Đọc tiểu thuyết THUYỀN của Nguyễn Đức Tùng: Những ký ức cuồng nộ về một thời bão táp
THUYỀN
là cuốn tiểu thuyết của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng. Tác phẩm thuật lại chuyến vượt
biên bằng đường biển của một nhóm người khi phong trào vượt biên trong nước lên
cao, vào khoảng giữa hai thập niên 70s và 80s. Vì là tiểu thuyết nên cuốn sách
thoát xác ra khỏi dạng hồi ký (mặc dù tự sự của nó bám sát sự thật và những điều
có thể xem như sự thật) và nhất là nhờ được viết với bút pháp “dòng ý thức” nên
nó đồng thời bật mở những suy nghiệm về lịch sử, chiến tranh, quê hương, tình
yêu, sự sống, sự chết, sự tàn bạo, lòng nhân đạo, ký ức, lòng khao khát được sống,
dòng chảy thời gian, cái nhẹ của nhân sinh, và nhiều thứ khác. Đó là một cuốn
sách nặng ký và đáng đọc, cho bất cứ ai, dù bạn từng là thuyền nhân, chia sẻ
cùng trải nghiệm với những gì viết trong sách hay không. Nó có thể thay đổi
cách nhìn của bạn về cuộc sống này, vốn trắc trở, đa đoan, và tạo cho bạn một
niềm tin, dù sao con người vẫn còn một chỗ trú trên mặt hành tinh này, dù chỗ
trú đó chẳng có gì là vĩnh viễn.
Một
cách khách quan, sau 50 năm nhìn lại, sở dĩ có phong trào vượt biên sau khi Sài Gòn sụp đổ và đất nước thống
nhất dưới sự cai trị của cộng sản là vì: (1) Sự đàn áp chính trị của chính quyền cộng sản mới; (2) Trại cải tạo cưỡng bức dành cho cựu
quân nhân, công chức và những người khác có liên hệ đến chế độ Nam Việt Nam cũ;
(3) Khó khăn kinh tế do quá
trình tập thể hóa và quốc hữu hóa quá nhanh chóng, và thành phần lãnh đạo thiếu
hiểu biết sơ đẳng về kinh tế nói chung; (4) Phân biệt đối xử về sắc tộc, đặc biệt nhắm vào cộng đồng người Hoa
trong thời kỳ căng thẳng với Trung Quốc.
Có
lẽ còn có những lý do khác nữa nếu bạn là nhà Sử học hay Xã hội học, tuy vậy,
nhìn từ khía cạnh nào ta cũng thấy nguyên do sâu thẳm nhất đã thúc đẩy những
con người liều mình lao vào chỗ chết để tìm ra sinh lộ là lòng khao khát tự do
và sự tuyệt vọng. Sự tuyệt vọng thường dẫn đến những hành động tuyệt vọng.
Trong
tác phẩm của mình, nhà thơ Nguyễn Đức Tùng định nghĩa tự do như sau: “Tự do
không phải là một ý tưởng. Tự do là một kinh nghiệm cá nhân, không chia sẻ.”
Còn
ý nghĩa của tự do là gì? Anh cũng cho chúng ta câu trả lời: “Tự do không phải là số phận. Tự do là một chọn
lựa cá nhân.”
Anh nhấn mạnh từ “chọn lựa”, bởi ở một đoạn văn
khác, anh lặp lại: “Không có một lời hứa nào cả. Tự do cũng vậy, đó
là một chọn lựa.”
Sự chọn lựa đó phần nhiều là quá đắt như chúng ta thấy sau khi đọc xong cuốn tiểu thuyết, như trong lời thú nhận của nhân vật: “… trong những năm tháng đầu tiên, dù vô cùng đau xót, anh vẫn không biết cái giá mà anh phải trả cho cuộc ra đi lớn đến thế, và bây giờ tự hỏi nếu anh chọn trở lại anh có chọn nữa không, tự do có phải là giá trị có thể đánh đổi những thứ khác…” hoặc “… bi kịch của chọn lựa là tôi không bao giờ biết quyết định đúng hay sai, dẫn về đâu…”
2.
Cấu
trúc hình thức cuốn tiểu thuyết THUYỀN là một tập hợp những tiểu đoạn (có 55 tiểu
đoạn cả thảy) mà mỗi tiểu đoạn là một phân cảnh, nếu ta có thể vay mượn thuật
ngữ điện ảnh đó. Một hoặc hai, ba phân cảnh gom lại, có thể xem là một truyện
ngắn, thí dụ như hai tiểu đoạn có tiêu đề Bài hát của cỏ lau và Sốt rét ác tính.
Nhân
vật chính diện là chủ thể ngôi thứ nhất xưng “tôi”. Phong cách viết hiện đại,
mang đậm dấu ấn của thủ pháp “dòng ý thức” vốn được các nhà văn tiền phong đầu
thế kỷ XX như James Joyce, Virginia Woolf, William Faulkner đề xuất. Với thủ
pháp văn chương này, thay vì trình bày các sự kiện theo một trình tự hợp lý, có
cấu trúc phân minh rõ rệt, thì ở đây, tác giả mô phỏng cách thức hoạt động tự
nhiên, thường là hỗn loạn của tâm trí con người, nhảy từ ý tưởng này sang ý tưởng
khác, thường là không có sự chuyển mạch hoặc dấu câu rõ ràng. Đang miêu thuật tự
sự thoắt nhảy sang độc thoại nội tâm rồi lại thoắt về tự sự. Suy nghĩ bên trong
của nhân vật được thể hiện ngay khi sự việc xảy ra. Cấu trúc phi tuyến tính của
mạch văn khiến thời gian có thể không di chuyển theo trình tự biên niên; suy
nghĩ có thể quay lại quá khứ, không nhất thiết là ngày hôm qua, mà có thể nhiều
chục năm về trước, hoặc suy nghĩ ấy nhảy về phía trước cũng nhiều chục năm. Ngữ
pháp truyền thống ở đây không được tôn trọng nghiêm ngặt, câu chữ có thể bị
phân mảnh hoặc kéo dài lê thê, phản ánh tính ngẫu nhiên, mông lung, bất chợt của
suy nghĩ. Tính chủ quan cũng hiển lộ rõ ràng qua thủ pháp này: Ngòi bút tập
trung vào ấn tượng cá nhân nhiều hơn là thực tế khách quan. Nói chung, kỹ thuật
này thường được sử dụng để đào sâu hiểu biết về tâm lý, cho phép người đọc trải
nghiệm tâm trí và tâm lý của nhân vật từ bên trong.
Nguyễn
Đức Tùng đã viết cuốn tiểu thuyết THUYỀN như thế. Thêm nữa, vốn là nhà thơ, nên
văn xuôi của anh thấm đẫm phong cách thi ca, có thể xem nó là một bài trường ca
cũng được, thậm chí, kỹ thuật thi ca được anh sử dụng khá sâu rộng khiến người
đọc đôi khi phải đọc chậm hoặc ngừng đọc để suy ngẫm, liên tưởng.
Mặc dù chủ đích của cuốn tiểu thuyết là cố gắng miêu thuật một sự kiện lịch sử, nhưng vì hiện thực đời sống tàn bạo, khiếp hãi hơn hiện thực văn chương do tính cách bi thảm tột cùng của nó, cho nên bàng bạc bên dưới lớp vỏ thô nhám ấy là tính Kafkaesque của một bi kịch về thân phận con người. Nhân vật bị mắc kẹt trong thế giới vô tận, phi lý, vô nhân đạo và không thể giải trình. Sự bất lực của nhân vật khiến hắn như tê cứng. Khí hậu truyện, qua giọng văn và hơi văn đặc trưng của thủ pháp “dòng ý thức” pha trộn chút thách thức, là siêu thực hoặc ác mộng, các sự kiện thường như trong mơ, mất phương hướng, phi logic và không thể thoát khỏi. Tất cả gây nên cảm giác rằng các cá nhân đó sẽ bị diệt vong bất kể họ làm gì, mọi cố gắng xoay xở để thoát hiểm của họ đều là vô ích.
3.
Câu
văn “Nếu có một hình ảnh nào về địa ngục
thì đây là địa ngục” (tiểu đoạn 16)
trong cuốn tiểu thuyết nói lên hết cái kinh hoàng, bi thảm của cuộc vượt biên.
Dĩ nhiên, mỗi người trong cuộc là một trải nghiệm khác nhau, nhưng hình như tất
cả thảm họa tập trung vào chuyến đi này: bão tố, hải tặc, đói khát, chết chóc,
và còn gì nữa? Kinh hoàng nhất có lẽ là hải tặc. Nếu địa ngục có thật thì chắc
Hades cũng phải lắc đầu ngán ngẩm chịu thua những hành vi man rợ của một nhóm
người đối với những kẻ đồng loại của mình. (Tôi nghĩ từ “man rợ” không đủ để lột
tả những hành vi ấy của bọn hải tặc).
Nguyễn
Đức Tùng đã cực tả, với chi tiết tỉ mỉ, những nỗi thống khổ, ngoài mức tưởng tượng,
của đám người khốn khổ trên thuyền, những đoạn văn mà khi đọc, dù đã biết trước
sẽ là gì, ta vẫn thấy khiếp hãi như nó đang xảy ra quanh ta trong thời khắc hiện
tại. Hay nó là nỗi ám ảnh? Nỗi ám ảnh tập
thể như trong khái niệm vô thức tập
thể của khoa Tâm lý học?
Nhưng
cái chết thì không thể là nỗi ám ảnh mơ hồ nào được. Từ cái chết của người đàn
ông chạy trốn họng súng của công an biên phòng bị bắn ngã từ chiếc cầu khỉ rơi
xuống dòng nước (tiểu đoạn 3) cho đến cái chết của đứa bé bốn tuổi được thủy
táng (tiểu đoạn 17), cái chết treo cổ tự tử của người đàn ông ở cùng phòng
trong trại tị nạn (tiểu đoạn 33) và nhất là cái chết của Liên Hương, người yêu
của nhân vật chính diện, tất cả đã là vết chấn thương suốt đời không bao giờ lành
của hắn. Những cái chết oan khiên, oan ức, oan uổng, oan khốc hằn sâu trong tâm
hồn hắn, bắt hắn phải chịu đựng suốt năm tháng còn lại của đời mình. “Trước cái chết, mọi thứ đều trở nên vô
nghĩa. Cái còn lại duy nhất là người khác.” Tác giả đã buông một câu như thế.
Sự khiếp hãi của cuộc vượt thoát có thể nhạt dần theo thời gian, nhưng vết
thương trong lòng thì chẳng bao giờ lành lặn, nó sẽ ở lại trong tâm trí, tâm tư
người sống cho đến ngày hắn nhắm mắt xuôi tay trở về cát bụi.
“Những người chết vì
đói khát. Những người đàn ông đứng lên kháng cự, bị bắn, ngã xuống. Những người
không thể chịu nhục nhã, tuyệt vọng tìm cách bảo vệ người thân, bảo vệ đồng
bào. Những người bị đánh bằng mái chèo vào thái dương, bị đâm nhiều nhát bằng
dao quắm vào bụng, những người bị bắn vào ngực. Những người chết ngay tại chỗ.
Những người chết sau nhiều ngày thoi thóp. Những người tàn tật suốt đời. Những
người mà xác họ trôi tấp vào bờ biển, vật vờ, tóc đầy cát, miệng đầy cát. Tôi
nhìn thấy sự đau khổ của con người, sự tuyệt vọng của đồng bào tôi, tôi đã nghe
thấy tiếng khóc.” (Tiểu đoạn 46).
Liên
Hương là tên cô gái xinh đẹp theo hắn vượt biên. Cô bị bọn hải tặc bắt dẫn đi
cùng một nhóm đông phụ nữ khác trên thuyền, và trong lúc bước lên chiếc cầu ván
bắc ngang thuyền mình với thuyền hải tặc, cô đã gieo mình xuống làn nước xanh
thẳm. Nguyễn Đức Tùng không bi kịch hóa đoạn văn tự sự này, anh trầm tĩnh thuật
nó với sự nhẫn nại tự chế, như nén xuống những cảm xúc đớn đau tột cùng, nhưng
chính nhờ thế cảm xúc theo câu chữ nở lớn dần trong lòng người đọc. (Mặc dù có
nhiều tình tiết, hành động, các diễn ngôn nặng tính triết học siêu hình, nhưng cơ
bản của cuốn tiểu thuyết vẫn là tính cảm xúc).
“Vào lúc ấy, đổ xuống trên sàn
thuyền, trước khi úp mặt xuống, tôi vẫn còn tỉnh táo, năm giây, mười giây, mười lăm
giây, nhìn thấy Liên Hương một lần nữa, từ phía sau lưng. Hai tên cướp
kèm hai bên đẩy nàng lên hẳn giữa cầu tàu. Tôi nhìn thấy những người phụ nữ
khác, ba hay bốn người đi trước, lảo đảo bước trên tấm ván dài về phía ánh đèn pha sáng rực như bước vào miệng quái
thú. Tôi nhìn thấy Liên Hương bước đi, nàng bước
không run rẩy, từng bước chậm chạp, nhưng chắc chắn. Tôi nhìn thấy tà áo
sơ mi bằng lụa mỏng, màu tím nhạt hoa cà, bay phấp phới. Màu ưa thích của nàng.
Tôi sống hai hiện thực, một hiện thực mà tôi cảm nhận được, thân xác của tôi,
cơn đau kỳ lạ ở mạn sườn bên phải, sự đau nhức của tôi, sự bất động, những người
xung quanh, cụ thể, tan tác, bị khuất phục, và một hiện thực khác thuộc về một
thế giới khác, thế giới của những người phụ nữ bên kia thuyền, bước về phía kẻ
thù, phía sau chân trời, vừa bị bóng đen nuốt chửng. Trong khoảng tỉnh trước
khi thực sự ngất đi, tôi thấy nàng ngoái nhìn
một lần nữa, hay tôi tưởng tượng như thế, tôi không biết, tôi nhìn thấy con mắt
nhìn tôi, thoáng qua, hay thực ra nàng không nhìn lại một lần nào nữa, tôi
không thể nào biết được, tôi không thể nhớ lại, rồi cất bước đi giữa những người đàn bà khác. Dáng đi mau lẹ,
bình thản.” (Tiểu đoạn 15).
Những
cái chết như cái chết của người con gái tên Liên Hương là chứng cứ cho sự phi
lý của đời sống. Đời sống vốn tự thân là phi lý theo nhận định của Albert
Camus, và ông băn khoăn tự hỏi: “Nếu cuộc
sống không có ý nghĩa cố hữu, thì mục đích của cuộc sống là gì? Ta phải phản ứng
với sự phi lý như thế nào?” Nguyễn Đức Tùng có câu trả lời, ở dạng một bài
thơ ngắn lồng trong mạch văn của cuốn tiểu thuyết:
Bạn có biết vì sao bạn đến đây?
Chúng tôi đến đây để tìm sự sống.
Nhưng cái chết cũng chờ bạn ở đó.
Chúng tôi không có một chọn lựa nào
khác.
Không đúng. Bạn đã chọn lựa.
Chúng ta đã chọn lựa sự sống.
Không. Chúng ta đã chọn lựa ý nghĩa của
sự sống.
Không ai biết làm gì với cái chết. (Tiểu đoạn 24).
Cho
dù sự “chọn lựa ý nghĩa của sự sống”
đó mệt nhọc như chàng Sisyphus miên viễn lăn tảng đá lên núi chỉ để nhìn nó lăn
xuống.
Ở
phần kết của cuốn tiểu thuyết, Nguyễn Đức Tùng đã sử dụng một ẩn dụ để nói lên
cái ý nghĩa của sự sống đó. Bướm. Những
con bướm monarch mùa nóng ở Canada,
nhưng trước khi trời chớm lạnh, chúng thiên di vượt ba nghìn dặm xuống Mexico
và ở đó cho đến khi nắng ấm thì quay ngược về lại Canada. Cuộc hành trình ba
nghìn dặm trở về đất cũ phải mất nhiều thế hệ bướm mới thực hiện được, đám này
chết trên đường bay, đám di duệ sinh ra rồi tiếp tục, cho đến ngày chúng trở về
nơi chốn cũ.
“Tất cả sự mất mát nói cho cùng là sự hy sinh của kẻ đi trước lót đường,
mở đường máu cho đồng loại... Những con bướm phải
chết trên đường bay nghìn dặm... Những kẻ đẹp nhất đã chết. Không có mất mát nào có thể bù đắp được. Ý
nghĩa của sự sống là nằm ở chỗ ấy: ở chỗ đi tìm ý nghĩa của sự chết.” (Tiểu đoạn 51).
Đời sống chỉ tồn tại khi nào nó có ý nghĩa. Tác giả kết luận như thế.
4.
Câu
chuyện về những người Việt vượt biên bằng thuyền hay đường bộ, câu chuyện từng
đánh động lương tâm nhân loại, là biểu
tượng của sự kiên cường, sự khao khát muốn sống, được sống như một con
người nhân bản đích thực, nhưng nó cũng là lời nhắc nhở về cái giá phải trả của con người trong chiến tranh.
Nó là trang sử bi thương đẫm máu và nước mắt của dân tộc, nhưng nó hoàn toàn bị
gạt ra khỏi lịch sử.
Chính
sử của người cộng sản Việt Nam không biên chép gì về cuộc vượt thoát đầy đau
thương của tập thể con người được thuật trong cuốn tiểu thuyết của nhà thơ Nguyễn
Đức Tùng. Do xây dựng ý thức hệ dựa trên giáo điều xem sự thù hận là trọng tâm
nên họ đối xử những con người ấy như kẻ thù, và đã là kẻ thù thì cần phải diệt
trừ như những con chuột mang mầm vi trùng dịch hạch, hoặc nếu không diệt trừ được
thì ném vào bãi phế thải thật xa. Lịch sử của người cộng sản Việt Nam phải là một
lịch sử toàn bích, không thể hoen ố, không có bất cứ một dấu vết tiêu cực nào để
những thành tựu của họ trở nên huyền thoại cho muôn đời sau chiêm ngưỡng và vái
lạy, để vài ba thế hệ nữa tên tuổi Hồ Chí Minh sẽ chói lọi hơn, được ghi lên trên
những Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo… Học giả lỗi lạc Noam Chomsky từng tuyên bố rằng: “Lý do lịch sử bị bẻ cong là vì họ muốn tạo
nên ảo tưởng những con người vĩ đại có thể làm được tất cả mọi chuyện. Nó dạy
những con người yếu đuối rằng một người như thế sẽ xuất hiện và thay đổi cục diện.”
Chúng ta đều là những con người yếu đuối, những chiếc
lá nhỏ nhoi trong cơn lốc lịch sử, những kẻ bị bánh xe lịch sử nghiền nát.
Nhưng còn chút may mắn, đó là, chúng ta có ký ức, và ký ức giúp chúng ta dàn trải,
lấp đầy những lỗ hổng của lịch sử bằng tiểu thuyết.
Nhà thơ Nguyễn Đức Tùng đã làm công việc ấy với cuốn
tiểu thuyết THUYỀN của anh. Anh đã thay chúng ta điền vào những chỗ trống khổng
lồ cố tình bị bỏ quên của lịch sử.
Bởi
tương quan giữa tiểu thuyết và lịch sử là một quan hệ cộng sinh và phức tạp.
Trong khi lịch sử cung cấp nguồn tài liệu phong phú cho tiểu thuyết, thì tiểu
thuyết, ngược lại, làm phong phú thêm sự hiểu biết về lịch sử bằng cách cung cấp
chiều kích tự sự, sự cộng hưởng cảm xúc, và những quan điểm khác. Cả hai lĩnh vực
đều tìm cách thấu hiểu thân phận con người, mặc dù thông qua các phương pháp và
hình thức thể hiện khác nhau.
“… tôi nghĩ đến những người đã rời bỏ đất
nước, những người đã chết trên biển, những người bị bắt giam, những người bị giết
hại, những người bị hãm hiếp, những đứa trẻ bị bắt đi mất tích, những cô gái điếm
trong những nhà thổ ở Thái Lan, ở Cambodia, tôi nghĩ đến những người đã may mắn
vượt qua sóng dữ, được nhân loại cứu giúp, đặt chân đến vùng đất mới, như những
đàn bướm bay đi khắp phương trời, chết và sống, truyền lại cho thế hệ sau ký ức
lạ thường của mình về nơi chốn cũ, một ngõ hẻm, mái hiên, một quán nước, dòng
sông. Như vậy ký ức đối với tôi không phải chỉ là sự ghi lại quá khứ, việc gìn
giữ những kỷ niệm thời thơ ấu, những đau buồn của tuổi trẻ, vàng son của tự do,
mà còn là tấm bản đồ dành cho tương lai, cho con đường vận động về phía trước.
Ký ức trở thành động lực cho những ngày sắp tới. Không phải chỉ những mất mát.
Mà những mất mát cũng làm nên vốn liếng của thế hệ mai sau.” (Tiểu đoạn 51).
Với
một kết từ như thế, chúng ta phần nào hiểu ra thái độ cùng động lực nào thúc đẩy
tác giả viết cuốn tiểu thuyết này. Nói cho cùng, những người chết đã chết, những vệt máu trên sàn thuyền đã khô, nhưng
chúng sẽ mãi mãi nằm lại trong tim óc chúng ta như những ký ức cuồng nộ về một
thời bão táp.
– Trịnh Y Thư
(05.25.2025)