Theo Mạnh Tử, chỉ dấu quan trọng nhất của một người quân
tử là lòng can đảm vẫn duy trì được nguyên tắc sống cao cả của mình bất chấp những
đe dọa của vũ lực bạo tàn. Chỉ dấu bất khả tư nghị của khí tiết ấy được từ vựng
Hán-Việt mệnh danh là “uy vũ bất năng khuất” (威武不能屈). Thi nhân lỗi lạc Vũ Hoàng Chương (1915-1976) đã lộ rõ khí tiết này khi
ông dám làm bài thơ “Vịnh Tranh Gà Lợn” để châm biếm “bên thắng cuộc” nhân dịp ông
nghinh xuân Bính Thìn 1976 tại quê nhà. Và như đã tiên đoán, bài thơ miệt thị
chế độ mới một cách công khai ấy đã khiến Vũ Hoàng Chương bị chúng bỏ tù cho đến
lúc kiệt lực, cận kề cái chết. Năm ngày sau khi được thả, ông qua đời tại nhà vào
ngày 6 tháng 9 năm 1976.
Mời quý độc giả thưởng
lãm bài thơ đường luật viết về tết cuối đời mang tên “Vịnh Tranh Gà Lợn” của Vũ
Hoàng Chương – cùng với sự hiểu biết và suy luận hạn hẹp của tôi – dưới đây:
VỊNH
TRANH GÀ LỢN
1.
Sáng chưa sáng hẳn tối không đành
2.
Gà lợn
om xòm rối bức tranh
3.
Rằng vách có tai thơ có họa
4.
Biết lòng ai đỏ mắt ai xanh
5.
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
6.
Lòng lợn âm dương một tấc thành
7.
Cục tác nữa chi ngừng ủn ỉn
8.
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh
Thần bút họ Vũ đã giáng xuống bài thơ thất ngôn bát
cú những ẩn dụ (metaphors) tuyệt diệu, những cụm từ có thể hiểu theo nghĩa đôi
(double meaning) một cách tài tình, và những cấu trúc ngữ nghĩa và ngữ pháp biền
ngẫu (syntactical and semantic parallelism) thật ngoạn mục.
Tựa đề bài thơ hàm ý nó được viết vào dịp sắp tết ở
quê nhà. Trong dịp này, những bức tranh dân gian – màu sắc sặc sỡ và nội dung cũng
như hình thức sơ sài – được treo lên để trang trí, khuyên bảo, mua vui, hoặc chúc
mừng năm mới cho khách đến thăm. Các bức để chúc tết thường vẽ những gà và lợn,
tướng quân, ông nghè (tiến sĩ nho học). Các bức để mua vui thường có chủ đề hài
hước, như cảnh chuột đỗ trạng nguyên sau khoa thi đình. Còn trong số các bức để
đề cao và khuyến khích sự học thì nội dung quen thuộc nhất là hình vẽ một con cóc
ngoan ngoãn cắp sách đi đến trường.
Câu 1 và 2 ám chỉ một thời buổi hỗn loạn chưa từng
thấy trong lịch sử nước nhà, khi quân đội miền bắc xâm chiếm miền nam vào mùa
xuân 1975. “Gà và lợn” là ẩn dụ cho những kẻ thắng trận bất xứng đang thực sự “om
xòm” và gây rối loạn trong xã hội miền nam một thời tự do hạnh phúc.
Câu 3 và 4 là một cấu trúc ngữ nghĩa và ngữ pháp biền
ngẫu ngoạn mục, sử dụng từ ngữ đắc địa nói lên cái tinh thần bất an của người dân
miền nam cũ luôn bị công an mới vây bủa. Nhóm chữ “thơ có họa” có thể hiểu được
hai cách: (1) “trong thơ có họa (vẽ)” và (2) “thơ có thể gây (tai) họa.” Hàm ý của câu 4 là “thật không thể phân biệt
ai là bạn – tượng trưng bởi lòng đỏ, dịch từ hai chữ đan tâm (丹心) đồng
nghĩa với trung trinh, và ai là thù – tượng trưng bởi mắt xanh).”
Câu 5 và 6 cũng là một cấu trúc ngữ nghĩa và ngữ pháp
biền ngẫu ngoạn mục, sử dụng hai nhóm chữ thường xuyên xuất hiện với nhau
(collocations) là: (1) “mắt” với “gà” để nhắc đến một tình trạng rối loạn của
thị giác gọi là “mắt quáng gà” (nyctalopia), và (2) “lòng” với “lợn” để gợi nhớ
một món ăn khoái khẩu dịp hội hè. Và trong khi câu 5 hàm ý là dân chúng miền
nam từng nhiều lần bị lường gạt bởi tuyên truyền từ miền bắc cộng sản, thì câu
6 ca ngợi lòng thành tín keo sơn của người miền nam vừa bị xâm chiếm.
Hai câu 7 và 8 kết thúc một tuyệt tác thi ca của Vũ
Hoàng Chương với một lời khuyên bảo lũ “gà và lợn” đang đắc chí hãy ngừng “cục
tác” và “ủn ỉn” để mà nghe “con rồng” (biểu tượng của tân niên Bính thìn) “ngâm
vang” một khúc tân thanh. Thần kỳ thay, khúc ca mới ấy gợi nhớ đến danh tác “Đoạn Trường Tân
Thanh” (“bài ca mới đứt ruột”) của thi hào Nguyễn Du – rõ là một điềm gở đáng sợ
hãi cho
dân chúng miền nam trong những ngày sắp tới.