Sau ngày 30 tháng 4, 1975, khi còn ở trong trại tị nạn Camp
Pendleton ở Nam Cali, tôi có dịp ở chung lều với gia đình một ông bác sĩ thuộc
lứa tuổi trung niên. Như nhiều người Miền Nam, ông tỏ ra cay đắng cho rằng Hoa
Kỳ đã bỏ rơi Miền Nam. Ông cho biết sẽ xin tị nạn tại Pháp hay Canada, vì cảm
thấy không thể sống tại đất nước đã phụ rẫy mình. Chúng tôi đứt liên lạc từ sau
khi rời trại, và tôi không rõ gia đình ông gồm bà vợ, vợ chồng cô con gái và ba
đứa cháu ngoại còn nhỏ đã phiêu bạt nơi nào.
Ai làm mất Nam Việt Nam là câu hỏi thời thượng dạo ấy. Như hồi
quân của Mao Trạch Đông tiến chiếm Hoa Lục năm 1949 người ta đã hỏi nhau, đúng ra là đổ lỗi cho nhau, là ai đã
làm mất Trung Hoa. Trở lại chuyện Việt Nam: Giới bảo thủ thì đổ cho là giới báo
chí khuynh tả làm mất Miền Nam. Họ quên là số phận Miền Nam đã được định đoạt từ
khi Tổng thống Cộng hòa Richard Nixon bắt tay với Trung Quốc ba năm trước đó, ngoài
lý do chia rẽ khối cộng sản còn là nhắm vào thị trường béo bở với hàng tỉ người
tiêu thụ tương lai. Mặc dù chính chúng ta dạo ấy không muốn tin như thế.
Ai làm mất Miền Nam thì là chuyện đã rồi đối với tôi vào buổi
sáng ngày 1 tháng 5 cách đây 45 năm thức dậy trong căn lều nhà binh mới dựng
hôm trước, cỏ còn cao quá đầu gối, tối om, chỉ mới có tôi và hai đứa con nhỏ, 9
và 2 tuổi, được lùa vào đây nửa đêm hôm trước từ chiếc xe buýt đón chúng tôi đến từ Guam tại phi trường Los
Angeles. Tôi nhìn ra những ngọn đồi thoai thoải phủ thảm hoa vàng giữa cái lạnh
rơi rớt từ mùa đông vừa qua, nghe trong đầu câu hát Lòng thật bình yên mà
sao buồn thế / Giật mình nhìn tôi ngồi khóc bao giờ… (Trịnh Công Sơn, “Bên
đời quạnh hiu.”) Có điều tôi không đang khóc. Mắt tôi ráo hoảnh.
Tôi lớn lên tiêm nhiễm lời răn dậy “tiên trách kỷ, hậu trách
nhân,” tự trách mình trước rồi hẵng trách người. Và từ buổi sáng trên đồi hoa
vàng nơi xứ người, tôi nhìn vào chính tôi, vào hồn của mảnh đất Miền Nam thân
yêu nơi tôi lớn lên từ năm 1954 sau khi cha mẹ tôi mang chúng tôi 11 anh chị em
chạy nạn cộng sản vào lập nghiệp.
Đây cũng là nơi ra đời của một quốc gia mới mẻ, mang tên Việt
Nam Cộng Hòa, được sự hỗ trợ tận tình của một Hoa Kỳ thời hậu đệ nhị Thế chiến
đã trở nên hùng mạnh nhất thế giới, và của các bạn đồng minh trong khối tự do,
những quốc gia đã chịu ơn nước Mỹ giúp tái thiết thời hậu chiến. Không thể phủ
nhận, đã hẳn, Hoa Kỳ thoạt kỳ thủy đã có chủ ý coi VNCH là “tiền đồn cuối cùng”
để ngăn chặn làn sóng đỏ tưởng bách chiến bách thắng hồi ấy. Song người Việt Miền
Nam chúng ta coi đây là cơ hội ngàn năm một thuở để xây dựng một xã hội tự do
dân chủ thực sự đầu tiên trong lịch sử của hàng ngàn năm nếu không là sống
trong chế độ quân chủ chuyên chế thì là bị đô hộ bởi ngoại nhân. Người Miền Nam
không coi nhẹ nền cộng hòa còn rất non trẻ này. Trong khói lửa mịt mù và một bối
cảnh chính trị nhiều biến động, họ vẫn kiên trì xây dựng và vun sới cho mảnh đất
tự do nhỏ bé này.
Vậy mà, bằng cách này cách khác, chúng ta đã phí phạm cơ hội
quí báu này. Tôi sẽ không dài dòng kể lể ở đây hàng núi lý do tại sao, cả nội lẫn
ngoại. Chỉ vắn tắt là sau 20 năm dựng nước trong một bối cảnh chính trị bất ổn
và một cuộc chiến đẫm máu đã lấy đi hàng triệu sinh mạng cả dân lẫn quân, kết
cuộc là cuộc đại di tản lần thứ hai cho những người may mắn chạy thoát gọng kìm
cộng sản ngày một siết chặt tự do sau cái ngày oan nghiệt 30 tháng 4.
Hàng vạn ngàn người không may mắn đã liều mạng vượt biên và
bỏ mình trong rừng sâu hay ngoài biển cả. Hàng ngàn vạn người khác của chế độ cộng
hòa đã bị lùa vô các trại tập trung cưỡng bách lao động mọc lên nhan nhản khắp
vùng đất nước. Nhiều người đã bỏ mạng. Họ là những quân dân cán chính, trí thức,
khoa học gia, kỹ sư, bác sĩ, chuyên gia, văn nghệ sĩ – phần lớn tình nguyện đi
trình diện hy vọng sau khi được “cải tạo học tập” họ sẽ được phép mang khả năng
giúp xây dựng đất nước. Điều đó đã không xẩy ra trong một chế độ đòi hỏi “hồng
hơn chuyên.”
Tổng thống Kennedy có lần đã nói: “Chiến thắng có cả trăm
ông cha và thất bại trở thành mồ côi” (Victory has a hundred fathers and defeat
is an orphan). Người Việt Miền Nam, dù lưu vong hay còn ở quê nhà, thẩy đều đã
trở thành “mồ côi.”
Nhiều thập niên qua, chúng ta đã sống trong thầm lặng, chịu
đựng bị hiểu lầm và nhục nhã, cố gắng dồn mọi nghị lực vào việc xây dựng lại đời
sống trên mảnh đất quê hương thứ hai, nuôi dậy con cái, vun sới gia đình, và có
một dạo còn cung cấp cho người thân, bằng hữu còn kẹt lại sống thiếu thốn mọi sự.
Vào giờ rảnh rỗi và dịp cuối tuần, chúng ta tập hợp nhau, người bàn chuyện
quang phục quê hương; kẻ nói chuyện bảo tồn lịch sử và văn hóa đã và đang bị cộng
sản tàn phá, hủy hoại ở quê nhà - cũng là một hình thức quang phục quê hương
khi các giá trị dân tộc và nhân bản đang trên đà thoái hóa nơi quê nhà. Những
hoạt động này đã giúp nối kết người Việt hải ngoại không chỉ ở Mỹ mà còn ở khắp
thế giới lại với nhau.
Các nỗ lực bảo tồn văn hóa và lịch sử của người Việt hải ngoại
thường nhỏ giọt, riêng lẻ, phần lớn do cá nhân bỏ tiền túi ra thực hiện. Thảng
hoặc, có những trường hợp nhận được tài trợ như nhà văn Võ Phiến được một tổ chức
nghiên cứu khoa học xã hội tài trợ đi sưu tầm tài liệu và thực hiện bộ “Văn Học
Miền Nam Tổng Quan” vào đầu thập niên 1980. Dù vậy, kết quả của những nỗ lực
này phải nói là phong phú, xuất hiện dưới hình thức sách báo, băng đĩa nhựa,
hình ảnh, bầy bán khắp nơi. Những tác phẩm bị cộng sản cấm đoán, tịch thu, đốt
hủy cũng đã được chụp và tái bản ở hải ngoại, ngay cả những bộ sách của thời tiền
chiến được tái bản ở Miền Nam trước 1975 cũng theo chân chúng ta ra hải ngoại.
Và hồi ký đủ loại đề tài phong phú của nhiều người viết thuộc mọi thành phần
trong và ngoài nước, đặc biệt là các hồi ký của nhiều người đã từng là đảng
viên cộng sản nay tỉnh ra. Từ ngày kỹ thuật Internet ra đời cách đây 25 năm,
sinh hoạt văn hóa này càng nở rộ. Dù vậy, các ấn phẩm vẫn chỉ thu hẹp phần lớn
trong phạm vi tiếng Việt, hạn chế đối với các thế hệ trưởng thành hoặc sinh ra
và lớn lên ở hải ngoại.
Gần ngày kỷ niệm 45 năm ngày 30 tháng 4 đánh dấu ngày Miền
Nam bị bức tử, tôi nhận được tập sách từ lâu trông đợi và cuối cùng đã tới tay.
Đó là tuyển tập “The Republic of Vietnam, 1955-1975 – Vietnamese Perspectives
on Nation Building,” bàn về công cuộc kiến quốc của Việt Nam Cộng Hòa, do Vũ Tường, giáo sư ngành chính trị học tại Đại
học Oregon, và Sean Fear thuộc Đại học Leeds, Anh Quốc, biên soạn và nhà
xuất bản Cornell University Press ấn hành. Đây là một tập hợp các bài thuyết trình tại cuộc hội thảo hai
ngày Symposium Nation-Building in War:
The Experience of Republican Vietnam, 1955-1975, diễn ra tại Đại học Tiểu bang
California ở Berkely cách đây vài năm, do một nhóm giáo sư trẻ gốc Việt tổ chức.(*)
Trong bài này, người viết sẽ dùng chữ “Kinh nghiệm kiến quốc” để chỉ tên của tuyển
tập này.
Bìa trước của tuyển tập ‘Kinh
nghiệm kiến quốc’
Các tác giả trong tập “Kinh nghiệm kiến quốc”
gồm các cựu viên chức, giáo sư, chiến binh, ký giả, và văn nghệ sĩ của một thời
Miền Nam, nay đã trên dưới 80. Họ chia sẻ kinh nghiệm của một thời trẻ trung đầy
lý tưởng trong công cuộc xây dựng tân quốc gia Việt Nam Cộng Hòa “như một quốc
gia họ kỳ vọng trong trí tưởng với tất cả thiết tha, chứ không phải là một công
cụ chính trị của chính phủ Mỹ,” theo các chủ biên trong bài giới thiệu tuyển tập.
Đó là các lời chứng về chiến tranh, chính trị, kinh tế và đời thường của người
dân thuộc mọi tầng lớp trong thời Đệ nhị Cộng hòa giữa bầu không khí sôi sục của
trận chiến mà người Mỹ quen gọi là Chiến tranh Việt Nam. Khác với quan niệm phổ
biến tại Mỹ do ảnh hưởng tuyên truyền của cộng sản, là chính phủ VNCH là bù
nhìn của Mỹ, tập sách “cho thấy cuộc xung đột tại Việt Nam là một phân chia ý
thức hệ giữa cộng sản bắc phương và phe không cộng sản Miền Nam, chứ không chỉ
là cuộc chiến ủy quyền trong thời Chiến tranh Lạnh,” như các tài liệu đã giải mật cho thấy việc
cộng quân đã được cộng sản quốc tế hỗ trợ như thế nào bên cạnh quyết tâm của người
cộng sản đưa VN vào quỹ đạo ngoại bang này.
Tôi phải nhìn nhận là cho tới gần đây, ký ức
cề công cuộc xây dựng đất nước thời cộng hoà của tôi chỉ thu gọn vào môi trường tôi có thể tạm cho là mình biết nhiều
nhất, đó là văn học nghệ thuật. Tập sách “Kinh nghiệm kiến quốc” đã cho tôi một
cái nhìn toàn diện về các công cuộc phát triển và tiến bộ khác trong công trình
xây dựng đất nước trên bình diện qui mô.
Khó mà có thể tưởng tượng tất cả chỉ diễn ra trong vòng 20 năm, và trong một bối
cảnh chiến tranh khói lửa đầy chết chóc tang thương.
Qua năm phần chính – phát triển kinh tế,
chính trị và an ninh, giáo dục, báo chí và truyền thông, và văn hóa và nghệ thuật
– chia
thành 17 chương, người đọc có dịp
tham dự hàm thụ công cuộc dựng nước gian nan song đầy hào hứng, phấn khởi. Trong
phần thứ nhất về phát triển kinh tế (Chương 1-4), các ông Vũ Quốc Thúc (giáo sư
luật học), Nguyễn Đức Cường (cựu bộ trưởng thương mại kỹ nghệ), Phạm Kim Ngọc
(cựu bộ trưởng kinh tế), và Cao Văn Thân (cựu bộ trưởng nông nghiệp và cải cách
ruộng đất) thay phiên nhau trình bầy kinh nghiệm xây dựng hệ thống ngân hàng,
tiền tệ còn phôi thai và chịu
ảnh hưởng nặng nề của thời Pháp thuộc, cùng công cuộc phát triển kinh tế quốc
gia, và đặc biệt là chương trình cải cách ruộng đất khá thành công thời đệ nhị
Cộng hòa, qua chương trình Người Cầy Có Ruộng áp dụng vào năm 1970 nhằm mua lại
đất ruộng của các đại điền chủ, phân phát và sang tên cho nông dân.
Chương 5-7 bàn về chính trị và an ninh, qua
đó, cựu phát ngôn viên chính phủ Hoàng Đức Nhã chia sẻ kinh nghiệm tham dự các
cuộc điều đình đã dẫn tới Hiệp định Paris 1973; ông Trần Minh Công, cựu đại tá
giám đốc tổng nha cảnh sát, bàn về những thách thức trong việc gìn
giữ an ninh trong bối cảnh cuộc chiến tranh du kích; và ông Bùi Quyền, cựu
trung tá quân lực VNCH, tâm sự về những
suy nghiệm trong vai trò người lính tiền tuyến, và chia sẻ phẩm định của ông về
quân đội cộng hòa, và kinh nghiệm làm việc với các cố vấn quân sự Mỹ.
Lãnh vực nào cũng đầy thông tin quan trọng và
hữu ích cho một công cuộc tái xây dựng một Việt Nam nhân bản, khai phóng và tiến
bộ trong tương lai, song một trong các lãnh vực lôi cuốn tôi nhất là giáo dục vì đó chính là nền tảng
cho sự phát triển vững bền và lâu dài. Trong hai chương 8 và 9, hai nhà giáo dục Nguyễn Hữu
Phước và Võ Kim Sơn thay phiên nhau trình bầy về nền giáo dục của VNCH dựa trên
nền tảng nhân bản, dân tộc và khai phóng – tôi không khỏi hình dung tới chiếc
kiềng ba chân vững vàng trong bếp của người Việt xưa. Miền Nam đã nhận được sự
tiếp tay của nhiều trường đại học tại Mỹ, trong đó có Đại học Tiểu bang
Michigan giúp tái tổ chức và điều hành các hệ thống công lập; Đại học Nam Tiểu
bang Illinois giúp huấn luyện các giáo viên tiểu học; Đại học Ohio trong việc
thiết lập hệ thống Trung học Tổng hợp; và Đại học Wisconsin/Stevens Points tiếp
tay khai triển hệ thống giáo dục cao cấp.
Kết quả là
sau 20 năm xây dựng đất nước,
VNCH đã thiết lập và phát triển được nhiều cơ sở giáo dục như các trường trung
học tổng hợp, hệ thống đại học cộng đồng, hệ thống trắc nghiệm và thẩm định, và
các đại học huấn luyện giáo chức. Trừ vô số các trường do tư nhân đứng ra thiết
lập khắp nơi ở Miền Nam, còn tất cả các trường công, từ tiểu học tới đại học,
hoàn toàn miễn phí. Gần đây trên Internet, tôi thấy xuất hiện những bài viết rất cảm động nói lên niềm tiếc nuối
đối với hệ thống giáo dục của Miền Nam. Điển hình là bài khá dài và chi tiết, tựa
là “Nhìn lại nền Giáo dục
VNCH: Sự tiếc nuối vô bờ bến,” về hệ thống giáo dục của Miền Nam.(**) Nhiều người trẻ trong nước cũng
đã bầy tỏ niềm nuối tiếc đã không được lớn lên trong môi trường đó.
Một cuốn sách dậy địa lý cho học sinh lớp ba, do Bộ Văn
hóa và Giáo dục ấn hành khoảng thời Đệ nhất Cộng hòa. Trái, bìa trước của sách;
giữa, hai trang trong của sách; và trái, bìa sau của sách, với hàng chữ: “Dân
chúng Hoa Kỳ hợp tác với Bộ Văn hóa và Giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa thân tặng
các Trường Sở tại Việt Nam,” và bên dưới: “Sách này tặng, không bán.”
Nhờ nền giáo dục phổ biến và phần lớn miễn
phí, số học sinh, sinh viên gia tăng, nhu cầu sách vở cũng nhờ vậy mà tăng
trưởng, tiếp tay đẩy mạnh các sinh hoạt văn hoá khác, trong đó có các ngành
thuộc văn học nghệ thuật và báo chí.
Trong các Chương 10-13, ba nhà báo Phạm Trần,
Vũ Thanh Thủy và cá nhân tôi, Trùng Dương, chia sẻ kinh nghiệm
của mình. Trong khi ông Phạm Trần thảo luận tổng quát về nền tảng pháp lý của
ngành truyền thông và sinh họat báo chí trong đó điểm nổi bật là đại đa số báo do tư nhân làm chủ và tự tài trợ, khác với trong chế độ
cộng sản; thì Trùng Dương kể về cuộc đấu tranh cho đệ tứ quyền, đó là quyền tự do báo
chí và quyền kiểm điểm việc làm của chính quyền - điều không thể xẩy ra trong một
xã hội cộng sản. Đặc biệt là cựu phóng
viên chiến trường Vũ Thanh Thủy chia sẻ kinh nghiệm tường thuật từ tuyến đầu độc
đáo của mình, đồng thời phơi bầy sự thiếu sót và không chuyên nghiệp của các ký
giả ngoại quốc mà chị gặp trong khi hành sự, song chính họ lại là những người có ảnh hưởng lớn tới dư luận của quần
chúng Mỹ về cuộc chiến tại Việt Nam.
Trong Chương 14, nhà văn Nhã Ca, tác giả “Giải
khăn sô cho Huế” và nhiều cuốn tiểu thuyết khác, mô tả linh động cảnh trăm hoa
đua nở rực rỡ chưa từng
có trong lịch sử văn học Việt Nam – sự rực
rỡ đã bị cộng sản bóp chết khi họ chiếm được Miền Nam, như họ đã làm với phong
trào Nhân Văn Giai Phẩm vào giữa thập
niên 1950. Nữ diễn viên Kiều Chinh, một khuôn mặt quen thuộc của ngành điện ảnh
không chỉ ở Miền Nam mà còn tại thủ đô điện ảnh Hollywood, đưa người đọc duyệt
qua sự phát triển đầy hứng khởi của ngành điện
ảnh của Miền Nam ở Chương 15.
Và cuối cùng, kết thúc tập “Kinh nghiệm kiến
quốc,” trong Chương 16 và 17, là cái nhìn của hai người trẻ, Nu-Anh Tran thuộc Đại học Connecticut và Tuan
Hoang thuộc Đại học Pepperdine, về sự cần thiết lên tiếng của các vị lớn tuổi trong cộng đồng
Việt đã sống qua thời cộng hòa để
đóng góp vào kho ký ức lịch sử Hoa Kỳ.
Cuộc chiến tại Việt Nam hiển nhiên “không chỉ
là cuộc chiến ủy nhiệm,” các chủ biên tuyển tập kết
luận.
“Cuộc tranh chấp cộng sản/cộng hòa tại Việt Nam
không thể hóa giải này đã tồn tại ngay cả trước
khi quân đội Mỹ vào tham chiến, và nó tồn tại tới ngay cả bây giờ trong cộng đồng
Việt trên khắp thế giới. […] Với nguồn gốc lịch sử và ý thức hệ sâu xa của cuộc
nội chiến tại Việt Nam, bên cạnh vai trò quan trọng của Miền Nam trong việc khuôn đúc nên kết quả, ta
không thể tiếp tục tảng lờ mà không kể tới ảnh hưởng của di sản cộng hòa trên
nguồn gốc và hậu quả của cuộc chiến.”
Khi tôi điểm tập sách này trong cảnh cấm
phòng tại gia vì đại dịch Covid-19,con vi trùng vô hình song tàn độc đang tàn
phá khắp thế giới, biến nước Mỹ từ một quốc gia giầu mạnh nhất thế giới - nơi mọi quốc gia lớn bé vốn vẫn trông vào để tìm sự lãnh đạo đưa nhân loại qua các cơn khủng hoảng
trong quá khứ - đã và đang trở thành
trung tâm dịch bệnh, không cả có đủ những vật liệu tầm thường như khẩu trang, đồ
bảo hộ giúp giữ các bác sĩ, y tá và các nhân viên liên hệ an toàn trong công tác cứu giúp bệnh nhân. Con số ca nhiễm bệnh và tử vong tại Mỹ đã vượt
qua mọi quốc gia khác trên thế giới trong vòng có vài tuần lễ. Không ai còn dám
trông chờ vào nước Mỹ nữa. Hiện tượng này lại càng
khiến tôi thấy thiết tha nhớ về một dĩ
vãng không còn. Dù vậy, tôi vẫn tin tưởng nếu ta sống sót qua cơn khủng hoảng,
di sản của quá khứ chắc chắn phải sẽ giúp ta xây dựng một tương lai bền vững hơn, nếu ta biết học hỏi từ kinh nghiệm.
Tuyển tập “Kinh nghiệm kiến quốc” hiện chỉ mới
có bản Anh ngữ, có bán tại Amazon.com và tại Web site của Cornell University
Press tại cornellpress.cornell.edu, giá
$24.95. Được biết ấn bản Việt ngữ sẽ ra mắt vào mùa thu năm nay.
[TD2020/04]
Chú thích:
(*) Xem bài tường thuật “UC Berkeley Nhìn Lại 20 Năm VNCH
Xây Dựng Quốc Gia Trong Thời Chiến, ” kỳ 1 tại https://damau.org/44777/uc-berkeley-nhin-lai-20-nam-vnch-xay-dung-quoc-gia-trong-thoi-chien-ky-12,
và kỳ 2 tại https://damau.org/44805/uc-berkeley-nhin-lai-20-nam-vnch-xay-dung-quoc-gia-trong-thoi-chien-ky-22
(**)
Huỳnh Minh Tú, “Nhìn lại nền Giáo dục VNCH: Sự tiếc nuối vô bờ bến,” https://tuxtini.com/2013/12/01/nhin-lai-nen-giao-duc-vnch-su-tiec-nuoi-vo-bo-ben/ [TD2020/04]