Biếc, thư pháp Trụ Vũ
Rừng thu từng biếc chen hồng
(“Kiều”, Nguyễn Du)
“Chữ ‘biếc’ là chữ đẹp nhất trong tiếng Việt,” cô bạn tôi nói vậy.
“Có chắc không đấy?” tôi hỏi lại.
“Nếu không đẹp nhất thì
cũng là một trong những chữ đẹp nhất.”
Có chuyện ấy sao? Trước giờ tôi chưa hề tìm hiểu xem chữ nào là đẹp nhất và
cũng chưa hề nghe có cuộc bình chọn nào để chọn ra chữ đẹp nhất trong tiếng
Việt mình. Cô bạn “chấm” chữ ấy hẳn là có lý do.
“Vì sao là ‘biếc’ mà không phải chữ nào khác?” tôi hỏi thêm.
“Biếc vừa có màu sắc đẹp lại vừa có chất thơ,” cô bạn trả lời.
Màu biếc và mắt biếc
Ra là vậy! Biếc có “màu sắc đẹp”? Chữ “biếc” cô bạn tôi nói là tính từ, có gốc là “bích 碧” trong tiếng Hán-Việt. Người nói màu biếc là màu xanh thẫm; người nói màu xanh lam pha xanh lục; người lại nói màu xanh trong của ngọc, màu nước biển trong vắt, màu da trời trong veo hay màu đồng cỏ xanh rờn.
Cứ như
thế thì cảnh sắc nào tươi xanh và đẹp mắt như “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”
của Nguyễn Khuyến có thể gọi là trời biếc, thu biếc, “Cỏ non xanh tận chân
trời” của Nguyễn Du gọi là cỏ biếc, “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” của Hàn
Mặc Tử gọi là vườn biếc, “Ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian” của Văn
Cao gọi là trăng biếc đều được cả.
Biếc có “chất thơ”? Cứ cho là như vậy đi, vì trong văn chương thi phú kể ra
cũng lắm “biếc”. Chồi non lộc biếc, môi hồng mắt biếc, biêng biếc trời mây…
Biếc trong ca dao,
Đường
vô xứ Nghệ quanh quanh,
Non
xanh nước biếc như tranh họa đồ
Hoặc,
Nụ tầm
xuân nở ra xanh biếc
Em có
chồng rồi anh tiếc lắm thay
Biếc trong thơ những thi sĩ quen tên,
Thôn
Vân có biếc, có hồng
Hồng
trong nắng sớm, biếc trong vườn chiều
(“Anh
về quê cũ”, Nguyễn Bính)
Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước
gương trong soi tóc những hàng tre
(“Nhớ
con sông quê hương”, Tế Hanh)
Thu biếc có chàng tới hỏi
- Em
thơ, chị đẹp em đâu?
- Chị
tôi tóc xõa ngang đầu
đi hái
tình sầu trong núi
(“Tình
sầu”, Huyền Kiêu)
Anh xin làm sóng biếc
hôn
mãi cát vàng em
(“Biển”,
Xuân Diệu)
Thơ xưa thơ nay, thơ lục bát, thơ năm chữ, bảy chữ, tám chữ…, không thơ nào mà
không “biếc”.
Mẹ như
đóa hoa vàng
Mẹ như
vầng trăng biếc
(“Trái
tim mẹ hiền”, Trụ Vũ)
Trên
chúm môi lá biếc
Những
chòm hôn vội vàng
(“Bài
thơ của tháng Giêng”, Thanh Tâm Tuyền)
Trưa vàng, cỏ biếc, vườn xanh,
Môi ai
chín đỏ đầu cành phượng xưa
(“Nụ
hôn đầu”, Trần Dạ Từ)
Mùa xuân bay múa bên trời biếc
Ta
búng văng tàn thuốc xuống sông
(“Tưởng
tượng ta về nơi bản trạch”, Tô Thùy Yên)
Mảnh trời trong mắt còn xanh biếc
Người
đã mơ hồ như vọng âm
(“Cả
một dòng sông đứng lại chờ”, Trần Mộng Tú)
Thương Huế quá, bao đêm nhìn trăng biếc
Vườn
lá hẹn hò soi nhạt bóng ai quen
(“Bài
thơ cho Huế”, Minh Đức Hoài Trinh)
“Biếc” sao mà lắm thế ở trong thơ, kể mãi không hết… Từ xanh biếc, mắt biếc,
nước biếc, sóng biếc, suối biếc, sông biếc, biển biếc, núi biếc, rừng biếc… đến
rêu biếc, cỏ biếc, lá biếc, cành biếc, chồi biếc, lộc biếc, liễu biếc… đến
trăng biếc, sao biếc, khói biếc, cánh biếc, diều biếc.
Lại còn những “biếc” là lạ, ngồ ngộ như lối biếc, cõi biếc, mùa biếc, gió biếc, mây biếc, mưa biếc, nắng biếc, mi biếc, tóc biếc, mơ biếc, mộng biếc, ý biếc… đều là những nét sáng tạo độc đáo và thi vị của thi nhân.
Biếc đến như thế thì đâu còn là màu xanh, màu tím gì nữa mà có nghĩa rộng là đẹp và nên thơ.
Nhiều nhất vẫn là “mắt biếc”, là ánh mắt long lanh, mơ màng và thu hút. Mắt biếc hay “mắt xanh lả bóng dừa hoang dại” của thi sĩ Đinh Hùng ngụ ý là đôi mắt đẹp. Mắt đen lay láy như hạt nhãn hay mắt nâu quyến rũ màu hạt dẻ cũng gọi là mắt biếc được. Mắt biếc thường đượm vẻ buồn man mác, vời vợi.
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc
khăn tay
(“Tống
biệt hành”, Thâm Tâm)
Em thì vẫn nụ cười xanh mắt biếc
Mầu cô
đơn trên suối tóc la đà
(“Ngồi
lại bên cầu”, Hoài Khanh)
Người
yêu má đỏ, môi hồng
Tóc
xanh, mắt biếc mà lòng bạc đen
(“Lại
đi”, Nguyễn Bính)
Trong thơ trong nhạc, anh chàng nào cũng cho người mình yêu có đôi mắt biếc.
Mắt biếc sầu lắng đọng… (“Những bước chân âm thầm”, Kim Tuấn
& Y Vân)
Mắt
biếc năm xưa nay đâu… (“Mắt biếc”, Ngô Thụy Miên)
Có vì
sao lạc vào mắt biếc… (“Em chờ anh trở lại”, Hoàng Nguyên)
Từng
hạt sương khuya hoen đôi mắt biếc… (“Nỗi niềm”, Tuấn Khanh)
Lại còn những quán xá với những tên Mây Biếc, Vườn Biếc, Trăng Biếc để cho
những người khách tìm đến, bước vào, vừa nhấm nháp từng ngụm nhỏ cà-phê sóng
sánh vừa ngắm nhìn những mắt biếc long lanh.
Thơ biếc và câu đối biếc
“Biếc”
hẳn là chữ đẹp nên mới được các thi nhân yêu chuộng đến như thế. Như khói biếc
trong “Kiều”, mây biếc trong “Chinh phụ ngâm”.
Long lanh đáy nước in trời
Thành
xây khói
biếc non phơi bóng vàng
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn
màu mây
biếc, trải ngần núi xanh
Biếc cả trong thơ những thi sĩ thích đùa nghịch với chữ nghĩa.
Ba chạc cây xanh, hình uốn éo
Một
dòng nước biếc, cỏ leo teo
(“Quán
nước bên đường”, Hồ Xuân Hương)
Ta sẽ đến đứng bên bờ nước cũ
Ngó
bên kia vườn biếc lá hoa lừng
(“Bờ
nước cũ”, Bùi Giáng)
Thường thì thi sĩ nào chuộng câu, chữ hoa mỹ, bóng bẩy hay cầu kỳ cũng chuộng “biếc” hơn cả. Như Đinh Hùng, như Vũ Hoàng Chương.
Chiều
thu, nắng động hàng mi biếc
Tôi
nghĩ trong lòng: Em cũng yêu
(“Truyện
lòng”, Đinh Hùng)
Gấm the nào từ buổi lạnh lùng nhau
Vàng
son có thay màu đôi mắt biếc
(“Lá
thư ngày trước”, Vũ Hoàng Chương)
Như Nguyên Sa, như Phạm Thiên Thư.
Sao chẳng đến cho lá cành xanh biếc
Năm
ngón tay anh trổ lá mùa xuân
(“Người
em sáng trong cô độc”, Nguyên Sa)
Xưa em là chữ biếc
nằm
giữa lòng cuốn kinh
Anh là
thiền sư buồn
ngồi
tụng dưới ánh trăng
(“Pháp
thân”, Phạm Thiên Thư)
Đến Du Tử Lê, đến Mai Thảo cũng “biếc” không kém.
Bạn bè như lá cây
rụng
giữa mùa rất biếc
(“Nhớ
lại trong đêm nay”, Du Tử Lê)
Tuổi ư? Hồn vẫn đầy trăm gió
Thổi
suốt đêm ngày cõi biếc ta
(“Em
đã hoang đường từ cổ đại”, Mai Thảo)
Giàu “biếc” nhất trong số ấy nhiều phần là Vũ Hoàng Chương, Nguyên Sa và Phạm Thiên Thư. Có khi nhặt ra được mấy “biếc” chỉ trong một bài thơ. Nhiều biếc vừa lạ vừa thơ như áo biếc, xiêm biếc, hương biếc, hạt biếc, lệ biếc, chữ biếc, phố biếc, tượng biếc, kèn biếc…
“Thơ biếc”, tưởng không có chữ nào đúng hơn.
“Biếc chỉ đẹp khi đi với chữ nào khác,” tôi nói với cô bạn. “Hiếm khi thấy biếc ‘đứng một mình cũng xinh’. Trong những bức thư pháp viết một chữ đơn, không hề thấy Biếc hay Bích mà chỉ toàn những Phúc, Lộc, Đức, Trí, Nhẫn, Tâm, An.”
“Có
chứ,” cô bạn nói. “Nhà thơ, nhà thư pháp Trụ Vũ từng ấn hành thi tập chỉ với
một chữ Biếc, với bìa sách màu biếc vẽ chữ Biếc rất đẹp.”
Sau cùng, tôi nói với cô bạn rằng tôi không chắc “Biếc” có phải là chữ đẹp nhất, nhưng nếu nói “Biếc” là chữ “thơ” nhất trong tiếng Việt thì tôi tin là nhiều người dễ tán đồng với cô hơn.
Tôi cũng định nói thêm, nếu Biếc là chữ đẹp nhất vì sao hiếm thấy ai đặt cho
con mình cái tên ấy. Tên Bích thì nhiều, dùng được cho cả con gái lẫn con trai.
Giá dụ bố mẹ đặt tên cho con là Cỏ Biếc, Mây Biếc, Trăng Biếc, Lá Biếc, Hương
Biếc… nghe cũng hay hay. Vậy mà chỉ thấy toàn những Bích Thảo, Bích Vân, Bích
Nguyệt, Bích Diệp, Bích Hương… Người mình vẫn chuộng tiếng Hán-Việt hơn thuần
Việt chăng?
Đến đây, để chấm dứt câu chuyện thơ phú, chữ nghĩa ấy, tôi kể cho cô bạn có đôi mắt biếc nghe một “giai thoại văn học” ở miền Nam, cách nay cũng đến nửa thế kỷ.
Tuần báo Kịch Ảnh, chủ nhiệm là ông Quốc Phong, trong một số báo Xuân có ra câu đối cho độc giả dự thi, với nhiều giải thưởng dành cho những vế đối nào chỉnh nhất. Vế thách đối như sau:
Kiều nữ Bích Sơn, nàng chờ ai đây trên núi biếc
Tuy vế ra không dễ, nhiều vế đối chan chát vẫn được độc giả gửi về. Kết quả,
không có giải nhất, chỉ có giải nhì, giải ba và vài giải khuyến khích. Tôi nhớ,
vế đối của một trong những giải khuyến khích ấy:
Quái
kiệt Tùng Lâm, ngươi hẹn ta đến chốn rừng thông
LÊ HỮU