Nhà văn TRỊNH Y THƯ
Nguyễn Vy Khanh
Ông tên thật Trịnh Ngọc Minh, sinh ngày
11-2-1952 tại Hà Nội, du học Hoa-Kỳ năm 1970. Trịnh Y Thư làm thơ, viết văn,
dịch thuật, làm báo, chủ bút tạp chí Văn
Học và Việt Báo Weekly News vùng
Orange County CA và chủ trương nhà xuất bản Văn Học Press thời sau này. Ông
cùng Nguyễn Mạnh Trinh biên tập Tuyển Tập
23 Người Viết Sau 1975 (Văn
Nghệ, 1989), gồm 23 nhà văn mới xuất-hiện ở hải-ngoại.
Đã xuất bản: Sáng tác: Người Đàn Bà Khác (Hà Nội: Thế Giới,
2010; tb Văn Học Press, 2024); Chỉ Là Đồ
Chơi (tạp bút; Hợp Lưu 2012; tb VH 2019, 2023); Phế Tích Của Ảo Ảnh (thơ; VH, 2017; 2023); Đường Về Thủy Phủ (tiểu thuyết; VH, 2024)
Dịch-thuật: Đời Nhẹ Khôn
Kham (The Unbearable Lightness
of Being của Milan Kundera; Văn Học, 2002; tb Nhã Nam và Hội Nhà Văn,
2018); Căn Phòng Riêng (A
Room of One’s Own, tiểu luận của Virginia Woolf; Hà Nội: Tri Thức, 2009; tb
2016; tb VH, 2023); Gặp Gỡ với Định Mệnh
(tuyển dịch 12 tác giả; VH, 2020); Tập Sách Cái Cười & Sự Lãng Quên
(The Book of Laughter and Forgetting
của Milan Kunderra; 2021) cùng Jane Eyre (của
Charlotte Bronte; Hà Nội: Nhã Nam và NXB Văn Học, 2016).
Ngoài ra, ông có tập Theo
Dấu Thư Hương (VH Press, 2022) viết vể Charlotte Bronte, Virginia
Woolf, Milan Kundera, Jim Harrison, Albert Camus, Nguyễn Xuân Khánh, Ngô Thế
Vinh, Cung Tích Biền, Trần Vũ, Thận Nhiên, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nguyễn Thị
Khánh Minh, Phan Thị Trọng Tuyến, Đặng Mai Lan, Nguyễn Thanh Việt, Lại Thanhhà,
Nguyễn Lương Vỵ, Lưu Diệu Vân, Nhã Thuyên, Lưu Mê Lan, Nguyễn Viện, Hoàng Vũ
Thuật và Khế Iêm. Theo Lời Ngỏ, “cuốn
sách được chia làm ba phần: Phần đầu là những tác phẩm nước ngoài mà do cơ
duyên nào đó, một số tôi đã dịch sang tiếng Việt (dịch là một cách đọc.) Phần hai là văn xuôi và sau cùng là thơ. Văn bản thường ở dạng bài viết,
nhưng đôi khi là một cuộc nói chuyện trao đổi hay phỏng vấn”.
Cũng trong Lời ngỏ: “Cuốn sách này là tập hợp những cảm nhận rời
rạc của một người đọc sách. Đọc sách có khó không? Tôi nghĩ là khó. (…) Ngày nay đa số người ta không đọc sách nữa,
mà chỉ liếc nhìn trên mạng những thông tin trong vài phút đồng hồ rảnh rỗi hiếm
hoi, và những thông tin ấy cũng chỉ lưu lại trong bộ nhớ không quá vài sát-na.
Xu hướng của thời đại là thế. Cuộc sống càng hiện đại tân tiến, con người càng
tất bật vội vàng, càng chóng lãng quên, một nghịch lý hết thuốc chữa của đời
sống.
Tôi
thuộc thiểu số ít ỏi, bơi ngược lại xu hướng thời đại ấy, bởi vẫn còn đọc và
lại chọn đọc loại sách văn chương. (Chẳng có gì lỗi thời hơn!) Đọc sách văn
chương là để suy ngẫm, bởi đằng sau những câu chữ là ngôi nhà suy tưởng cho
người đọc tha hồ bước vào tìm tòi, khám phá, diễn giải theo ý riêng. Và, sau
khi chiêm nghiệm được điều gì mình cho là hay ho thì muốn chia sẻ. Đó là lý do
vì sao có những bài cảm nhận mà tôi thu gom in thành tập này.
Việc
đọc của tôi giới hạn lắm; tôi chẳng phải con mọt sách, cũng không tin tưởng
tuyệt đối vào một hệ thống lý thuyết nào, nên những nhận định của tôi thuộc
dạng cảm tính chủ quan nhiều hơn là phân tích phê bình khách quan. Điều này
hiển nhiên bởi tôi không phải nhà phê bình…”
Chỉ Là Đồ Chơi ghi là “tạp bút” bốn phần: Văn học; Âm nhạc và Hội
họa; Tùy bút; Đối thoại và Cảm nhận. Ông xác nhận trong Thay Lời Tựa: “… Tôi không phải người viết tiểu luận bởi
tôi dị ứng với các lý thuyết văn học và chủ yếu tôi là người sáng tác. Những
bài viết trong cuốn sách này chỉ là những suy nghĩ rời rạc, lúc băn khoăn nghi
vấn, lúc sôi nổi xác định, về văn chương nghệ thuật, về những điều tôi hằng
trân quý trong cuộc sống bình nhật. Bởi thế tôi gọi chúng là tạp bút, một cụm
từ chung chung, hiểu thế nào cũng được, lan man đi từ đề tài này sang đề tài
khác, không có chủ hướng, mục đích nào nhất định. Gọi là tản mạn, phiếm luận
cũng không sai trật bao nhiêu. Tuy thế, dù không nhận mình là kẻ viết phê bình,
những bài viết này phần nào phản ánh quan điểm của tôi về nghệ thuật, một quan
điểm rất chủ quan và đôi khi cực đoan” (bản 2023, tr.7) [Chúng tôi chỉ trích văn có thế thôi vì thấy ghi copyright ở đầu
sách – cần sự tôn trọng, nhất là trong thể loại lý luận, phê bình].
Trịnh Y Thư đặc biệt thích thú với tác
phẩm
của nhà văn Pháp gốc Tiệp Milan Kundera và đã dịch Đời Nhẹ Khôn Kham và Tập
Sách Cái Cười & Sự Lãng Quên. Trong Dẫn Nhập cuốn sau, ông cho
biết: “... Giữa tôi và Milan Kundera,
tính cho đến ngày nay, hẳn nhiên có một gắn bó trên 30 năm, một quan hệ phi vật
thể vì tôi biết ông chứ ông không biết tôi là ai. Nhưng tôi thấy trên trang
viết của ông nhiều điều rất gần gũi và tâm đắc.
Gần gũi vì cũng như ông, tôi không được sinh sống trên quê hương mình. Tâm đắc
vì hầu như tất cả những gì ông viết, tôi đều thấy lôi cuốn, cầm sách lên khó
lòng buông xuống, bỏ đi làm chuyện khác. Ông suy nghĩ thay cho tôi. Ông là nhà
văn với khối óc phân tích và tổng hợp uyên áo, câu cuyện kể thường dẫn đến vô
vàn những tư duy độc đáo, và đó chính là điểm mạnh của ông”.
Đường Về Thủy Phủ được ghi là “tiểu thuyết” – “có lẽ tôi đã chịu ảnh hưởng của Kundera khi
gọi cuốn sách này của tôi là tiểu thuyết gồm ba thiên truyện riêng lẻ nhưng
được thắt buộc vào nhau bởi một chù đề: sự thất lạc của con người trong cuộc
sống hiện đại…”, như Trịnh Y Thư đã cho biết trong Lời Ngỏ. Ông thêm:“Tôi tuyệt đối không có ý định viết một cuốn
sách lịch sử chiến tranh, cũng không phải một cuốn tiểu thuyết lịch sử… mà chỉ
viết về ấn tượng của tôi về chiến
tranh (…) không ngoài mục đích muốn
nói lên thân phận con người trong những bối cảnh nghiệt ngã, do chiến tranh gây nên mà cũng do chính con người tự tạo cho mình” (tr. 12, 13, 14).
Với Đường Về Thủy Phủ, Trịnh Y Thư đã dụng ký ức chung riêng của tập
thể ở thời gian đã qua rất lâu, viết nên một đa loại tiểu thuyết-ký sự trần
trình, với lý lẽ và ấn tượng. Siêu thực cái hiện thực! Hiện thực huyền ảo cái
lõi lịch sử! Chuyện nhiều thập niên chiến tranh biến thành lịch sử một dân tộc.
Từ ký ức của một ông lão 94 tuổi, tác
giả đưa người đọc trở về 80 năm cũ – thời kháng chiến chống Pháp. Ông lão thú
thật sống như đã chết, không còn sinh thú ở đời, sống thường trực với những
bóng ma (tr. 136) Hư cấu, tưởng
tượng, tạo nên những mảnh rời của chiến tranh xen lẫn với những mảnh ghép của
tình yêu và đời người.
Nhân vật Tôi và các nhân vật khác ở
chương mở đầu Ký Ức Của Loài Bò Sát,
đều gắn liền với tất cả thăng trầm bi đát của lịch sử khiến người đọc biết được
bối cảnh chiến tranh Việt Nam trong suốt những thập niên kháng Pháp, nhất là
mảng tối của nó, phản chiếu qua cuộc đời như địa ngục của những nạn nhân mà
chính sử không nói đến.
Minh tức “tôi” lớn lên, nhóm 6 thằng
ngây ngô nhìn lén một chị trong làng tắm truồng: “… chỉ được cái nước da trắng
lốp. Khuôn mặt cô bầu bĩnh, mắt lá răm, hai môi dầy, người thấp lùn, nhưng đôi
mông thì to lắm. Điều này tôi biết chắc, bởi lúc ôm đống quần áo tất tả chạy
vào nhà, cô quên rằng nguyên phía sau cô lõa lồ, không một tí vải che từ đầu
đến chân, và trước khi tụt xuống gốc cây bàng tôi đủ thời gian dán mắt vào đôi
mông ấy. Núng nính. Nủng nỉnh. Như hai túi bột ai túm lại rồi lắc lắc. Đôi mông
vẫn theo tôi ám ảnh mãi đến tận cuối đời, bây giờ”
(tr. 42). Đôi mông “núng nính” của cô con út cụ Chánh tổng, đã là ấn tượng ám
ảnh đầu đời.
Tác giả nhớ về Hà Nội, đoạn văn tiềm
chứa hoài niệm, sâu lắng, những con chữ
mang tình quê hương, thiên nhiên, diễn tả khi Tôi bỏ theo kháng chiến: “Tôi còn nhớ cả tiếng chày chí chát của đám
thợ đập vàng trên phố Hàng Bông Đệm, hay tiếng chuông leng keng, tiếng bánh xe
nghiến trên đường sắt của chiếc tàu điện chật cứng người mỗi ngày tôi lấy đi
học hay đi chơi. Những bức tường rêu phong loang lổ, những vỉa hè, những con
ngõ nhỏ như ngõ Phất Lộc với những căn nhà bé xíu thụt ra thụt vô, dây leo
chằng chịt, trông rất ma quái […] Cũng không thể phai mờ trong tâm trí tôi là
rặng bàng khô lá, lối đi quen thuộc từ những ngày còn cắp sách đánh vần với
những kỷ niệm tuổi học trò thơ dại. Rồi năm Cửa Ô, cửa nào cũng có vết
chân tôi. Cửa Ô Quan Chưởng với gạch ngói cổ xưa, loang lổ
dấu vết thời gian. Cửa Ô Cầu Giấy với hàng phượng vỹ mùa hè đỏ ối rợp bóng hai
bên đường. Cửa Ô Cầu Dền nơi thuở nhỏ tôi hay theo mẹ đi chợ Tết. Với Cửa Ô
Đống Mác, đường đi Bát Tràng, thì tôi không thể quên những quả ổi ương ương
chấm muối ớt ăn ngon nhớ đời. Và Cửa Ô Chợ Dừa, muốn ra đó phải đi ngang phường
Dạ Lạc, phố Khâm Thiên, có thằng con trai mới lớn đỏ mặt, trống ngực đánh thình
thịch mỗi lần thấy các cô gái má đỏ môi son đứng trong nhà nhìn ra cửa. Tất cả
quay về tuần tự như khúc phim dĩ vãng vàng ố chiếu giọi chờn vờn trước mắt tôi
…” (tr. 59).
Có cả tang thương, đó là nạn đói kinh
hoàng năm Ất Dậu ở miền Bắc: “… Suốt đêm
tôi không ngủ được mà chỉ nghĩ đến miếng giò. Thằng Cu Vĩnh nhà tôi chết rồi,
nó chết từ nửa đêm, và tôi quyết định lóc thịt nó ra giã làm giò. Tôi chẳng
nghĩ ngợi gì được, làm như cái máy…”
(tr. 48). Người chồng sau khi lóc thịt xác con làm giò, hai vợ chồng ăn,
vợ chết vì bội thực, ông cho rằng vợ ông “đứt ruột vì ăn thịt con”. Ông “phát
rồ… châm lửa đốt thiêu rụi ngôi nhà” rồi đi lang thang… rồi “đi mãi về phía những doi cát màu hồng. Tôi
thấy ông nhúng một chân xuống nước rồi lại rút lên. Tôi nhìn theo ông. Trong
mắt tôi, cái bóng ông bây giờ chỉ còn là một điểm nhỏ xíu. Vô cùng bé nhỏ, nhỏ đến độ không một
chút trọng lượng giữa vũ trụ bao la này” (tr. 50).
Toại lớn lên say mê chủ nghĩa Marx. Về
sau, Toại lên tới đại tá chính ủy và sẽ bị xử bắn vì bị nghi tham gia binh
biến: “Thế hệ thanh niên chúng tôi bị
thất lạc trong cơn lốc lịch sử này. Tuổi trẻ với bầu nhiệt huyết sôi sục sẵn
sàng lao đầu vào chỗ chết, hy sinh mạng sống mình cho đất nước, cho dân tộc.
Nhưng tất cả chỉ là huyền thoại. Chúng tôi từng nghe rất nhiều những huyền
thoại như thế. Tuổi trẻ chúng tôi mù lòa vì huyền thoại, bởi huyền thoại sáng
rực như ngọn đèn một nghìn nến chiếu thẳng vào đồng tử khiến mọi thứ như lóa đi
trong cơn đồng thiếp. ” (tr. 85-86).
Chính trong thời kỳ tham gia kháng
chiến, Tôi được thấy những hình ảnh hãi hùng của cuộc kháng chiến, được nghe kể
về để mở đường, đơn vị quyết tử của Việt Minh có nhiệm vụ ôm bom ba càng chạy
vào cho nổ xe tăng hay lô cốt quân Pháp, và họ cũng tan xác theo.
Nhân vật xưng Tôi được các cô chủ động
đến với anh, như mối tình với cô H’Mông 15 tuổi tên Xụ Phụn Phèn xinh đẹp. Cô
ngây thơ, yêu chàng người Kinh 19 tuổi dân quân du kích đang tham dự cuộc chiến
chống Pháp. “Tình yêu của cô cho tôi, nó
hoang dại như núi rừng này, nhưng nó say đắm và tinh tuyền như tình yêu của
loài muông thú. Nhờ nó, muông thú tìm đến nhau, trái đất này còn tồn tại. Nó
giữ cho trái đất khỏi nổ tung. Nhưng nó bị người ta lấy mất của tôi, bởi người
ta đang có một âm mưu kinh khiếp là toa rập nhau phá vỡ trái đất ra thành nhiều
mảnh vụn, không cách gì hàn gắn lại được:.
Nhưng cuối cùng, cô Xụ Phụn Phèn chết,
trong khi cô có thai vài tháng với nhân vật xưng tôi – sau tôi nghe kể lại. Cô
và cả bản làng của cô, có lẽ cả trăm người, bị ông Lê Lân, Tiểu đoàn trưởng
Việt Minh, xử bắn toàn bộ vì người dân H’Mông bị nghi là giúp đỡ người
Pháp. Tôi còn giữ cái xuyến vàng của Xụ Phụn Phèn “chết oan ức và thảm khốc, nên linh hồn cô không siêu thoát… Tôi và cô
vẫn chuyện trò với nhau trong những đêm thanh vắng…”
Đoạn cuối “Hành trình về thủy phủ của mẹ con Xụ Phụn
Phèn” là cuộc đối thoại của nàng Xụ Phụn Phèn với đứa con trong bụng, như một
cuộc nói chuyện trong mơ. Cô hứa với đứa con là sẽ đưa con về Thủy phủ để gặp
bố. Cô ru đứa con thành cuộc nói chuyện mẹ con: “Yêu là gì, hả mẹ?” “Yêu là có
thể hy sinh thân mình cho người mình yêu.” “Thế mẹ có yêu bố không” “Mẹ có thể
hy sinh mạng sống của mẹ cho bố” … “Bố sẽ về với mẹ con mình mãi mãi…” “Bao
giờ, hả mẹ?” “Bố hẹn với mẹ con mình ở thủy phủ. Bố sẽ xây cho mẹ con mình một
ngôi nhà rõ to cho mẹ con mình ở” … “Đúng
vậy, con ạ. Họ cùng về thủy phủ với mình, nơi không còn bom đạn hay hận thù,
nơi mẹ con mình sẽ gặp bố, bố sẽ yêu thương bảo bọc mẹ con mình. Thôi con nhé,
con hãy ngủ đi, khi nào mặt trời mọc là mình đến nơi” (tr. 147).
Đó là Thủy Phủ của Trịnh Y Thư, nơi ẩn
dụ cho cõi bất tử, nơi chốn của niềm tin và hy vọng, và là nơi không chất chứa
hận thù.
Dưới
Những Gốc Nho Biển được
mở đầu như sau: “Hôm cô tự kết liễu
đời mình, cô mặc chiếc áo lụa trắng ra chợ huyện như một thói quen. Ra chợ
nhưng cô không mua thức ăn như mọi lần về nấu cho cô và gã bác sĩ bộ đội ăn
tối. Đầu óc cô hoàn toàn trống rỗng như tờ giấy trắng tinh...” (tr. 153).
Cách vài thập niên sau, khi một cuộc
chiến tranh khác – chiến tranh huynh đệ, ngưng tiếng súng đạn. Người phe thắng
lộ mặt thật đối xử tàn bạo với đồng loại ở phía Nam. Nhân vật “cô” có chồng đi
học tập cải tạo và đã “chết mất xác trên
rừng trong lúc lao động”. Cô phải nuôi một đứa con gái, nên đi làm tiếp
khách cho một quán cà phê vườn, và có khi cô bán thân. Rồi ông anh chồng của cô
vượt biên, và dắt theo đứa con gái của cô lúc cô không có mặt ở nhà. Cô cặp với
nhân vật nam không tên, là “gã”, một bác sĩ quân y cũa Bộ đội Nhân dân, tức là
bên thắng cuộc. “Gã ngồi ngang đùi cô, từ
vị trí đó, gã có thể ngắm mặt cô rồi đến bộ ngực vun tròn, và xuống dần hạ thể
nơi cặp đùi đàn bà săn chắc hiện rõ dưới lớp vải mỏng của chiếc quần tây màu
đen. Gã ngồi nhìn cô như thế cả nửa giờ đồng hồ, hai người không nói gì với
nhau. Cô nhắm mắt lại, lim dim, như tránh cặp mắt u buồn của gã. Cái nhìn của
gã không phải để tìm kiếm hưng phấn nhục cảm. Nó chẳng biểu hiện tí gì lòng say
đắm ngây dại của người đàn ông bình thường trước thân thể một người nữ đang nằm
chờ đợi mình đi vào. Nhưng nói nó vô cảm phẳng lì cũng không đúng. Nó xa vắng
buồn bã đến lạ lùng như có điều gì u uẩn chất chứa nhiều năm tháng trong tâm
tư. Cô phải công nhận gã có đôi mắt đẹp, hiếm thấy ở một người đàn ông. Đen
sâu, long lanh như hai hạt nhãn. Da mặt gã trắng xanh như tất cả các anh bộ đội
mới ở trong rừng ra, nhưng đó là khuôn mặt của một người hiểu biết và nhạy cảm”
(tr. 159). Mối tình giữa Gã và cô đưa cô theo gã về làm dâu xứ Bắc – tác giả
triết lý: “Người nôn nóng muốn lìa bỏ nơi
chốn mình đang ở là kẻ đánh mất quá khứ. Vì không có quá khứ nên tương lai là
một canh bạc, và kẻ đó hoàn toàn mất mọi khả năng chủ động. Tất cả là sự may
rủi không thể ngờ. Tất cả phó thác cho định mệnh. Nhưng định mệnh thì mù loà và
không có quả tim” (tr. 171).
Người miền Nam vĩ tuyến XVII đã phải ra
đi tìm tự do, vượt biên, tị nạn. Con gái “cô” cũng đã ra đi, cô thành “độc
thân” dù bên cạnh đã ông “bác sĩ bộ đội” tỏ ra yêu thương cô. Nhân vật “Cô”
trong chuyện này trở thành gạch nối với kẻ thắng cuộc, được Đảng và Nhà nước
cho qua. Nhưng “cô” cũng trở thành tiêu biểu nói lên số phận của phụ nữ miền
Nam nạn nhân của thời cuộc, không phản kháng, sống cũng như chết, phó mặc cho
số phận đẩy đưa. Đấy không hẳn là lối thoát, đưa đến cái chết ở đầu câu chuyện.
“Cô” được một ông lão như “là người từ
quá khứ trở về” đưa thuyền đến đón vì “Mẫu
đang đợi cô đưới thủy phủ” (tr. 207). Gã đàn ông sau nhiều năm tháng, thành
một ông lão “già nua đáng dấp tiều tụy,
gầy còm, lưng hơi còng, râu tóc bạc trắng, da dẻ nhăn nheo, ra ngồi dưới đôi ba
gốc nho biển còn sót lại, dõi mắt nhìn ra biển khơi như mong ngóng cái gì” (tr.
209).
Đường Về Thủy Phủ với một nhân vật nữ tự khám phá
nhận ra cô như bước ra từ tiểu thuyết của một nhà văn đang mưu sinh bằng nghề
dạy học ở một đại học rất nhỏ ở Hoa Kỳ, vì nhà văn này không thể sống bằng viết
sách được. Mối tình giữa cô sinh viên và chàng nhà văn, cũng là giảng viên, bị
trở ngại vì trường cấm ngặt chuyện giảng viên giao du tình cảm với sinh viên.
Nhân vật “tôi” bước ra từ sách của “gã nhà văn”
và vì là nhân vật nên nàng cũng có cảm xúc riêng, và nàng nói rằng nàng
căm thù chàng nhà văn đã sáng tạo ra cô: “Tôi
thù gã nhà văn khôn tả. Tôi thù gã đến độ tôi muốn giết chết gã. Tôi ao ước có
một mũi dao nhọn sắc lẻm cho tôi ấn sâu vào ngực gã với động tác êm nhẹ, từ tốn
để trái tim gã khi bị mũi dao đâm thủng vẫn không hay biết đang bị đâm mà tiếp
tục hân hoan đập những nhịp đập hối hả như thể sợ ngày mai không còn được đập”
(tr. 217).
Đây là một mối tình như cưỡng bức và một
chiều: “Cuộc sống tôi trở nên phẳng lặng
một cách nhàm chán, mỗi tối gã vẫn dắt tôi vào ăn tại các nhà hàng sang trọng
có bồi bàn thắt nơ đen đứng hầu, nhưng khi về phòng gã lăn ra ngủ bỏ mặc tôi
lên cơn thèm khát. Tôi là sản phẩm của gã nhưng một khi gã ném tôi ra ngoài
này, tôi có cuộc sống của riêng tôi và tôi nổi loạn. Điều đó không có gì là bất
thường và mỗi tuần hai ngày, khi gã có lớp dạy chiều, tôi mò lên phòng tên sinh
viên làm tình với hắn. Tên sinh viên tôi gặp tại quán cà phê trước cổng trường
đại học” (tr. 230).
Nhân vật xưng tôi thứ hai là “gã nhà
văn”, chàng kể về cô gái: “Tôi chú ý cô
gái ngay hôm khai giảng lớp học. Cô ngồi bàn đầu, cô gái Á Đông duy nhất trong
lớp học. Lớp này tôi phụ trách dạy gần mười năm nay từ khi về nhận làm giảng
viên nơi đây, một trường đại học nhỏ nằm ngoài rìa một thị trấn mặc dù có tên
trên bản đồ nhưng nói ra chẳng ai biết. Khu đại học tiếp giáp với cánh rừng
phong bạt ngàn. Tôi ghét nghề dạy học nhưng nó giúp tôi có tiền sinh sống trong
lúc cặm cụi viết sách, chờ ngày một nhà xuất bản nào đó chịu xuất bản tác phẩm
của mình.” (tr. 237).
Và rồi nhiều trang sau, “gã nhà văn” kể
rằng, một hôm cô gái tự nhận là nhân vật nữ trong tiểu thuyết của “gã nhà văn”:
“Không hiểu bởi nguyên cớ gì cô tự nhận
cô là nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết của tôi. Tôi có hai cuốn tiểu thuyết
đã xuất bản, một cuốn tôi viết từ khi còn là sinh viên, cuốn kia ra mắt ba năm
sau đó có một chút tiếng vang, nhưng ba tập bản thảo thì không nhà xuất bản nào
chịu in. Thú thật tôi chẳng bao giờ có can đảm đọc lại những gì mình viết…”
(tr. 242).
Sau ba năm sống chung và đi lang thang
khắp nước Mỹ, gã mới “biết cô là người
nước nào và lý do tại sao cô lưu lạc đến đây. Một mình”. Khi phe kia tràn
vào, bố cô bị đi “cải tạo” và chết trong tù, mẹ cô lấy bác sĩ bộ đội – Cô gái
đây cuối cùng là đứa bé gái bị ông bác đưa đi vượt biên. Hai người về Việt Nam
tìm hiểu và tìm xác Mẹ. Được nghe kể “một
năm sau khi mẹ mất tích, không hiểu từ đâu có tin đồn mẹ bị Mẫu bắt về thủy
phủ” và người dân đã xây cái miếu nhỏ ngay trên mỏm đất chỗ con sông đổ ra
biển. Về cuối, nhân vật nữ, nay rõ ra bị bệnh rối loạn lưỡng cực. Gã đàn ông
thì tự vấn “cô gái Việt phải chăng là
định mệnh đời tôi hay đó là sự trừng phạt do tội lỗi gây ra với cha tôi? Hay cả
hai?”.
Để kết lại, sau cái chết già / bệnh của
“gã nhà văn”, tác giả cho “cô” và người bác sĩ bộ đội tìm về ngồi dưới những
gốc nho biển, nơi Bố và Mẹ của cô trước đây vẫn hay ngồi: "Trước mặt, hoàng hôn vàng đỏ vỗ về mặt biển
nhấp nhô sóng. Những cánh hải âu chao liệng. Một đàn cốc biển bay thành hàng
một về phía chân trời xa xa, nơi có những hòn đảo lờ mờ nổi trên mặt nước.
Những hình ảnh này, có lẽ mẹ tôi đã trông thấy y như tôi thấy bây giờ. Ý nghĩ
này làm tôi ấm lòng" (tr. 288).
Đường
Về Thủy Phủ đi bên cạnh lịch sử chung và trải
qua nhiều vùng miền, khởi đầu với ký ức một ông lão 94 tuổi, rồi với một nữ
nhân bất hạnh của trong nước hậu-30/4 và cuối cùng trở lại với một nam nhân từ
cộng đồng hải ngoại tân lập trở về tìm quá khứ của một người nữ Việt. Đi bên
cạnh lịch sử hoặc chìm trong thời kháng Pháp ở Bắc, Mậu Thân ở Huế, sau 1975 ở
miền Nam, ở hải ngoại tân lập, tất cả cuối cùng con người – qua một số nhân vật
tiểu thuyết, được đưa đón hoặc tìm về thủy phủ.
Ba phần/chương rõ ra là ba cái cớ văn chương để tác giả
lý giải, bộc bạch suy nghĩ, cảm nhận về lịch sử, con người, cuộc đời, về cái
chết và định mệnh. Quá khứ được ông chăm sóc, vẽ lại với nhiều chi tiết, ấn
tượng. Theo phong cách hiện thực huyền ảo:
cái thực, cái ảo và cái phi lý thay nhau hoặc cùng hiện diện, mà trí tưởng
tượng / sáng tạo của nhà văn cũng như của độc giả khi tiếp xúc với văn bản trở
nên không giới hạn. Trịnh Y Thư đã
làm một chuyến phiêu lưu lịch sử, hy vọng đánh động vô thức tập thể cũng như
những khúc mắc chưa được giải tỏa khác. Đường
Về Thủy Phủ đã là mảnh đất dù hạn hẹp với vài câu chuyện tiêu biểu – theo ý
tác giả – đã phần nào thành công khiến người đọc cùng tìm về lịch sử, nguồn cội.
Hiện thực huyền ảo trở thành phương tiện sáng tác hôm nay, cho phép tác giả
nhìn vào cuộc sống trước mặt, kể cả những bất thường và phi lý. Qua chúng, tác
giả tỏ thái độ với thời cuộc, với hôm nay, với quyền bính và tha nhân. Tác giả
không thể tránh bàn đến tâm lý con người ở một giai đoạn lịch sử, một giai đoạn
mà tác giả nghĩ đã đến lúc phải đưa ra ánh sáng, đưa ra công luận, đã đến lúc
mà con người không thể sống như cũ, nên sống bằng tình nghĩa hơn là sống một
cuộc đời thế gian bị bủa vây bởi những phỉnh gạt to lớn của tập thể nhân danh
một lý tưởng nào đó. Thiện ác vô
lường và thuyết tương đối được hiện đại hoá. Qua những việc và người mà tác giả
thấy "có vấn đề". Viết chuyện hiện thực qua cách huyền-ảo, các tác giả còn nhắm kêu
gọi cải đổi, giải phóng, bằng cách cho thấy thực trạng của hôm nay, của con
người sau bao lầm lỗi và hy sinh. Ở nhiều tầng lớp xã hội khác nhau! Thể
loại đương đại này mở ra
một chân trời mới, cho người viết cũng như người đọc, một tự do văn chương
tuyệt vời! Các tác giả như Trịnh Y Thư đã
chứng tỏ tài huyễn hoá văn chương, như một trở về với người xưa văn
hoá cũ, với nền tảng, nhưng vẫn là một thẩm mỹ văn chương mới, chứ không
phải chỉ vì muốn trốn thực tại hay tránh những vấn đề của xã hội hoặc những
tranh luận khoa học nhân văn cấp bách của hôm nay. Thực vậy, hiện thực huyền ảo
là cách bám chặt thực tại có thể có hiệu quả lớn, bám và định nghĩa lại các
quan hệ. Ban đầu chúng có vẻ là hình thái hình thành bởi ám ảnh quá khứ hoặc ảo
tưởng của tập thể. Đám đông không thể sáng suốt nhận chân ra cái ám ảnh đang
hủy hoại tập thể, họ sẽ có thể mở mắt nếu phải đi đường vòng qua ngả văn
chương. Thể loại này do đó có thể nói là dấu hiệu của một xã hội trưỡng thành,
đang-trưỡng-thành, trưởng thành khi tự mở mắt với những bi-hài-kịch
thườnh nhật. Điểm-đến của t theo chúng tôi là đã gióng lên tiếng
nói đích thực của con người hôm nay, cho bây giờ và mai sau, khi còn có thể lên
tiếng và sau một thời gian đã không thể lên tiếng.
Đọc Trịnh Y Thư,
người đọc có cơ hội tự xét, soi lại mình cũng như soi chiếu với tâm thức và cái
sống chung. Một tiểu thuyết chỉ ra được những cái vướng
vất chưa được giải quyết, những âm hưởng, vang vọng thiện-ác cũng như lãng mạn,
lý tưởng của cuộc sống hôm nay.
*
Trịnh Y Thư còn là nhà thơ và đã có
nhiều nhận định về thi ca trong các tập tiểu luận và tạp bút của ông. Thi tập Phế Tích Của Ảo Ảnh được xuất bản lần
đầu năm 2017, gồm 3 phần: Phế Tích Của Ảo Ảnh-trường thi 10 đoạn, Trong Bóng
Tối Ta Chẳng Tìm Thấy Nhau và Con Nước Vô Danh.
Phế Tích Của Ảo Ảnh hình như được sáng
tác khi nhà thơ về thăm quê nhà, Bắc, Nam:
“Thốt nhiên tôi
quay về hướng mặt trời
một ngày thoát thân –
xác quạ lót đường đi
những đám mây tích vô
tích sự
dửng dưng với bầu
trời xanh
bất chợt một góc trời
điêu hao thành lũy
giữa muôn trùng cảnh
lạ bến nước bủa giăng.
Tôi chờ đợi một tiếng
kêu bằn bặt thổ ngơi
ẩn nhẫn như cơn mộng
oan khiên phong vận
thoát thai thành một
nghĩa cử tầm thường
bốn phía trời căm dù
hờn tủi cũng đành.
Trăm lần như một tôi
không có chọn lựa nào
hiện hữu những cơ ngơi
ảo hoặc thánh hóa
định vị bởi khí hậu
nhiệt đới không lối thoát
như một kẻ hành hương
lạ thất lạc
trong ngôi đền không
có nổi một lư hương.
Đứng dưới rượng hoa
già kí ức tràn về khiển trách
không không tôi không
chấp nhận
lời nguyền rủa ấy xin
đừng trút lên tôi
một mai làm người tôi
sẽ gửi lời thâm tạ
như lá chúc thư trần
tình cho phiên bản cuối.
Dù tôi biết mình
không còn chỗ chạy
không cả một tòa án
giả hình
thu hẹp trong vòng
tròn định mệnh
trên cả những giao
ước biển lận trớ trêu.
Chiều đã xuống quảng
trường nhức nhối lói
cho tôi xin một hồi
chuông
để làm gì tôi chẳng
biết
xung quanh người đeo
mặt nạ hóa trang
ban nhạc luân xướng
hân hoan bước lên đoạn đầu đài
cử chỉ khinh mạn của
gã ôm lưỡi hái
khiến tôi thèm một nụ
hôn cuối và bữa tiệc giã từ.
Những âm hồn rỉ rén
trở về – không không
đây không phải chỗ
cho các ngươi khiếu oan
ôi thật kinh khiếp
thế chỗ những cảm xúc chết
là kí ức của cảm xúc
hoen quẹn da non.
Người con lịch sử
khuôn mặt ngươi ở đâu
sau tấm biển quảng
cáo nịt vú đàn bà
hay bên kia rừng
trảng thâm u
bên dưới những nấm mồ
oan khốc.
Vẫn biết sự thật là
tiếng vọng thiên thu
nhưng hãy cho tôi hòa
giải
bởi cuộc chiến với kí
ức
là cuộc chiến với sự
lãng quên.
Ký ức như mộ phần
người chết
hãy để nó vĩnh viễn
nằm dưới đáy ngục sâu
bởi đào lên chỉ thấy
toàn hồn ma và xương xẩu kinh người”
(đoạn 2, tr. 10-12)
“Tôi trở về đây vòng
quay của đất trời tê tái
thăm hỏi những con
người bị lãng quên / nằm chen chúc /
dưới đám ruộng /
chiêm trũng / lúc giao mùa phất phơ.
Họ là ai tôi tự hỏi /
những bản văn tự không ấn dấu /
xung quanh một bến
nước / có tiếng hát phù trầm
quay quắt một đêm mưa
/ hàng cau đánh sập sân từ đường
vỡ vụn những viên
gạch / khép nép nghìn thu.
Trên nỗi đau phận
người là những lời lừa phỉnh
dù bóng tối không bao
dung / và nỗi khiếp sợ ngập tràn
nhưng hi vọng ngày
mai / tia rực sáng vui đùa cùng cỏ cây
còn sự lừa phỉnh là
bóng tối đời đời
nhốt chặt những linh
hồn muôn kiếp / không cơ may cứu chuộc.
Hồn ma còn sợ bóng
tối không tôi tự hỏi
hiển nhiên họ không
tự biện hộ được
khi lịch sử kì oan /
buộc tội ngay lúc lâm minh
và sự lừa phỉnh phỉnh
lừa chính nó.
Nằm đếm sao trời đêm
đêm / họ gửi chúng ta thông điệp gì
gia phả không đủ chỗ
/ viết những lời nhắn nhủ
cựa mình chạm vào rễ
gai / trợn trừng hai hốc mắt
không - họ chẳng nói
gì / bởi tất cả những điều cần nói
đã được nói ra / từ
trước đó lâu lắm rồi.
Nhưng tôi quả run sợ
bởi đó là bước khởi đầu
dù không biết gọi nó
là gì lịch sử hay kì tích
của những con người
khổng lồ biết bay
phủ trùm lên ý thức
tội đồ tôi nhận ra
không ai chết cho kẻ
khác
kể
cả người bị đóng đinh trên núi Sọ” (đoạn 3, tr. 13-14)
Trích hai đoạn của trường thi, nguyên
đoạn, để thấy trọn vẹn hơn tâm tư nhà thơ thể hiện qua con chữ - những bức xúc,
ân oán rất con người. Không hẳn là phê phán lịch sử từ sự kiện, hiện tượng quan
sát được, thấm thía được. Gọi là “lịch sử
hay kì tích” thì ông vẫn mong sự hòa giải dù “biết sự thật là tiếng vọng thiên thu”, vì “bởi cuộc chiến với kí ức / là cuộc chiến với sự lãng quên”. Còn
ký ức ư? “như mộ phần người chết / hãy để
nó vĩnh viễn nằm dưới đáy ngục sâu / bởi đào lên chỉ thấy toàn hồn ma và xương
xẩu kinh người”.
Tình yêu ư? Tìm lại chăng? thì “trong bóng tối ta chẳng tìm thấy nhau”: “Bơ vơ tháng ngày mưa
nhanh / thu vén những mảnh đời vụn vỡ / ta còn gì cho nhau / ngoài ánh mắt
khoan dung / như lần chia tay trên đồi cát.
Hoàng hôn rồi cũng xuống / trong bóng tối ta chẳng tìm
thấy nhau / chợt một hôm hóa thân cát bụi / gió tê xao xác cõi ngoài…” (tr. 38).
*
Trong dòng chảy của Văn học hải ngoại,
Trịnh Y Thư là một thành phần cá biệt. Văn chương nghệ thuật với ông trước hết
phải đồng nghĩa với cái Đẹp và ông đã áp dụng trong văn thơ cũng như dịch phẩm
của ông.
Sau những tương tàn huynh đệ là di sản,
là hậu họa, là ký ức buồn đau… Tác phẩm của Trịnh Y Thư dù ở thế loại
nào cũng mang những ám ảnh lo toan cho dân Việt, mang tính tình tự, thông cảm
rõ hơn là chính trị.
[Trích Văn-học Việt-Nam 50 Năm
Hải
ngoại, quyển Hạ, 2025, tr. 613-625]
.jpg)
.png)