Quan trọng hơn cả, văn học luôn là phương
tiện mạnh mẽ để diễn tả những trải nghiệm của con người, kể cả những thời kỳ
hỗn loạn. Nhà văn có thể sáng tác tiểu thuyết, truyện ngắn hoặc thơ ca nắm bắt
được tác động về mặt cảm xúc và tâm lý của những thời kỳ hỗn loạn. Những tác
phẩm này có thể phục vụ như một hình thức thanh lọc cho cả tác giả và độc giả.
Tôi nghĩ về nhà văn Ngô Thế Vinh như thế
suốt mấy chục năm qua từ khi có cơ hội đọc những cuốn tiểu thuyết của ông xuất
bản trước 1975 cho đến mãi gần đây với những bài biên khảo giá trị về mối hiểm
họa ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long do nguy cơ con sông Mekong đang bị thách
thức trầm trọng.
Tác phẩm của ông thường xoay quanh các chủ
đề hướng về quê hương Việt Nam, những vấn nạn mảnh đất đang gánh chịu và những
con người cùng khổ trong đó. Ông là nhà văn “nổi trôi” cùng vận nước, những tư
duy siêu hình mang tính triết học không nằm trong bộ từ vựng của ông Ông viết
từ trái tim của mình, và những điều đó đi thẳng vào trái tim người đọc.
Khi Ngô Thế Vinh hoàn tất cuốn sách này,
chiến tranh Việt Nam đang đi vào giai đoạn khốc liệt nhất, đó là đầu thập niên ‘70
khi chính quyền Mỹ đẩy mạnh cuộc “Việt Nam hóa” chiến tranh để tìm cách rút lui
khỏi miền Nam trong danh dự sau khi nhận ra họ không thể chiến thắng bằng quân
sự mặc dù đã đổ không biết bao nhiêu tài nguyên và xương máu vào cuộc chiến.
Cuộc chiến kết thúc năm năm sau đó với một kết quả và hệ quả cực kỳ bi thảm cho
một tập thể con người miền Nam, hoặc bị ném vào những trại giam khắc nghiệt
mệnh danh là “trại cải tạo” hoặc phải bồng bế nhau liều chết vượt biên đi kiếm
sống ở những chân trời xa lạ đầy trắc trở, khó khăn. Cuộc chiến đã gây chấn
thương trong lòng dân tộc, một vết thương quá lớn đến nỗi dù đã gần nửa thế kỷ
trôi qua từ ngày tiếng súng ngưng nổ mà dư âm và nỗi ám ảnh quá khứ vẫn đau
nhức khôn nguôi trong tâm tư người dân Việt, dù ở bên này hay bên kia chiến
tuyến.
Sinh trưởng trong một bối cảnh lịch sử
nhiễu nhương cộng thêm nhiệt huyết phẫn nộ của tuổi trẻ và lòng yêu quê hương
tha thiết, nhà văn Ngô Thế Vinh đã hoàn tất tác phẩm của mình như một thực
chứng cho một giai đoạn lịch sử. Vòng Đai
Xanh được đánh giá bởi giới trí thức và phê bình là một trong những tác
phẩm viết về chiến tranh Việt Nam trung thực nhất. Ở đây không thấy “ta-địch,”
không thấy “chính-ngụy,” mà chỉ thấy nỗi thống khổ của những nạn nhân bất hạnh
bị ném vào lò lửa chiến tranh bởi những mưu đồ thâm hiểm và tàn bạo của những
thế lực đối nghịch sử dụng ý thức hệ và những lý tưởng tuy đẹp đẽ nhưng đầy màu
sắc hoang tưởng để biện minh cho một cuộc phân liệt tranh giành ảnh hưởng, đất
đai trong bối cảnh cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu.
Tác phẩm tiểu thuyết quan trọng khác nhà
văn Ngô Thế Vinh viết trong thời đoạn này là cuốn Mây Bão. Cuốn sách – viết năm tác giả mới 19 tuổi, xét về mặt biên
niên, là cuốn tiểu thuyết đầu tay – nhưng ngay cả thế, người đọc vẫn thấy sự
tàn bạo của chiến tranh hiển hiện một cách đau đớn trên trang sách. Hãy đọc lại
đôi dòng trong cuốn tiểu thuyết: “Đó là một
thứ nhân đạo trong chiến tranh để tránh cho đồng bạn khỏi mòn mỏi đau đớn đi
dần tới cái chết và thực tiễn hơn nữa
là để khỏi phải rơi vào tay địch, khỏi phải sợ những trường hợp bị ‘fuite’ tin
cơ mật.” Và cuộc “mổ sống” diễn ra như phân cảnh một cuốn phim kinh dị,
rùng rợn quá sức chịu đựng cho một độc giả bình thường: “Vũ nhanh nhẹn cầm dao xẻ những mảnh da thịt vắt lên, kẹp máu các động
mạch rồi đưa những nhát cưa xoèn xoẹt như cưa gỗ. Mặc sức cho con bệnh la hét
chửi rủa giãy giụa trên mặt bàn đã bị siết cứng. Làm gì còn thuốc mê hay gây
ngủ ở chốn đèo heo hút gió này…”
Làm sao một thanh niên 19 tuổi lại có thể
viết được những dòng chữ về những điều bạo tàn dường ấy? Nhiều khi tôi tự hỏi.
Ngô Thế Vinh là một trong những nhà văn
tích cực tham gia vận động và hoạt động thông qua tác phẩm của mình. Cụm từ
“nhà văn dấn thân” có thể bị lạm dụng ở chừng mực nào đó, nhưng có lẽ khó tìm
được một danh xưng nào khác nói về họ. Họ sử dụng ngòi bút như một nền tảng để
nâng cao nhận thức về các vấn đề xã hội, sự bất công, thậm chí sự phẫn nộ, bất
mãn. Nơi đây, nhà văn có thể truyền cảm hứng cho sự thay đổi bằng cách huy động
dư luận và khuyến khích hành động tập thể. Trong thời kỳ hỗn loạn, nhà văn có
thể thách thức các chuẩn mực, hệ tư tưởng hoặc quyền lực chính trị đã được
thiết lập. Nhà văn Ngô Thế Vinh đã làm như thế với bút ký ngắn Mặt Trận Ở Sài Gòn.
Trong thiên truyện này, nhà văn thuật
chuyện một đám lính của ông đang đi hành quân bỗng bị gọi về thủ đô Sài Gòn để
dẹp những đám người biểu tình. Cảnh huống mười phần vô lý đó đã khiến ông phẫn
nộ phải hạ bút viết những dòng chữ: “Không
lẽ những mộng tưởng binh nghiệp chỉ có thể biến chúng tôi thành những tên
gác-dan cho bọn nhà giàu, một thứ cảnh sát công lộ chỉ đường trên dòng luân lưu
của lịch sử… Rằng ngoài chiến trường súng đạn quen thuộc, họ còn phải đương đầu
với một trận tuyến khác mỏi mệt hơn, đó là cảnh thối nát bất công của xã hội mà
dân tộc đang phải hứng chịu trong tối tăm và tủi nhục…”
Chẳng có gì ngạc nhiên, vì những dòng chữ
đó mà Ngô Thế Vinh bị bắt ra hầu tòa với tội danh “phổ biến những luận điệu
phương hại trật tự công cộng và làm suy giảm kỷ luật, tinh thần chiến đấu của
quân đội…”
Thật là khôi hài. Nhưng không phải vì thế
mà Ngô Thế Vinh chịu khuất phục, ông vẫn tiếp tục viết như thế rải rác trên
nhiều trang sách khác, chỉ vì ông là nhà văn của lương tâm. Ngoài vai trò một
nhà văn, ông còn là một người lính, ông không muốn sự hy sinh của mình và các
bạn đồng đội chỉ nhằm bảo vệ cho một “xã
hội trên cao”, một xã hội hưởng thụ thừa mứa của “một đám người kêu gọi chiến tranh nhưng lúc nào cũng ở trên và đứng
ngoài cuộc chiến ấy.”
Trong vòng mấy chục năm qua – với hai tác phẩm quan trọng gây tiếng vang
không ít, Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông
Dậy Sóng
và Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch, cộng thêm hàng chục tiểu luận biên khảo,
nghiên cứu giá trị về những biến đổi nguy hại của hệ sinh thái sông Mekong –
ông mặc nhiên được xem như một chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực này, và một
cách ưu ái hơn, con chim “báo bão” về mối đe dọa thường xuyên và ghê rợn từ
phương Bắc đối với sự sinh tồn của đất nước và dân tộc. Để thực hiện các bộ sách về sông Mekong ông đã lặn lội từ tỉnh
Vân Nam, Trung Quốc xuống các quốc gia Lào, Thái Lan, Kampuchia và đồng bằng
sông Cửu Long, Việt Nam. Qua các chuyến đi quan sát thực địa, ông đã tận mắt chứng
kiến sự suy thoái bất khả đảo nghịch của con sông Mekong, “hậu quả dây chuyền của những bước khai thác tự hủy, tàn phá sinh cảnh,
làm cạn kiệt nguồn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường,” do chính sách phát
triển kinh tế bất chấp hậu quả tai hại ra sao của nhà cầm quyền Trung Quốc, mà
Việt Nam là quốc gia lãnh chịu hậu quả nặng nề và thiệt thòi nhất.
Gần đây hơn, chính xác là năm 2023, ông liên tiếp tung ra một loạt những
bài biên khảo về dự án kênh Phù Nam Techo, một thủy lộ vận tải
đầu tiên của Kampuchia nối liền hệ thống sông Mekong và đường biển. Nhà văn Ngô
Thế Vinh cảnh báo rằng con kênh này, do nhà nước Kampuchia đang gấp rút triển
khai, “không chỉ có mục đích đơn thuần
nhằm giải quyết những thách đố khó khăn trong lãnh vực vận chuyển đường thủy,
nhưng xa hơn thế, đây là một Con Kênh Đa Năng với nhiều tham vọng, nhằm kích
hoạt các hoạt động kinh tế và xã hội tới một tầm mức cao mới.” Và quan
trọng hơn hết, sự phát triển có tính bừa bãi, bất chấp đến hệ sinh thái thiên
nhiên, sẽ gây nên tình trạng tàn phá rộng rãi, “một Biển Hồ như trái tim của Kampuchia chỉ còn một nhịp đập thoi thóp
do thiếu nước, không còn sáu tháng với nước sông Mekong chảy ngược vào Biển Hồ,
nơi cũng là vựa cá lớn nhất và là nguồn protein chính của người dân Kampuchia.”
Lời cảnh báo của
nhà văn Ngô Thế Vinh từ mấy chục năm nay có tính tiên tri. Thực
tế cho thấy, mùa khô những năm gần đây, tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn thường
xuyên xảy ra ở các địa phương vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Đơn cử thời điểm
giữa mùa khô 2021-2022, nước mặn từ biển theo các kênh rạch xâm nhập sâu vào
nội đồng các huyện Long Phú, Trần Đề, Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng với nồng độ mặn
rất cao, gây ảnh hưởng đến sản xuất, sinh hoạt của người dân.
Báo chí địa phương và cả
các cơ sở thông tin quốc gia cho biết là vào khoảng cuối tháng 2 năm 2022, nồng
độ mặn đo được tại các trạm trên một số tuyến sông, kênh rạch ở các huyện tỉnh
Sóc Trăng dao động từ 2,5 đến trên 18,4‰. Không chỉ thế, nước mặn từ biển ngày
càng tiến sâu vào đất liền và ngâm lâu ở các kênh, rạch, gây nhiều khó khăn cho
người dân lấy nước cho việc sản suất, sinh hoạt. Tại thành phố Cần Thơ, từ năm
2015 đến nay, một số khu vực thuộc địa bàn thành phố xuất hiện rõ nét tình
trạng mặn xâm nhập từ biển vào qua tuyến sông Hậu.
Liệu có ngày có hiện
tượng “Cửu Long cạn dòng” không? Dĩ nhiên ta phải hiểu “cạn dòng” đây là cạn
dòng nước ngọt, nước sẽ vẫn lênh láng trên mặt sông, nhưng là nước biển mặn,
chẳng còn phù sa màu mỡ tưới khắp ruộng đồng nữa. Lúc đó có ai còn nhớ đến Ngô
Thế Vinh không?
Bộ sách hai tập ấy có những trang viết chân
tình, đẹp đến nao lòng. Tình bằng hữu, nhất là bằng hữu văn nghệ, không phải
một sớm một chiều có ngay. Từ điểm hội tụ, nó cần được chưng cất, tinh luyện
nhiều tháng năm với tấm lòng chân thành, tha thiết. Điểm hội tụ đó chính là
lòng đam mê văn chương, nghệ thuật mà Ngô Thế Vinh cùng các bằng hữu của ông có
thừa.
Trong những thời điểm xung đột hoặc chia
rẽ, ông đã cố gắng xây dựng những cầu nối hiểu biết giữa các nhóm khác nhau.
Thông qua công việc của mình, ông nuôi dưỡng sự đồng cảm và thúc đẩy đối thoại,
tìm kiếm điểm chung và tính nhân văn chung.
Ngay cả trong những thời điểm đen tối nhất,
một nhà văn như Ngô Thế Vinh vẫn có thể mang đến cảm giác hy vọng và cảm hứng.
Thông qua lời nói của ông, chúng ta có thể đưa ra tầm nhìn về một tương lai tốt
đẹp hơn, thúc đẩy các cá nhân kiên trì và hướng tới sự thay đổi tích cực.
Nói như thế bởi tôi luôn luôn nghĩ ông là
kẻ dầm mình đi trong bão tố để tìm con đường sáng sủa hơn cho tương lai dân tộc
Việt Nam, một dân tộc chịu quá nhiều khổ đau và thiệt thòi.
Trịnh Y Thư, tên thật Trịnh Ngọc Minh,
sinh ngày 11 tháng 2 năm 1952 tại Hà Nội. Theo gia đình di cư vào Nam năm 1954.
Lớn lên ở Sài Gòn. Năm 1970 sang Mỹ du học, và sau khi tốt nghiệp, làm việc
trong ngành điện tử viễn thông cho đến khi về hưu năm 2018. Viết văn, làm thơ,
dịch. Nguyên chủ bút tạp chí Văn Học (California). Đương chăm
sóc cơ sở xuất bản Văn Học Press. Ngoài các sinh hoạt văn
chương, Trịnh Y Thư còn là một cầm thủ ghi-ta cổ điển, và sáng tác nhạc gồm
những tấu khúc cho piano, ghi-ta, và một ít ca khúc lời Việt.
Tác phẩm dịch đã xuất bản:
- Đời nhẹ khôn kham (The
Unbearable Lightness of Being), tiểu thuyết của nhà văn Pháp gốc Tiệp
Milan Kundera; ấn bản thứ nhất, tạp chí Văn Học (California)
xuất bản, 2002; ấn bản thứ hai, Nhã Nam & NXB Hội Nhà Văn xuất bản,
2018.
- Căn phòng riêng (A Room of
One’s Own), tiểu luận văn học của nữ sĩ Virginia Woolf, ấn bản
thứ nhất 2009 & ấn bản thứ hai 2016, Tri Thức xuất bản; ấn bản thứ ba
2023, Văn Học Press xuất bản.
- Jane Eyre, tiểu
thuyết của nữ sĩ Charlotte Brontë, Nhã Nam & NXB Văn Học (Hà Nội) xuất
bản, 2016.
- Gặp gỡ với định
mệnh, tuyển văn dịch nhiều tác giả, Văn Học Press xuất bản,
2020.
- Tập sách cái cười & sự
lãng quên (The Book of Laughter and Forgetting),
tiểu thuyết của nhà văn Pháp gốc Tiệp Milan Kundera, Văn Học Press xuất
bản, 2021.
Sáng tác đã xuất bản:
- Người đàn bà khác, tập
truyện, Song Thúy Bookstore & NXB Thế Giới (Hà Nội) xuất bản, 2010.
- Chỉ là đồ chơi, tạp
bút; ấn bản thứ nhất, tạp chí Hợp Lưu xuất bản, 2012; ấn
bản thứ hai, Văn Học Press xuất bản, 2019.
- Phế tích của ảo ảnh, thơ,
Văn Học Press xuất bản, 2017.
- Theo dấu thư hương, tạp luận, Văn Học Press xuất bản, 2022.
(Thư từ người đọc)
Thưa chị N.D.
Phải có trình độ, phải có kiến thức
uyên thâm, thêm cái nhìn bao quát mới có thể viết về một tác giả với những tác
phẩm mà giá trị của những tác phẩm vĩ đại đó tự nó đã vượt quá không gian và
thời gian. Tự nó đã nói lên tất cả những khổ đau mà dân tộc Việt Nam phải gánh
chịu cùng với tiếng kêu tuyệt vọng của một dòng sông bị bức tử.
Bài viết ngắn của Nhà Văn Trịnh Y Thư ,chứng tỏ ông thừa sức viết về một đoạn đường dài hơn nửa thế kỷ của Nhà Văn Bác sĩ Ngô Thế Vinh với tấm lòng tha thiết yêu quê hương đất nước miệt mài không mệt mỏi, đã để lại cho đời những tác phẩm bất hủ, sống mãi với thời gian.
Một vài ý nghĩ vụn vặt, đầy tính chủ quan của tôi. Xin chia sẻ với chị N.D. khi đọc bài viết của Trịnh Y Thư đăng trên (tranhuybich.blogspot.com)
Kính chào.
Huy Văn Trương
(Huy Văn Trương là tác giả nổi danh với bút ký Tiếng Súng Cuối Cùng Trong Dinh Độc Lập.)
(Thư từ người đọc)
Bài này rất hay vì rất đúng. Anh Minh thấy và
hiểu rất rõ ràng người bạn thân của chúng tôi qua những phân tích chính xác của
tác phẩm anh Vinh sáng tác xưa và nay. Anh Vinh viết nhiều về người khác. Chúng
tôi đang mong có người viết về anh ấy với tất cả tinh tế nhân xét phân tích.
Anh Minh đã làm điều đó. Cam on anh.
Hao Duong
(Thư từ người đọc)