phát triển thời đại là nội dung của một hướng đi. Nhất Hạnh không chọn sự đổi mới hình thức khi tôn giáo mà ông hiến mình còn giữ thái độ hững hờ với thực tại, với xã hội, với con người  mặc dầu giáo lý đã minh xác sự chiếu cố.

Công cuộc cách tân, nếu có thể gọi như thế, đều là mục đích và nội dung của nhiều hướng đi không chỉ giới hạn trong Phật giáo hay với trường hợp Nhất Hạnh.

Khi còn là một tăng sĩ trẻ tuổi, con đường đổi mới có thể chưa được định hình rõ rệt vì chỉ thu hẹp trong mục tiêu giới hạn. Để chuẩn bị hành trang sau này cho bước đi xa hơn, mục đích mới là mở rộng việc cho tăng sinh tiếp xúc với kiến thức bên ngoài. Tầm nhìn mở rộng từ cái học thế-học phải chăng đem đến tương tự thứ hương thơm của sen đầu mùa, được chọn như ẩn dụ cho những gửi gắm đầu đời về một hướng đi trên một tạp chí nội bộ mong manh kiếp sống, Sen Hái Đầu Mùa ( Lindsay Kyte, The life of Thich Nhat Hanh, bđd.)

Nhưng rồi, bất đồng xẩy ra giữa hai xu hướng cũ –mới trong tổ chức được nhìn nhận gần như kinh nghiệm phải trải qua. Việc đó cũng không ngăn cản sự chấp nhận khuynh hướng “dấn thân” khi đưa ra quan điểm về hiện tình và tương lai xứ sở, biến ước vọng thành hiện thực mang tính chất hiến chế ( Thích Huyền Quang- Thích Nhất Hạnh, Đạo Phật Áp Dụng Vào Đời Sống Hàng Ngày, cương lĩnh giáo lý nhập thế của Phật giáo Việt Nam hiện đại, Sài gòn, 1973, Lá Bối, San Jose, in lần thứ 4, 1991, tr. 135-144.)

Bằng một loạt những nỗ lực mang tính chất luận thuyết dài hơi, vừa trần tình vừa thuyết phục, vừa biện minh vừa thu hút, ước vọng cách tân tôn giáo của người tu sĩ  khởi đi từ việc thúc đẩy ý thức cách tân tổ chức tương tự một hành động “thoát xác” để tránh việc mòn mỏi, tự tiêu trong cái vỏ vô hồn ( Đạo Phật Ngày Nay, Lá Bối, 1965), tiến đến việc xây dựng và hoàn thiện một nội dung vững chắc cho chương trình cách tân trong đó yếu tố dân tộc là chính yếu và vai trò chủ thế của giải thoát là con người ( Phật Giáo Việt Nam  và hướng đi nhân bản đích thực, ký tên Trần Thạc Đức, Lá Bối, Sài gòn, 1967.)

Người có sáng kiến cách-tân còn khuyến khích mỗi cá nhân tự xây dựng một quan niệm đúng đắn về tu học nhằm  phát triển  ý thức cá nhân và ý thức cộng đồng, về sự cộng tồn Phật giáo với một xã hội tiến bộ ( Đạo Phật Ngày Mai, ký tên B’su Danglu, Lá Bối, 1970.) Nhất Hạnh còn đưa ra một số điểm dùng làm nền tảng cho triết lý hành động của đạo Phật, những lãnh vực đạo Phật thâm nhập vào đời sống trong đó có lãnh vực kinh tế xã hội và giới thiệu một con đường có thể hoạt động hiệu quả là dòng tu Thể Nhập hay Tiếp Hiện ( Nhất Hạnh, trong Đạo Phật Hiện Đại Hóa, Lá Bối, 1965.)

Việc nhận diện được chân diện Phật giáo đương đại đồng thời đưa ra đề nghị và biện pháp cải thiện thuộc về ý thức và năng lực của một nhà tu. Nhưng, cải biến tham vọng ấy thành một ước mơ với tình cảm và xúc động đặt vào một cách tríu mến, chân thành, thì con người hành động ấy ắt phải mang trái tim  người thi sĩ.

Nơi con người mà hành động có được một triết lý để nương theo thì việc thành hay không đều là cái cớ để duyệt lại tư tưởng. Trước đây, hậu quả của sự thất bại trong việc thuyết phục cải tổ hướng đi cho tổ chức một cách khiêm tốn, nghĩa là chỉ bằng ngôn từ trên tờ Phật Giáo Việt Nam, cũng đủ để tạo thành vết thương trầm thống. Nơi  được chọn để lui về gậm nhấm nỗi u uất việc không thành là Am Phương-Bối giữa khu rừng Đại Lão ( Blao) những năm 1956-1957. Đây không chỉ là nơi săn sóc vết thương mà còn là nơi giúp ông nhận rõ thêm một thực tại bên mình. Thất bại lại khiến mơ ước thêm lung linh, đã khiến cho không chỉ con người thi nhân nơi ông thực hiện được cuộc nhận diện và tương thông kỳ diệu với thực tại qua trung gian của thiên nhiên kỳ thú. Người ta có cảm tưởng ông lặp lại được cảm giác của Hàn ( Mạc Tử) trong đêm trăng ảo huyền nơi sông Trà xứ Quảng. Nhưng không siêu thực như trường hợp Hàn mà cho thấy cái tỉnh táo của người đi tìm chân lý.

Riêng với Nhất Hạnh, một số hoạt động trong lãnh vực văn học ( lập nhà xuất bản Lá Bối, xuất bản nguyệt san Giữ Thơm Quê Mẹ), kế hoạch làm hồi sinh phần nào tinh thần phục vụ đại chúng, khơi dậy một số giá trị tinh thần và tình cảm ( thành lập trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội và mấy địa điểm thực-nghiệm tại Cầu Kinh, tại ấp Thảo-Điền Tân Sơn Hòa và chương trình huấn-luyện tác-viên) cho thấy đây không chỉ là một số nỗ lực của sự phát triển đơn thuần mà chứa đựng những nhân tố quan trọng cần thiết cho sự mở rộng  xu hướng nhập thế của Phật giáo cho thích ứng với sự đòi hỏi của tình thế nhu cầu phát triển của thời đại.

Người ta không thể phủ nhận một thời cơ thuận tiện đã làm nền tảng thúc đẩy  một loạt những nỗ lực hoạt động tích cực của Nhất Hạnh trong lãnh vực văn hóa- xã hội  như đã nói nhưng cũng khó có thể lãnh đạm trước những sáng kiến nhuốm tính cách mời gọi, khơi dậy những giá trị nhân bản tiềm tàng nơi con người dẫu trong khó khăn, thiếu thốn.

Hai năm rưỡi trời có mặt tại quê nhà, từ 16.12.1963 là lúc từ Hoa Kỳ trở về, đến  02.5.1966 là ngày rời nước theo đuổi cuộc vận động hòa bình cho xứ sở. ( Chân Không, Learning True Love, Parallax Press. Berkeley, 2007, tr. 47, 84.) Đây cũng là lúc có những biến động chính trị-quân sự làm thay đổi ít nhiều tính chất cuộc chiến, xu hướng nhập thế của Phật giáo được đưa ra đã thúc đẩy sự có mặt nhiều hơn của thành phần tôn giáo này trong nhiều lãnh vực nhưng từ đó cũng để lộ khuy khuyết về nhiều mặt trong đó có cả sự thiếu cân đối gây nên trong chính xu hướng nhập thế. Những điều Nhất Hạnh từng phàn nàn khi cần bảo vệ quan điểm của xu hướng cho thấy ông muốn những bước đi nhanh hơn  kể cả trong giai đoạn thí nghiệm, thăm dò, vốn là những bước cần thiết để thực tiễn hóa những cái được đề nghị trong dự án. Mực độ hiện thực hóa cái mơ ước được xác định ở giai đoạn này. Và, Nhất Hạnh không hoàn toàn chứng tỏ khả năng của người thiết lập dự án hoàn hảo nhưng là người đã khiến mơ ước cá nhân thành mơ ước chung, ít ra mời gọi nhiều thế hệ lắng nghe và cùng rung động trước viễn ảnh mà mơ ước mang tới.

 

Một hội thơ đồng vọng tình người.

 Con người hành-động-Nhất-Hạnh tin cậy vào khả năng lẫn ma lực của ngôn ngữ,  và cũng như nhiều nhà vận động ý thức hồi đầu thế kỷ trong nước thời Đông-du, Nghĩa-thục, giao cho thơ sứ mệnh dẫn truyền tư tưởng và tình cảm muốn được truyền lưu. Nhiều người mới nhận ra được khuôn mặt thi nhân nơi Nhất Hạnh khi Giữ Thơm Quê Mẹ góp mặt trên văn đàn. Ngay cả người cầm bút đồng thời sành sỏi như Mai Thảo, cũng không là ngoại lệ. “ Đứng đầu nhà xuất bản Lá Bối, linh hồn của tờ Giữ Thơm Quê Mẹ, Nhất Hạnh con người của vấn đề Phật giáo phơi bày thêm một khía cạnh mới là con người Nhất Hạnh thi sỹ.” ( Mai Thảo, Nhìn Lại 10 Năm Thơ, Kịch, Truyện, Nghệ Thuật, tuần báo, xuân Bính Ngọ (14&15), tháng 1.1966,  tr. 73.) Dẫu sao, nhận định như thế xác nhận tiếng nói và vai trò một thi nhân trong lúc tiếng thơ của Nhất Hạnh dường như châu tuần về một hướng: tình thương giữa con người và con người. Nhận định ấy hơi muộn màng vì Nhất Hạnh đã có thi phẩm xuất bản từ năm 1950 ( Ánh Xuân Vàng, nxb Long Giang, Sài-gòn)  trong đó tiếng thơ đã sớm phát giác và ca ngợi tình tự dân tộc như phương thức hàn gắn và giải cứu xứ sở khỏi cảnh trầm luân của chiến thời. Gần như là lời tình tự ban đầu với quê hương, tình cảm dăng mắc lòng người như sương thu sớm, níu chân người như ước hẹn cuộc trùng phùng

đường quê đi mãi trong vô tận

thầm kín trong tôi gợi quốc hờn:

hương lúa mùa thu, theo gió quyện

mang về sầu muộn khóc cô thôn

gió mưa gội rửa lòng hoa gạo

trinh bạch hồn nhiên giọt lệ buồn

rơi rơi theo gió, buồn cô quạnh

hoa rụng. Âm thầm, hoa cô đơn...

( Nhất Hạnh, Đường Quê, 1950, in lại trong Thơ Từng Ôm Và Mặt Trời Từng Hạt,

Lá Bối, Walnut Creek, CA, 1996, tr.294.)

Thơ thuần cảm, trong suốt như thủy tinh, tưởng như chưa vướng chút lý tưởng nào, cho dầu là lý tưởng vì người. Người ta chỉ bắt gặp một linh hồn khao khát mộng với quê nhà hiện hữu bên mình, có mệnh số trùng hợp với số phận quê hương

phất phơ lau sậy đồng hoang vắng

kiếp số thơ ngây, phận tủi hờn

ai thấy đời ai tươi trên lá thắm

vườn cau xanh ngắt mộng quê hương ?

( Nhất Hạnh, Đường Quê, sđd. tr. 294)

Nối liền thân phận với quê nhà bằng dây tình huyết mạch. Nhận thức ấy không mới nhưng vẫn cần những bước đi tới, những đôi tay mở rộng chân tình. Nhất Hạnh ý thức trọn điều trên ở tuổi hai mươi của mình và phó thác cho thế hệ sau lời minh chính trong Giữ Thơm Quê Mẹ

quê hương tôi là đây

chỉ có dòng sông, hàng cau, vườn chuối

mặc trời đất dù mang đầy cát bụi

nhưng trăng sao vẫn đẹp những đêm rằm

( Nhất Hạnh, Chỗ Đứng, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 1, tháng 7.1965, tr. 2)

Có ý nghĩa tuyên ngôn của tạp chí và cũng là phương hướng của một khởi đầu mang nội dung và kích thước một cuộc vận động, có thể nghĩ  cuộc khởi hành lấy thơ làm hiệu lệnh, đã được định hướng từ mười lăm trước trong Đường Quê nhưng với sự can thiệp ít nhiều của nhận thức. Quê hương được hiện thực hóa bằng cảnh trí quen thuộc từ tuổi ấu thơ và mối dây kết chặt với quê nhà vốn là hậu thân của cuống rún chẳng thể chia lìa, nay được thay mặt bằng trăng rằm vằng vặc.

Vương miện mà thi nhân, nhân danh thơ, trao cho quê hương, không hào nhoáng, không vay mượn vì chính là bầu khí, khung trời, thiên nhiên quen thuộc đang cưu mang và làm nên sự sống.

Thi nhân chất chứa nỗi lòng để làm nên phương hướng hành động. Bằng chứng là sự gửi gắm cho tuổi thơ mười ba năm trước, là niềm tin cậy hôm nay đặt vào tuổi trẻ. Tiếng cười vô tư của trẻ đẩy lui được “sầu đau nhân loại”. Trong cảm hứng mãnh liệt về những giá trị nhân bản, thi nhân ca ngợi sự hồn nhiên là cội nguồn hạnh phúc, là khắc tinh của những điều gây tạo khổ đau.

ngây thơ mắt biếc hồn vô tội

tràn ngập nhân gian vạn tiếng cười

sầu đau nhân loại, như mây khói,

phút chốc tan dần trong nắng mai

( Nhất Hạnh, Về Với Em Bé Ngây Thơ, sđd. tr. 3)

Như thế, có thể nghĩ, thi nhân đã chuẩn bị cho cuộc vận động sau này bằng sự truy tầm nguồn cội khổ đau. Một cách gián tiếp, thơ đã đặt những nhân tố đối lập với bản chất hồn nhiên của con người vào vị thế tác hại con người.

Trong Giữ Thơm Quê Mẹ, thơ phần lớn khơi dậy ý thức về tình thương và dành cho việc thúc đẩy mạnh mẽ nhận thức đúng đắn về thực tại

hãy chấp tay quán từ bi

cho mật ngọt tình thương nơi trái tim ứa thành cam lộ

giọt nước thanh lương, trên lòng đau thế gian, xóa tan sầu khổ

( Nhất Hạnh, Quán Tưởng, Giữ Thơm Quê Mẹ, số 3, tháng 9.1965, tr. 8)

Chính tâm từ bi không những làm tiêu tan ý không đẹp trong lòng mà còn có khả năng hóa giải mọi ác nghiệp

con rắn hổ mang uống xong giọt sương khuya trên đầu ngọn

bỗng cảm thấy tiêu tan nọc độc trên lưỡi mình

và những mũi tên tẩm thuốc của loài ma,

                                                     nở thành bông hoa khi bay đến

( Nhất Hạnh, Quán Tưởng, Giữ Thơm Quê Mẹ, sđd.tr. 9)

 Tịnh thủy trong bình là tịnh thủy trong lòng. Tịnh thủy không là sản phẩm thiêng được ban phát. Nó là kết quả của hóa độ. Tịnh thủy trong lòng là bước chuyển hóa cần thiết để đạt được an lành. 

Vòng Tay Nhận Thức ( Giữ Thơm Quê Mẹ, số 4, tháng 10.1965) là nỗ lực chính yếu để có được suy nghĩ và từ đó, hành động đúng đắn. Nhất Hạnh đã khởi sự cuộc vận động nhập thế bằng việc xây dựng đường lối ý thức từ mỗi cá nhân nghĩa là buộc cống hiến của mỗi người cần được thiết lập trên một triết lý nhận thức và hành động. Vòng Tay Nhận Thức là căn bản của triết lý nhận thức từng được thi nhân, Trụ Vũ, phác họa tương quan khắng khít giữa chủ thể và đối tượng

bởi vì mắt thấy trời xanh

cho nên mắt cũng long lanh màu trời

bởi vì mắt thấy biển khơi

cho nên mắt cũng xa vời đại dương                                             

Nhất Hạnh xác nhận kinh nghiệm nhận thức trên vào một đêm nào tương tự kinh nghiệm thành đạt một tứ thơ, vốn là kết quả sự bừng nở phối hợp giữa cảm xúc và suy gẫm. Và nụ cười trong đêm của con người tư-tưởng lẫn con người thơ phảng phất nét đốn ngộ

tôi bỗng mỉm cười hồn nhiên trước đêm sâu

                                     hồn nhiên trinh bạch

tôi biết vì tôi còn đây nên em còn đó

và hiện hữu em trở về bừng tỏa nơi nụ cười

                               huyền diệu của đêm  nay

( Nhất Hạnh, Vòng Tay Nhận Thức, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 4, tháng 10.1965, tr. 7)

Trong số ít ỏi thơ để lại trong Giữ Thơm Quê Mẹ, không quá tám bài, hầu hết đều trích xuất từ hai tập in rõ dấu vết thời thế : Chắp Tay Nguyện Cầu Bồ Câu Trắng Hiện (1965) và Tiếng Đập Cánh Loài Chim Lớn (1967) 

Bài Duy Thị Nhất Tâm là tiếng thơ gửi cho một trong những người cộng sự chặt chẽ nên đồng thời cũng mang theo tiếng nhủ lòng trước những khó khăn phải vượt qua, những gian truân cùng gánh vác trên con đường ngày một vắng người. Chỉ có một lòng là lời khích lệ chân tình vì gánh nặng trên vai họ không thể đặt xuống hoặc phó thác cho ai. Có thể nghĩ bài thơ có ý nghĩa một chúc thư mà di sản chỉ là những món nợ từ nghĩa vụ với xã hội, với người dân nghèo và ngay cả với chính mình vì nguyện ước chưa trọn

hãy nhắc lại cho tôi nghe những lời năm xưa tôi đã hứa

để tôi có thể còn có mặt ngày mai mà làm chứng cho em 

những mũi tên cắm vào thân thể tôi vẫn còn đây, nguyên

                                                  vẹn, chưa bao giờ giao trả

sửa soạn khu vườn xanh của cho sây trái

tôi cũng sẽ là một con chim như những con chim khác,

suốt đời chỉ tìm tới chốn suối ngọt cây lành

( Nhất Hạnh, Duy Thị Nhất Tâm, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 5, tháng 11.1965, tr. 11) 

Và, người vẫn tin cậy vào những ngày tháng trước mặt và đặt niềm tin ấy vào tay người cùng chung gánh vác chuyện chưa thành.

ngọn bút nội tâm em sẽ ký sắc lệnh đầy khổ đau

                                       ra ngoài vòng hiện hữu

và gọi về từ muôn phương tản mác nào hoa, nào bướm

cho chồi hoa tuổi xanh căng nhựa sống

vũ trụ cười khi hai mắt em cười

( Nhất Hạnh, Duy Thị Nhất Tâm, sđd. tr. 11)

Nụ cười trên môi người mới héo hon làm sao, khi trên thực tại, người không còn nhiều cơ hội để trông cậy. Khổ đau xây cho loài người một trú địa cuối cùng.  Con đường diệt khổ chính là cứu cánh của một đời phát nguyện và kinh nghiệm làm người tìm đường thoát khỏi bến mê là chuỗi thời gian nối lại bằng nghị lực, niềm tin và cả nước mắt.

Duy Thị Nhất Tâm ghi dấu nỗi xao xuyến thoáng qua trong lòng thi nhân trước nghịch cảnh nhưng con-người hành-động đã thắng thế, giành lại trái tim với nhịp đập mạnh mẽ, kiên cường.

Người thơ từng đứng lên từ tinh thần Phương-Bối khi con-người hành-động nơi ông trỗi dậy để lập lại thế quân bình mà dòng sông cuồn cuộn Cửu Long một chiều nào đã giục giã lòng người  xôn xao, gạt sang một bên nỗi bâng khuâng khi chiều xuống. “ Tiếng chuông khoan thai dìu dịu thấm vào lòng người. Tôi trở về với tâm hồn tôi, hướng về nội-giới. Tôi thấy tâm hồn tôi an-tĩnh, trong lặng, sáng tỏ, chan chứa tình thương. Ấn tượng về dòng sông cuộn chảy ở bến đò Cửu Long đã trở nên mờ nhạt, êm dịu. Và tôi thấy tôi thiết-lập được sự thăng bằng trong tôi, không hoàn toàn mê man trong hành động, cũng không lắng chìm tiêu cực trong suy tư nội hướng.” ( Nhất Hạnh, Bến Tre, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 2, tháng 8.1965, tr.24.)

Thông Điệp ( Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 6, tháng 12.1965) là tiếng nói dành cho tuổi trẻ, chính xác hơn là tuổi thơ, vốn là biểu tượng của thế hệ kế tiếp trong tương lai, và là hình ảnh vô tư, hồn nhiên trong hiện tại. Không ít lần, tuổi thơ được chiếu cố với chân tình như thể nguồn lạc quan tin tưởng dạt dào không hề vơi. Đó là thứ ánh trăng mật ngọt Phương Bối năm nào còn để lại nguyên hương vị nơi một tâm hồn trẻ lại vì đắm say trong lý tưởng

trán tôi đã từng nhăn

và ưu tư cuộc đời đã về ghi dấu chân nặng nề

trên khoảng trời mai ấy

nhưng trẻ thơ tâm hồn tôi hôm nay trở lại

hoa lá về trên nụ cười buông thả

vô tình xóa những nếp nhăn đi

như mưa chiều nay xóa đi những dấu chân

                          trên bãi vắng – qua một chu kỳ

Tôn vinh tuổi thơ, như Nhất Hạnh đã làm, còn là cách lên án việc bách hại những mầm non của cuộc đời trong cuộc chiến. Cuộc tấn công vào những mục tiêu đầy vô tư, không thiếu lạc quan và tin tưởng là sự lạm sát. Đây có lẽ là những cái chết có thực của trẻ thơ được thị chứng, và được  mai táng trong lương tâm. Trái tim người làm thơ chợt chao đi vì hình ảnh này. Dòng thơ ghi lại nhòe đi và oằn xuống vì sức nặng của nỗi đau giáng xuống thơ. Người làm thơ gượng thốt lên điều muốn nói được nắng chiều, gió chướng chuyển giùm. Thơ trở nên lời khai, lời thú nghĩa là cuộc đời mất đi nhiều hương vị tin yêu. Nụ cười của thơ mới cay đắng làm sao chỉ vì không muốn cái hồn nhiên lạc quan của tuổi thơ bị gián đoạn. Thơ tấn phong tuổi thơ bằng ngôn ngữ  của đất mẹ thác thân trong đóa hoa dại trên rừng

tôi vẫn còn - nụ cười chiều nay bình lặng

trái ngọt chín trên cây rừng cay đắng

ôm xác em thơ, tôi băng qua ruộng lúa quê hương đêm nay

đất mẹ sẽ gìn giữ em

để trên bãi cỏ xanh non, sáng mai này em sẽ luân hồi

                                        thành những bông hoa mới

(Dựng Tượng Tuổi Thơ,Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 6, tháng 12.1965)

Trong công cuộc dấn thân và tận hiến cho tha nhân với mục đích đem lại bộ mặt mới cho xã hội tại nông thôn, trước hết tại mấy vùng thí điểm ở ngoại ô đô thành, có những người trẻ tuổi kể cả thiếu niên đã ngã xuống vì nhiều lý do. Thêm một mặt trận được hình thành trong đó tội ác được thêm nghi kỵ, gian trá, vô minh giúp rập. Tuổi thơ thiếu may mắn hôm nay thành những kẻ chuộc tội cho một định mệnh khôn lường. Tội ác lẩn vào bóng đêm nhằm ngăn nắng mai đến với xóm lành. Dựng tượng tuổi thơ là bước đi của nhận thức tiến tới xua tan bóng tối. Thơ giúp người làm thơ trao cho tuổi trẻ năng lượng của mặt trời và nhiệt lượng của trái tim. Thơ đã bước nhanh qua những dòng tình tự để giúp nụ cười phục hưng trên môi trẻ thơ

những mũi tên bắn vào thân thể em

hãy để chúng rơi như lá thu đẹp lìa cành

ngoạn mục trò chơi tuổi thơ còn trẻ

Dậy cho tuổi thơ giữ vững tin yêu giữa phong ba. Gió dữ không làm lòng hồ xao động mãi.

Bài học chung quanh một hiện tượng tự nhiên trở thành sự ứng nghiệm của tinh thần vô-úy.

Mặt hồ gờn gợn ánh trăng xanh hay trở thành tấm gương của hồi quang mặt trời sẽ là đài tưởng niệm có ý nghĩa hơn cả dành cho tuổi thơ sớm tàn vì nghĩa cả.

Thơ thay mặt ngôn ngữ được triệu vời để vững lòng người yếu thế, đơn côi. Thật vậy, thực tại phơi bày nghịch cảnh xẩy ra giữa những cố gắng tái thiết tình người.

 Bấy giờ, người làm thơ đã ở tận phương xa, thơ  thực sự phải đối diện với ảo tưởng về năng lực của ngôn ngữ và tạo nên thử thách mạnh mẽ với tín lực của con người. Lịch sử được lặp lại trong những cuộc vận động cho xã hội, cho đất nước với sự có mặt song hành của thơ. Tuổi trẻ tưởng chừng lớn dậy cùng Thơ, tuổi thơ cũng vỡ tiếng cười ngày nào trong trẻo như tiếng suối reo. Thơ xuất hiện bên tiếng xung sát của tội ác và vô minh. Không chỉ tuổi thơ và tuổi trẻ mà cả thiện chí, tình thương cũng bị lôi cuốn vào cuộc đương đầu với bạo lực. Một cuộc đối đầu với sự bất đắc dĩ của một bên đã chìm khuất trong mặt trận rộng lớn, công khai và diễn ra thường nhật. Trong trường hợp này, người làm thơ còn bị buộc mang vai trò người chép sử và thơ hiện thân gần gũi với đời như khí trời như dưỡng chất.

Thơ không còn được giao phó cho một vai trò, thực thi một sứ mệnh mà là một sự thực được tạc vào ngôn ngữ.

cầu nguyện cho em đừng để thân em lấm bụi thẹn thùng

        đừng để tâm em mang sẹo cô đơn vụng về yếu đuối

mỗi lần ngã là một lần đứng dậy

để trưởng thành

để cuộc đời nhường một bước đi lên                     

Đêm Cầu Nguyện, là sự góp mặt bằng thơ trên tờ tạp chí mà sự vắng mặt của người chủ trương đem đến ý nghĩa tờ báo tự chấm dứt nhiệm vụ của nó. Bài thơ có vóc dáng ca từ của một khúc ca, đúng hơn, là một bản thánh ca tấn phong hòa bình giữa lúc binh lửa trầm luân đốt cháy ước mơ của bao người. Ánh sáng giác ngộ thị hiện càng làm lửa u minh trở nên thứ tàn phá lương tri.

Bài thơ minh nhiên nói đến khát vọng một cách khoan hòa như thể phủ nhận nhãn hiệu trái cấm gán cho thứ thực phẩm cần thiết của trần gian

đêm nay xin mười phương trăng sao chứng minh

cho địa cầu quê hương tôi dâng lời cầu nguyện

cho Việt Nam khói lửa

cho Việt Nam điêu linh

cho Viêt Nam quằn quại đắm chìm trong máu lệ

sớm vùng dậy trong đau thương thế kỷ

để biến thành chiếc nôi đón chào Từ  Thị

( trong Tiếng Đập Cánh Loài Chim Lớn,  in lại trong Thơ Từng Ôm và Mặt Trời Từng  Hạt, Lá Bối, 1996, tr. 109)

Bản tụng ca Hòa  Bình nhưng không một chữ hòa-bình được nhắc đến để tôn vinh, cũng như không một lời nói đến chiến-tranh được nêu ra để dị nghị. Đây là lúc thực tại được định danh lại thay cho sự trá hình và con người phải chấp nhận sống trong huyền thoại mới. Huyền thoại dựng trên những giá trị giả định và tương quan được thế chấp bằng hoài nghi được bảo chứng.

Lời cầu nguyện vốn dựa trên sự tin tưởng, một lần nữa, bị sa cơ,

đêm nay cầu cho khổ đau kết trái hoa thành

cho sinh diệt đi ngang dòng pháp thân bất diệt

cho suối tình thương chảy tràn trên vạn lòng tha thiết

để loài người học tiếng nói chân như

Ước vọng đã lớn lên và cuộc vận-động lại gặp thêm khó khăn. Ước vọng có tổn thất hay mai một khiến viễn ảnh thêm xa vời. Từ ước-vọng thành khẩn-nài, con người phải tiếp tục trả giá thêm cho nguyện ước chính đáng của họ.

Trong Giữ Thơm Quê Mẹ, thơ Nhất Hạnh đánh dấu sự tin cậy thành khẩn hồn nhiên vào nền tảng tương quan  giữa các bên tranh chấp, vào một số giá trị được cộng đồng và cá nhân xem như nội dung của phẩm giá của chính họ.

Tiếng đồng vọng của một thế hệ thơ

Cuộc vận động mang tính chất văn hóa được mở ra, báo hiệu một lần nữa sự đối đầu giữa những quan niệm về phát triển, làm bộc lộ những khác biệt trong chân thành và tâm huyết. Có khá nhiều tiếng thơ trở thành tương đồng khi quy tụ về đây khiến cho sự thuần nhất tiếng nói trong tạp chí trở thành một đặc điểm.

Trước hết, là sự biểu đồng tình với quan điểm về thực tại của người chủ trương, xuất phát từ một cây bút thời danh và có tiếng chủ trương hư vô, Phạm công Thiện. Chủ trương chống lại sách lược đối đầu hay sử dụng chiến tranh, lấy nguyên tắc bất nhị làm nền tảng là một thứ triết lý mật của “học thuyết” chống chiến tranh và dường như, lần thứ nhất tham gia vào cuộc tranh biện kín đáo và thoáng nhẹ như sự hoài nghi một mùi hương đi lạc

mười năm qua gió thổi đồi tây

tôi long đong theo bóng chim gầy

một sớm em về ru giấc ngủ

bỗng trời bay trắng cả rừng cây

... ...

gió thổi đồi thu qua đồi đông

mưa hạ ly hương nước ngược dòng

tôi đau trong tiếng gà xơ xác

một sớm bông hồng nở cửa đông.

( Phạm công Thiện, Bất Nhị, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 1, tháng 7.1965, tr. 2)

Chính cái tâm phân biệt ( thu / đông, xuôi/ ngược, ly/ hoàn) được giải thích là cội nguồn của sự bất hòa, phân ly dẫn đến oán thù và chiến tranh.

Hoài Khanh, Thành Tôn, Trụ Vũ, Nguyễn Phan Thịnh, Trần Dzạ Lữ... thả hồn lên bầu trời thủy tinh của nguyện ước mong làm một loài chim biểu tượng

làm chim bay từ bắc xuống nam

hót lời bi thương đêm như ngày

làm sao tổ ấm trên ngọn cây

làm sao bình an cho loài người

làm chim làm chim khi qua đời

( Nguyễn Phan Thịnh, Bài Ca Chim, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 7&8 xuân Bính Ngọ, tháng 1&2.1966, tr. 11.)

xin những cánh hoa nở đầy dưới biển nở đầy trên rừng

cho những cuộc chém giết bớt buồn

cho những kẻ nằm xuống nhắm mắt yên lòng

và cho những kẻ chiến thương hái về tặng người yêu

xin những cánh đồng bỏ hoang chín đầy lúa vàng

xin những căn nhà bỏ hoang buổi chiều có khói

để chiếc lưng bà mẹ đỡ còng

để những đứa trẻ sinh ra có một quê hương

( Nguyễn Mạnh Song-Ka, Lời Xin Với Trời, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 11, tháng 5.1966, tr. 11.)

Người ta thường viện dẫn sự khiếm khuyết do kiểm duyệt  một khổ thơ của Đinh Cường trong Giữ Thơm Quê Mẹ như bằng chứng cho sự khuynh loát áp đảo của thực tại. Nhưng, ngược lại có thể hiểu, chính sự có mặt của thực tại nghiệt ngã đã khiến ước mơ có cơ hội thêm bừng nở và càng diễm lệ nếu hoàn cảnh ra đời càng thêm ngang trái. Câu thơ bị kiểm duyệt nhiều lắm là khắc họa thêm nét phũ phàng, đen tối cho thực tại nhưng sự vắng mặt hữu ý của chúng lại khiến ước mơ thêm rạng rỡ ý nghĩa. Ước mơ đến như ánh sáng xóa đi màn u ám của bầu trời, đem bình an đến cho mình, cho người và đồng thời đẩy thực tại vào vị thế đối nghịch với con người

em về thành nội ngủ yên

bước chân lau sậy trắng miền mộng du

chiều qua ra đứng Biển Hồ

nhìn đồi xa thấy xa mờ bóng em ...

 ( Đinh Cường, Ghi Từ Pleiku, GTQM, số 7&8, tháng 1&2.1966, tr.6)

Khi bước chân ra khỏi thực tại - mặc dầu trong nhiều trường hợp chẳng hề được đặt bước vào - mơ ước có đời sống riêng và không còn liên can đến thực tại. Đó là lý do mà ước mơ của mỗi người đặt ở vị trí nào vẫn nguyên vẹn dạng hình và ý nghĩa.

1- Đó là bóng dáng tâm hồn Hoài Khanh dường như vẫn nguyên vị trong trầm mặc, u sầu dù việc có mặt trong Giữ Thơm Quê Mẹ phải là điều có ý nghĩa.

Trước hết, phương vị sẵn có của Hoài Khanh trong thơ hồ như vẫn thuộc về một thế giới đìu hiu của suy niệm và thống hối

một mai nhắm mắt quên đời

người đi qua mộ chớ cười vô tri

( Hoài Khanh, Nhận Phận, trong Thân Phận, Ca Dao, Saigon, in lần 3, 1973, tr. 29.)

Cho dẫu xem những lời ủ ê đến mức ai oán nằm trong một giai đoạn cần thiết “dọn mình” cho sự đón nhận tư tưởng giải thoát hay giác ngộ chân lý cứu rỗi, thơ Hoài Khanh vẫn là  sự ám ảnh không nguôi đối với người đọc, nhất là trong tình trạng bất an và đầy rẫy đe dọa đến sự an tịnh mà con người mong được đến gần. Nhà thơ thường nhắc đến cái chết, đến dương thế như cách đoái hoài của người đã rời bỏ, đến bầu khí hoang lạnh của đất chết, những điều mà thực tại đã trao cho họ nhiều kinh nghiệm rướm đứt thần kinh. Dường như Hoài Khanh không xem thế giới thơ của ông đã đánh thức nỗi kinh hoàng mà người đọc có thể phải trải qua hằng ngày. Đã bám chặt vào tâm hồn, vào da thịt họ như một thứ tử khí. Thơ Hoài Khanh có âm điệu và ngôn ngữ của tiếng khóc níu chân, tiếng hát đưa linh, gợi ra hình ảnh trọn vẹn của cái chết, dẫu cho có thể hiểu là một sự thăng hoa tâm hồn, phát tiết tinh anh. Ngay từ lúc đặt chân vào cõi thơ, thơ Hoài Khanh không là sự phủ định thực tại cho dầu hiểu theo nghĩa nhất định. Nhưng thực tại dưới mắt nhà thơ là sự phủ định cái thực tại quen thuộc của bao người. Đến mức một trong những tâm giao như Phạm công Thiện, xem Hoài Khanh, qua thơ và tâm hồn, là hình ảnh, trước hết, của cái Chết. Có lẽ trạng thái cực đoan và quyết liệt trên mới diễn tả được môi trường nhà thơ tạo nên bằng ngôn ngữ và cam sống với như một đường lối tu trì cũng bằng ngôn ngữ. Liệu cái chết là một ám ảnh mạnh mẽ và dai dẳng hơn cả đến hồn thơ hay chính là thuộc tính của tâm hồn người và thơ lả cách phô diễn hiệu quả nhất. Nói theo cách thời thượng, hơn là kẻ bị lưu đày nơi trần thế vì dường như lòng người quanh quẩn nơi thế giới bên kia.

Nhưng trong Giữ Thơm Quê Mẹ, Hoài Khanh tỏ ra vơi nhẹ được nỗi niềm quen thuộc và hướng nhiều hơn thực tại quanh mình.

Những suy tư trầm thống về thân phận  bấy lâu vẫn là môi trường cần thiết để hòa quyện thêm đôi băn khoăn về thực tại, một thực tại đầy nghi hoặc dưới con mắt ủ ê. Lời tự tình được thố lộ như thế nếu dành cho quê hương chỉ là cái cớ để trút cho thân thế vốn an phận trong một cõi riêng. Người kín đáo trông chờ một vận hội mới không chỉ cho riêng mình. Chỉ riêng đó thôi cũng thấy tâm hồn người viễn cách với những gì mà thực tại hứa hẹn đem lại

mưa về thành phố rồi đây

mai sau còn có một ngày trông mưa ?

nghe vang  tiếng thét trêu mùa

ôi cành khô mấy nghìn xưa vọng trầm

đi, về trong cõi xa xăm

ở đây nào biết ta thầm xót thương

dòng sông cũng đã lên đường

núi xanh xa cũng biệt nguồn hỡi mây

đất đau từng quả bom cày

lòng đau từ thủa chia tay cuộc tình

nặng nề một bóng hư linh

đã nghe, từng thấy mầu sinh tử bừng

chiều nào tiếng quốc lâm chung

bờ hiu hắt rộng sông trùng điệp dâng

( Hoài Khanh, Mưa Và Đất, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 5, tháng 11- 1965, tr. 9)

Nếu như muốn nói một cách chặt chẽ, thái độ cần thiết mà thực tại đòi hỏi nơi thi nhân, Hoài Khanh chỉ góp rõ rệt có một câu, “ đất đau từng quả bom cày.”  Còn lại là tâm sự muôn thuở buồn như chiều đông, cõi lòng người không phai ủ rũ. Sầu muộn là tính nết thơ Hoài Khanh, như một thứ tính trời được pha trong sữa mẹ. Cái sầu quấn quít lấy hồn người đọc thơ trước khi trả người về cõi thực với một tâm hồn khổ lụy. Dường như thơ còn là cách “sống đạo” của Hoài Khanh, truyền rao cái nhìn u ám về cuộc đời trước khi chỉ ra con đường cứu khổ. Nhưng dường như Hoài Khanh chỉ làm tròn nửa đầu của “sứ truyền” vì ngay trong công cuộc giữ-thơm-quê-mẹ,  sầu hoài đã chan chứa giấc mộng thi nhân

ôi những mộng đã tàn trong cõi mộng

giọt sương nào sẽ trắng bóng hình xưa

để ta gọi lá cây rừng thổn thức

những buổi chiều gió cũ buốt trong mưa

( Hoài Khanh, Cõi Mộng, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 6, tháng 12.1965, tr. 12)

Cõi mộng của thời Giữ Thơm Quê Mẹ của Hoài Khanh lặng lẽ u buồn. Kể từ khi người thốt lên, ta đi lòng có trong mồ, thân phận người đã đồng hóa với u sầu nghĩa là chấp nhận một biệt dạng của bản ngã. Với thi nhân, mộng là trạng thái ý thức mơ màng để u buồn không thấm đẫm. Như thế, mộng không là phương thức để thoát ly hay vươn tới mà gần như có ý nghĩa của con đường tâm linh dẫn đến cảm thông. Tâm hồn người hòa lẫn vào tạnh vắng của đất trời  để tìm đến thanh tịnh cũng như đã an trụ trong sầu muộn như một cách tồn tại  trong cõi đi về

em đã mang cả vầng trăng biền biệt

ta nằm đây thương tiếc thuở huy hoàng

đã không đến như một dòng sông trắng

đã không về như một ánh sao tan !

( Hoài Khanh, Cõi Mộng, sđd. tr 12)

Đôi khi, lòng thi nhân rộng mở đón nhận nhan sắc nghệ thuật muôn phương  nhưng sự vồn vã chỉ dành cho tiếng lòng ủ dột. Người ta có thể nghĩ, thơ Hoài Khanh chọn đầu thai vào kiếp sầu buồn hay chính người thơ thủy chung với thân phận đã mang

tôi thu mình mình lắng cung đàn

chợt mù sương trắng hai hàng song song

em vang nức nở giọng đồng

đôi bờ ngất lịm theo giòng mưa sa

hồn run trên phím tay ngà

dòng sông từ đó chan hòa trong tim

( Hoài Khanh, Trời Mưa Nghe Nhạc Strauss, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 5, 11.1965, tr.10)

Đến nỗi âm vang nhịp đập trái tim sầu thê thiết ấy như hồi chuông báo tử nơi giáo đường hay khúc ca tại chốn mộ lạnh. Phạm công Thiện, trong thời gian gần gụi nhất với nhà thơ đã vận dụng ngôn ngữ của thế giới u sầu để mong dựng lên bản ngã của Hoài Khanh và khối lượng chữ nghĩa cũng chưa đủ làm nên trọn vẹn một chân dung tâm hồn. “ Nhìn nét mặt Khanh, tôi thấy sự Chết, tôi thấy Bệnh hoạn, Đau khổ, Quằn quại, Khắc khoải, Ray rứt, Xao xuyến, Hoang liêu, Cô đơn; tôi thấy sự Chiến bại, sự Thất vọng của con người .” ( Phạm công Thiện, Nỗi Cô Đơn của Hoài Khanh, viết tại Đà-lạt 1962, trong tập thơ Thân Phận, Ca Dao, in lần thứ ba, 1972, tr. 8.) Như thế, Hoài Khanh, cái tên mang nặng âm khí, đột nhập cõi trần mang theo điều cảnh báo của thế giới đối nghịch với  sự sống và điều kiện phụ thuộc nó.

Người ta nghĩ Hoài Khanh không thể tự chuốc lấy kiếp của kẻ bị đầy đọa linh hồn, là “ hình ảnh bi đát của Đời, của con người, của một kẻ bị đày giữa bãi đất hoang tàn của nghĩa địa trần gian.” ( Phạm công Thiện,  bđd. tr. 8.)  Mà đúng ra, được chọn để nhận vai trò thống khổ của người thi sĩ trước cuộc đời lâm nạn. Thơ Hoài Khanh là tiếng ca của sứ đồ cõi chuộc tội. Tiếng hát thay thế lời rên xiết của nỗi đau, ăn năn, thống hối.

Có thể, trước khi hợp cùng tiếng thơ Giữ Thơm Quê Mẹ, người làm thơ còn là một thứ con tin của cuộc đời lâm nạn. Đến với Tiếng thơ kêu gọi tình thương, vai trò của thi nhân mới được nhận diện rõ ràng. Tiếng nói mang nặng bi quan, đau khổ, thiệt thòi  đã trút bỏ phận người bạc mệnh để mang âm điệu khúc ca chung của sự cứu chuộc, xin được tha thứ.

Về mặt ngôn từ, tiếng thơ không thay đổi giọng sầu và lạnh như thoát tự cõi âm và hầu như không ghé đến thực tại như cách yêu cầu của Giữ Thơm Quê Mẹ. Thơ vẫn là tiếng hát vạng vọng của ăn năn bên cạnh sự thúc dục, tuy có nhẹ nhàng, của sự kêu gọi tình thương và dẫn chứng bằng hình ảnh hãi hùng của tinh thần giành đoạt, tranh cường bất chấp sinh mạng.

Tuy thế, trong số báo đầu tiên, Hoài Khanh đã đóng góp vào việc xiển dương ý thức dân tộc trong một nỗ lực chung trước cuộc chiến được mở rộng nhưng không còn trong tay người dân Việt. Ý thức như trỗi dậy dưới ngòi bút thi nhân được ấp ủ và hiện ra rõ rệt như ban mai. Người ta tưởng như thi nhân đã rời bỏ cõi âm u của một đàn giải tội để tiến ra chỗ ánh sáng của diễn đàn. Thương người ở Phi châu, sống lang thang không một đất nước đúng nghĩa để dừng chân. Thương người cũng là thương mình nếu không ý thức rõ điều bất hạnh đó

tôi sẽ đưa em về miền cát bỏng

cưỡi lạc đà đi suốt cõi châu Phi

để em biết nỗi buồn xa đất tổ

thương linh hồn bộ lạc thủa lang thang

và thương mình một tình yêu bé nhỏ

có nghĩa gì giữa đau khổ mê hoang

( Hoài Khanh, Về Nguồn, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 1, tháng 7.1965, tr. 8)

Trở về thực-tại với từng bước dè dặt, thận trọng, là trường hợp Hoài Khanh như người  làm quen với bóng tối đã lâu, hoài nghi với những gì khác với cái quen thuộc nay đã thành bản ngã. Thơ Hoài Khanh trong mấy số đầu tương tự với cách làm quen của người ẩn sĩ trở lại chốn phố phường, còn phảng phất nét kín nhiệm của người ẩn tu lẫn cố gắng thấy rõ của người tỏ ra ưu thời sau thời gian dài lãnh đạm. Quả là khó khăn với người có thế giới thơ riêng biệt như Hoài Khanh. Cũng vất vả như những người ở ngoài thế giới này muốn thâm nhập cõi thơ của người thi sĩ. Nếu lấy yếu tính dân tộc làm yếu tố cần thiết của lộ trình tiến tới, thì ngoại trừ người chủ trương, Nhất Hạnh, khó tìm thấy thuộc tính của tình cảm này trong thơ hôm nay vốn xem việc phân biệt trên là chướng ngại với thơ. Nên có thể ở giai đoạn đầu, Hoài Khanh tìm cách thỏa hiệp với chính mình khi chỉ giữ lại một số điểm siêu hình quen thuộc liên quan đến tâm thức của con người thơ trước đó

chiến trường ôi lửa mê cung

tim Em cũng cháy trong cùng tận đau

tình anh cũng giá như mầu

sương kia từng lạnh trên sầu biển Đông

quê hương một đóm lửa hồng

làm sao sưởi ấm cõi lòng Mẹ, Cha

tôi về vun sới vườn hoa

cho em là gái Biên Hòa, Hàm Tân

cho tôi là kẻ cô thần

nằm đây gửi mộng dậy ngần sương xanh

( Hoài Khanh, Tinh Thể Hồng, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 2, tháng  8.1965, tr. 6.)

Trở về với thực tại, đối với thi nhân còn là nỗi khó khăn khi phải ứng phó với đời. Trước đây khi chọn giam mình trong bản ngã, thi nhân như chỉ tiếp tục dấu mình trong chiếc kén. Kén càng dầy nghĩa là bản ngã càng vững vàng, lòng càng không dễ dao động. Bước chân chập chững vào đời, nhưng thi nhân mang tâm trạng của thế hệ già nua, đã biết chiêm nghiệm cuộc đời ngay từ bước  chân vào đời thứ nhất. Như thế, dù ở trong hay ngoài đời, lòng thi nhân đều gửi vào thân phận con người được đặt để như một vệ tinh chu tuần quanh quỹ đạo nhân sinh, một viên bi mà số phận là luân lưu như định mệnh

khi hồi thanh đó quay hoài hoài chiếc pháo bông của trẻ

để nghe từng giọt sương từng bãi triều

đi mòn ruỗng trong hồn trong máu

nghe từng sự tự do quậy quọ như con kòng con dế

nghe từng sự phẫn nộ căm hờn

vùng vẫy như chiếc đèn dầu trước gió

con người vẫn còn đó để đi

những chặng đường mà thời đại là một viên bi

lăn lông lốc trên ghềnh vực thẳm

mỗi người là một viên bi

suốt một đời lăn tròn trong niềm viễn lưu

( Hoài Khanh, Cây Pháo Bông Của Trẻ, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 3, tháng 9.1965, tr. 10,11.)

Xem cuộc đời tựa như chiếc pháo bông được đốt trong tay trẻ nhỏ, Hoài Khanh muốn nói đến sự vô tình, bất định của cuộc đời, diễn ra như một trò chơi của trẻ thơ, không mang theo một sứ mệnh thiêng liêng hay ẩn tàng một sự có mặt được an bài. Đây có lẽ là khám phá thứ nhất về cuộc đời sau sự thuận tuân vào đời mà giá trị của nó có thể chỉ là sự tự do nhận thức. Sự phát giác của thi nhân vẫn chịu sự chi phối của nghệ thuật, tuy rằng có thể là lần đầu thi nhân bước ra ngoài thể thơ sở trường lục bát.

Thực tại chưa thể lay tỉnh giấc mộng thi nhân nếu người ta thực sự nghĩ rằng thi nhân đã bỏ lại rất nhiều điều cần khám phá thực tại, không chỉ là cái thân phận thâm u, nhợt nhạt thiếu sinh khí.

Bởi vì thi nhân vẫn xem thơ lạc loài không khác gì thân phận, vẫn không ngoài quỹ đạo một trò chơi ngoài ý thức của con người

như chiếc pháo bông đã được đốt lên

tình cờ đứa bé nào đó sẽ quay tròn

và thơ tôi cũng vậy

( Hoài Khanh, Cây Pháo Bông Của Trẻ, sđd. tr. 11)

Cái ánh mắt u hoài vẫn tiếp tục đeo đẳng Hoài Khanh khi nhìn vào thực tại quê hương không được như sự trông đợi của những con-người-hành-động trong sứ mệnh giữ-thơm-quê-mẹ. Bầu khí phát khởi từ một nỗi lòng u uất, thê lương vẫn tiếp tục trùm phủ quê nhà vốn hoang tàn, đau khổ vì phân tranh, ly loạn. Người ta có thể nghĩ quê hương của thi nhân vẫn giữ nguyên vẻ tiêu điều vào thời hậu chiến nghĩa là thực tế, cuộc đời vốn dĩ khổ đau. Chiến tranh, ly biệt, bất an, có qua đi nhưng cuộc đời vẫn là kết tập của những cái cần được ruồng rẫy. Như thế, nhập thế hay vào đời chỉ là cơ hội để thi nhân cất cao nhận thức đã có về cuộc đời, về cái thân phận ủ ê mà mỗi người không thể khước từ cho dầu đã buông khí giới

một đời tôi mãi bơ vơ

nhìn sông nước chảy và thơ ấu tàn

nhìn trời mây trắng đi hoang

nước ơi có vọng cùng non nỗi gì

quê hương từ dạo phân ly

từng đêm... tiếng hát kinh kỳ xót xa

( Hoài Khanh, Tiếng Quê Hương, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 4, tháng 10.1965, tr. 9.)

Thực tại làm chấn động tâm hồn thi nhân, trong một lần hiếm hoi, vẫn là tượng hình nghệ thuật lay động trong lòng như lo âu một đổ vỡ, một tan tác một giá trị quý

đất đau từng quả bom cày

lòng đau từ  thủa chia tay cuộc tình

( Hoài Khanh, Mưa và Đất, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 5, tháng 11.1965, tr. 9.)

2-Thành Tôn, người đã từng ấp ủ việc nhen lại hương ấm của tình thương yêu như cách trả ơn đời và vài năm sau khi xuất hiện bên cạnh Hoài Khanh trong Giữ Thơm Quê Mẹ đã có cơ hội để “ thắp tình” khi tự tạo một ngọn lửa ấm hiếm hoi trong văn chương đương thời ( tập thơ Thắp Tình do tác giả tự thực hiện việc trình bày, sắp chữ, ấn loát và hoàn tất ngày 06.8.1969). Sự đóng góp của Thành Tôn cho Giữ Thơm Quê Mẹ không nhiều, tính về số lượng, không hơn sáu bài, và chỉ khi tạp chí còn có mặt Hoài Khanh, nhưng cũng đủ khiến cho âm lượng của tiếng gọi đàn thêm tha thiết.

Tìm kiếm được mối đồng cảm trong cái nhìn về thân phận phải chăng cũng là điều hạnh phúc với Thành Tôn khi người vẫn lưu lạc trong những giây phút biệt xứ với thực tại. Nhưng, day dứt với định mệnh, băn khoăn rất mực với sự có mặt trên dương thế vẫn hằn dấu ám ảnh người như dấu lửa trên vai kẻ tội đồ. Người đã ủy thác cho thơ giãi bày nỗi u uất như người mắc tình oan gửi cáo trạng với đời.  Đóng góp thơ của Thành Tôn cho Giữ Thơm Quê Mẹ khởi sự tự ý thức thanh tịnh thân tâm, để ngọn lửa dành cho cuộc thắp tình được thêm nồng ấm. Chỉ riêng về mặt kỹ thuật, hồn thơ sáu-tám như hiển linh trong từng bước thẩm thấu vào nỗi cô tịch lòng người. Tứ thơ như sương lạnh trên mộ khuya xâm chiếm cảm giác còn sót lại trong ý thức. Thi nhân trần thuật một cuộc phán xét sau cùng dành cho chính mình mà tự thân như trước tòa giảo nghiệm linh hồn. Tự trong lịch sử của thi ca nhà, có lẽ lần thứ nhất, dòng sáu-tám được triệu vời cho một cuộc tìm kiếm và truy nguyên định mệnh và phần số cá nhân thêm quyết liệt, gay gắt như thế

bây giờ đau nỗi phân thân

nặng vai âm phủ nhẹ chân địa đàng

mộ tôi máu đỏ da vàng

ý se những sợi điêu tàn trong thây

nửa đời lầm lạc trong tay

tóc thưa rầu đó mỗi ngày một rơi

lầm lì nếp sống thoi dơi

bóng đêm lưới dệt rã rời ấu nhi

( Thành Tôn, Cuộc Tôi, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 1, tháng 7.1965, tr.5.)

Thực ra, Thành Tôn đã từng xem thế gian là cõi đi về. Cái chết vỏn vẹn chỉ là chuyến ra đi mang tính chất xả bỏ một gánh nặng hơn là mất mát

dưới kia cõi trú lui về

sạch tay rũ áo lòng nghe nhẹ nhàng

( Thành Tôn, Vào Lòng Đất, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 2, tháng 8.1965, tr. 2)

hay

là xong khép mắt dương trần

gỗ khô huyệt ẩm nhẹ phần từ đây

( Thành Tôn, Vào Lòng Đất, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 2, tháng 8.1965, tr. 2)

Nếu thế, quan niệm về cái chết của Thành Tôn phù hợp với một phần quan niệm của Phật và Lão dù không thuận lợi bao nhiêu với đường lối của Giữ Thơm Quê Mẹ và rộng hơn, với xu hướng nhập thế của Phật giáo đương thời.

Cũng có thể, nhà thơ đã nghĩ đến sự tồn tại của một xu hướng cảm xúc dẫu nằm ngoài trào lưu vẫn là sự biểu thị của tự do và là điều kiện nẩy nở tri thức và nhận thức. Thơ nằm ngoài trào lưu chăng nữa vẫn là tinh anh của con người. Hiểu như trên, thơ Thành Tôn lại là tiếng nói đơn độc của nỗi bi quan mà người ta không thể khước từ, cũng như cái chết không thể chối bỏ. Đặt thơ Thành Tôn bên cạnh những vần thơ “mới” theo tự giác, thế giới thơ có dịp chứng kiến sự khó khăn của việc rời bỏ một cuộc đời thơ làm nên chính đời sống tinh thần của người cầm bút. Cuộc đời thơ u buồn, thiếu sinh khí cõi trần nhưng thi nhân không thể rời chính vì nó là  biểu tượng một cuộc chất vấn gay gắt và dằng dai với chính thi nhân về sự có mặt của người và chưa tìm được câu trả lời thỏa đáng

có không nhục thể linh hồn

dưới kia đất lạnh tiếp nguồn thịt xương

tay xuôi lòng đó bình thường

nhân sinh cõi trú đôi đường chia xa

có không danh lợi chánh tà

tiếng tai người giữ mảnh da kẻ thờ

duỗi thân phù phiếm tay chờ

tình kia ấm lạnh mấy bờ hồng hoang

có không son sắt đá vàng

bàn chân nghiệp chướng nẻo đàng thu sương

( Thành Tôn, Vào Lòng Đât, sđd. tr. 8)

Quan niệm vô thường có một thời gian an trú vững chãi trong hồn người như một nguyên lý. Và, hầu như còn là phương thức hóa giải những khó khăn mà thực tại bày ra trước mặt. Ước mơ còn có vị trí quan trọng nào trong lòng người  khi cuộc sống còn đặt sau bức màn hư ảo. Trường hợp Thành Tôn còn là sự lưỡng lự lựa chọn giữa con đường đầy sáng tạo của suy tưởng mà con người có thể tự hào và sự thúc đẩy của ý thức dẫn người vào cạm bẫy của luận lý mà người từng xa lánh.

Bên việc ôm giữ tưởng như không rời thân phận cô đơn và giam mình trong nỗi ăn năn của kẻ trước đàn giải tội, lòng thi nhân còn tỏ ra canh cánh trước thực tại không vui khi tự nguyện hiến mình cho việc khơi dậy hương nồng của một thứ tình cảm cần phải chắt chiu trong hoàn cảnh đương thời. Thi nhân như thể dứt ra khỏi nỗi niềm u ám của thống hối trong thân phận để nhìn về hướng cần có ánh nắng ban mai. Khơi dậy tình nhà bằng hơi ấm cũng là khúc nguyện cho quê hương thoát khỏi điêu linh. Chân tình của người thơ tưởng như cảm được cỏ cây vì chung nguồn với nỗi niềm của thao thức chung dài dặc

cha nằm xuống giữa quê hương mòn mỏi

mảnh đất sầu có tiếp thịt xương không ?

mẹ ở lại đớn đau mềm sợi khói

thắp cho lòng ? con cháu ? cho non sông ?

( Thành Tôn, Thư Cho Mẹ, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 3, tháng 9.1965, tr. 4.)

Lời của thi nhân có lúc là tiếng đồng vọng mạnh mẽ cho cuộc vận động tình thương, rưng rưng nắng sớm gió chiều như sự quán xuyến của trái tim trong bước đi tới của đất nước. Ước nguyện cũng là sự khuyến dụ chân thành về một con đường mở lối cho sự bình an trở về với lòng người và thực tại

con cúi xuống hôn tràn lên đất sống

nước mắt này ướp ấm hồn quê hương

cao vầng trán nguyện cầu xuân ước vọng

núi sông tình mau kết trái yêu thương

( Thành Tôn, Mùa Xuân Nói Xuống, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 7&8, tháng 1&2.1966, tr. 10)

Những lúc ấy, người làm thơ giao cho thơ việc bày tỏ minh bạch với đời, về nguyên ủy của ước vọng thiết thân một thời, về những bóng tối hung hiểm trên nền trời quê hương thuở ấy, là “ lửa chiến tranh đốt thui tình yêu đất”, những là “súng tan tành trên mỗi mảnh quê hương.”

Không chỉ là một thái độ dang tay với cuộc đời, với cả thực tại và gần như có giá trị một tuyên ngôn, người làm thơ đã bỏ lại bóng mây u ám tự những ngày tháng cũ. Một chặng đường tư tưởng đã vượt qua tuy thi nhân không cao rao nhận thức về một khúc quanh rõ rệt của tâm hồn và tâm cảm. Thi nhân trở thành người chứng cho sự đánh thức của một luồng tư tưởng, cho con đường ý thức về một hướng đi và sự hòa nhập với cái đẹp, cái lành của một tâm hồn đáng quý

khép dần cánh cửa hư vô

thân chưa nhập thế cơ hồ cách xa

( Thành Tôn, Ranh Giới Cô Đơn, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 5, tháng11.1965, tr. 3.)

Quả thế, tâm hồn thi-nhân gần gũi với sự triệu vời tình thương, cùng chung giai điệu với câu tình tự. Tiếng nói của thi nhân tự thân đã là hơi thở chung của việc giữ-thơm-quê mẹ, không cần đến sự dương danh. Người mang một tâm hồn đủ để bảo chứng mà không cần đi tìm một vị trí trong cuộc chiến và vì biên giới, tuyến phân chia đã kiên cố trong lòng người bấy lâu

một chút khói hắt hiu hồn kẻ chết

con trở về như người sắp ra đi

cuộc chiến đó, cha nằm đây mỏi mệt

đằng sau lưng ranh giới những biên thùy

( Thành Tôn, Hương Khói Hồn Cha, Bách Khoa Thời Đại, số 207, 15.8.1965, tr. 52)

3- Cạnh đó, sự có mặt của Định Giang, tuy ngắn vẫn lưu lại cái nhìn chan chứa và đằm thắm về hiện tình xứ sở. Cái nhìn thẳng thắn nhưng bao dung trước một sự thực chịu nhiều thử thách và thống trách. Người ta không cảm thấy cay đắng như trong lời không ít người, cũng không gượng nét cười mà trông đợi vào một ngọn triều tình cảm trào dâng trong ý thức. Quê hương bóng mát ngợp lời mẹ ru ( Những Tuổi Đời Đi Qua, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 3, tháng 9.1965, tr. 5) Người thơ trở thành người hát rong ca ngợi sự trông chờ ngọn gió nam giải cơn nồng nắng hạ. Khơi lại chút tin cậy vào mối tình cảm đã thất tán do mãnh lực của tham vọng và u tối. Xin cho giấc ngủ đời đời / Để trong mơ sống lại thời mẹ ru. ( Và Bây Giờ, Giữ  Thơm Quê Mẹ, tập 3, tháng 9.1965 , tr. 6.) Người ta có thể hoài nghi về những điều người làm thơ mong đợi hay ao ước, nhưng người ta không thể xem là hão huyền việc con người tìm cách phục hồi những giá trị bị tàn phá. Quê hương không là nơi đọa đầy hay chốn phát vãng, hiểu theo mọi nghĩa. Trong sự truyền đi hơi ấm hay sức mạnh cho một công cuộc cải biến cho quê hương, kẻ sứ đồ văn hóa, trước nhất, mang tinh thần đóng góp đến với cộng đồng, tiếng nói trở thành lời cao rao cho ước vọng sẽ thành. Nơi người hành động, ý thức cần được nâng cao như điểm sáng trong khuya cũng như sự trung thực, can đảm đòi hỏi nơi người chứng của thời đại

đêm đi giọng hát quê nghèo

tiếng ru bom đạn đẳng đeo quanh mình

( Định Giang, Chiến Tranh, Nỗi Bi Thảm Của Quê Hương, GTQM, tập 2, tháng 8.1965, tr. 6.)

4- Cùng với Định Giang, sự có mặt của Kim Tuấn nơi một tạp chí mà dấu vết kiểm duyệt thật rõ rệt, mang nhiều ý nghĩa của sự xung đột giữa những giá trị tưởng như không dễ phân biệt trọng khinh.

Kim Tuấn chỉ hiện diện trong mấy số đầu tạp chí nhưng ước vọng dung dị và hồn nhiên năm nào lại được khơi dậy như lời nhắc nhở đắng cay về một thực tại cố trốn tránh lòng trông chờ đã mòn mải của bao người. Ước mơ về an bình đã về trong giấc mộng từ 3 năm trước, 1962,  tưởng sẽ nhẹ nhàng đậu bên gối người chờ mong. Nay, cảm thấy bẽ bàng vì khoảng cách xa vời của ảo vọng. Hãy nghĩ lại không gian của niềm an bình ao ước tầm thường ấy đã lặng lẽ trở thành một ý niệm ngủ yên trong văn chương. Người đánh mất hay làm thất lạc ước mơ trở thành kẻ trắng tay sau khi bị tước bỏ chút gia tài tinh thần duy nhất

Khi tôi trở về con chim câu nằm trong tổ ấm. Giây thép gai hết rào quanh đồn phòng ngự và người lính đã trở lại cày đám ruộng xanh... Khi tôi trở về mẹ vừa tóc bạc. Đôi mắt nhìn vào tương lai và quên hết bao nỗi ưu phiền. Con cò lại bay trong đồng ruộng xanh. Lũy tre cúi xuống ưu tư cùng mùi khói un quen thuộc... ( Kim Tuấn, Những Điều Ghi Được Trong Giấc Ngủ, GTQM, tập 1, tháng 7.1965, tr.5.)

Những vần thơ xuôi dồi dào nhạc điệu ngay cả trước khi được phổ nguyên vẹn thành ca khúc đã khiến ước mơ mang theo - tuy tan vỡ - vẫn lẩn quất, không chỉ trong giấc mộng. Nhan đề bài thơ là chứng tích. Mơ ước bình thường và tầm thường như thiên nhiên dung dị, êm ả quanh mình đã trở nên xa vời, khiến con người hoài nghi bản chất của thực tại và tính chất nhân bản của sự an bài. Ước mơ không thành không chỉ đem đến nỗi thất vọng đơn thường bởi vì thi nhân, thay mặt ước mơ chung, đã gửi gấm cả hồn mình trong một cuộc cờ với định mệnh dân tộc

Khi tôi trở về, khi tôi trở về cuộc đời xuôi chảy. Có bóng trăng xưa soi trên lối mòn, có rừng cây ấm vì nhiều thương nhớ và khi thức dậy tôi tìm thấy tôi ( Kim Tuấn, bđd. tr. 5.)

Bên nỗi ám ảnh từ thời thế, tình yêu vẫn là thế giới thơ riêng của thi nhân mặc dầu mang những nét tương đồng với người tâm hồn đồng dạng. Tình yêu là cách tiếp xúc với đời khi thi nhân chỉ tỏ ra sống trọn với cõi được tâm hồn đặt định. Không có ý định ngã giá, thi nhân đã phó thác cho tình như con người cần đến hơi thở của cuộc đời. Họ đã xa rời quan niệm tình-yêu-mật-ngọt, và lấy tình yêu làm cách thế thể hiện sự sống. Văn chương nhiều lần ghi nhận và làm chứng cho sự trần tình của điều trăn trở như mệnh giá của trái tim những kẻ hào phóng 

như chim tha hương qua miền giá lạnh

cánh nối đường mây thương nhớ ai hoài

dù chỉ một lần đi kiếm tương lai

hai bàn tay không hai bàn chân mỏi

( Kim Tuấn, Tháp Cổ, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 1, tháng 7.1965, tr. 60)

nước mắt anh đây cuộc đời giả trá

có gì để nhớ nhau thêm

đường xa, đường xa bên rừng núi đứng

thương em trăm năm giấc mộng êm đềm

( Kim Tuấn, Tháp Cổ, sđd. tr. 60)

Thế giới quen thuộc của Kim Tuấn vẫn hiển lộng trong thơ-5-chữ. Ước mơ lẫn quá khứ hòa trộn như thể một kinh nghiệm về an bình được dùng làm mẫu mực trong trang sách ước. Điều chua xót là hình ảnh dung dị, mộc mạc quen thuộc trong từng trang nay lại trở thành xa vời, cách ngả.

Nhưng Kim Tuấn giữ vững ước mơ như nâng niu dĩ vãng. Mơ ước ngời ngời trong lòng như nắng mai, rạng rỡ trước mặt chờ đón người. Bước đi không mỏi dù quanh người bao kẻ đã ngồi lại bên đường. Nói về tâm hồn, có lẽ Kim Tuấn là người luôn đứng vững trên đôi chân, trái tim như nung nấu vì mơ ước, lúc nào cũng dang tay mở rộng với đời như một sứ đồ nhiệt huyết

gió sương phai màu áo

chiều nhớ nhà chơi vơi

lúc dừng chân xứ lạ

chợt thầm yêu cuộc đời

bước mòn năm tháng cũ

có gì đâu em ơi

mùa xuân hoa đào nở

anh thầm yêu cuộc đời

( Kim Tuấn, Nhìn Lại Mùa Xuân, GTQM, tập 7&8, tháng 1&2. 1966, tr. 5.)

Bài thơ cuối góp tiếng nói trong cuộc vận động cho tình thương, Kim Tuấn trở thành sứ giả hồn nhiên của tin yêu mặc dầu có thể người không lãnh đạm trước những phản ứng gay gắt. Với cách thế riêng của một hành nhân, người thơ giữ vững niềm tin bằng việc nâng niu trìu mến di sản tinh thần như kẻ khát trước nguồn nước ngọt.

5- Luân Hoán nằm trong mấy tiếng thơ thưa thớt trong tờ tạp chí mà vẫn giữ nguyên bản chất của thơ mình trong nhịp lục-bát. Thác tiếng là ca dao nhưng đượm nồng say đắm, ý nhị và bóng bẩy của ngôn ngữ mới. Cũng là hình tượng sợi-tóc-vướng-chân-người nhưng sợi tơ tình của thi nhân mạnh hơn sức di sơn. Những vần thơ mà thi nhân đặc phong cho danh hiệu ca dao chỉ là sính lễ của người thi sĩ dành cho tình yêu. Nó chứa đựng cái hóm hỉnh của lộng ngôn lẫn nét trong sáng của nét mặt rạng rỡ nụ cười. Những vần thơ đượm nồng hương hoa ngâu hoa bưởi là cách riêng mà thi nhân ca ngợi tình quê nhà đãi ngộ nguồn thơ

tóc em nối sợi chưa vừa

cột chân tôi động theo mùa nước sông

đêm kề hồn bến hư không

mái tranh sương giọt đầy lòng chiêm bao

sẩy tay em rót sầu vào

chết thân tôi hiện ca dao tạ đời

mai người buồn miệng ngâm chơi

may ra tôi được lên trời đầu thai

( Luân Hoán, Ca Dao Tình Yêu, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 5, tháng 11.1965, trang 4.)

6- Nguyễn Phan Thịnh, giọng thơ u hoài như Hoài Khanh nhưng hướng đến thực tại rõ rệt hơn như thể  hướng về một cách giải quyết hơn là chỉ thu trong phạm vi ý thức.

Nguyễn Phan Thịnh, người vừa được tạp chí VĂN ( số 28, 15.02.1965) chọn làm một trong 7 triển vọng của văn thơ, góp tiếng bằng bài thơ xuôi về thân phận thời đại đậm nét cách tân. Và gần như là điển hình của khuôn mặt văn chương ngoài đôi mươi đăm chiêu trong việc tìm kiếm ngôn ngữ khi cần giãi bày.

Người làm thơ dành lời độc thoại như để tự chiêm nghiệm trước một thực tại không vui, hơn thế, não lòng, làm tan rã tâm hồn và đất sống. Trong lời nói cho mình nghe, người làm thơ thổ lộ bằng tiếng nói của thơ và bằng cái nhìn cuộc thế, theo cách riêng của người thi sĩ. Cách nói bằng nghệ thuật đã dành cho thực tại sự đãi ngộ thay vì sỗ sàng, bằng hình ảnh thay vì lời ràng buộc.  Thực tại hiện hữu trong bóng dáng của cõi không-còn-tình-thương-và-sự -sống hay cho ngôn ngữ mô tả thường tình

như đêm tối im lặng và vô hình chỉ biết mình đang ở sa mạc

như bị ném vào đó

hỡi mẹ mẹ đã chết hay còn sống

hỡi cha cha còn trẻ hay đã già

hỡi em đi học hay ăn xin

hãy hát lên, chính tôi, tôi hãy hát lên và khóc

bằng hết những giọt máu còn sót đọng trong tim nhỏ

như một loài chim chết xuống khi mặt trời mọc lên...

( Nguyễn Phan Thịnh, Độc Thoại, Văn, số 28, 15.02.1965, tr. 69.)

Trên Giữ Thơm Quê Mẹ, Nguyễn lại có mặt bằng tình ca sáu-tám của hương quê mang phong điệu mới. Con người và thân phận lại được chiếu rọi bằng ánh sáng phân tâm, đem đến hoài nghi và khắc khoải. Điệu sáu-tám vốn trong sáng và trữ tình, nay đã nhuốm màu xám của trí tuệ. Giọng thơ dung dị của đất và nước đã theo thời đại mà chấp nhận lẫn bao dung sương gió bốn phương để tuổi của thơ thêm già dặn. Âm điệu cũng thêm khắc khoải, xa vời tiếng sáo diều thuở mà tiếng chim ca còn góp vào giấc mộng trưa hè. Bất an của hoàn cảnh lẫn dằn vặt trong lòng khiến dòng thơ nào kể là sáu-tám, phải ngậm ngùi chở thặng âu lo bất trắc

từ tôi lòng dạ ăn năn

thèm con thuyền nhỏ giữa dòng thực hư

ôi thôi trí tối tâm mờ

đã yêu chút sắc đã ngờ chiêm bao

đã đưa hồn phách đi đâu

một miền lửa khói khóc gào bình yên

( Nguyễn Phan Thịnh, Thanh Cao Như Một Ánh Trời, GTQM, tập 5, tháng 11.1965, tr.4)

Cái kết luận khá bi đát đưa thi nhân gần gũi với những tâm hồn từng dãi dầu và thua cuộc. Lời nguyện cầu ngoài việc tiết lộ một tâm hồn có đức tin còn chứng tỏ niềm hy vọng dầu leo lét giữa cuộc thế phũ phàng

quên quên sống hết con người

thanh cao như một ánh trời cầu xin

( Nguyễn Phan Thịnh, Thanh Cao Như Một Ánh Trời, sđd. tr. 4.)

Tại cùng địa điểm sáng tác, Đà lạt, một cõi thơ mộng yên bình, niềm tin và hy vọng hồi sinh phần nào giữa phong ba như tìm được nơi nương tựa đáng tin cậy. Cuộc sống-lại của tin yêu phải có uyên nguyên mà chỉ người làm thơ mới có cơ hội chỉ rõ được nguồn cơn như Nguyễn đã chỉ ra đầu mối của sự chuyển hóa. Nước mắt du dương như cung đàn. Hạnh phúc nảy nở từ tro tàn của khổ đau, cũng như vinh quang đến sau những thất bại cay đắng. Tiếp tục đứng lên sau những lần gục ngã là kinh nghiệm làm người thời chiến của Nguyễn sau những lần độc thoại với thân phận buông trôi. Ý thức mới của Nguyễn hôm nay có ý nghĩa của bài ca lên đường. Làm chim như bài ca, không phải có ý nghĩa chối từ mà là dang tay cống hiến, cho xã hội, điều rất gần với con đường cổ xúy của Giữ Thơm Quê Mẹ. Bài thơ là tiếng nói đằm thắm của tin yêu tìm bắt được giữa mùa thu (bài thơ ghi viết tháng 8.1965) của nhiễu nhương càng nhấn mạnh đến sự cần thiết của sự rộng mở lòng người giữa nghiệt ngã của hoàn cảnh

làm chim bay từ bắc xuống nam

hót lời bi thương đêm như ngày

làm sao tổ ấm trên ngọn cây

làm sao bình an cho con người

làm chim làm chim khi qua đời

( Nguyễn Phan Thịnh, Bài Ca Chim, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 7&8, tháng 1&2.1966, tr. 11.)

8- Xuân Thao, nói đến cuộc chiến bằng giọng cam phận như đứa trẻ quen sống với điều bất hạnh và là điều kiện để được sống sót. Với họ, chiến tranh không còn là thử thách lớn nhất mà là mệnh giá của một cuộc đầu tư vào việc truy sát lẫn nhau. Tuổi của họ là tuổi của cuộc chiến và kinh nghiệm làm người trong thời gian có mặt ở đời chính là những điều ghi trong nhật ký hải hành của một con tàu đắm. Những cái lẽ ra nằm trong nội dung tiếng kêu thất thanh của người chịu nạn trong kinh hoàng lại là ký ức không xa về những hình ảnh chưa kịp được lưu lại nơi hệ thần kinh của người yếu bóng vía

hãy nhìn xuống quê hương nầy khốn khó

cây không xanh cho lịch sử thêm già

một dòng sông- đen như màu hắc ín

chảy căm hờn trong từng nỗi can qua

( Xuân Thao, Đất Mẹ, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 6, tháng 12.1965, tr. 8)

Dưới mắt người dân, chiến tranh diễn ra như một tiến trình phân hủy dứt khoát và trọn vẹn nhưng lạnh lùng như sự can thiệp khách quan của thiên nhiên, như địa chấn, sóng thần.

Bài thơ tựa như hồ sơ về một tai họa đến với con người mà nỗi lòng  người cam chịu nằm yên trong đổ nát.  Cũng là lần hiếm hoi, cuộc chiến xuất hiện đầy đủ trong văn chương với những chi tiết của một bản tin chiến sự chính thức. Những lời thơ trên trong tập “Lãnh Thổ Đen” mà nhan đề có vẻ chứa đựng sự phản kháng còn nằm trong ý thức một thời

đạn vẫn nổ xẹt ngang đầu Tổ quốc

lửa chiến chinh làm cháy mặt xám mày

những hàng tre làng âm thầm héo úa

như quê hương, như đất mẹ đắng cay

( Xuân Thao, bđd. tr. 8.)

9-  Cũng không quên trường hợp bài thơ thêm diễm lệ vì tàn phế với 2 khổ thơ đầu và cuối trong 4 khổ bị cắt bỏ. Vẻ thanh tú  được nhận ra ngay từ cái nhìn ban đầu vào một dung nhan của thơ. Cái nhìn của nữ giới về thực tại tự xưa vẫn chỉ từ sau bức rèm của khuê phòng dẫu là rộng mở. Điều băn khoăn là cái nhìn thoạt còn e ấp ấy đã bị buộc vào một điều cấm kỵ. Thơ không thiếu những ước lệ được rùi mài nhưng vẫn có cái riêng được biểu tỏ khá táo bạo và đằm thắm.

Người chinh phụ của thời đại thiếu hẳn may mắn này chỉ nói được nửa lời rồi bặt tiếng. Ai hiều được nửa lời bỏ trống chỉ còn để lại dấu vết trên khuôn chữ dở dang. Điều khiến cho tiếng nói nàng từ đó vẫn bằn bặt vì phải chăng khúc thơ đối cảnh là khúc vong tình. Từ em gối lẻ âm thầm. Nàng chinh phụ thời xưa còn được may mắn hơn vì còn chút đợi chờ làm hơi ấm tự tình.

từ em gối lẻ âm thầm

mù gương bóng nhạt bụi nằm quạnh hiu

trăng dài ngỡ cánh tay yêu

cười trong giấc mộng thôi liều tuổi hoa

...  ... ...

từ anh muôn dặm quan hà

gươm thiêng ngửi (**) đất giáo xa hôn trời

thân mù nhịp trống chơi vơi

lên yên bỗng lạ một thời tuổi em

...  ... ...

( Nguyễn Thị Hà, Bóng, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 5, tháng 11.1965, tr. 2)


*Năm năm sau, 1970, một bài thơ viết về trường hợp tương tự của người quả phụ tử sĩ trong cuộc chiến, in trong tập Thương Ca của Lê thị Ý, và được phổ thành ca khúc. Bài thơ có số phận  may mắn hơn nhưng là trường hợp khác biệt với trường hợp một bài thơ bị nghẽn tiếng.

** câu thơ có một lỗi xuyết tự, viết là “nguởi” , chúng tôi chép là “ngửi” cho hợp với phần tiểu đối trong câu.

---------------------------------

  Bài-thơ-sót-nửa của Nguyễn Thị Hà trở thành khúc dang dở bi thảm của ít nhất một thế hệ lâm chiến, một kẻ vị-vong bị bịt miệng vì nỗi đau đã thành lời. Chứng tích một thời chiến tranh không nằm nơi mấy khổ thơ mà trong tình cảnh tiếng thơ bị tắc nghẹn. Người vị-vong đã nghĩ đến  “ngang tàng tính mệnh như cách thế chấp nỗi thiệt thòi của tuổi trẻ. Cười trong giấc mộng thôi liều tuổi hoa. Nên khổ thơ lãnh nhiệm vụ một chúc thư mà di sản là nỗi đau nửa lời, và ước mơ về hạnh phúc. Hơn là bài thơ trọn vẹn, Bóng, cái nhan đề ngắn ngủi của giấc mơ và ước mơ thoát khỏi kiếp chia lìa, lại đóng góp ý nghĩa đầy đủ cho một hành động của văn chương nhằm cản bước chân của bạo lực và oán thù. Dường như trong ngót một trăm bài thơ của 2 tập thơ ngăn lửa chiến của Nhất Hạnh không có cơ hội minh thị tỏ bày lời cuối của một kẻ vị-vong thay vì lời lên án hay quy trách. Bóng chính là âm bản của cái chết mà bản chính là người thiếu phụ đang đi dần vào cõi lãng quên và tự diệt. Mơ ước về một cõi tái sinh của những người quả phụ ấy đều tương đồng. Trăng dài ngỡ cánh tay yêu ( Nguyễn thị Hà ) / Nghĩa trang mà ngỡ như phòng riêng ai ( Lê thị Ý.)

Bóng, tự nó là sự chối từ sự thật, ngoại trừ cái chết. Số phận nửa vời của bài thơ tình cờ là định mệnh của người viết ra nó. Việc bài thơ khuy khuyết được đặt lên trang đầu tạp chí mang theo ý nghĩa bất toàn của một định mệnh văn chương. Trong trường hợp này, thơ không can thiệp được vào số phận một người  nhưng có thể trước-bạ sự hẩm hiu của một thân phận. Tuy xuất  hiện muộn màng so với những gì đã xảy ra trên quê hương, Bóng là hình ảnh sự tan vỡ đau đớn của hạnh phúc, của ước mơ và nhiều giá trị nhân bản khác trong cuộc chiến. Nên Bóng là sự ám ảnh mạnh mẽ vào niềm khao khát chung của con người khi các nguyên tố của hủy diệt vẫn tồn tại và hoành hành. Bóng không chứa đựng cái nhìn về cuộc chiến. Nó chỉ là lời tự tình với lòng của một phụ nữ về nỗi quạnh quẽ do mất mát không thể bù đắp.

10- Thân phận vẫn là băn khoăn siêu hình nơi thế hệ Hà Nguyên Thạch. Thi nhân có cách đặt vấn đề nhẹ  nhàng, từ tốn. Cuộc đối thoại với chính mình không hề là cuộc truy vấn gắt gao.Thi nhân tìm những nghi vấn trong đất trời và thắc mắc nẩy sinh giữa tiếng chim ca, suối hót như thể gợi ý cho cuộc hòa giải giữa những chủ thể chưa hề dồn nhau vào đấu trường tranh chấp

khi nhìn xuống loài chim theo lối gió

lời ca chìm trong bóng lá thâm u

ngày di động trên mỗi giòng thác đổ

có nghe không đời lẫn dấu trong mù

( Hà Nguyên Thạch, Phù Ảo, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 6, tháng 12.1966, tr. 4.)

Sớm nhận thức ra tính chất hư ảo của cuộc đời cũng như vạn hữu, thái độ của người làm thơ là chấp nhận bao dung, chờ đợi một vận hội

bởi theo mãi bước chân đời lẩn khuất

chờ mùa xuân hồn phủ lá trên cành

nên từ đó bóng sầu vây u uất

ôi đỉnh trời xa khát vọng, sao đành

( Hà Nguyên Thạch, Phù Ảo, sđd. tr. 4.)

Ngủ đi một giấc đìu hiu với đời hay là cho dẫu, nằm đây cát bãi ưu phiền ( Nỗi Buồn Trên Cao) Thơ Hà giữ thân trong cõi giảm thiểu của tinh thần nhị nguyên nghĩa là không thúc đẩy thêm con người đi xa vào cuộc phân tranh. Một thái độ thật dồi dào ý nghĩa khi thơ Hà có mặt trong một số tạp chí có hướng đi tích cực rõ rệt. Mạnh mẽ nhất cũng chỉ là sự khích lệ được tỏ bày bên cạnh mối ám ảnh không dứt về sự phù du của thực tại. Mối mâu thuẫn hằn dấu trong trong tâm người như thể có sự dằng co về một hướng đi và nhận thức hư ảo của vạn hữu

ngày vẫn nắng cho tim người bốc cháy

nước vẫn cuồng giao tận đáy sông dài

mai còn đó nụ cười trên tay vẫy

tôi về đâu cát bãi chia bày !

( Hà Nguyên Thạch, Phù Ảo, sđd. tr.4.)

11- An Châu Lan là tiếng thơ lẻ loi đơn độc trong tạp chí có một chủ trương và hướng đi rõ rệt như Giữ Thơm Quê Mẹ. Trường hợp An Châu Lan không hẳn là duy nhất và tiếng thơ không hẳn là độc đáo nhưng ba bài thơ bao gồm làm một, gửi cho ba đối tượng mà hai người đã về cõi thiên thu, khiến cho sự có mặt của thơ phải kèm theo một lịch sử.

Bài gửi cho người-chị-không-còn chỉ là tiếp nối những giọt lệ chưa khô. Sự phô bày những ngậm ngùi chưa dứt. Và bài thơ không phải là những vần lục-bát hiếm hoi được triệu dụng.

bỗng dưng nghe lạnh vai nầy

mùa xuân thôi cũng hao gầy cỏ hoa

chị đi lệ nhỏ phai mờ

cho tôi âm hưởng một bờ hoang liêu

( An Châu Lan, Về Một Linh Hồn Người Chị, Giữ Thơm Quê Mẹ, tập 4, tháng 10.1965, tr.2)

Thơ của người phụ nữ cố-đô dung nạp dễ dàng di sản ước lệ như lớp rêu phong trên thành cũ lặng lẽ. Nhưng đây không phải là trường hợp những người rời bỏ quê nhà  như Nhã Ca, Túy Hồng, Minh Đức...

Ước lệ làm nên một tì vết của thơ sau khi là vết sẹo trong tâm hồn trong đó có một phần là hồn thơ. Tuy vậy,ấn tượng rõ nét hơn cả về thơ An Châu Lan là sự hé lộ một tâm hồn mẫn cảm. Mối

giao tình đối với người đã khuất được tặng thơ chưa kịp bén rễ thì mối giao cảm giữa họ đã khiến duyên tình thêm bền chặt. Cái cảm của thi nhân đã khiến tâm hồn họ căng như cánh gió, giải thích sự hình thành mối tri âm. Hơi thơ cũng tiếng tơ, thoảng như hơi thở mà nặng như chuyện đổi dời

vừa quen sau buổi trưa này

ngại ngùng con mắt trao đầy cảm thông

xót xa ngã rẽ đôi giòng

hoáng hôn người đã không còn thế gian

( An Châu Lan, Về Một Linh Hồn Người Bạn, sđd. tr. 2)

Hội thơ trong tờ tạp chí trở thành cuộc xum vầy giữa những hồn thơ cùng xao động trước nỗi nhà nợ nước.  Thơ trở thành một hợp lưu từ nhiều nguồn và cùng quy về gối dưới chân đất mẹ. Người mở hội đã khéo chọn hình tượng quê nhà qua bóng dáng người mẹ phương xa, gửi gắm lòng vào đất vào người như nhắc nhở người con trở về bên gối mẹ.

                                                                                                                                 Trần Mạnh Toàn