Hai
bài thơ Nguyễn Đình Chiểu làm để điếu Phan Thanh Giản có thể được sáng tác ngay
sau khi Phan Thanh Giản quyên sinh (năm 1867) hay – ở trường hợp bài chữ Hán –
sau khi ông bị truy đoạt hết chức tước và đục tên khỏi bia Tiến sĩ. Từ đó đến
nay đã trên 150 năm. Qua nhiều thế hệ, hai bài thơ ấy vẫn được coi là để bộc lộ
niềm cảm thông trước hoàn cảnh cực kỳ khó khăn của Phan Thanh Giản và bày tỏ
lòng thương tiếc đối với ông. Ít năm gần đây, một vài tác giả ở trong nước biện
luận rằng Nguyễn Đình Chiểu đã không thực sự thương tiếc Phan Thanh Giản, mà chỉ
làm ra vẻ thương tiếc để mỉa mai và lên án ông. Những hàng phía sau là một cố gắng
đọc lại bài thơ điếu bằng chữ Hán một cách cẩn trọng, để tìm hiểu chủ ý đích thực
của Nguyễn Đình Chiểu khi sáng tác bài ấy.
Người
viết xin chân thành cảm ơn Gs. Phạm Lệ Hương đã tìm giúp nhiều tài liệu hữu ích
và quý giá về Nguyễn Đình Chiểu, nhất là tài liệu từ Gallica collection của Thư
viện quốc gia Pháp (Bibliothèque nationale de France, BnF).
Khi Phan Thanh Giản quyên sinh năm 1867, Nguyễn Đình Chiểu bị
mù đã được 18 năm (từ 1849). Các tác phẩm bằng quốc âm của vị thầy mất thị giác
đã được các môn sinh của ông chép ra bằng chữ Nôm rồi về sau chuyển đổi sang chữ
quốc ngữ. Các tác phẩm bằng chữ Hán hẳn cũng được ghi ra chữ Hán, nhưng sau một
số lần sao đi chép lại, những chữ đồng âm nhưng khác nghĩa (chữ “thần” 神 là thần
linh, và “thần” 臣 là vị quan, người bề tôi), cùng những
chữ có âm gần giống nhau (như “an đắc”/“nan đắc”) đã rơi vào tình trạng “tam
sao thất bổn,” khiến chúng ta thấy xuất hiện một số bản chữ Hán với cách viết
và ý nghĩa khác nhau. Trước khi ông Lê Thọ Xuân liên lạc được với người con của
Nguyễn Đình Chiểu là ông Nguyễn Đình Chiêm và cung cấp một bản thuộc loại đáng
tin cậy cho bài thơ chữ Hán năm 1933 (bài “Danh nhơn Nam Kỳ,” Đồng Nai số
23 & 24, 15 Janvier – 2 Février 1933), chúng ta đã thấy có bản chữ Hán do
ông Nguyễn Liên Phong đưa ra năm 1909 trong Nam Kỳ Phong Tục Nhơn Vật Diễn
Ca (cuốn thứ 2, trang 71), và bản chữ Hán do ông Thái Hữu Võ đưa ra năm
1927 trong Phan Thanh Giảng Truyện (Sài Gòn : Xưa Nay, trang 46-47).
Nhưng ông Lê Thọ Xuân chỉ cho biết là hai bài thơ do ông Thái Hữu Võ cung cấp có
nhiều chỗ sai, và nói ra những chỗ sai ấy bằng chữ quốc ngữ, chứ không cung cấp
một bản viết đầy đủ và chính xác cho bài thơ chữ Hán. Những năm sau, bà Mai Huỳnh
Hoa, cháu ngoại của bà Sương Nguyệt Anh (con gái của Nguyễn Đình Chiểu) và chồng
bà là học giả Phan Văn Hùm, trong cuốn Nỗi Lòng Đồ Chiểu (bản in lần thứ
hai, Sài Gòn : Tân Việt, 1957), cũng chỉ làm như thế: không cung cấp một bài
thơ đầy đủ và chính xác ở dạng chữ Hán.
(Muốn biết hai bản chữ Hán với khá nhiều sai lầm của các ông
Nguyễn Liên Phong và Thái Hữu Võ, xin vui lòng đọc trong cuốn Mối Thâm Tình Của
Nguyễn Đình Chiểu Dành Cho “Quan Phan” Phan Thanh Giản của Winston Phan Đào
Nguyên ([San Jose, Calif.] : Nhân Ảnh, 2022, các trang 55 và 61-62).
Tác giả đã đưa cuốn sách lên mạng tại địa chỉ sau đây:
https://app.box.com/s/p7e3mgfty0l1asrqkewxuck6bwqw7rny
Theo ông Lê Thọ Xuân, với bài thơ chữ Hán của Nguyễn Đình Chiểu,
bản do ông Thái Hữu Võ đưa ra trong Phan Thanh Giảng Truyện sai 8 chữ,
thêm sự kiện hai chữ “thần” với nghĩa khác nhau (神 và 臣) bị đặt
sai chỗ, khiến ý nghĩa khác đi rất xa. Coi lại bản chữ Hán của ông Nguyễn Liên
Phong, đối chiếu với bài viết của ông Lê Thọ Xuân, chúng tôi thấy có 7 chữ sai.
Hai chữ “thần” cũng bị chép không đúng chỗ như thế. Người xưa thường nói, “Sai
một ly, đi một dặm.” Khi có quá nhiều chữ bị chép sai, ý nghĩa thành ra khác hẳn.
Dựa vào những bản bị chép sai như thế để phân tích bài thơ chữ Hán của Nguyễn
Đình Chiểu, một vài tác giả quốc nội trong ít năm gần đây đã vướng phải một số
ngộ nhận đáng tiếc.
Mãi tới 17 năm trước đây, nhân được đọc một tài liệu Hán Nôm
chép tay của gia đình Nguyễn Đình ở Bến Tre do bà Âu Dương Thị Yến cất giữ, nhà
nghiên cứu Cao Tự Thanh mới cung cấp cho chúng ta một bài thơ chữ Hán thuộc loại
có thẩm quyền trong Việt Nam Bách Gia Thi (Sài Gòn : NXB Văn Hóa, 2005).
Đối chiếu bài này với bài thơ chữ Hán chỉ qua âm Hán Việt do học giả Phan Văn
Hùm cung cấp sau khi tham khảo với ông Nguyễn Đình Chiêm, chúng tôi thấy hai bản
gần như giống hệt nhau. Chỉ có hai chỗ khác trong câu 2, nhưng ý nghĩa không thay
đổi nhiều:
Bản của
ông Phan Văn Hùm: Vi quân nan bảo nhất phương dân
(Nếu
không có ông, rất khó bảo vệ dân chúng một phương)
Bản của
ông Cao Tự Thanh: Vi công thùy bảo
nhất phương dân
(Nếu
không có ông, ai sẽ bảo vệ dân chúng một phương).
Xin được
xuất trình phía sau một bản chữ Hán dựa theo bản Hán Việt của ông Phan Văn Hùm,
và một bản dựa theo sự tìm kiếm của ông Cao Tự Thanh. Bản của ông Cao Tự Thanh, với chữ viết rất đẹp
của ông Nguyễn Đình Thảng, được chụp lại từ cuốn Việt Nam Bách Gia Thi (Sài
Gòn : NXB Văn Hóa, 2005).
Bản
A—Theo ông Phan Văn Hùm trong Nỗi Lòng Đồ Chiểu (đọc theo hàng ngang):
歷仕三朝獨潔身
微君難保一方民
龍湖寧負書生老
鳳閣空歸學士神
秉節曾勞生富弼
盡忠何恨死張巡
有天六省存亡事
安得從容就義臣
Bản
B—Theo ông Cao Tự Thanh trong Việt Nam Bách Gia Thi (đọc theo hàng dọc,
từ phải sang trái):
Trước những tranh luận về ý nghĩa của bài thơ mới được đưa ra gần đây, chúng tôi xin đóng góp chút nhận thức thô thiển. Trước khi làm việc này, chúng tôi có hoàn cảnh trao đổi thêm với hai vị có căn bản Hán học vững chắc ở ngoài nước, là Tiến sĩ Nguyễn Duy Chính và cô Nguyễn Ngọc Dung.
Câu 1:
歷仕三朝獨潔身
Lịch sĩ tam triều
độc khiết thân
Câu này ý nghĩa khá đơn giản: Làm quan trải ba triều vua (Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức), riêng mình giữ được tấm thân trong sạch. Câu này có ý nhắc tới sự kiện Phan Thanh Giản thường được biết đến là một vị quan hết sức thanh liêm, và việc vua Tự Đức từng ban cho ông một chiếc “Đại hạng kim khánh” có khắc bốn chữ “Liêm Bình Cần Cán” (năm Tự Đức thứ 5, 1852).
Câu 2:
微君難保一方民
Vi quân nan bảo nhất phương dân
Nếu
không có ông, rất khó bảo vệ dân chúng một phương. Tác giả muốn nói tới dân chúng
miền Nam. Phan Thanh Giản từng được cử làm Khâm sai, Kinh lược sứ Nam kỳ, rồi
về sau, Kinh lược đại thần ba tỉnh miền Tây.
Câu
trên theo bản in trong Nỗi Lòng Đồ Chiểu của Phan Văn Hùm. Trong Việt
Nam Bách Gia Thi của Cao Tự Thanh, câu ấy là:
微公谁保一方民
Vi công thùy bảo nhất phương dân.
Nếu không có ông, ai sẽ bảo vệ dân chúng một phương. Tuy ý nghĩa không khác nhau bao nhiêu, chữ “công” (ông, tướng công) trong bản của Cao Tự Thanh có vẻ thích hợp hơn. Phan Thanh Giản (sinh năm 1896) hơn Nguyễn Đình Chiểu (sinh năm 1922) 26 tuổi. Phan Thanh Giản là vị “Tiến sĩ khai khoa” cho miền Nam, một Hiệp biện Đại học sĩ, Khâm sai, Kinh lược đại thần, trong khi Nguyễn Đình Chiểu mới đậu Tú tài và chưa làm quan. Thêm vào đó, Nguyễn Đình Chiểu rất tôn trọng Phan Thanh Giản, vẫn thường nhắc đến ông qua các từ “Phan học sĩ, quan Phan.”
Câu 3:
龍湖寧負書生老
Long Hồ ninh phụ thư sinh lão
Long Hồ là tên cũ của tỉnh Vĩnh Long. Chữ “ninh” ở đây có
nghĩa là “thà rằng, đành,” như trong câu “Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục” (đành chết
chứ không chịu nhục). Một số vị dịch thơ trước đây cho rằng chữ “phụ” trong câu
này có nghĩa là “phụ lòng.” Chẳng hạn như trong bản dịch của nhà thơ tiền bối
Thượng Tân Thị (1888-1966):
Long Hồ phụ lão thư sinh,
Ở nơi các Phụng không đành làm quan
Hay
trong bộ Nguyễn Đình Chiểu Toàn Tập do các ông Ca Văn Thỉnh, Nguyễn Sĩ
Lâm, Nguyễn Thạch Giang biên soạn năm 1997 (Hà Nội : Văn Học, tập 2, trang
51-52):
Long Hồ thà phụ thơ sanh lão
Phụng Các suông quy học sĩ thần.
Theo các tự điển,
chữ “phụ” ấy 負 cũng có nghĩa là “vác, mang, gánh,” dùng theo
nghĩa bóng là “gánh vác.” Chúng tôi tin rằng đó là ý của Nguyễn Đình Chiểu
trong câu thơ này. “Ninh phụ” có nghĩa “đành phải ra gánh vác.”
Vì những lẽ ấy,
theo chỗ chúng tôi hiểu, câu này có thể được viết với một dấu phẩy, và có ý
nghĩa như sau:
Long
Hồ ninh phụ, thư sinh lão.
(Người học trò
già đành phải gánh vác việc [giữ đất] Long Hồ).
Chủ từ của động từ “phụ” (mang, gánh vác) không phải là đất Long Hồ mà là người thư sinh già. Cũng như trong câu sau, chủ từ của động từ “quy” (về) không phải là tòa Phượng Các (gác Phượng, chỗ các đại thần làm việc) mà là “học sĩ thần” (linh hồn người học sĩ, chỉ linh hồn Phan Thanh Giản).
Câu 4:
鳳閣空歸學士神
Phượng Các
không quy học sĩ thần
Hai câu 5-6:
秉節曾勞生富弼
盡忠何恨死張巡
Bỉnh tiết tằng
lao, sinh Phú Bật
Tận trung hà hận,
tử Trương Tuần
Cầm cây cờ tiết
của người đi sứ (cũng có thể hiểu là giữ tiết tháo), từng chịu gian lao, sống
như ông Phú Bật (đời Tống).
Hết lòng trung,
còn hận gì nữa, chết như ông Trương Tuần (đời Đường).
Trong một bài Đường luật bát cú, đây là hai câu “luận,” có nhiệm vụ bàn về nhân vật được nhắc đến trong bài thơ (Phan Thanh Giản).
Câu trên nhắc đến việc Phan Thanh Giản từng vất vả sang Pháp (cùng Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản), cố chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam kỳ. Câu dưới nhắc đến việc Phan Thanh Giản quyên sinh sau khi không giữ nổi Vĩnh Long.
Việc thi hành nhiệm vụ của hai ông Phú Bật và Trương Tuần thực ra không hoàn hảo. Tuy Phú Bật thuyết phục được người Khiết Đan rút quân, nhưng triều Tống phải tăng thêm số bạc và lụa nộp cho họ hàng năm. Tuy Trương Tuần giữ thành Tuy Dương được thêm một thời gian, nhưng những việc phải giết người thiếp yêu, rồi một số người già và trẻ con làm lương thực cho binh sĩ, chung quy thành vẫn mất và Trương Tuần vẫn chết, khiến thành tích không đẹp một cách trọn vẹn. Nhưng nhiều phần Nguyễn Đình Chiểu không chú trọng đến những chi tiết ấy. Ông chỉ có ý nói: Phan Thanh Giản có thể so sánh với Phú Bật từng vất vả đi sứ, và với Trương Tuần đã chết theo thành.
Hai câu 7-8:
有天六省存亡事
安得從容就義臣
Hữu thiên, lục
tỉnh tồn vong sự
An đắc thung
dung tựu nghĩa thần.
Nghĩa đen của câu 7: Có Trời trong việc còn mất của 6 tỉnh. Câu này cũng có thể hiểu là: Chuyện còn mất của 6 tỉnh đã có Trời biết, để đưa tới câu 8: Mong có được người bề tôi biết thung dung tựu nghĩa (thung dung chết vì nghĩa).
“An đắc” có nghĩa “mong sao có được” như trong một bài ca của Hán Cao tổ Lưu Bang, “An đắc mãnh sĩ hề, thủ tứ phương” (Mong sao có được những kẻ sĩ dũng mãnh để giữ bốn phương). Những chữ “thung dung tựu nghĩa”được lấy từ một cặp câu đối tương truyền là để điếu Lý Trần Quán, làm quan ở cuối đời Lê, sau khi ông tự tử (yêu cầu được chôn sống) vì Nguyễn Trang, người mà ông nhờ hộ vệ chúa Trịnh Khải đã nộp chúa cho quân Tây Sơn:
Khảng khái cần vương dị
Thung dung tựu nghĩa nan
(Khảng khái
giúp vua là chuyện dễ, thung dung chết vì nghĩa mới khó).
Bốn chữ “thung
dung tựu nghĩa” nói đến việc Phan Thanh Giản ung dung chọn cái chết sau khi
không giữ nổi Vĩnh Long.
Sau khi đọc lại bài thơ một cách cẩn thận, chúng tôi thấy Nguyễn Đình Chiểu có thái độ tôn kính một cách thành thật đối với Phan Thanh Giản, và thông cảm hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, đã khiến ông phải uống thuốc độc để tìm đến cái chết. Chúng tôi tuyệt không thấy Nguyễn Đình Chiểu “giả vờ khen ngợi” để mai mỉa và lên án Phan Thanh Giản. Đó không phải là đặc tính của Nguyễn Đình Chiểu, một nho sĩ bộc trực của miền Nam, người đã nổi tiếng với những câu đối thoại “thẳng ruột ngựa” như:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái, ta là phận trai
(trong Lục Vân Tiên, lời Vân Tiên nói với người thiếu nữ được cứu)
Hay những lời chỉ trích mạnh mẽ và trực tiếp như:
Nói sao chẳng biết hổ thân
Người ta há phải là cầm thú sao?
(trong Lục Vân Tiên, lời Vương Tử Trực chỉ trích thân phụ của Võ Thể Loan)
Nói rằng Nguyễn Đình Chiểu “giả bộ khen ngợi để lên án” còn là một xúc phạm nặng đối với cốt cách trọng ngay thẳng và thái độ cương trực của Nguyễn Đình Chiểu.
Phía sau là các phần phiên âm theo bản chữ Hán của ông Phan Văn Hùm, diễn giải ra văn xuôi, và một bản dịch thơ. Người viết xin chân thành cảm tạ chị Mỹ Ngọc, một cựu đồng môn từ những ngày ở Trung học, đã tiếp tay trong bản dịch thơ này:
Lịch sĩ tam triều
độc khiết thân
Vi quân nan bảo nhất
phương dân
Long Hồ ninh phụ thư
sinh lão
Phượng Các không quy
học sĩ thần.
Bỉnh tiết tằng lao,
sinh Phú Bật
Tận trung hà hận, tử
Trương Tuần
Hữu thiên, lục tỉnh tồn
vong sự
An đắc thung dung tựu
nghĩa thần.
Làm quan trải ba triều vua, riêng
mình giữ được tấm thân trong sạch.
Không có ông, rất khó bảo vệ dân chúng một
miền.
Người học trò già đành ra gánh vác [việc
giữ] Long Hồ
Hồn người học sĩ khó trở về Phượng Các.
Giữ tiết, từng gian lao, sống như Phú Bật
đời Tống
Dốc hết lòng trung, còn hận gì nữa, chết
như Trương Tuần đời Đường.
Chuyện còn mất của sáu tỉnh có trời ở
trong.
Cốt sao có được
người bày tôi thung dung chết vì nghĩa.
Dịch thơ (Nguyễn Mỹ Ngọc và Trần Từ Mai):
Thanh khiết ba triều vẹn tấm thân,
Một
phương nguy khó gắng che dân.
Long
Hồ đành chĩu vai nguyên lão,
Phượng Các
khôn mong vía học thần.
Sống đã
gian lao theo Phú Bật,
Chết đâu
tiếc hận với Trương Tuần.
Mất còn
sáu tỉnh, trời cao biết,
Sao
được thung dung trọn nghĩa nhân.
PHỤ LỤC: BA
BẢN DỊCH THƠ KHÁC
Bản dịch trong
loạt bài về Phan Thanh Giản
của Thượng Tân
Thị trên tuần báo Tân Văn
“Một đứng [đấng] trung thần: Phan-T.-Giãng [Giản]”
(Tân Văn số
89, 16 Mai 1936, trang 5)
[Bibliothèque nationale
de France – Gallica collection]
Mình trong sạch trải thờ ba chúa,
Không ông, ai che chở dân lành.
Long-hồ phụ lảo [lão] thơ sanh,
Ở nơi cát phụng [các Phụng] không đành làm quan.
Cầm tiết nhọc sống chàng Phú Bật
Hết [chết] ngay sao giận mất [uất] Trương Tuần.
Tồn vong sáu tỉnh trời phân,
Thung dung tựu
nghĩa làm thần khó thay.
Bản dịch trong
Nguyễn Đình Chiểu Toàn Tập (1997)
do Ca Văn Thỉnh, Nguyễn Sĩ Lâm, Nguyễn Thạch
Giang biên soạn. Tập 2, trang 51-52.
Thờ trải ba
triều trọn sạch thân,
Không ông ai đỡ
một phương dân.
Long hồ thà phụ
thơ sanh lão,
Phụng Các
suông quy học sĩ thần.
Giữ tiết nhọc nhằn
còn Phú Bật,
Hết trung nào
giận mất Trương Tuần.
Mất còn sáu tỉnh
trời kia biết,
Sao đặng thung
dung tựu nghĩa thần?
Bản dịch của Cao Tự Thanh (2005)
Ba
triều rõ mặt bậc tôi lành,
Che
chở cho dân buổi lửa binh.
Phượng
các khôn về hồn học sĩ,
Long
Hồ thà chịu tiếng thư sinh.
Sống
từng nhọc bấy thân đi sứ,
Chết
lại hờn chi phận giữ thành.
Sáu
tỉnh mất còn, trời đã định,
Nhưng
tìm đâu được kẻ trung trinh.
(Việt Nam Bách Gia Thi, trang 86)
Nhận xét:
1) Có lẽ đã dựa
theo bản chép sai của ông Thái Hữu Võ, người dịch bài thơ do Thượng Tân Thị sưu
tầm được đã hiểu chữ “thần” trong câu 4 là viên quan, và chữ “thần” trong câu 8
là thần linh.
2) Vị dịch
giả này và nhóm ông Ca Văn Thỉnh đã hiểu chữ “phụ” trong câu 3 là “phụ bạc,” và
cho rằng chủ từ của động từ “phụ” là tỉnh Long Hồ.
Trần Huy Bích
(22.7.2022)