Đặng Tấn Tới – Duy Thanh vẽ
Cùng nhau về tụ đầu sương
Đầu thập niên 70 thế kỷ trước là thời điểm được Thơ chọn để đánh dấu cuộc kỳ ngộ giữa ngôn ngữ với những ưu tư trở thành nếp nhăn trên diện mạo tâm hồn. Người làm thơ đưa ngôn ngữ vượt qua những chặng đường dằng dặc báo hiệu sự chuyển mình của một dòng thơ cần vươn mình ra biển. Thơ trở thành sự cấp thiết của tâm hồn khi đối đãi với những dằng co, xô đẩy con người lâm lụy sâu hơn trong thế trận oan khiên. Thơ muốn được làm cơn lốc xoáy gửi lên trời gió bụi của những cuộc lên đường không có lộ trình. Trong hoàn cảnh ấy, người làm thơ sánh cùng kẻ hát rong, vỗ về người và phân bua với đất trời bằng gan ruột của loài chim đã khánh tận tiếng hót bi thương. Nhập vào ma trận ngôn ngữ thời đại này, tuổi trẻ nhận đi trước trong thế cờ phá vỡ chước an bài, ít ra là trong nỗ lực chọn cho mình tiếng nói riêng biệt của thời dồn dập ra khơi. Thơ chuyển mình và lấy khói sóng cuồn cuộn lưng trời làm bản mệnh. Việc Thơ minh danh nhận lấy phận lênh đênh của quê nhà và con người tự nguyện gắn liền đã được từng mỗi thế hệ ghi tạc như lời gió để lại trên bia đá những nét dãi dầu. Năm 1972 có Chiêu Hồn Ca của Phạm Thiên Thư ( Bách Khoa Thời Đại, số 343, 01.5.1972) và Tuyệt Huyết Ca của Đặng Tấn Tới cùng chung lời hậu thế dâng cho núi sông nỗi đau thiêng liêng phản chiếu từ những tâm hồn thất lạc và hoàn sinh. Hai bài ca, theo cách riêng, vực dậy nỗi oan khiên từng bao trùm quê nhà để mong trái tim nhân ái hồi sinh trong tiếng gọi đàn còn sót lại bên máu lửa.
Chiêu Hồn Ca,
184 câu
song thất lục bát, là sự lặp lại mẫu
mực truyền thống về thông linh, mang ý nghĩa tìm kiếm cuộc gặp mặt sau cùng với
những người thượng tồn khuất mặt. Gọi là thượng tồn vì họ là những người được
đánh thức, không bị bỏ quên, được hài danh giữa hằng hà cát bụi bỏ rơi giữa đấu
trường mang nhiều danh nghĩa.
Chiêu Hồn là khúc hát ban chiều, mượn không-thời
gian tranh tối tranh sáng làm một cách tấn phong thân phận nhá nhem của những
thế hệ bị hoàn cảnh ruồng rẫy.
Chiêu Hồn không là khúc bi ca nếu những người được
triệu vời tâm tín bài ca là những bước vượt được nại-hà như vượt qua ảo ảnh
những ốc đảo tâm linh dựng lên trong trắc ẩn.
Chiêu Hồn là cách phản ứng tập truyền trước mối
thương tâm. Là giấc mộng cần thiết trước khốn cùng. Là những giọt nước trong mơ
giữa mùa đại hạn. Người viết và hát khúc chiêu hồn thuở ấy có thể cảm thấy xa
rời được băn khoăn và giã biệt được bứt rứt một phần như nỗi lòng người từng
mượn Tâm ca để trang trải những trái khoản với đời từ đôi ba năm trước.
Ngọn gió giải oan của Chiêu Hồn dẫu sao vẫn là
khúc tự tình với quê nhà và với con người còn mất. Ngọn gió nồm được đổi tên
làm nguôi ngoai hồn người trong giây lát nhưng dư ba là ngọn gió sáng của ý
thức đương thời trước những điều nghịch lòng diễn ra như số mệnh của loài
đá bên trời.
Còn Tuyệt
Huyết Ca của Đặng Tấn Tới mới là
lời tự tình kết tinh bằng máu. Bài ca được lập thành từ kinh nghiệm làm người
trong gian truân và hái lượm được từ lồng ngực không lành vì trăn trở.
Người làm thơ gửi thông điệp về cõi trần ai từ
chốn vô thức xa xăm nơi người có thể gặp lại những mảnh hồn lỡ dỡ vì cuộc thế.
Hơn là một khúc chiêu hồn, tuyệt huyết ca biểu
hiện sự thăng hoa tuyệt mức của tinh thần quán thế, chia sẻ khổ hình để mong
nhẹ gánh thương đau, cùng nâng chén phạt để lệ người bớt mặn. Hồn đau nhỏ máu tơ đồng / mấy cung hồ rợn mênh mông gió gào ( câu
23-24)
Tuyệt Huyết ca là sự truy tầm chân diện tâm hồn tự
trong vô thức. Người không đứng từ cảnh giới khác biệt của cõi dương để mở cuộc
bố thí lòng từ mà lặn lội tìm gặp những linh hồn khổ ải vẫn chưa tròn kiếp điêu
linh nơi cõi khác. Trai đàn của nhà thơ không chỉ xây dựng trên lòng trắc ẩn
xót thương mà bằng ánh sáng ban mai của ý thức. Xương máu chứ không phải là phù
danh hay ảo mộng mới là gia trọng của cán cân lịch sử. Trong trường hợp này,
thi nhân mới là người thị chứng một sự thực từng bị dày vò, tấn phong một chân
lý đã bị hàm oan. Trang chiến sử viết bằng máu lệ ( hồng sử). Hoa chiến thắng
tưới bằng máu hồng ( hoa huyết), chính là chân diện của một pháo đài che lấp
tầm nhìn người trong cuộc. Vịn sắc máu
trong tòa hồng sử / tay rung mầu lữ thứ
cô hương / lạnh nghe hồn réo mười
phương /
ngợp lòng hoa huyết buốt xương tương tàn ( câu 33-36.)
Tuyệt Huyết Ca là cái cách thi nhân nhập mộng để
sự thực được đầu thai cũng như những cuộc lên đường đều mang theo chiếc bình
thủy tinh của mơ ước.
Tuyệt Huyết Ca là cách khơi dòng cho dòng máu,
thay vì luân lưu, đã chảy ngoài huyết quản. Trong một trăm linh tám (108) câu
song-thất lục-bát của bài ca chỉ có mười hai câu liệt danh dòng máu bơ vơ như
thân phận kẻ bị chính quê nhà ruồng rẫy
ai ước vội
bên ngàn gió thẳm
ai buồn lay
trên dặm lau khô
lênh đênh
ngoài biển nhấp nhô
và ai trên
nẻo mơ hồ hàn giang ?
người vất
vưởng tận hang cùng cốc
kiếp lạc
loài oan khốc kêu sương
máu khô
thịt nát bên đường
rợn mầu
tinh huyết đò dương đắm chìm
phơi xương
trắng ngoài đêm cát lạnh
vùi đó đây
từng mảnh thân non
đất bay đá
chạy chi còn
bi thương
cổ lục héo mòn tân thanh ( câu 37-48)
Khác với bài ca truy hồn dành cho thập loại của Tố
Như, bài tuyệt huyết thu hẹp sự liệt danh như vị trí khiêm tốn của những kẻ
sinh thời vốn đã lặng lẽ như chiếc bóng lẩn vào góc tối. Họ vốn có chung trong
danh bạ những kẻ trắng tay, những người thua cuộc trước khi ván bài lên nước.
Tương tự những con số vô tri trong cuốn sổ đời, thân phận họ còn là nghi vấn
với người quản thủ.
Tuyệt Huyết ca hơn là một khúc chiêu hồn vì bên
cạnh việc tẩy oan còn tiếp tục khơi dòng chảy mới cho dòng máu lạc loài đã chảy
ra ngoài mạch. Con đường triết lý được mở ra không chỉ cho dòng máu trào ở bên
đường mà còn cho cả những người cùng nguồn cội. Con đường ấy đầy hương sắc trí
tuệ của Trang Chu hơn màu thiền mà Đặng Tấn Tới quen thuộc. Con đường hướng đến
thanh cao, thoát tục được vẽ lại như một sơ đồ trong ý hướng giải thoát. Cùng nhau về tụ đầu sương / long lanh chút mộng cuối đường tài hoa (
câu 63-64)
Như thế, thi nhân đã chọn đường không chỉ cho thơ
mà muốn con đường này được dành cho mọi người trong nhân thế. Bài ca Tuyệt
Huyết, từ đây, là khúc dương hòa ca ngợi cõi mà con người hướng về như đón gió
sớm của mùa gặt mới.
Nơi an hưởng cho những hồn oan là cõi tịnh tâm
hoàn toàn thiếu vắng bụi hồng. Quá khứ đã là mồ chôn tiền kiếp nên bài ca chưa
thể vắng dấu vết của âm hưởng khúc chiêu hồn. Đàn trai của Đặng Tấn Tới vẫn
được tạo dựng trên nền cũ là sự hòa hợp giữa con người với đất trời hay “ngã
lớn.” Điều mà đa số trong họ, hồn nhiên và trong vô thức, sống và suy nghĩ thuở
sinh tiền. Mây thanh vắng phai nhòa bào
ảnh / hồn xa đưa về cảnh non thu / hợp tan với bóng sa mù / mang hài cái lá đi
dù cái mây ( câu 65-69.)
Điều an ủy lớn nhất cho những người uổng tử là ước
vọng của họ được phục sinh không chỉ trong lòng thơ. Một vận hội mới sẽ mở ra
trong âu ca bên sự phụ trợ của văn chương diễm lệ.
Những cái chết được hồi sinh, hiểu theo nghĩa tiếp
thêm sinh khí cho người còn sống sót.
Non nước cũ
rạng ngời sông núi / trời trong xanh
muôn tuổi thơ ngây / nước trôi mây cuốn chưa đầy / ngày sương nắng biếc hồng
rây ánh vàng ( câu 77-80)
Ngày mới mở ra trong thơ khiến cho từ đây khúc ca
Tuyệt Huyết có dung mạo của trang tân-ước. Niềm ước mơ cùng hy vọng của con
người hồi sinh trong một cảnh giới hoàn toàn khác trước. Một thế giới nằm trong
viễn tượng của những trang kinh ước lệ còn chưa ráo đau thương. Mây gió nổi trôi ngàn bước mộng / bàn chân không lùa sóng vô biên / ta đi dạo
khắp cõi miền / này là phố thảo kia
triền xóm hoa ( câu 91-94.)
Tuyệt Huyết Ca là bước vọng cầu xa hơn trước một
thực tại ngày thêm gay gắt giữa con người và hoàn cảnh. Kể cũng nghịch thường
khi mơ ước thêm nở hoa lúc con người bước dần vào tuyệt lộ. Mơ ước và hy vọng
là bóng mát còn lại sau cùng trên đường dài gian truân lưu lạc.
Bài ca Tuyệt Huyết là hình ảnh bóng trăng trên
dòng sông chết vào một ngày nguyệt tận. Con người níu lấy hư ảnh của ước mơ,
qua bóng trăng, để sống còn và an ủy kẻ chẳng được may mắn như mình. Trong hoàn
cảnh trên, mơ ước là loài hoa cô độc nở trên sỏi đá, tưới bằng huyết lệ, dành
cho ngày trùng phùng bất hạnh.
Với ý muốn của người làm thơ, Thơ, có lẽ là phần
tử duy nhất can thiệp vào định mệnh bằng việc an bài một sinh lộ tinh thần
không chỉ cho người bất hạnh. Thơ đã xuống trần chịu giảo hình cùng người lâm
nạn. Thơ hết bơ vơ và con người cũng không còn cô độc nữa khi họ tìm lại được
mình sau giấc mộng. Ôi kiếp người trong
giấc ngủ ngày / bùn ngâm sặc óc máu
loang tay ( Vũ Hoàng Chương, Ác Mộng Nào Hơn.) Nhưng ở hoàn cảnh mới này,
thơ phải nhọc nhằn biết bao để mang trọn điều gửi gắm. Thơ là dự phóng của tâm
hồn, nghĩa là thông tri trước những tiền cảm-giác. Để còn rung tới vô cùng / sợi
dây đơn chiếc giữa vùng đa đoan ( Vũ Hoàng Chương, Một Sợi Giống Nòi)
Không hẹn mà gặp, những người làm thơ đương thời
đều nhìn về ước vọng như hướng về một tinh cầu của những giấc mơ. Bài hát giải
oan vốn được viết bằng nhiều lời nhưng đều là những bước ly khai với thực tại
hãi hùng để tới nơi chan hòa nắng sớm tin yêu. Người làm thơ tưởng như cùng
uống chung dòng suối ngọt, gội chung ánh trăng ngàn khi cùng nhập tâm một giấc
mộng lành. Em hãy nắm tay anh nhảy dài
một bước / sang hẳn phía bên kia bờ Tận
Diệt ( Vũ Hoàng Chương, Nói Với Em, Ngồi Quán, Saigon, 1971.)
Cũng thế, hẳn là giấc mơ siêu thoát của người thanh niên hai-mươi thuở
ấy, Võ Chân Cửu, đã trở thành điều khao khát chung của quê hương. Ước mơ nay
không phản chiếu cái duy ngã mà là biên cương mới của tương lai dưới mắt bao
người. Giấc mơ của Võ, thực chất không là sự ly dị với thực tại hay thể hiện
một niềm tin mang màu sắc tâm linh, điều mà Tuyệt Huyết Ca nói là chỉ dành cho
những người oan khuất. Giấc mơ của Võ thể hiện ý thức mới không chỉ của người
trẻ tuổi về một hành trình tư tưởng cần thiết trước tương lai bất định trước
mắt. Ta nghe lòng giục giã / trong khuya
vắng canh gà / mười năm theo mây nổi /
ta đánh mất quê nhà ( Võ Chân Cửu, Quê Nhà, trong Tinh Sương, 1972.) Giấc mơ của chàng hai-mươi này là hình ảnh
cuộc trở về cố xứ, quê cũ. Nó không hẳn là cõi nguyên-xuân của Bùi vốn tượng
hình bằng những nét mơ hồ mây khói của sự khước từ thực tại. Giấc mơ của Võ
không ra ngoài ý nghĩa cuộc hành hương trong tâm thức về một quê hương đích
thực như nó đã có và phải có không chỉ cho riêng mình.. Mơ ước của chàng tương
tự định mệnh của sự nổi trôi nhưng là bước đầu cần thiết cho việc xa rời cái
thực tại quen thuộc trong thê lương. Mây
bay từ thiên cổ / cùng nhau trời đất tan
/ ta một linh hồn nhỏ / vơ vẩn miền Đại
Hoang.
Giấc mơ đượm màu giải thoát của Võ còn là một thử
nghiệm gian truân với những người tân tòng của ý thức mới. Giấc mơ không là
hình ảnh mang hương vị trái táo chín đầu mùa mời mọc.
Những người oan khuất của Đặng được nghe tiếng hát
giải oan, dù oan hay ưng, đã phải trả bằng giấc mơ chưa bao giờ có được. Và,
như thế, đứng lên hôm nay và xây dựng đúng nghĩa giấc mơ bằng ý thức chính mình
có lẽ mới là ý nghĩa đích thực của những tiếng lòng người thơ mẫn thế.
Kinh là sự dọn đường về một cõi siêu hình, vắng
mặt ý thức lẫn hình hài, tất cả như thể những gánh nặng cần bỏ lại. “ ...là máu của thiên thu về tụ dồn nhật
nguyệt, vỡ hàn huyết tuyệt mù, lùi điêu linh chín cõi, cho tan nát tang hồn,
vùi chôn thể phách...” ( Lời rao phát hành Tâm Thu Kinh của ĐặngTấn Tới
trên tuần báo Khởi Hành, số 82, 03.12.1970, tr. 16.)
Có thể nghĩ, người làm thơ đã vạch con đường mới
cho thơ bằng một phóng đồ dựa trên lộ trình của trực giác. Dù được mệnh danh là
kinh hay ca, thơ vẫn là thứ ngôn ngữ được triệu vời để thi nhân bày tỏ với
người. Thơ luôn được gọi mời mỗi khi con người cảm thấy an lòng khi được giãi
bày, thổ lộ. Sự ký thác bằng thơ gần như là một cách thông-thiên khi thi nhân
đặt niềm tin tuyệt đối vào khả năng của ngôn ngữ. Ngôn ngữ thăng hoa đem lại
quân bình giữa niềm khát khao của người làm thơ và giới hạn tự thân của con
người trước hoàn cảnh. Thơ có thể khiếm
diện hay tìm hình thức thế thân hay không, như có người nghĩ, khi trái tim lẫn trực giác người làm thơ đã
tỏ ra mẫn tiệp hơn người trước bước đi dồn dập của thời thế.“ Cho nên thơ là hình ảnh của con người và
vũ trụ ờ ngoài mọi vấn đề. Có những thời buổi của thơ và cũng có những thời
buổi khác không phải để thơ lên tiếng, mà để thơ vắng bóng nếu không muốn bị
lạc loài... “ ( Huỳnh Phan Anh viết về Thanh Tâm Tuyền, Khởi Hành, số 77,
29-10-1970, tr. 4.)
Kinh hay ca Đặng Tấn Tới của mấy năm đầu thập
niên 70 thế kỷ trước, dường như là sự xác định sự cần thiết và năng lực của thơ
giữa thời mà điều ngờ vực về thơ đã thành sự thực. Có những canh cánh bên lòng
mà chỉ phạm trù của thơ mới giúp người giải tỏa. Có những trầm tư mênh mang mà
chỉ đôi cánh của thơ mới cất được lên cao. Thơ không đa đoan nhưng là cửa ngõ
để tâm hồn người thông quá.
Thơ là bước đi thứ nhất của người vào cõi siêu
hình với ngôn ngữ, hình tượng riêng của người làm thơ. Bước chân mang tính chất
thí nghiệm và nhiều thách đố này đặt người làm thơ vào vị trí thừa sai. Mở rộng
nước thơ bằng việc đặt thơ vào những chuyến đi về nhiều hướng trong nhiên giới
và siêu nhiên giới.
a- Trong cuộc hiện thân này, đời của thơ ảo diệu vô
cùng, thênh thang như gió núi trăng ngàn. Thơ
chỉ in lòng trên giòng sông mà thơ rạng rỡ dù đất trời, cùng mây nước thường
xanh trắng từng khi. (*)
-----------------------------
(*) Tâm Thu kinh gồm nhiều bài thơ được xếp đặt
theo từng tiêu đề và với câu dẫn nhập. Bản được sử dụng là bản do tác giả phổ
biến trên trang cá nhân (dangtantoi-28-5-2010)
-----------------------------
Thi nhân xác định sự hằng cửu của thơ, như chân lý
hiện thân và không cần đến sự tái khảo nghiệm tự bên ngoài. Thơ không là một
loài ngôn ngữ mà con người muốn tìm kiếm nguồn cơn.
Thi nhân khi minh thị thơ là kinh, nghĩa là đặt
thơ ra ngoài sự phán xét, dù là tối hậu, từ chốn siêu nhiên. Như thế, thơ là sự dẫn đường, là sự mở lối
trong sự cộng thông của người đọc. Thơ hơn là sự dự phóng của tâm hồn người. Vì
từ đây, con người phải trải hồn mà lắng nghe thơ như hướng về ánh sáng để hình
dung mặt trời nguồn sáng. Hôm nào ta trở về Ngôi / hồn thơ
sẽ hết luân hồi thế gian ( Vũ Hoàng Chương, Nguyện Cầu). Như người thơ đã
mong ước thuở nào về khả năng của thơ và tín lực được đặt vào ngôn ngữ.(*)
Some night,
when amidst a starry vault / my star mounts high his divine Throne /
My poetry foever gives up her cycle / will no more pursue her wordly circle. Bản
dịch của Nguyễn Khang, khiến người đọc thấy rõ ý nghĩa hai câu nguyên tác của tác giả Vũ Hoàng
Chương ( Đặc San Bút Việt –VietNam P.E.N. Bulletin – số mùa Xuân Mậu Tuất,
1958.)
---------------------------------
b- Kinh là ngôn ngữ siêu nhiên. Dường như người làm thơ này muốn lặp lại ước mong của người đi trước bằng một hành động minh nhiên. Kinh là sự điểm mê. Đưa con người rời bóng tối thâm u của chấp trước, định kiến hẹp hòi. Con đường bước vào được thường gọi là Đạo hay không, không còn cần thiết nữa. Con người đi ra từ thân phận nhỏ nhoi vô nghĩa nơi cõi vô thường đến nơi sáng lòa tri kiến.
Phút giây
thấy được bên người / hết mình hạt bụi
sáng đời lửa hương / là khi đứng giữa Con Đường / thấy
hai đầu những Con Đường ra đi / là khi chẳng dứt Con Đường / hoa lê trắng điểm môi hường tháng ba / dẫm xanh bước cỏ la đà / hội mùa sương bóng
giao hòa chân mây.
( Vọng Về). Như nhà thơ đã ngỏ lời, thơ chưa đáp vào hay nói ra một câu nào xác
đáng. Trong quá khứ, thơ từng được thi nhân phó thác cho trăm cánh tay phù
trì, ngàn sứ mệnh cứu thế. Thơ còn được ủy thác thay người định lại giấc mơ từ
trong tiền kiếp. Kể từ sự có mặt của Bùi, và với Bùi, thơ như không hiện hữu tự
cõi thực này vì như gian díu với đường dây mơ hồ của một cõi xa xăm được Bùi
mệnh danh bằng nhiều tên khói sương không kém. Đó là thứ ngôn ngữ từ cõi khác
được truyền về, đôi khi là một thứ tín hiệu của hoài nghi, mà việc giải trình
chỉ là cách xác nhận một thế giới trung gian giữa nhiên-giới và siêu
nhiên-giới. Cõi khác là cõi ngoài nơi mà
biển và dâu thi đua nhau xanh, khiến cho dâu và biển nhập một không sai biệt
( Bùi Giáng, Câu Chuyện Hôm Nay, dẫn theo Đông Trình, Một Thế Giới Mới, Thi
Nhân Đang Tập Nhìn, Khởi Hành, số 103, 6.5.1971, tr. 5.) Đó là chốn không còn
phân biệt, chấp trước để xác định sự hiện hữu của mình, không còn vọng tưởng
một tha lực nào đó nương tựa vào để tồn tại. Thế giới mà thơ truyền về, từ đó
đã phần nào ngăn cách thơ Bùi với chúng ta còn hơn sự cách biệt giữa âm-dương,
sáng-tối, mê-tỉnh. Việc Bùi hồn nhiên trong thế giới thơ của ông giữa lúc chúng
ta ít nhiều trăn trở trong cõi quen thuộc của mình nói lên sự thực rằng, thơ đã
tạo lập được cõi khác thanh bình hơn ta tưởng.
Trường hợp Đặng Tấn Tới có vẻ tương đồng khi lời
kinh của người có dáng dấp mật truyền từ nơi viễn cách. Chính thơ (hay kinh)
được gửi đi từ người tạo nên khoảng chân không, theo đúng nghĩa của một cách định nghĩa dành cho thơ. Thơ chưa đáp vào hay nói ra một câu nào xác
đáng. Như thế, thơ từ chối đáp ứng điều gì kể cả việc hành động để người ta
có thể chấp nhận hay từ chối.
c- Em ma quá
mộng là chi ? / ấy là em đã bước đi qua đường
/ từ ngày cỏ đẹp là sương / hoa xanh là biếc của trường cảo thơm (Em
Ma Quá Mộng).
Tuy chưa thể xác định thế giới mà Đặng Tấn Tới
nhận làm nơi xuất phát hồn thơ, điều mà Bùi đã làm theo cách riêng của người
thi sĩ, Đặng đã đánh thức con đường dẫn đến cõi này bằng những bước chân đầu
của người khám phá nhờ một thiện duyên. Duyên đây là nguyệt – tiền kiếp của
trăng – nguyện lấy tiền thân làm bảo chứng cho nguồn suối mộng bị hoài nghi.
Qua hai kiếp, trăng khiến người ta ngờ vực thêm về ước vọng được con người gửi
vào và kết quả họ lãnh nhận. Trăng vẫn vằng vặc dầu ước vọng gửi vào có ra sao,
cũng như nét sầu vui của con người nào có tùy thuộc nỗi lòng của gương nga buổi
ấy. Soi không thấy mặt / rỡ ràng sáng trăng / thu về man mác / một trời gió măng (
Gương Trăng.)
d- Kế đó, Đặng Tấn Tới cũng mở rộng thế-giới quan,
nhìn ra được sự biến thiên xảy ra với con người và vạn hữu. Chẳng có gì bất
định để có thể trụ vào. Con người trần
thế cùng ông Thượng Đế xa xôi quả thật là Một.
Nhận định quen thuộc ấy như mở rộng thêm cánh cửa
phương đông đón ánh nắng ban mai sáng bừng lòng người thời u uất. Người làm thơ
với giấc mộng sứ truyền đã đặt lời kinh vào đầu ngọn sóng của con triều tâm
ảnh. Tâm ảnh là hình bóng của lòng được truyền đi bằng thứ ngôn ngữ riêng của
từng sợi tơ cảm giác. Nơi người làm thơ, tư tưởng nay được nuôi dưỡng bằng mật
ngọt của ngôn từ và sắc độ của hình ảnh, và hoài thai thành từng hàng tân-ước
truyền kỳ. Hãy thử gối đầu trên mây, duỗi chân trên sóng, nhẩm lại kinh
tâm-thu, sẽ hình dung ra thế giới mênh mông của thơ lan tỏa theo trí tưởng
tượng đến những biên cương khuyết danh
Đi về một
mạch đường thanh / bàn chân tân ước bước xanh da trời / hái hoa hay cỏ cho dài / mai đồng trời đất cất vài ly môi ( Tuyệt Huyết Ca)
Thế giới này lạ lẫm và ngay cả nhiều phần ngộ
nghĩnh trong ý thức và luận lý của chúng
ta nhưng không hoàn toàn cách biệt như sự biệt lập giữa các hành tinh. Khó có
thể nghĩ, bằng vào ngôn ngữ của tâm-thu, Đặng Tấn Tới đã đóng góp thêm vào sự
đóng băng tương quan giữa con người vốn đã chịu sự chìm đắm trong hoàn cảnh
nghiệt ngã. Trái lại, kinh tâm-thu là tiếng nói của mùa lá rụng trong tâm. Ảm
đạm nhưng tất yếu theo quy luật biến dịch của đất trời và con người. Thu cũng
là màu tâm hồn được gửi trên sắc lá. Bằng thứ
ngôn ngữ riêng, vừa thể hiện một bản ngã, vừa là cách ký thác như bằng
mã tự của hồn thơ, có lúc Đặng đã đến với thế hệ mình như người hướng đạo của
một chuyến đi đến một tinh cầu còn xa lạ như dụ ngôn.
e- Dụ ngôn, có thể nói là thứ ngôn ngữ nhiều tầng,
đòi hỏi người đọc, công việc của nhà tiên tri,
thấu thị được kiếp trước của chữ nghĩa được chọn. Thứ ngôn ngữ lấy sự dấu mình
làm cách sống như người ẩn sĩ nơi chốn núi rừng. Tâm-thu kinh chép bằng những
chữ giản dị. Những lời ở giữa hai hàng
chữ và chạy tuốt ra ngoài bài thơ. Hồn của kinh nằm trong văn tự, hiểu theo
cả hai nghĩa đen-bóng, trong-ngoài. Ở
đây kinh tâm-thu đã chọn cách gửi gắm của người xưa bằng vào cái duyên tương
ngộ trong số những người đến với kinh. Về
đây ta lại với mình / tròn thôi lại
khuyết lung linh theo giòng ( Trăng Một Thuở Mờ Quan San Cát Tình).
g- Kinh tâm-thu là một thứ ngôn ngữ ám tàng. Ngôn
ngữ nằm trong trò chơi trí tuệ. Nhưng người bày trò không là người điều động
chữ nghĩa. Chính người đọc nào đó làm công việc này khi nhận được tâm truyền
nơi kẻ bày trò. Kinh của Đặng là thứ ngôn ngữ nam châm, đi tìm đối cực để gặp
sự hòa hợp, nghĩa là mọi điều, mọi vật đều được xây dựng trên dị biệt, mâu
thuẫn. Viễn ly điên đảo mộng gì / khi chân không hạn bước đi như đời / từ
hồi bất tận vào chơi / trò xương máu mãi
chưa rời người ta. ( Thu Dù Bất Tận Vô Vàn Viễn Ly).
Từ xưa, thơ đã đồng nghĩa với vô hạn, nghĩa là
không thể biết trước được những điều thơ sẽ nói đến, sẽ vây bọc nhưng không là
thứ biên cương, dù chỉ nhất thời. Bất tận, vô hạn ,vĩnh cửu hay tầm vóc tương
đương sẽ là kích thước mới của vạn hữu, kể cả hạnh phúc hay tai ương. Trong lần
hiếm hoi, kinh đề cập thực tại mà không qua trò chơi chữ nghĩa. Trò chơi xương máu chưa rời người ta.
Trò chơi đã vượt qua rất xa sự nhẫn nại của con người không chỉ vì nó đã rơi
vào quỹ đạo hành tinh. Thơ phủ định trò chơi này dù mâu thuẫn với bản chất vô
hạn mà thơ theo đuổi.
h- Hoa vài bông cuối đường hương
Đường hương đã cuối môi hường cuối chưa
Hỏi như thế
thì biết đáp ra sao
Suối và
sông rộng mù sương
Trùng khơi
chẳng gọi, nước thường vẫn thưa
Môi cười
trắng mộng canh mưa
Bao giờ
đâu, mãi sóng đưa ngang trời
Đoạn kinh này mang phong cách Bùi (Giáng) hơn như
ta tưởng. Không chỉ ở một số ngôn ngữ đặc thù mang dấu tay riêng biệt của Bùi
mà còn ở vào trường hợp ra đời trong khoảng mơ hồ của ý thức. Mặc dầu kinh có
những câu như dung nham của một cơn phún xuất bất ngờ. Môi cười trắng mộng canh mưa /
bao giờ đâu, mãi sóng đưa ngang trời. Kinh không phải là lời cầu mộng. Hay
là lớp ngôn ngữ bỏ lại trên bờ sau khi hồn thơ đã theo sóng rủ nhau ra khơi.
Tác giả gọi chúng là, “câu hỏi dội vào mênh mang, gọi về một lối đáp lơ lửng.” Tiếng vọng
mơ hồ nên câu hỏi vẫn còn là một nghi vấn. Trong tương quan nhân quả, chính vụ
mùa được hay không giúp xác định giống lúa được gieo. Nhưng thi nhân đã phá vỡ
hay ít ra nghi ngờ mối tương quan này trong cố gắng loại trừ những ràng buộc
con người vào định thức hay quy củ. Trùng
khơi chẳng gọi / nước thường vẫn thưa.
Là hiện tượng tự nhiên phá vỡ sự câu thúc của định kiến hay trí tuệ từng buộc
chặt con người vào cỗ xe duy lý. Riêng ở điểm này, tâm-thu kinh đã mở rộng con
đường duy nhiên, ca tụng cõi nguyên xuân mà Bùi đã đi trước bao người.
i – Ơi người
con gái hái sen !
Ồ người em
gái hoa đèn đêm xưa
Nàng về xõa
tóc song mưa
Tóc đuôi gà
bỏ ban trưa bay rồi
( Đặng Tấn Tới, Gái Hái Sen, trích riêng in lại
trong Khởi Hành, số 72, 24.9.1972)
Nếu xét theo bố cục của trang kinh, bài thơ dẫn trên
nhấn mạnh đến bản chất của sự việc mà không là cái hiện tượng ta thường lầm
lẫn. Như vẻ thanh tú lẫn người thiếu nữ hái sen hay hái hoa ngâu đã không còn
khi bỏ lại cái duyên dáng làm nên bản sắc. Nàng
về xõa tóc song mưa. Vẻ diễm lệ lãng mạn ấy không làm nên hình ảnh đích
thực của cô gái hái sen kể từ khi nàng đã xa rời chiếc đuôi gà trên mái tóc.
Hình dáng cũ kỹ nền nếp ấy của người con gái mới là bóng dáng của con người
được liệt hạng mà không có chút hào quang. Hệt như hình ảnh đương thời cô gái
hái hoa ngâu chỉ có khi nàng cặm cụi bên vườn ngâu ngát hương thanh khiết.
Hương của loài hoa, lần này, trở thành nhan sắc của người hái hoa. Sự mê hoặc
của một loài hương hay đây mới thực là chân dung tâm hồn người thiếu nữ. Đặng
đã viết nên kinh bằng những nhịp của trái tim.
Ơi nàng con
gái hái bông ngâu
Tay rộng
ngàn thâu mộng trắng phau
Sực tỉnh
canh khuya cành rụng hết
Còn đối tượng của Bùi (Giáng), sau những năm
tháng, đợi chờ, hoài vọng, đã hóa thân vào ngôn ngữ để trở thành một tiếng gọi,
một hình ảnh, một ý thức về cái ngã. Cái ngã không còn độc lập và của riêng ai
mà hòa chung với thiên nhiên, an bài trong vĩnh cửu. Ngôn ngữ Bùi sống được đời
sống tự nhiên cũng nhờ ý thức trên. Nếu xem cuộc đi về gặp gỡ ấy là cuộc hành
trình giải thoát, Bùi đã vãng lai chốn ấy như người giữ đền thiêng. Hơi thở là
lời thiêng vì chứa đựng chúc lành nhân thế
tên em là
tiếng sáo diều
hồn em ấy
giọng gió kiều diễm ru
bây giờ rắc
lá mùa thu
xuôi giòng
sông lạnh sông Thu bốn bề
( Bùi Giáng, Bây Giờ Còn Lại)
Ngôn ngữ tiềm ẩn của Bùi là sự kế thừa vừa là
chiếc bóng của ý thức trước thực tại. Bùi trót làm kẻ lánh đời nên không thể
hành động đương đầu. Ngôn ngữ tiềm ẩn gần như tiếng cười bao dung, đứng ngoài
thị phi và ràng buộc. Không chấp trước để tồn tại hay xây dựng một chỗ đứng cho
riêng mình. Nước cờ chiêm bao chính là suy nghĩ, lối đi của việc không phân
biệt được hình tướng
một ngàn cỏ
lá cồn trơ
đẩy ngang
ngửa nhịp nước cờ chiêm bao
( Bùi Giáng, Bờ Tồn Sinh)
k- Lòng tôi
thả bóng phù vân
Theo sông
ra biển, triều dâng lên trời
Đời đời tôi
mãi ra khơi
Chèo ghe
tang hải giọng cười cát khô
Hai bờ một
bến lô xô
Bước chân
qua bãi nhấp nhô trăng vàng
Đây là đoạn kinh tâm-thu có tiêu đề là “một lối
rơi tuột của ba la mật”
Đến bờ giác mà gọi là “một cách rơi tuột.” Phải chăng câu kinh muốn ám chỉ cách đốn ngộ
hay trái lại, phủ nhận phương thức giác ngộ này.
Đốn ngộ là trường hợp trí tuệ bừng nở để nhận ra
chân lý mà không qua một tiến trình suy tư. Sự nhận chân tương tự sự tương ngộ
bất thần giữa người đã giác ngộ và người chờ lãnh hội. Sự giải thích nguyên do
nằm trong điều bất khả tư nghị, nghĩa là sự giác ngộ nằm ngoài tiến trình luận
lý. Việc thị chứng đốn ngộ chỉ có thể hiểu là trường hợp diệu kỳ của tư tưởng,
ngộ mà không giải thích được tiến trình.
Tuy vậy, trường hợp người hành giả đáo bỉ ngạn này
không phải là trường hợp thông thường. Lòng người ấy đã nhẹ như mây trôi, không
gì cản trở, vướng mắc. Lòng tôi thả bóng
phù vân / theo sông ra biển, triều dâng
lên bờ. Kinh nghiệm trước dâu bể của người không hề ít ỏi. Đời đời tôi mãi ra khơi / Chèo ghe tang hải giọng cười cát khô. Cho
nên cách đốn ngộ không còn là điều là điều khó khăn, hay hãn hữu nữa. Bước chân qua bãi nhấp nhô trăng vàng.
Và, như thế, sự thành tựu giác ngộ không còn là điều bất khả tư nghị nữa.
m- Chẳng vơi
đất cũng chẳng đầy
Một giây vô
hạn trao tay làm quà
Bàn chân
cát bụi chan hòa
Bước đi lối
có khôn dò bến cây
Thanh hồng
nào biết thơ ngây
Người qua
mầu nhiệm mây bay ngang trời
( Một hột lâm ly qua đi)
Thơ đã rơi vào một mê trận ngôn bất dung từ, khi
muốn được dâng cho kinh một tứ cao sâu. Trong trường hợp này, người chẳng với
tới thơ, khi thơ trở thành thứ hiến tế. Thơ không có dấu vết của vô thức, hiểu
theo nghĩa của trường hợp xuất thần. Tận dụng trực giác trong hy vọng tiến gần
được đến thơ cũng là điều khó làm được. Khác với trường hợp có thể làm với thơ
của nhóm Xuân-Thu, muốn nhuốm thơ ít nhiều màu siêu nhiên, huyền bí.
Thơ được đồng hóa với siêu nhiên, là trường hợp
của tâm-thu kinh. Thi nhân đã cắt đứt mối tương thông, đường dây giao cảm giữa
thi nhân và người đọc. Thơ trở nên một hòn đảo bơ vơ giữa khơi, hoàn tất ý muốn
thần bí hóa thơ của người làm nên chúng. Thơ đòi người đọc phải qua con đường
đốn ngộ mà dường như có lần người đã khước từ ( trong Một lối rơi tuột của ba
la mật)
Nhưng, nếu xem hai bài thơ cùng một mạch ý, thì Một hột lâm ly đã qua cũng là trường hợp
một công án cần được phá vỡ bằng sự hoài nghi của nội dung bài thơ hàm chứa.
n- Giấc ta
chỉ thoáng phù kiều
Say ta mấy
cốc rượu chiều dương gian
Lá thu cháy
hết từng trang
Hồn thu
trong vắt nước tràng giang đi
( Còn Thu Nào Nữa Qua Đồi Quạnh Hiu)
Một trong những câu chứa đựng nhiều chất thơ hơn
cả là đây. Có lẽ bởi vì liên can ít nhiều cảnh giới thi nhân lai vãng. Cõi mà
thơ được phó thác việc lay động phần ý thức ngủ yên nơi những tâm hồn lạc bước.
Những xúc động của trái tim trần thế nào có thể làm chốn này xôn xao.
Cô đơn hay hoang vắng không thể làm nên ý niệm về
thế giới mà tâm-kinh tỏa sáng. Quạnh hiu
nào có thể bừng lên một cõi tĩnh nhiên khi thấy được. Bản chất của tâm-thu
kinh là quy hướng về
việc giải thoát cái tâm mùa thu mà thế nhân mang
nặng như biệt nghiệp của mình. Khi rũ sạch được mưa gió mùa thu trong lòng thì,
hồn thu trong vắt nước tràng giang đi. Dòng sông sẽ đưa hồn thu
đến chốn vô cùng. Giấc phù kiều mà người tương ngộ với thế gian là điều nhắc
nhở bản chất vô thường của vạn hữu, giấc
ta chỉ thoáng phù kiều. Ý tưởng quen thuộc trên của câu kinh dường như là
điều ám ảnh những người tin ở đạo thiền về tính cách tạm bợ của mọi vấn đề dù
lớn lao cách mấy, trong cuộc thế. Buông xả, là giải pháp tự nhiên của hướng đi
nhưng không dễ dàng nếu con người bị buộc xem là lời thoát duy nhất. Như thế,
chén say chuốc ở cõi trần không thể xem là chén để tìm quên. Quên là sự đào
thoát, nên càng ràng buộc con người với điều họ muốn cởi bỏ.
l- Đất bằng
đưa bước phong ba
Nước trong
mây trắng lắm qua tang bồng
Còn nhau,
hoa máu tươi nồng
Sáng trưng
hoang lạnh cánh hồng mang mang
Đưa nhau
cây cỏ hai hàng
Gió rung một
lối thu tràn mênh mông
Tôi xin
sương nắng hương đồng
Cùng nhau
reo (gieo ?) lại tơ lòng xa xanh
Câu kinh Tơ
Xanh trên không có lời dẫn nhập nhưng bù lại, là câu có nhan đề hy vọng
chứa chan. Mầu xanh, mầu quen thuộc như lộc nõn của văn chương nhưng lại là sắc
hiếm hoi tìm thấy trong một trang kinh, bởi vì nó là màu của nụ cười trẻ trung
nơi trần thế. “ Thời bây giờ, chúng ta
không còn những bài thơ xanh, những bản nhạc xanh, những con mắt xanh ngạo nghễ
như tuổi thanh xuân ân sủng hiếm hoi đã bị cướp mất tự hồi nào. Tại sao người
không quan tài để liệm màu xanh như ngày nào người ta đã cho Thượng đế vào quan tài...” ( Phù Vân, Xanh Mưa,
Khởi Hành, số 34, 9.12.1971, tr. 7.)
Quả thật, Tơ Xanh là ước vọng về sự phục hưng nhân
bản sau cuộc tang thương diễn ra bi thảm trên đất nước. Còn nhau, hoa máu tươi nồng / Sáng trưng hoang lạnh cánh hồng mang mang.
Kinh là chuỗi âm thanh mừng cuộc trùng phùng với tình người, tái thiết tâm hồn
bằng những sợi tơ tình mang màu của tuổi hy vọng và tình yêu đằm thắm. Tôi xin sương nắng hương đồng /
Cùng nhau
reo (gieo ?) lại tơ lòng xa xanh. Câu kinh mang đậm màu sắc và hương vị trần thế
trên dường như là sự ấp ủ kín đáo ước mong chân thực của con người dưới thế.
Ước vọng là sự thăng hoa của đức tin, nhưng bản chất của nó vẫn là phản ảnh
niềm khao khát thực tiễn của con người. Bất lực trước cô đơn, người phương tây
mai táng thượng đế bị nghi ngờ là bó tay, vô hiệu chẳng giúp được người. Còn
người phương đông bình thản hơn, khi quay về nghiền ngẫm đau thương như sự sám
hối với lòng để ngỏ.
o- Ngó vào
thật kỹ
Thấy rõ
ràng
Cái như
không thấy
Từ đấy
Con Đường
Lớn mở ra
Cho Tất Cả
Bài Thu
Không trên là bài kinh luận về chữ Không nhà Phật, từng trở thành nguồn thi
tứ mông mênh với ngưởi làm thơ có lẽ nhiều hơn là để lại băn khoăn nơi người
tin vào tín lý. Giữa con đường luận lý và thi ca, chữ không mời gọi năng lực trực giác của người làm thơ hơn là trí tuệ
tìm ra thêm trong lý luận. Nhắc đến lá
ngô đồng là gợi lại hình ảnh mùa thu. Đó là sự liên tưởng của khách văn chương.
Không phải sự xác định của thiên nhiên mặc dù lá ngô đồng rụng vào mùa thu cùng
với nhiều thứ cây khác. Lá ngô đồng rụng không làm nên mùa thu. Chính vì chữ không này mà mùa thu phải tái diễn, phải
lặp lại sự có mặt hằng năm như nhắc nhở một sự thật bị khuất lấp vì một sự thực
khác. Cái không bị khuất lấp, bị phủ
nhận một cách gián tiếp trong trường hợp này do định kiến con người đã dành
quyền tạo hóa trong việc phân định vị trí của mùa thu. Thu không như tên gọi bài kinh, là bản chất của mùa thu hơn là
tiếng hát của mùa lá rụng. Nó là một mùa bơ vơ vì chưa được khai sinh. Chỉ vì
ngô đồng rụng lá nên chịu mang tên của thời gian lá lả tả rời cành. Tháng gần năm đã rời xa / mùa măng chớm mọc rớt hoa phương trời (
Bùi Giáng, Gái Khóc.)
Thi Thiên in năm 1973, là sự lặp
lại Tâm-Thu kinh ra đời năm trước. Là
một khúc vinh danh thơ, theo cách riêng của người thi sĩ. Thi Thiên là một tên xưa của Trời Thơ vốn là Trời Xanh
Thơ Mộng, cũng là lời vui của Mặt Đất Thơ Hồng kể từ khi trăng đương độ chứa
chan nguồn chơi ánh sáng. Như thế, Thi Thiên là khúc hoan ca, là lời chúc
tụng dành cho sự tao ngộ của đất trời bằng cái nhìn nhuốm vẻ siêu hình của
người phát giác mối tương thông. Thơ, như thế đã chiếm hữu cả đất trởi. Hai cõi
được tấn phong làm lãnh địa và cương vực mới của thơ.
a- Người ta vốn gọi trời thơ mặc dầu thơ, xuất
phát từ đất, nương vào đất để hình thành vương quốc văn chương. Nhưng, gọi là
trời thơ vì thơ vốn là sản phẩm của thăng hoa. Vươn lên cao cùng khói, mây theo
ký thác của người gửi gắm. Cánh bằng, gió núi là giấc mộng của thơ. Không có gì
ngăn trở hay định hướng ngoại trừ sức mạnh của nó.
Mới hay đất
đá là nhà
Mãi còn
rộng mở cửa ra vô cùng
Hỡi ơi !
một cuộc chơi chung
Mà trong
chốn ấy hình dung riêng nhiều
Thời gian
đồng vọng tiếng kêu
Đá mây vô
sắc lộng triều vô thanh
Tác giả gọi đây là tiếng nói của cuộc chơi giữa đất trời. Đúng hơn là của
hai cõi thơ hợp nhất. Trong một dự phóng văn chương, cõi dung chứa con người
(đất) và ước vọng (trời) được đặt vào trong vần điệu. Nghĩa là thơ đã quán
xuyến mọi tương quan lẫn nỗi niềm của vạn vật. Thơ bước lên đài để dâng cao lời
hợp xướng của đất trời.
Những lời
mặt nước chân mây
Đã vầy cuộc
máu, đã đầy tủy xương
Giữa Không
có một Con Đường
Đất trời từ
đó vẫn thường lại qua
Thi Thiên đề cập đến thực tại với cách nhìn trực
diện mà minh triết, trước khi chỉ ra một hướng đi. Riêng về điểm này, Thi Thiên
khá tương đồng với tiếng nói của một số ít người phương Nam cảm thấy có sứ mệnh
rao truyền của người ở giữa cõi tiên-tục và khuyến dụ người với cái lòng kẻ ưu thời mẫn thế. Những lời mặt nước chân mây / đã vầy cuộc máu, đã đầy tủy xương.
Người làm thơ đã mượn ngôn ngữ để làm kẻ hát rong, kể truyện dạo, loan truyền
điều họ cho là chân-lý hay tiền chân-lý. Con đường ( hay Đạo) rất ít mùi vị
siêu hình hay tín lý, mà gần với một phong cách suy tư, một cách sống.
b- Mai kia
trên bước xanh ngàn
Vang vô vi
mộng cô nàng Sơn Khê
Bùi Giáng có những câu cùng một âm hưởng và thúc
dục liên tưởng. Du dương bạc mệnh giang
hà / lừng vang cung bậc một Tòa Tiểu
Khê. ( Cồn Hoa Trút Lá). Thơ Bùi không buộc ta phải đăm chiêu, mà trái lại,
để ngỏ tâm hồn đón nắng mới trong tiếng nhã nhạc của nàng thơ. Thanh âm của thơ
thốt lên như từ dịu ngọt của tiếng tơ. Ngôn ngữ chịu khuất mình vì sự có mặt
của nhạc, của lời, của hình ảnh lung linh. Của điều thấy được, nghe được,và cảm
được từ những tơ lòng bỏ ngỏ. Bạc mệnh trở thành định mệnh của trường giang chỉ
vì tiếng hát của con suối nhỏ.
Bùi không hề có ý gửi gắm gì trong thơ ngoại trừ
việc phó thác vào sự thản nhiên rất mực trước thực tại. Thơ Bùi không lấm bụi
bặm cõi trần kể cả việc tránh giặt giải mũ để thử lòng dòng nước. Có những lúc,
đọc thơ Bùi là cách để đến với thơ của Đặng, hay ngược lại, và trường hợp trên
là một.
Ở đây, thơ Bùi là ngọn gió lạ dẫn đường đến cõi
thơ Đặng Tấn Tới. Đó là cách làm quen với ngôn ngữ và nhất là phong vị thơ như
khi nếm thử một thứ trái lạ trong rừng. Hương lẫn vị khác thường đó đòi hỏi
cách làm quen trước khi có thể nhấm nháp thưởng thức. Thơ họ xem ra kiêu bạc
với người, dù lòng họ luôn mở rộng ra trăm hướng.
c- Mây trời nước chảy mặc tình
Trời xanh
đất đó lòng tinh anh còn
Như thường
rực rỡ đầu non
Nguồn trong
bừng tỏ nét son môi cười
Lặng vui
trên sóng gió đời
Qua bao xô
đẩy rã rời lại nguyên
Đặng Tấn Tới dẫn những câu thơ trên bằng đoạn
văn,“ con mắt lim dim mở ra Tất Cả, con mắt ngó đá chợt thấy tim người”. Nghĩa
là ngỏ ý hoài nghi những gì ta thu thập được bằng giác quan của con người còn đắm
chìm trong tư kiến. Người người có cái nhìn không như nhau, chưa kể con người có cái nhìn mỗi lúc một khác. Lặng vui trên sóng gió đời / Qua bao xô đẩy
rã rời lại nguyên. Điều cần làm là mặc cho biến cố, đổi dời, cần giữ lòng
nguyên vẹn, trước sau bất biến. Mây trời
nước chảy mặc tình / Trời xanh đất đó lòng tinh anh còn.
Thơ Bùi, trong những lúc tiếp xúc với thực tại
theo cách riêng, thi nhân đã có cái trực cảm trước những biến thiên không từ
ngoại giới. Cái nhìn về ngoại giới là do biến chuyển tự tâm hồn và làm nên thế
giới quan của họ. Nhìn em nhé bên bờ kia
gió thổi / Lá xanh vườn theo cỏ mượt
ngân nga / Tơ vi vút một đời thương nhớ
tuổi / Của trăng rằm xuống dọ dẫm bên
hoa ( Bờ Nước Cũ.) Thiên nhiên của Bùi Giáng là sản phẩm của tâm hồn người,
lấy từ mẫu nguyên-xuân mà người khăng khăng gìn giữ. Thiên nhiên đó được viết
bằng những rung động của một tâm hồn còn ướt sương mai và tuyệt đối xa lạ với
thực tại mà người ngoảnh mặt. Thái độ lãnh đạm với cái thực và hướng về ước
vọng nguyên xuân ngay cả khi chưa nhập mộng, là chân dung tâm hồn của Bùi.
Không cần xây dựng bầu khí siêu nhiên cho những điều cần viết ra, thơ Bùi phảng
phất tinh ba của đất trời ứa ra giữa ngày lá rụng nhớ mùa. Nhựa ứa, lá rơi, mùa
nhớ đều là những ghi nhận của tri giác con người trước cùng một hiện tượng xảy
ra. Chỉ có tâm hồn thi nhân rung động cùng một nhịp trước sự tồn tại của đất
trời và điệu sống tuần hoàn của cõi thế.
d- Cô liêu về giữa hương mờ
Người đâu trên bến hoang sơ gió tàn !
Đó là ý nghĩa sự trở về với chính mình trong khắc
khoải. Thi nhân đã phóng chiếu lòng mình lên cái trống không của ý thức trong
một chuyến tìm về.
Ngày sau
sương nắng còn kêu
Cỏ cây còn
thở những chiều lung linh
Gọi về bến
nước xuân xanh
Trái thơ
đưa giọng hoàng anh reo cành
Người ơi
thắm đẹp mong manh
Nhưng ý thơ trong bài lại đối lập hẳn với đôi câu
dẫn đề. Như thế, bụi mờ và hoang vắng không phải là hình ảnh của điêu tàn. Bởi
vì trở về là sự tìm lại, là hy vọng và bao dung. Riêng trong sự trở về với
chính mình lại bao hàm bước tiến dài về nhận thức. Hơn là việc ăn năn,sám hối,
sự trở về với bản thân còn là sự phục sinh đích thực, lớn lên theo từng bước
chân về. Người về còn hơn là hình ảnh cánh chim báo hiệu mùa xuân hay nắng mới
ấm mùa gặt hái. Bởi vì người về không chỉ là sự dự báo một niềm vui, cho dù là
hạnh phúc. Người về chính là niềm vui, là hạnh phúc. Cho chính họ, cho mọi
người và cho cả thực tại mà họ tìm đến với con người mới.
Đó là lý do mà bài thơ trở về của Đặng là một khúc
hoan ca. Và hai câu dẫn bài gợi ra cảnh hiu hắt, thê lương, chính là thế giới
mà người rắp tăm bỏ lại khi trở về.
e- Nếu
không, lòng chẳng đợi
Như cỏ, hồn
đâu đau
Trời xanh
ngát mãi sau
Trăng sao
còn chín tới
Mệnh danh là tâm khúc, người viết nên muốn gửi vào
một nỗi lòng với bao thiết tha của người ký thác. Tâm khúc tự nó là cách để thủ
thỉ bên lòng, không là dụ ngôn hay rao truyền khiến người nghe tìm đến bằng tâm
tín. Tác giả giải thích “ trăng sao còn chín tới” là “ vẫn còn sống động trên
con đường thượng đạt mãn khai của hoa và hết mùa của quả .“ Có thể thi nhân muốn nhắc đến sự tồn tại vĩnh
cửu của đất trời. Trời xanh ngát mãi sau
là nhận thức quen thuộc của thế nhân. Còn trăng
sao còn chín tới, là khám phá của Đặng về thế giới hằng cửu trên cao, theo
cách riêng của người thi sĩ. Tâm khúc là khúc ca thổ lộ, giãi bày. Mời gọi lắng
nghe tiếng đập của trái tim nhỏ máu. Đây không còn là lời kinh, đòi hỏi sự lắng
nghe và nuốt lời vàng đá. Còn tâm khúc là sự mở lời hiến dâng tâm huyết một hồn
thơ.
Trong ý nghĩa trên, có lẽ thơ Bùi tương tự việc
tuôn trào nguồn hoan lạc tinh thần của một người cảm thấy bắt được ước vọng
trong tay. Bùi chẳng tìm kiếm một dụng đích nào cho thơ mình ngay cả khi ta
nghĩ rằng thơ là cách giúp ông tồn tại hay sống sót. Tâm kinh hay tâm khúc là
điều xa lạ với hồn thơ Bùi, khi mà việc đi về cõi thơ của ông chỉ là cái nhìn
cảnh giới của người ngoài cuộc. Những chuyến vãng lai với cuộc đời mới có ý
nghĩa của chuyến đi về ông thường nhắc
tới
Đi về trong
thế kỷ sau / nhìn trong mắt thấy đời đau
trong mình ( Bùi Giáng, Đi Về.)
e- Chiêm bao
tóc bạc lên đàng
Ngày xưa
trăng nước ngỡ ngàng ánh tươi
Đây cũng là ý nghĩa nữa của sự trở về, là hoàn
nguyên, trở về gốc ngọn theo quy luật tuần hoàn của mọi vật trong đó có kiếp
người. Nhà thơ nghĩ đến thuyết luân hồi trong tạo hóa mà tưởng đến sự chi phối
của định luật trên trong tương quan giữa con người và trời đất. Từ đây, ta nhận
ra khoảng cách vời vợi giữa trầm tư với thi hứng. Người làm thơ bất giác ngộ ra
quy luật tuần hoàn cũng ứng dụng với đất trời, nghĩa là trời đất cũng bàng
hoàng nhận ra sự đổi thay trên mình theo năm tháng.
Riêng Bùi, cũng nhận ra, dù là trong vô thức, về
cõi tồn sinh với bóng dáng của cái còn hiện diện
Tháng năm
dòng nước trôi xa / người qua, người sẽ
đi qua những người ( Bùi Giáng, Sáng Thu Ký Ức)
Dường như Bùi còn lưu luyến nơi biên giới hai cõi
luân hồi bằng một loạt hình ảnh lạnh lẽo, hoang sơ, không khác không gian mà
hồn thơ Đặng vẽ ra cho trầm tư nương náu
Bây giờ còn
lại hai chân
Bước tìm
lối cỏ tử phần hoang liêu
Tên em là
tiếng sáo diều
Hồn em ấy
giọng gió diễm kiều ru
Bây giờ rắc
lá mùa thu
Xuôi giòng
sông lạnh sông Thu bốn bề
( Bùi Giáng, Bây Giờ Còn Lại)
g- Một hôm cánh hạc về trời
Cánh hoa về đất, cánh đời về đâu
Cánh mây
cánh gió về đầu
Sóng hương
bóng sắc về thâu canh rằm
Cái gần tận
cái xa xăm
Lối về
trong bước đi đằm đằm tim
Đất ơi!
chẳng nổi không chìm
Trời xanh
rất trắng con chim Đại Hồng
Tác giả thao thức về một quỹ đạo nào đó của cuộc
đời khi mà vạn vật đều có chốn để quay về. Phải chăng nhà thơ nghĩ đến một vũ
trụ vĩnh cửu nào đó cho vạn vật mà sự có mặt tại hiện thế chỉ là một giai đoạn
ngắn ngủi, hữu hạn. Một thế giới siêu hình mở ra dưới mắt thi nhân cũng là sự
khép lại những giá trị tuyệt vời mà người đã nức lòng xưng tụng nơi cõi thế. Cái gần tận cái xa xăm / Lối về trong bước
đi đằm đằm tim. Điều khắc khoải siêu hình này xem ra sẽ khiến thi nhân trằn
trọc còn hơn là thân phận lưu đầy từng làm ít ra một thế hệ cảm thấy như rơi
xuống hố sâu tư tưởng.
Vào lúc nào đó, họ Bùi cũng tỏ ra đăm chiêu về
thời gian ông có mặt trên đời. Con người tưởng như xem mình như người khách lạ với cuộc đời, xem ngao du là thực
chất của sự có mặt nơi đây, có lúc bâng khuâng về tương lai của cuộc viễn du,
nghĩa là sẽ trở về hay mất dạng như hình ảnh cánh chim Đại Hồng của Đặng Tấn
Tới. Nhưng nỗi bâng khuâng ấy hình thành một tứ thơ không phải là sự trầm ngâm
nơi thi nhân. Con người làm thơ luôn luôn thắng thế nơi Bùi khi mà cõi lênh
đênh vô định của hiện kiếp trước mắt người, chỉ gợi lên cảm giác phân ly của
một cuộc chia tay
bàn chân
bước người đi về một thuở
lá phân vân
bờ bến cát sương rung
trời khuya
khoắt phiêu du trăng bỡ ngỡ
người đi
đâu sông nước lạnh vô cùng
(Bùi Giáng, Người Đi Đâu)
k- Rượu trời ta uống một ly
Thức rưng rưng giấc vô thì càn khôn
Nhà thơ luận về rượu trời như là tính trời mà người đời đã định danh. Rượu trời là thứ rượu gì ? Có phải là thứ
rượu trong máu ấy hay thứ máu trong rượu ấy ? Rượu trời phải chăng là cái
hào khí mà người có được do tác động tự bên ngoài để hình thành một chấn động
nơi người tương tự sự tỉnh thức. Mối băn khoăn bám chặt đeo đẳng người không khác bóng với hình. Tương quan nội tại
hay ngoại lai đều khó có thể tách bạch nguồn cơn
Thu ơi !
phơi trắng hồn Quê
Rượu trong
máu ấy lạnh tê môi sầu
Thu nào
trào máu trăng thâu
Máu trong
rượu ấy người đâu biết gì
Có thể là duy nhất năm xưa, có người đã chỉ ra
được mạch nguồn của cảm thức. Chẳng cần phân biệt rượu từ trời hay nơi đất. Bởi
vì dù rằng chén có vơi đầy, chỉ mong cái say có được khởi lên từ nỗi lòng xao
xuyến. Bạn cũ về rồi hoa mới nở / nổi tăm lòng rượu một hương ai ( Nguyễn
Tuân) (*)
Cũng là tiếng gọi trăng, triều nước mây
Thế mà máu chảy nào hay
Từng giây từng phút qua tay Đất Trời
Lý nào thật, lẽ gì chơi
Một vòng tròn mãi chẳng vơi chẳng đầy
Thi Thiên ca ngợi vai trò sáng
tạo của nghệ thuật như một quyền năng. Nét vòng tròn của nhà danh họa Picasso
từng chỉ ra việc nghệ thuật an định sự có mặt của con người. Hay nói khác, nghệ
thuật nằm trong bầu thủy tinh của sáng tạo. Điều mà người làm văn chương nghệ
thuật có thể đạt được tương tự như tuần trăng lay động được triều nước. Cũng là tiếng gọi trăng, triều nước mây.
Là không chiêu thức mà chế ngự được sự vận hành trong thiên nhiên. Thế mà máu chảy nào hay / từng giây từng phút qua tay Đất Trời.
Nhưng với Bùi, thơ không có cái hãnh diện của quyền
năng gầy dựng hay tạo tác. Bùi cũng không nghĩ đến việc sử dụng cái vô chiêu để
bình thiên hạ. Thơ chỉ là khám phá từ cái tế vi trong vũ trụ qua lòng người.
Dẫu là sự khám phá có thể khiến trời đất rùng mình. Bàn tay dọ dẫm sương đầm / những
mùa thưa mỏng thu thầm thì trao ( Bùi Giáng, Thu Mỏng.)
Trái tim thi nhân có thể ước lượng
độ mỏng của mùa thu, hay từ tính của hạt sương mới rụng.
Thi Thiên muốn đưa ra một khát
vọng của thi nhân trước sức công phá vào thành trì sáng tạo chỉ bằng một nét
vẽ. Một vòng tròn mãi chẳng vơi chẳng đầy.
Một vòng tròn của ý thức và cảm hứng không nhằm phong tỏa hay giới hạn những
bước đi tới.
Như đã nói, thế giới Bùi và thơ
nằm trong biên giới mơ hồ của vô thức. Thơ không nhận bất cứ sự ký thác hay ủy
nhiệm nào nơi người viết. Kể cả dấu tay mà thời đại thường đặt vào tựa như cánh
nhạn dựa lưng trời của một sớm xuân. Điều gần như duy nhất làm bận lòng thơ là
sự lảng vảng mối hoài nghi về cái gọi là thực tại. Mộng lây lất ghé đêm kề / chiêm
bao phiến hoặc lối về tồn sinh ( Bùi Giáng, Tượng Số Thiên Nhiên.)
m- Lắng tâm đau thấm huyền không
Giọt như nhiên nở tràn
bông trăng điều
Thi nhân nói đó là “lẽ Dịch Như,
Chuyển Nhiên”. Vì muốn thấy cả đỉnh cao
vời của Núi Lửa Trời hãy biết đi sâu xuống cùng thẳm hố đêm Lòng Đất. Đó là
việc tùy tâm mà ứng phó thích ứng với tình thế. Thơ đã mở đường cho tri thức
được phép ngấm sâu để rồi bừng nở đóa hoa trí tuệ. Trong trường hợp này, thơ là thứ dung môi đưa
tư tưởng đến với con người mà không qua môi trường giao cảm. Đỉnh cao và hố đêm
là hình ảnh của hai cõi tưởng như đối lập nhau để tồn tại. Cao và sâu không
mang ý nghĩa của thứ biểu tượng được gắn vào. Chỉ là những giá trị ở đầu cực,
xác định sự có mặt của nhau trong tương quan giữa chúng.
Thơ Bùi cũng cho thấy sự chiếu cố
cả hai cõi đất trời trong sự hồi sinh niềm tin cậy nơi con người. Cho trời một giọt mù sương / nửa xin cho đất máu hường cho tim ( Bùi
Giáng, Cho Trời)
Không tỏ ra khinh trọng bên nào, Bùi xem đất trời đều là nơi nương tựa của con người, bù lại,
con người cần ân cần đáp lại. Mù sương
là gì mà trời đất hân hoan. Nếu trói gọn chúng vào cái danh ẩn ngữ, tức là
người đọc thu hẹp thêm biên giới thơ Bùi. Ngôn ngữ Bùi vốn như thú hoang, cỏ
dại nhưng không vì thế mà dứt bỏ ngọn
nguồn. Việc truy tầm chúng không khác việc tìm kiếm yếu tố để lập thành phả hệ.
Mù sương hay sương mù không xa lạ gì trong văn chương nhưng trở thành dị ngữ
dưới tay Bùi Giáng. Chiều dâng trong ý
mây lồng / sương mù sa mạc xa gần trở
cơn ( Bùi Giáng, Rằng Từ Ngẫu Nhĩ II- Kiều Ghé Phương Tây) Người ta có thể
nghĩ rằng Bùi đã cắt đứt cái mạch hữu lý trong văn chương vốn là điều kiện để
người đọc đến được với thơ. Thi giới sẽ là cõi bị gián cách. Nói như Bùi, nhịp
cầu dẫn đến cõi thơ không còn nữa. Và, thơ ở
vào giới hạn cuối cùng của tinh hoa ngôn ngữ khuất lấp trong mù sương tinh thể
của lời ( Bùi Giáng, Rằng Từ Ngẫu Nhĩ II – Kiều Ghé Phương Tây). Đừng làm
mất cái nghĩa ban sơ. Bùi căn dặn người đọc mình, nếu không muốn để lạc mình
vào chữ nghĩa. Mù sương. Sương mù. Thảy đều là cái nghĩa ban sơ của từ ngữ được sử dụng.
Là những chữ mà ta hiểu lầm là ẩn tự, là mật ngữ.
n- Trần gian man mác trao người
Hoa cùng trái của mộng đời chưa tan
Ý cuối của Thi Thiên là vinh ca
cõi thế bằng ngôn ngữ quen thuộc của đời. Dưỡng
chất trần gian chan chứa. Thi nhân nhắc đến hoa trái của mộng đời, nghĩa là
gián tiếp nói đến sứ mệnh của thơ dâng hiến cho đời suối nguồn mơ ước.
Nếu chỉ như thế, tập thơ năm 1974 của Đặng Tấn Tới là nụ
cười hiếm hoi nở vào mùa gió chướng. Nhưng, niềm tin dường như khô héo từ lâu
vì dãi dầu. Tâm Thu Kinh viết một năm trước đó là cách lẩn mình vào cõi siêu
hình khi thực tại ngày một trở nên thách đố với lòng kiên nhẫn. Cõi siêu hình
thực sự gián cách với văn chương khi giấc mộng chẳng được nuôi bằng trí tuệ.
Thơ đã thực sự bơ vơ khi cánh bướm rung động không thể đậu trên tiếng chuông
tỉnh thức. Thơ vào thuở ấy như băng nhanh theo ánh sao vửa kịp bắt gặp trong
chuyến cuối. Chưa kịp ngỏ lời từ giã với tri âm bằng bộ mặt khắc khổ của trầm
tư cao điệu. Trong thi giới hạn hẹp này, thơ Đặng Tấn Tới mang nét khổ tu, khắc
kỷ, cự tuyệt lời ru êm đềm bằng ngôn ngữ mật ngọt, trong lành nơi Phạm Thiên
Thư hay Trụ Vũ.
Đặng Tấn Tới và Nguyễn Tôn Nhan
trở thành tiếng thơ đồng dạng một thời. Là hình bóng của tâm hồn khắc khoải vì
ước mơ vắng bóng nên quy hướng thiền để thế chấp ánh trăng còn lại.
Với họ, thơ là những lời kinh.
Thơ trở lại thời gian mà văn chương được truyền rao từ trên cao. Thơ là sự phổ
lời ca ngợi sức mạnh siêu nhiên của trí tuệ và tri thức. Là rót linh hồn xuống huyệt trăng khơi ( Tuyệt Huyết ca, câu 58.) Và điều
mong ước dành cho con người là sự phát triển giấc mơ đúng nghĩa. Long lanh chút mộng cuối đường tài hoa (
Tuyệt Huyết Ca, câu 64). Điều mơ ước còn dành cho cả quê nhà còn lại như thánh
tích, là điều mà người ta không hề bắt gặp trong lễ chiêu hồn. Non nước cũ rạng ngời sông núi / trời trong xanh muôn tuổi thơ ngây (
Tuyệt Huyết Ca, câu 77-78) Và rồi, ước mơ trở nên hiện thực mở ra như vầng đông
đến lúc ban mai.
Thơ như nguồn sáng hội hoa đăng
chấm dứt thảm kịch từng đọa đầy xứ sở. Nụ cười phục sinh bên hoa trong bài ca
vĩnh cửu. Lòng ta vui như núi long lanh
( Tuyệt Huyết Ca, câu 106.)
Như thế, bài ca tương tự khúc
giải oan, cởi bỏ oan trái cho người đồng thời thanh thản lòng mình như nguồn
cội của một niềm tin tôn giáo.
Nếu như Tuyệt Huyết Ca nêu lên
hướng giải thoát quen thuộc dành cho những người oan khuất lúc chiến thời, thì
Tâm Thu Kinh tiếp nối con đường hướng về những người sống sót mà tâm hồn đầy
thương tích và cần được an úy. Thực ra phần cuối của Tuyệt Huyết Ca, thi nhân
đã dành không ít lời phủ dụ dành cho kẻ thượng tồn bằng việc phác họa một dự
phóng đền bù xứng đáng. Nhưng Tâm Thu Kinh và Thi Thiên tiếp nối, đã mở con
đường tương thông giữa nhiên giới và siêu nhiên giới bằng ngôn ngữ, ý tưởng, và
hình tượng có hơi hướm mật truyền. Điều đó mới là giải pháp mà thi nhân xem như
sinh lộ tinh thần cho những người còn lại nơi quê nhà với khắc khoải khó nguôi
về dấu vết định mệnh để lại. Phủ dụ lẫn chiêu an, cái nhìn từ hai hướng không
là cách giải quyết đầy đủ, khi mà thực tế con người không thể dễ dàng quên đi
mộng dữ. Con đường rộng hơn mở ra cho tâm tư và nhận thức về nhân sinh và ngoại
giới mới là cái đạo khai mở an lạc trước hết cho thân tâm.
Tâm Thu Kinh mở lời bằng sự phân
biệt giữa bản chất với hiện tượng là sự nhắc nhở quan yếu ban đầu để có được
nhận thức đúng đắn trước mọi việc, mọi vật. Phân biệt giữa mùa thu và chiếc lá
vàng. Thu bao la / Chiếc lá / Vàng.
Thi Thiên xác định một cõi trời Thơ, một không gian bao la
cho thơ, ít nhất cũng ngang tầm trời đất. Trước đó, không ít người đã định vị
một biên giới bát ngát cho thơ. Lần này, thế giới đó được thi nhân minh thị
phong cương bằng trái tim, khối óc, tầm nhìn, giấc mơ của người thi sĩ.
Thi Thiên còn là hình ảnh dự
phóng trời Thơ khi mà người làm thơ còn như lưu lạc giữa lòng mình, còn chưa
tỉnh giấc nồng rời xa ý thức.
Vẻ như trong bài ca và tâm kinh,
Đặng muốn đưa thi giới đến cõi mênh mang của tư tưởng được nở rộ như ngàn hoa
trong mùa giáng hạ. Cảm hứng về một cõi thơ thênh thang huyền diệu đến từ niềm
khát khao về giấc mộng lỵ trần đã đặt người làm thơ gần gũi với những hành giả
nơi thâm sơn sống với niềm tin tuyệt đối về sự tương hòa giữa nhiên giới và
siêu nhiên giới.
Bằng bài ca và tâm kinh, Đặng đã
mở rộng con đường đến với hai cõi hòa hợp trên và xem là mời gọi của thế giới
Thơ được tượng hình.
Cõi thơ khôi vỹ được hình dung
không chỉ là chốn quy tụ của những giấc mộng ly trần, những xúc cảm thoát xác,
những tiềm thức nổi trôi mà còn là sự giao thoa giữa trí tuệ và cảm xúc con
người với những đối tượng còn chờ người tìm gặp hay khám phá.
Thơ Đặng trong trường hợp này có
ý nghĩa của lời chú nguyện, khúc”điểm mê”, mở đường dẫn đến thế giới mới của
Thơ thành tựu.
Ở một khía cạnh, bài ca Tuyệt
Huyết vốn dâng lời cầu nguyện chấm dứt cảnh máu rơi, lại mở ra một viễn tượng
cho đất nước, cho thực tại. Thơ giải oan lại nhận thêm sứ mệnh cứu đời bằng tâm
tín của người mở lòng trước điều cần hàn gắn. Nỗi oan khuất được giải trừ không
chỉ bằng nước mắt xót thương mà chính bằng nụ cười tái lập ngày mới. Về đây ngát sương sao dạo khúc / đàn tơ xanh phổ lục từ bi / cỏ
cây bến rạng lâm ly / trăng hoa một độ xuân thì mang mang ( câu
85-88.) Bài ca tẩy oan đã xua đuổi bóng tối, tẩy rửa oán thù cho ngày xuân khai
hội. Một viễn tượng đổi kiếp như thế không là điều mỉa mai khi chính người chịu
nạn đặt bông hoa lên huyệt mộ của đau thương và nhận lời ăn năn làm chứng.
Bài ca Tuyệt Huyết không là giấc
mơ yểu mệnh vì người đã ôm giấc mơ như chính sinh mệnh mình và ước mơ phải là
dòng máu luân lưu trong huyết quản. Thơ đã rắp toan hiện thực ước mơ bằng máu
trong tim người làm thơ thuở ấy. Nghiêng
đôi nhánh liễu thương làn tóc / hé đôi môi hồng ngọc bờ hoa / mắt soi dịu ánh dương hòa / chín từng thanh khí chói lòa hào quang
(câu 97-100.)
Thi nhân, người xây dựng hạnh
phúc trên tro tàn của hủy diệt, đã thực hiện khả năng tái thiết trên chính mối
đau thương người vừa hát khúc giải trừ. Hầu như chưa bao giờ, thơ đã giúp người
hồi sinh bằng hơi thở được hy vọng cưu mang mãnh liệt như thế. Ôi trái đất còn non không tuổi / lòng ta vui như núi long lanh ( câu
105-106.) Ngôn ngữ bên trời trông ngóng
đã hiển hiện theo thơ trong ước mơ không chỉ riêng của thi nhân. Bài-hát
–xin-máu-ngừng –rơi đã thành khúc dương hòa và mơ ước đã thăng hoa khi thi nhân
chưa kịp dừng bút.
Đặng Tấn Tới sinh năm 1943 ( mất 2017) tại An
Nhơn, Bình Định. Đã in: Mưa Mắt Tình (1968), Tâm Thu Kinh (1970), Tuyệt Huyết
Ca (1972), Thi Thiên (1973), Trúc Biếc (1974.) Tuyệt Huyết Ca là một khúc ca
theo thể song thất lục bát gồm 108 câu gần như một khúc chiêu hồn trong chiến
cuộc 1972.