Phan Thanh Giản |
Khi Phan Thanh Giản quyên sinh năm 1867, Nguyễn Đình
Chiểu bị mù đã được 18 năm (từ 1849). Các tác phẩm bằng quốc âm của vị thầy mất
thị giác đã được các môn sinh của ông chép ra bằng chữ Nôm rồi về sau chuyển đổi
sang chữ quốc ngữ. Các tác phẩm bằng chữ Hán hẳn cũng được ghi ra chữ Hán, nhưng
sau một số lần sao đi chép lại, những chữ đồng âm nhưng khác nghĩa và những chữ
có âm gần giống nhau đã rơi vào tình trạng “tam sao thất bổn,” khiến chúng ta thấy
xuất hiện một số bản chữ Hán với cách viết và ý nghĩa khác nhau. Trước khi ông
Lê Thọ Xuân liên lạc được với người con của Nguyễn Đình Chiểu là ông Nguyễn
Đình Chiêm và cung cấp một bản thuộc loại “có thẩm quyền” cho bài thơ chữ Hán
năm 1933 (bài “Danh nhơn Nam Kỳ,” Đồng Nai số 23 & 24, 15 Janvier –
2 Février 1933), chúng ta đã thấy có bản chữ Hán do ông Nguyễn Liên Phong đưa
ra năm 1909 trong Nam Kỳ Phong Tục Nhơn Vật Diễn Ca (cuốn thứ 2, trang
71), và bản chữ Hán do ông Thái Hữu Võ đưa ra năm 1927 trong Phan Thanh Giảng
Truyện (Sài Gòn : Xưa Nay, trang 46-47). Nhưng ông Lê Thọ Xuân chỉ cho biết
là hai bài thơ do ông Thái Hữu Võ cung cấp có nhiều chỗ sai, và nêu ra những chỗ
sai ấy bằng chữ quốc ngữ, chứ không cung cấp một bản viết đầy đủ và chính xác
cho bài thơ chữ Hán. Những năm sau, bà Mai Huỳnh Hoa, cháu ngoại của bà Sương
Nguyệt Anh (con gái của Nguyễn Đình Chiểu) và chồng bà là học giả Phan Văn Hùm,
trong cuốn Nỗi Lòng Đồ Chiểu (bản in lần thứ hai, Sài Gòn : Tân Việt,
1957), cũng chỉ làm như thế, không cung cấp một bài thơ đầy đủ và chính xác ở dạng
chữ Hán.
(Muốn biết hai bản chữ Hán với khá nhiều sai lầm của
các ông Nguyễn Liên Phong và Thái Hữu Võ, xin vui lòng đọc trong cuốn Mối
Thâm Tình Của Nguyễn Đình Chiểu Dành Cho “Quan Phan” Phan Thanh Giản của
Winston Phan Đào Nguyên ([San Jose, Calif.] : Nhân Ảnh, 2022, các trang 55 và 61-62).
Tác giả đã đưa cuốn sách lên mạng tại địa chỉ sau
đây:
https://app.box.com/s/p7e3mgfty0l1asrqkewxuck6bwqw7rny
Theo ông Lê Thọ Xuân, với bài thơ chữ Hán của Nguyễn
Đình Chiểu, bản do ông Thái Hữu Võ đưa ra trong Phan Thanh Giảng Truyện sai
8 chữ, thêm sự kiện hai chữ “thần” với những nghĩa khác nhau (“thần linh”神 và “vị quan,
người bày tôi”臣)
bị đặt sai chỗ, khiến ý nghĩa khác đi rất nhiều. Coi lại bản chữ Hán của ông
Nguyễn Liên Phong, đối chiếu với bài viết của ông Lê Thọ Xuân, chúng tôi thấy
có 7 chữ sai. Hai chữ “thần” cũng bị chép không đúng chỗ như thế.
Khi phân tích bài thơ chữ Hán của Nguyễn Đình Chiểu,
một vài tác giả ở trong nước trong ít năm gần đây đã dựa vào những bản bị chép
sai ấy, đưa tới một số ngộ nhận rất đáng tiếc.
Mãi tới 15 năm trước đây, nhân được đọc một tài liệu
Hán Nôm chép tay của gia đình Nguyễn Đình ở Bến Tre do bà Âu Dương Thị Yến cất
giữ, nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh mới cung cấp cho chúng ta một bài thơ chữ Hán thuộc
loại có thẩm quyền trong Việt Nam Bách Gia Thi (Sài Gòn : NXB Văn Hóa,
2005). Đối chiếu bài này vói bài thơ chữ Hán chỉ có âm Hán Việt do học giả Phan
Văn Hùm cung cấp sau khi tham khảo với ông Nguyễn Đình Chiêm, chúng tôi thấy
hai bản gần như giống hệt nhau. Chỉ có hai chỗ khác trong câu 2, nhưng ý nghĩa
không thay đổi nhiều:
Bản
của ông Phan Văn Hùm: Vi quân nan bảo nhất phương dân
Bản
của ông Cao Tự Thanh: Vi công thùy
bảo nhất phương dân.
Trước những tranh luận sôi nổi về ý nghĩa của bài thơ mới được đưa ra gần đây, chúng
tôi xin đóng góp chút nhận thức thô thiển. Trước khi làm việc này, chúng tôi có
hoàn cảnh trao đổi thêm với hai vị có căn bản Hán học vững chắc ở ngoài nước,
là Tiến sĩ Nguyễn Duy Chính và cô Nguyễn Ngọc Dung.
Câu
1:
歷仕三朝獨潔身
Lịch sĩ tam triều
độc khiết thân
Câu này ý nghĩa
khá đơn giản: Làm quan trải ba triều vua (Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức), riêng mình
giữ được tấm thân trong sạch.
Câu 2:
微君難保一方民
Vi quân nan bảo nhất phương dân
Nếu không có ông, rất khó bảo vệ dân chúng một phương. Câu này
muốn nói tới dân chúng miền Nam. Phan Thanh Giản từng được cử làm Khâm sai,
Kinh lược sứ Nam kỳ, rồi về sau, Kinh lược sứ ba tỉnh miền Tây.
Chúng tôi đưa ra câu trên theo bản in trong Nỗi Lòng Đồ Chiểu
của Phan Văn Hùm. Trong Việt Nam Bách Gia Thi của Cao Tự Thanh, câu ấy
là:
微公谁保一方民
Vi công thùy bảo nhất phương dân.
Nếu không có ông, ai sẽ bảo vệ dân chúng một phương.
Tuy ý nghĩa không khác nhau bao nhiêu, chữ “công” (ông, tướng công) trong bản của
Cao Tự Thanh có vẻ thích hợp hơn. Phan Thanh Giản (sinh năm 1896) hơn Nguyễn
Đình Chiểu (sinh năm 1922) 26 tuổi. Phan Thanh Giản là vị “Tiến sĩ khai khoa”
cho miền Nam, một Hiệp biện Đại học sĩ, Khâm sai, Kinh lược đại thần, trong khi
Nguyễn Đình Chiểu mới đậu Tú tài và chưa làm quan. Thêm vào đó, Nguyễn Đình Chiểu
rất tôn trọng Phan Thanh Giản, vẫn thường nhắc đến ông qua các từ “Phan học sĩ,
quan Phan.”
Câu 3:
龍湖寧負書生老
Long Hồ ninh phụ thư
sinh lão
Long Hồ là tên cũ của tỉnh Vĩnh Long. Chữ “ninh” ở
đây có nghĩa là “thà rằng, đành,” như trong câu “Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục”
(đành chết chứ không chịu nhục). Một số vị dịch thơ trước đây cho rằng chữ “phụ”
trong câu này có nghĩa là “phụ lòng.” Chẳng hạn như trong bản dịch của nhà thơ
tiền bối Thượng Tân Thị (1888-1966):
Long Hồ phụ lão thư sinh,
Ở nơi các Phụng không đành làm quan
Hay trong bộ Nguyễn Đình Chiểu Toàn Tập do các ông Ca Văn
Thỉnh, Nguyễn Sĩ Lân, Nguyễn Thạch Giang biên soạn năm 1997 (Hà Nội : Văn Học,
tập 2, trang 51-52):
Long Hồ thà phụ thư sanh lão
Phụng các suông quy học sĩ thần.
Theo các tự điển,
chữ “phụ”負 ấy cũng có
nghĩa là “vác, mang, gánh,” dùng theo nghĩa bóng là “gánh vác.” Chúng tôi tin rằng
đó là ý của Nguyễn Đình Chiểu trong câu này. “Ninh phụ” có nghĩa: “đành phải ra
gánh vác.”
Theo Đại
Nam Thực Lục, sau khi ở Pháp về, Phan Thanh Giản được cử làm Lại bộ Thượng
thư nhưng sau vua Tự Đức đổi ông làm Hộ bộ Thượng thư vì cho rằng ở Lại bộ công
việc nhẹ. Ở Hộ bộ, phải lo ngân sách, tài chánh, kể cả khoản bồi thường chiến
phí hàng năm phải nộp cho người Pháp, công việc nặng, cần người giỏi và tận tâm
hơn. Sau đó, năm 1865, nhà vua cử ông làm Khâm sai, Kinh lược sứ, để lo giữ ba tỉnh
miền Tây Nam phần. Cũng theo Đại Nam Thực Lục, Phan Thanh Giản đã xin về
hưu (ông tới 70 tuổi theo cách tính của người Việt thời trước). Thực Lục
chép, “Phan Thanh Giản vì tuổi già đã xin về hưu”. Vua Tự Đức tiếp riêng ông
trong Nội các để trò chuyện. Phan Thanh Giản cho biết, “Thần … cảnh bóng dâu gần
xế chiều, tự biết tinh thần, sức vóc không còn được như trước. Hồi tưởng lại
người ta đến 70 tuổi như cỏ bồ cây liễu đã trải mùa thu, dẫu có lòng quyến luyến
thiết tha nhưng sức ngựa đã hết, rất lo ứng phó không chu để lầm lỡ công việc,
nên không dám không lấy tình thực trình bày.” Vua Tự Đức ủy lạo và nói, “Khanh
nên cố gắng để khích lệ những người hậu tiến,” rồi lại nói, “Ngươi nên mạnh bạo
mưu toan cho trót, quyết không nên thôi,” và không cho ông lui về. (Đại Nam
Thực Lục. Hà Nội : NXB Giáo Dục, 2007. Tập 7, trang 944). Vì những lẽ ấy, theo
chỗ chúng tôi hiểu, câu này có thể được viết với dấu ngắt câu:
Long Hồ ninh phụ, thư
sinh lão.
Chủ từ của động từ “phụ” (mang, gánh vác) không phải
là đất Long Hồ mà là người thư sinh già:
Người học trò già đành phải gánh
vác việc [giữ đất] Long Hồ (tên cũ của tỉnh Vĩnh Long).
Có thể Nguyễn
Đình Chiểu cũng muốn nói:
Long Hồ đành gánh vác, người thư sinh
đã già.
Câu 4:
鳳閣空歸學士神
Phượng Các
không quy học sĩ thần
Hồn người học
sĩ (chỉ Hiệp biện Đại học sĩ Phan Thanh Giản) không đành, không lòng nào trở về Phượng Các (chỗ các quan làm việc). Không
giữ nổi Vĩnh Long, ông đã bị truy đoạt hết chức tước, tên bị đục khỏi bia Tiến
sĩ, linh hồn ông còn danh nghĩa nào để bay về Phượng Các là chỗ làm việc của
các đại thần? Hai tiếng “không quy” không mang ý nghĩa “không về” (Nếu “không về,”
người xưa viết là “bất quy”). Ở đây là “về,” nhưng không thực sự về, về một
cách không trọn vẹn, “về cũng như không.” Những cách dịch “về suông” hay “khôn
về” (khó lòng về) đều có vẻ thích hợp.
Hai câu 5-6:
秉節曾勞生富弼
盡忠何恨死張巡
Bỉnh tiết tằng
lao, sinh Phú Bật
Tận trung hà hận,
tử Trương Tuần
Cầm cây cờ tiết
của người đi sứ (cũng có thể hiểu là giữ tiết tháo), từng chịu gian lao, sống
như ông Phú Bật (đời Tống).
Hết lòng trung,
còn hận gì nữa, chết như ông Trương Tuần (đời Đường).
Trong một bài
Đường luật bát cú, đây là hai câu “luận,” có nhiệm vụ bàn về nhân vật được nhắc
đến trong bài thơ (Phan Thanh Giản).
Câu trên nhắc đến
việc Phan Thanh Giản từng vất vả sang Pháp (cùng Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản),
cố chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam kỳ. Câu dưới nhắc đến việc Phan Thanh Giản
quyên sinh sau khi không giữ nổi Vĩnh Long.
Việc thi hành
nhiệm vụ của hai ông Phú Bật và Trương Tuần thực ra không hoàn hảo. Tuy Phú Bật
thuyết phục được người Khiết Đan rút quân, nhưng triều Tống phải tăng thêm số bạc
và lụa nộp cho họ hàng năm. Tuy Trương Tuần giữ thành Tuy Dương được thêm một
thời gian, nhưng những việc phải giết người thiếp yêu, rồi một số người già và
trẻ con làm lương thực cho binh sĩ, chung quy thành vẫn mất và Trương Tuần vẫn
chết, khiến thành tích không tốt đẹp một
cách trọn vẹn. Nhưng nhiều phần Nguyễn Đình Chiểu không chú trọng đến những chi
tiết ấy. Ông chỉ có ý nói: Phan Thanh Giản có thể so sánh với Phú Bật từng vất
vả khi đi sứ, và với Trương Tuần chết theo thành.
Hai câu 7-8:
有天六省存亡事
安得從容就義臣
Hữu thiên, lục
tỉnh tồn vong sự
An đắc thung
dung tựu nghĩa thần.
Nghĩa đen của
câu 7: Có Trời trong việc còn mất của 6 tỉnh. Câu này cũng có thể hiểu là: Chuyện
còn mất của 6 tỉnh đã có Trời biết, để đưa tới câu 8: Mong có được người bề tôi
biết thung dung tựu nghĩa (thung dung chết vì nghĩa).
“An đắc” có
nghĩa “mong sao có được” như trong một bài ca của Hán Cao tổ Lưu Bang,
“An đắc mãnh sĩ
hề, thủ tứ phương” (Mong sao có được những kẻ sĩ dũng mãnh để giữ bốn phương). Những
chữ “thung dung tựu nghĩa”được lấy từ một cặp câu đối tương truyền là để điếu
Lý Trần Quán, làm quan ở cuối đời Lê, sau khi ông tự tử (yêu cầu được chôn sống)
vì Nguyễn Trang, người mà ông nhờ hộ vệ chúa Trịnh Khải đã nộp chúa cho quân
Tây Sơn:
Khảng khái cần vương dị
Thung dung tựu nghĩa nan
(Khảng khái
giúp vua là chuyện dễ, thung dung chết vì nghĩa mới khó).
Bốn chữ “thung
dung tựu nghĩa” nói đến việc Phan Thanh Giản ung dung chọn cái chết sau khi
không giữ nổi Vĩnh Long.
Xin được chép lại
toàn thể bài thơ với lời giảng ra văn xuôi và một bản dịch thơ phía sau. Người
viết xin chân thành cảm tạ chị Mỹ Ngọc, một cựu đồng môn, đã tiếp tay trong bản
dịch thơ này:
歷仕三朝獨潔身
微君難保一方民
龍湖寧負書生老
鳳閣空歸學士神
秉節曾勞生富弼
盡忠何恨死張巡
有天六省存亡事
安得從容就義臣
Lịch sĩ tam triều
độc khiết thân
Vi quân nan
bảo nhất phương dân
Long Hồ ninh
phụ thư sinh lão
Phượng Các không quy học sĩ thần.
Bỉnh tiết tằng
lao, sinh Phú Bật
Tận trung hà
hận, tử Trương Tuần
Hữu thiên, lục
tỉnh tồn vong sự
An đắc thung
dung tựu nghĩa thần.
Làm quan trải ba triều vua, riêng
mình giữ được tấm thân trong sạch.
Không có ông, rất khó bảo vệ dân chúng một
miền.
Người học trò già đành ra gánh vác [việc
giữ] Long Hồ
Hồn người học sĩ khó trở về Phượng Các.
Giữ tiết, từng gian lao, sống như Phú Bật
đời Tống
Dốc hết lòng trung, còn hận gì nữa, chết
như Trương Tuần đời Đường.
Chuyện còn mất của sáu tỉnh có trời ở
trong.
Cốt sao có được
người bày tôi thung dung chết vì nghĩa.
Dịch thơ (Nguyễn
Mỹ Ngọc và Trần Từ Mai):
Thanh khiết ba triều vẹn tấm thân,
Một
phương nguy khó gắng che dân.
Long
Hồ đành chĩu vai nguyên lão,
Phượng Các
khôn mong vía học thần.
Sống đã
gian lao theo Phú Bật,
Chết đâu
tiếc hận với Trương Tuần.
Mất còn
sáu tỉnh, trời cao biết,
Sao
được thung dung trọn nghĩa nhân.
PHỤ LỤC: BA BẢN DỊCH THƠ KHÁC
Bản dịch của Thượng Tân Thị
Mình trong sạch trải thờ ba chúa,
Không ông ai che chở dân lành.
Long Hồ phụ lão thư sinh,
Ở nơi các Phụng không đành làm quan.
Cầm tiết nhọc sống chàng Phú Bật,
Chết ngay sao giận uất Trương Tuần.
Mất còn sáu tỉnh trời phân,
Thung dung tựu nghĩa làm thần khó
thay.
Bản dịch trong Nguyễn Đình Chiểu
Toàn Tập
của CV Thỉnh, NS Lân, NT Giang
(1997)
Thờ trải ba triều trọn sạch thân,
Không ông ai đỡ một phương dân.
Long Hồ thà phụ thơ sanh lão,
Phụng Các suông quy học sĩ thần.
Giữ tiết nhọc nhằn còn Phú Bật,
Hết trung nào giận mất Trương Tuần.
Mất còn sáu tỉnh trời kia biết,
Sao đặng thung dung tựu nghĩa thần?
Bản
dịch của Cao Tự Thanh (2005)
Ba
triều rõ mặt bậc tôi lành,
Che
chở cho dân buổi lửa binh.
Phượng
các khôn về hồn học sĩ,
Long
Hồ thà chịu tiếng thư sinh.
Sống
từng nhọc bấy thân đi sứ,
Chết
lại hờn chi phận giữ thành.
Sáu
tỉnh mất còn, trời đã định,
Nhưng
tìm đâu được kẻ trung trinh.
(Việt Nam Bách Gia Thi)
Nhận
xét:
1)
Có lẽ đã dựa theo bản chép sai của ông
Nguyễn Liên Phong hay ông Thái Hữu Võ, nhà thơ tiền bối Thượng Tân Thị đã hiểu chữ
“thần” trong câu 4 là viên quan, và chữ “thần” trong câu 8 là ông thần.
2)
Nhà thơ Thượng Tân Thị và nhóm ông Ca
Văn Thỉnh đã hiểu chữ “phụ” trong câu 3 là “phụ bạc,” và cho rằng chủ từ của động
từ “phụ” là tỉnh Long Hồ.
Trần Huy Bích