Tuesday, February 1, 2022

Xuân Tình Trong Đường Thi / Trần Doãn Nho

 


Trường hu giải la đái

Khiếp kiến thượng không sàng

(Hàn Ốc)


 Nhà Đường vốn là đỉnh cao trong thi ca Trung Quốc. Phong cách rất đa dạng, trường phái thì nhiều, nội dung đề tài rất rộng rãi so với bất cứ thời kỳ nào trước đó. Thi nhân mặc tình chọn lựa phong cách, trường phái, đề tài để sáng tác. Đề tài gồm đủ loại: Ứng chế, Tống biệt, Cung oán, Biên tái, Điền viên, Sơn thủy, Hành lữ, Ký tặng, Hoài cổ, Vịnh vật. Thậm chí, ta còn tìm thấy nhiều bài có khuynh hướng hiện thực xã hội, mô tả cuộc sống khổ cực của nhân dân cũng như châm biếm cảnh quan trường hắc ám, phè phỡn. Số thơ hiện còn lưu giữ rất nhiều: 48.000 bài của hơn 2.300 thi sĩ.[1]

             Điều đáng nói là với một số lượng thơ và thi nhân như thế, thơ Đường lại hầu như rất nghèo nàn về thể loại thơ mô tả cụ thể mối quan hệ trai gái, mô tả cái thú vị trong cuộc sống lứa đôi. Hay nói như kiểu chúng ta hôm nay, Đường Thi rất nghèo nàn về thơ tình. Hẳn nhiên, cũng có một số thơ khai thác đề tài tình ái như Cung oán, Biên muộn, Khuê từCũng có thể tạm gọi là thơ tình đấy, nhưng đáng tiếc là, ngôn ngữ thì dè dặt, kín đáo, hình ảnh thì sơ sài và thường đi chệch qua những đề tài khác. Trong số lượng thơ dồi dào của một số thi hào, thi bá thời đó như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy, ta hầu như khó có thể tìm thấy một bài thơ tình đúng nghĩa. Ngay cả một đầu đề mang dáng vẻ thơ tình cũng ít oi, huống hồ gì mô tả một cách cụ thể hơn quan hệ lứa đôi. Một vài bài của Trương Bí, Triệu Hổ có đề cập đến tình ái thì cũng một cách chung chung, đơn sơ, trừu tượng, phác vài nét sơ sơ về nỗi nhớ nhung, mến mộ – thường thì có tính cách tượng trưng hơn là đi sâu vào tình cảm thực sự. Cũng phải kể thêm vào đó một số bài gọi là “tặng nội” (tặng vợ), nhưng tiếc thay, lại chỉ nói lên cái nghĩa phu thê, ca ngợi công lao “thờ chồng nuôi con” của người vợ, hơn là tình vợ chồng.

Thử đọc một bài thơ có tựa đề rất là “thơ tình” sau đây: “Oán tình” của Lý Bạch: 

Mỹ nhân quyển châu liêm

Thâm tọa tần nga mi

Đản kiến lệ ngân thấp

Bất tri tâm hận thùy 

Tản Đà dịch: 

Người xinh cuốn bức rèm châu

Ngồi im thăm thẳm nhăn chau đôi mày

Chỉ hay giọt lệ vơi đầy

Đố ai biết được lòng này giận ai.

            Kể ra, trong cái không khí thi ca đầy cả phong, hoa, tuyết, nguyệt rồi những hoàng hạc lâu, thuyết khách, phong kiều dạ bạc, thì làm một bài thơ thuần tả tình như thế cũng đã là can đảm. Bài thơ nói lên nỗi giận hờn của một người con gái đối với tình nhân. Và chỉ thế thôi. Hình ảnh duy nhất, đầy tính cách tượng trưng là giọt lệ. Ngoài ra, không có gì khác. 

Một bài khác của Vương Xương Linh, “Khuê oán

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu

Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu

Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc

Hối giao phu tế mịch phong hầu 

Tản Đà dịch: 

Trẻ trung nàng biết đâu sầu

Buồng xuân trang điểm lên lầu ngắm gương

Nhác trông vẻ liễu bên đường

“Phong hầu” nghĩ dại xui chàng kiếm chi

            Tuởng là nàng nhớ chàng, hóa ra nàng giận mình. Rốt cuộc, bài thơ chỉ nói đến sự tiếc rẻ thời xuân sắc của con người trước thời gian qua mau. 

Cũng nàng nhớ chàng, nhưng Lý Bạch đi xa hơn, tình hơn, cụ thể hơn đôi chút, trong “Xuân tứ”:

(…) Đương quân hoài quy nhật

Thị thiếp đoạn truờng thì

Xuân phong bất tương thức

Hà sự nhập la vi          

Tản Đà dịch: 

Lòng em đau đớn muôn phần

Phải chăng là lúc phu quân nhớ nhà

Gió xuân quen biết chi mà

Cớ chi lọt bức màn là tới ai?

            Chàng và nàng trong hai bài thơ trên đây là hai vợ chồng. Còn chàng và nàng là cặp tình nhân, ta thấy trong “Thái liên khúc” (khúc hát hái sen), cũng của Lý Bạch, đề cập đến một cô gái hái sen và một chàng trai qua đường. Hai câu cuối như sau: 

Tử lưu tê nhập lạc hoa khứ

Kiến thử trù trì không đoạn trường

(Ngựa kêu lần bước hoa rơi

Đoái trông ai đó, ngậm ngùi tiếc thương) 

Thế cũng đã tình, đã “thoát” lắm rồi!

Sao mà thi nhân đời xưa sợ thơ tình lắm thế!?

Hỏi là hỏi cho vui thế thôi. Chung quy là nhà thơ, cũng như bao con người bình thường khác, không thể sống vượt ngoài thời đại của mình.  Thi nhân, dù có mộng mơ, có khinh thế ngạo vật, thì cũng là nho gia. Mà đối với nho gia thì tình ái không nên đưa vào văn chương, chữ nghĩa. Đó là vùng đất cấm. Nếu có ai làm một bài thơ tình, thì bị người đời xem đó là một thứ ti tiện, không thèm lưu ý đến. Một vị minh chủ trên thi đàn đời nhà Thanh nhận xét: “Bậc vương giả bàn đến phong tục dân gian, nghiên cứu chuyện được mất, chứ chẳng nên nói đến tình ái.” Tư tưởng này ảnh hưởng mạnh mẽ đến thi nhân của cả  Sơ Đường, Thịnh Đường lẫn Trung Đường.

Đến thời Vãn Đường, ảnh hưởng này giảm bớt. Những thi nhân nổi tiếng của giai đoạn này đều có làm thơ tình như Lý Thương Ẩn, Ôn Đình Quân, Vi Trang. “Tình yêu quán triệt trong tất cả các bài thơ vô đề và một số bài thơ khác của Lý Thương Ẩn. Ông chủ yếu là một nhà thơ trữ tình.[2] Trong thơ của họ, ta đã thấy khuynh hướng thiên về tình yêu nam nữ, hoa cỏ khuê phòng, nhưng thi phong đa phần theo lối “tiểu nhã”, nội dung chủ yếu cũng dựa theo thi giáo của nho gia, nghĩa là dè dặt, kín đáo, tượng trưng. 

Và đặc biệt nhất, chỉ có một thi nhân vượt hẳn khỏi vòng kiềm tỏa của khuôn sáo cũ, mở một lối đi cho riêng mình, với một cách làm thơ mới lạ, táo bạo. Đó là Hàn Ốc (hay Hàn Ác). Ông sống cùng thời với các thi nhân trứ danh thời Vãn Đường như Lý Thương Ẩn, Ôn Đình Quân…Trừ những nhà nghiên cứu ra, những người hâm mộ thơ Đường chẳng mấy ai biết đến ông. Trong tập “Đường Thi Tam Bách Thủ” (300 bài thơ Đường nổi tiếng), ông được xếp vào những khuôn mặt lớn của thời Vãn Đường. Ở đây, chúng tôi muốn đề cập đến ông như một thi nhân của tình yêu, hay nói đúng hơn, một thi nhân của tình dục.

 

                                                                        *

 

Hàn Ốc hay Hàn Ác (韓偓)[3] sinh vào khoảng năm 844 và mất vào khoảng năm 923. Ông tự là Trí Nghiêu, hoặc Trí Quang, tiểu tự Đông Lang, người quê ở Kinh Triệu, Vạn Niên, nay thuộc ngoại ô thị trấn Tây An, tỉnh Thiểm Tây. Lúc mới lên mười, có lần giữa chỗ khách khứa đông đúc, ông làm ngay một bài thơ tiễn khách, khiến mọi người có mặt đều kinh hãi. Do đó mà về sau, Lý Thương Ẩn tặng ông một bài thơ, trong đó có hai câu:
           Thập tuế tài thi tẩu mã thành

Sồ phụng thanh ư lão phụng thanh

(Mười tuổi làm thơ nhanh hơn ngựa

Chim phụng non rành rõi hơn chim phụng già)

Ông viết Hàn Lâm Tập (một cuốn) và Hương Liễm Tập (ba cuốn). Về sau Toàn Đường Thi hợp hai tập thành bốn cuốn. Do ở chỗ trong Hương Liễm Tập của ông, đa phần mô tả chuyện trai gái nhớ nhung, tương tư, thậm chí mô tả chuyện ái ân, lại thêm cảnh phấn son lụa là trong chốn phòng the, nên đời sau gọi thi tập của ông là Hương Liễm Thể hay Diễm Thể.

 Trước hết, đối tượng làm thơ của ông là người phụ nữ. Thi ca Trung Quốc từ Hàn Ốc trở về trước chẳng bao giờ tả chính diện người phụ nữ. Trong “Mạch thượng tang”, Tần La Phu chỉ tả phần bên và cũng là hư tả, không cho ta cảm nhận được hết vẻ đẹp mỹ miều, sống động của người đẹp. Bài “Thạc nhân” trong thiên Vệ Phong của Kinh Thi tập trung mô tả diện mạo và da dẻ bên ngoài; nếu có đi xa hơn đôi chút, thì tả đôi tay và cổ. Hàn Ốc mô tả cụ thể hơn:
            Uyển bạch bì hồng ngọc manh nha

Điệu cầm trừu tuyến lộ tiêm tà

Bối nhân tế nhiên thùy yên tấn

Hướng kính khinh quân sấn kiểm hà.

(Tay trắng, da hồng như búp măng

Sửa đàn, gảy dây để lộ ngón tay thon nhọn

Quay người lấy tay xoắn tóc rủ xuống cổ

Trước kính, trang điểm mặt diễm kiều)

            Ông đã nhìn từ nhiều phía khác nhau để tả phần da thịt nõn nà, mềm mại. Tả cái cổ, ông viết:

            Tấn thừa hương cảnh vân già ngẫu

(Tóc buông xuống cổ tụ lại như mây che cái ngó sen)

Tả bộ ngực, ông viết:

Phấn trứ lan hung tuyết áp mai

(Phấn thoa lên ngực như tuyết áp trên hoa mai)

            Trong bài “Vịnh dục” (Vịnh cảnh tắm), ông mô tả cụ thể khung cảnh và tâm lý của người phụ nữ trong cung cấm: 

Tái chỉnh ngư tê long thúy trâm

Giải y tiên giác băng sâm sâm

Giáo di lan chúc tần tu ảnh

Tự thí hương thang cánh phạt thâm

Sơ tựa tẩy hoa nan ức án

Chung ưu ốc tuyết bất thắng nhâm

Khởi tri thị nữ liêm huy ngoại

Thừa thủ quân vương kỷ bính kim.

            (Sửa soạn bới tóc lại cho đàng hoàng

Mới cởi áo cảm thấy hơi lạnh

Dặn bưng đèn đi vì thẹn

Tự thử xem nước tắm vừa chưa

Lúc đầu kỳ cọ nhẹ nhàng

Sau tắm gội thỏa thích

Chẳng biết người hầu đứng ngoài kia

Có chịu khó nài nỉ vua vào ngủ không)

            Bài trên đây, có thuyết cho rằng ông tả cảnh Dương Quý Phi đang tắm. 

Điều đáng lưu ý là, thông qua việc miêu tả thân thể, và các sinh hoạt thường ngày, ông nêu bật được những nét tâm lý đặc thù của người phụ nữ trong một hoàn cảnh đặc thù. Xem thêm bài “Trú tẩm” (Ngủ ngày) sau đây: 

Phác phấn canh thiêm hương thể hoạt

Giải y duy kiến hạ thường hồng

Phiền khâm sạ xúc băng hồ lãnh

Quyện chẫm từ y bảo kế tông.

            (Đánh phấn thêm cho thân thể thơm mát

Cởi áo mới thấy quần màu hồng ở dưới

Chạm phải chiếc mền, thấy lạnh như băng

Mệt mỏi tựa búi tóc vào gối)

            Ta dễ dàng nhận thấy nhân tố tạo thành hành vi, thái độ của người đàn bà ở đây là do tình cảnh cô đơn, buồn bã trong chốn cung cấm. Và rõ ràng hơn nữa, là do tình cảnh đau khổ và ức chế về tình dục. Hàn Ốc chẳng đề cập đến nỗi buồn, đến giọt lệ, mà chỉ mô tả cử chỉ, thái độ. Cái bên ngoài chứa đựng cái bên trong. Trong phòng riêng, người đàn bà tắm rửa, trang điểm và… đợi chờ. Nhưng chờ hoài, chờ mãi…chẳng thấy ai. Chỉ có lạnh và cô đơn.

            Nhiều bài thơ của Hàn Ốc phản ảnh tình ảnh nhớ nhung, sầu não, sự vắng lặng, khổ đau và nhất là sự ức chế tình cảm (cũng như tình dục) triền miên của người đàn bà. Các bài như Ngũ canh (Năm canh), Khuê tìnhÁp hoa lạc (Ép hoa rụng), Trù trướng (Buồn bã), Kế tông (Bới tóc), Ý tự (Mối sầu) đều tả hoạt động tâm lý của phụ nữ. Lý Bạch, Vương Xương Linh, Lưu Phương Bình, Trương Trọng Tố, Trần Đào, người nào cũng đều có một ít bài về khuê tình, khuê tư, khuê oán đề cập đến tâm trạng đau khổ, phiền muộn, nhưng về tính cách cụ thể và táo bạo thì không sánh bằng Hàn Ốc. Bài Xuân khuê” chẳng hạn:  

   




Nhân uân trướng lý hương,
Bạc bạc thuỵ thời trang.
Trường hu giải la đới,
Khiếp kiến thượng không sàng.

            (Trong màn hương thoảng thoảng dễ chịu

Ăn mặc sơ sài để ngủ

Cởi thắt lưng quần, than dài một tiếng

Vì thấy cái giường không mà kinh hãi)

Một câu ngắn, gọn và đơn giản như “Trường hu giải la đái” không cách chi xuất hiện ở thi ca khuê tình thời Sơ Đường, Thịnh Đường và Trung Đường. Phải đợi đến Vãn Đường, đặc biệt, phải là ở Hàn Ốc và chỉ Hàn Ốc, người yêu thơ mới tìm thấy. Phải nói ngay, đó là sự phát huy thi ca khuê tình đời Đường đến một mức độ táo bạo không ngờ. Người trước chỉ hư tả, người sau thực tả. Người trước súc thủ (co tay), e dè, người sau phóng thủ (phóng tay), phóng túng. Nói cho đúng, phải thừa nhận thi ca trước Hàn Ốc cũng có đề cập đến sự ức chế, sầu khổ, nhưng phản ảnh tính manh động, khao khát thì hầu như không có. Ở Hàn Ốc, những bài thơ như thế rất nhiều:

-     Bách Thiệt não triêu miên

      Xuân tâm động cơ bàn

                  (Chim Bách thiệt phá giấc ngủ sáng

      Khiến động lòng xuân)

 

-       Kiều nhiên ý thái bất thắng tu
Nguyện ký lang biên vĩnh tương trứ
(Ý nũng nịu vô cùng xấu hổ
Muốn kề vai chàng mãi mãi không thôi)

 

Đến đây, tính cách của Hàn Ốc trong Hương Liễm Thể hiện ra rất rõ: tình trai gái ở đây chứa đầy chất tính dục. Nó không chỉ là nhớ nhung, mơ mộng, sầu thương…vớ vẩn mà chứa đựng một đòi hỏi, một khát khao mãnh liệt hướng về người khác phái. Có phải đây là những phụ nữ bệnh hoạn không? Có thể. Lý do thật dễ hiểu: do những quy định quá khắc nghiệt của lễ giáo nho gia, số phận của người phụ nữ dưới thời phong kiến rất đỗi tội nghiệp. Họ không được quyền yêu và bị cư xử như những người nô lệ cho vua chúa, và cho những người giàu sang quyền quý. Nói rộng hơn, họ được đàn ông xử dụng như những dụng cụ. Hết thê đến thiếp, hết thiếp một đến thiếp hai, thiếp ba và thậm chí đến thiếp bảy. Đàn ông có quyền thay thê đổi thiếp, sang nhượng đàn bà như những vật đổi chác, mua bán. Đã thế, nhu cầu sinh lý bình thường cũng không có điều kiện thỏa mãn. Họ bị giam cầm trong chờ đợi, không được than van, đòi hỏi. Tình trạng sinh lý và tâm lý bị ức chế đến mức tột cùng. 

Bài “Ngẫu kiến bối diện, thị tịch kiêm mộng” (Vô tình thấy phía sau mà đêm về mộng tưởng) là một bài tiêu biểu cho trạng thái bị ức chế đó:

            Tô ngưng bối giáp ngọc tha kiên

Khinh bạc hồng tiêu phúc bạch liên

Thử dạ phân minh lại nhập mộng

Đương thì trù trướng bất thành miên 

Nhãn ba hướng ngã vô đoan diễm

Tâm hoả nhân quân đặc địa nhiên

Mạc đạo nhập sinh nan tế hội

Tần lâu loan phụng hữu thần tiên 

(Lưng mịn màng trắng trẻo, vai tựa ngọc

Lụa hồng mỏng mảnh che thân trắng như sen

Đêm nay rõ ràng người đẹp nhập mộng

Còn bây giờ buồn bã không ngủ được 

Sóng mắt nhìn đẹp vô cùng

Khiến cho lòng ai phải thèm khát

Chẳng biết có cách gì gần gũi

Để được ân ái cùng nhau)

Thật là hiện thực! Người phụ nữ ở đây, hẳn là phải quá cô đơn trong phòng the, gặp người đàn ông là sóng mắt phát ra mạnh mẽ, rực sáng khát khao, khiến người khác phái dục vọng trong lòng nổi lên thiêu đốt, đêm về mơ mộng, không ngủ được.

            Do ảnh hưởng của quan niệm về thi giáo phong kiến chính thống, cho nên chỉ trừ ở một số dân ca, người ta sử dụng thứ ngôn ngữ bình dân để diễn tả sự khoan khoái, sung sướng trong quan hệ tình ái nam nữ, còn thì thi nhân, vốn là những nhà nho, chẳng ai dám cầm bút làm thơ về chuyện ái ân. Hàn Ốc, bất chấp thi giáo, dám làm trái lễ nghĩa phong kiến, mô tả một cách trần trụi quan hệ nam nữ trong thơ. Nếu “Ngẫu kiến bối diện, thị tịch kiêm mộng” chỉ đề cập lúc gặp gỡ, thì “Ngũ canh” đi thẳng vào cảnh ái ân:

 

              








Vãng niên tằng ước uất kim sàng,
Bán dạ tiềm thân nhập động phòng.
Hoài lý bất tri kim điền lạc,
Ám trung duy giác tú hài hương.
Thử thời dục biệt hồn câu đoạn,
Tự hậu tương phùng nhãn cánh cuồng.
Quan cảnh toàn tiêu trù trướng tại,
Nhân sinh doanh đắc thị thê lương.

(Năm xưa từng hẹn trên giường Úc Kim

Nửa đêm lén đến động phòng

Trong lúc ôm nhau chẳng biết trâm rơi đâu mất

Ở trong bóng tối chỉ cảm thấy mùi đôi hài thêu

Lúc đó, muốn rời nhau nhưng hồn rã rời

Từ đấy hễ gặp nhau là nhìn nhau điên cuồng

Cảnh ấy giờ đấy chẳng còn nữa

Chỉ còn nỗi buồn suốt đời)

Một bài thơ Đường như thế, được viết cách đây cả trên nghìn năm, thì quả thật bất ngờ, đọc xong, chỉ biết ngậm mà nghe! Hình ảnh mà bài thơ mô tả cụ thể, táo bạo nhưng không kém phần thi vị. Không biết liệu bạn có thâm cảm được hết cái ý vị của cảnh “bất tri kim điền lạc” và “duy giác tú hài hương” không? Ái ân vụng trộm có cái gì vừa khôi hài vừa tội nghiệp. Tác giả phải đã từng sống qua mới có thể có được những hình ảnh sống động, graphic,  như thế. Nó vừa thực vừa thơ.

Để có một chút so sánh, thử đọc một đoạn thơ thuộc loại mới nhất, hiện đại nhất của một nhà thơ nữ thời nay:[4]   

Năm mười bảy tuổi

Trong đêm đen

Lần đầu tiên

Khám phá ra thân thể kỳ lạ của người đàn ông

Sau nụ cười; giọt nước mắt dâng hiến

Là khoảng cách

Hun hút dài

Thăm thẳm dài

Chập chùng dài

Ơi! Em lạc mất em     

           

Trở lại với Hàn Ốc. 

Hương Liễm Thể của ông – như chúng ta vừa đọc qua một số bài tiêu biểu – với những lời thơ đầy màu sắc, hình ảnh dồi dào, đầy chất đường thi nhưng vì đa phần mô tả đồ trang sức của phụ nữ, có khi tả đến những vật được xem là bẩn thỉu khác nữa và nội dung thì toàn chuyện tình ái nam nữ, nên văn nhân đời sau thường tỏ ra khinh thị, dè bỉu, phần nhiều cho là dâm từ. Phương Hồi nhà Nguyên lên án Hàn Ốc là “hối dâm chi ngôn” (bày cho người ta làm điều dâm loạn). Trầm Đức Tiềm nhà Thanh nghiêm khắc phê bình Hương Liễm Thể là “khứ nhân phong viễn” (chỉ khiến cho con người bỏ đi những tập quán tốt đẹp).

            Nhưng những nhà nghiên cứu Đường thi hiện đại đánh giá Hàn Ốc từ một nhãn quan khác. Tôn Cầm An nêu lên mấy nhận xét như sau: 

-       Thi ca đời Đường, tuy có vượt qua được ngôn ngữ cung đình, nhưng diễn tả tình ái nam nữ thì quá hiếm hoi. Nếu không có Hương Liễm Thể bổ khuyết vào thì quả là một điều vô cùng thiếu sót.

-       Quan hệ tình ái nam nữ là chuyện thông thường, một nhu cầu phổ biến trong sinh hoạt con người, nên đã được diễn tả rất nhiều trong dân ca. Còn thi nhân thì chẳng ai dám viết. Chỉ có Hàn Ốc cam đảm chọn lựa đề tài này thì quả là điều đáng trân trọng.

-       Quan niệm thi giáo phong kiến do Khổng Tử đề ra được văn nhân thi sĩ mọi thời xem như một tín điều, một tiêu chuẩn để định giá một bài thơ. Hợp thì cho là cao, không hợp thì cho là thấp. Chuyện quan hệ nam nữ hoàn toàn bị cấm chỉ. Ngay cả những đại thi nhân như Lý Bạch, Đỗ Phủ cũng chẳng dám sai phạm. Do đó mà các sáng tác của Hàn Ốc mang tính cách đả phá sự trói buộc, câu thúc tinh thần thi nhân và chứa đựng khuynh hướng chống phong kiến.

            Từ Vãn Đường, Ngũ Đại trở về sau, từ ngữ thường thiên về tả tình ái nam nữ, hoa cỏ khuê phòng. Để diễn tả cho được hết các hình ảnh, ý tứ trong sinh hoạt tình yêu, tính dục, họ không có cách nào khác hơn là phải sáng tạo thêm từ, thêm ý – và do đó, góp phần đẩy mạnh sự phát triển về từ. Thơ của Lý Thương Ẩn, Ôn Đình Quân, Vi Trang cố nhiên đóng một vai trò rất lớn trong việc phát triển đó. Còn Hàn Ốc, với Hương Liễm Thể do đi sâu vào chi tiết, táo bạo trong cách diễn đạt, về thân phận so với Ôn Lý là nhỏ, nhưng sự đóng góp có phần trực tiếp hơn.

            Hàn Ốc rõ ràng là một khuôn mặt độc đáo của Đường Thi. Sỡ dĩ ông không được thi nhân đời sau đề cập nhiều chỉ vì ông đi ngược lại hẳn và vượt qua, không những chỉ thời đại mình, mà còn cả những thời đại về sau. Trên văn đàn chính thống, người ta tránh nói đến Hàn Ốc, có lẽ vì sợ mất tác phong đứng đắn của nhà nho, nhưng trong thực tế, Hương Liễm Thể vẫn được cẩn trọng lưu giữ và âm thầm truyền tụng. Điều đó cho thấy thơ Hàn Ốc đâu có thiếu chất đường thi. Tài hoa của ông nằm ở chỗ, ông đã vận dụng từ ngữ một cách tài tình để đột phá vào một lãnh vực được xem như rất khó khó đưa vào, đó chính là văn chương, nhất là thi ca. Loại thơ này đòi hỏi thi nhân phải vừa nói được hết ý và cụ thể, lại vừa không tầm thường, dung tục. Hãy tưởng tượng sự ức chế vừa về tình yêu vừa về tình dục của người phụ nữ trong cung cấm được Hàn Ốc diễn tả bằng hình ảnh tổng hợp của tiếng kêu (than dài), cử chỉ (cởi thắt lưng) và cái nhìn (thấy cái giường trống) gói gọn trong chỉ hai câu thơ với mười chữ trong “Xuân khuê”:

            Trường hu giải la đái

Khiếp kiến thượng không sàng.

(Cởi thắt lưng quần, than dài một tiếng

Vì thấy cái giường không mà kinh hãi)

 

Hết chỗ chê! Tất nhiên, theo tôi.

 

(1994)

_______________________________

 

Ghi chú:

1.     Tài liệu về Hàn Ốc (韓偓) được lấy từ bài viết của Tôn Cầm An, đăng ở “Minh Báo Nguyệt San” (明報 月刊Hồng Kông, bản Hán văn, số tháng 8-1991. Phần dịch nghĩa tiếng Việt các bài thơ chữ Hán có sự giúp đỡ của hai người bạn học cũ là anh Vĩnh Cao (con cụ Bửu Kế) và anh Nguyễn Phố, giáo sư trường Nguyễn Huệ, Thành Nội, Huế. Hai anh hiện ở Huế,Việt Nam.

2.     Đọc thêm thơ Hàn Ốc ở Thi Viện (thivien.net):

https://www.thivien.net/H%C3%A0n-%E1%BB%90c/author-wyu82iSv-bH9msUkq5vWDQ


[1] Nam Trân,Thơ Đườngtạp chí Văn Học (California) số 90, tháng 10-1993

[2] Nam Trân, sđd, tr. 12

[3] Hàn Ốc hay Hàn Ác. Để tránh chữ “Ác”, nghe không thuận tai trong tiếng Việt, ta nói trại ra “Ốc”

[4] Lê Thị Thấm Vân, Bài học vỡ lòng, Hợp Lưu 13 tháng 10-1993, tr. 154

 Trần Doãn Nho