Nhà thơ Phạm Thiên Thư, hình trên FB Phạm Thiên Thư |
1. Người viết chơi với Phạm Thiên Thư từ những
năm học trung học đệ nhất cấp khoảng 58 – 59. Thư đến nhà tôi ở ấp Cả Trắc, khu
Ông Tạ và chúng tôi thường kéo nhau ra quán cà phê vợt ở đầu ngõ đi vào ấp.
Trong những lần uống cà phê, Thư nói sôi nổi về việc lập học hội Hồ Quý Ly, để
thực hiện việc nghiên cứu, viết văn, làm thơ. Mục đích là tiến tới làm một tập
san văn nghệ.
Tôi đến nhà Phạm Thiên Thư tham dự những cuộc họp gồm có
khoảng 6, 7 người trẻ ngang tuổi nhau. Tôi không nhớ tên ai. Nhà Thư lúc đó ở
trong một con hẻm trên đường Lê Văn Duyệt, đối diện chợ Hòa Hưng, gần cống Bà
Xếp. Con hẻm này thấp hơn mặt đường, nên vào hẻm phải đi xuống dốc. Sau một
thời gian họp hành mấy tháng, chỉ thảo luận (tôi không nhớ là thảo luận gì),
nhưng không làm gì. Chuyện tất nhiên, vì các bạn đến họp cũng đang học đệ ngũ,
đệ tứ, hiểu biết bao nhiêu để viết. Có khá lắm là cuối năm làm bích báo ở
trường, như tôi thường làm ở trường Chu Văn An. Thời gian này tôi đi bán báo
buổi tối, rồi đi kèm trẻ ở tư gia, không có thời gian nhiều, nên tôi ngừng họp
và cũng ít gặp Thư. Ngay từ lúc quen biết nhau, Thư đã có tên là Phạm Thiên
Thư. Vì thế mãi sau này khi Thư nổi tiếng tôi mới biết Phạm Thiên Thư là bút
hiệu, còn tên thật là Phạm Kim Long. Thư có dáng gồ ghề, nhưng nói năng hoạt bát
với tiếng cười xuề xòa. Một thời gian sau tôi tới nhà Thư thì Thư đã di chuyển
đi chỗ khác. Từ đó tôi và Thư không gặp nhau nữa.
2. Đến đầu thập niên 70, khi tôi là lính nằm giữ cầu, giữ đường ở Thừa
Thiên thì bỗng nhiên cái tên Phạm Thiên Thư vang lên qua nhạc phẩm Ngày Xưa
Hoàng Thị với tiếng hát Thái Thanh cao vút, âm thanh và lời tuyệt diệu. Chỉ một
thời gian ngắn, Ngày Xưa Hoàng Thị trở thành một hiện tượng. Về Huế, vào quán
cà phê nào cũng:
Em tan trường
về, đường mưa nho nhỏ
Ôm
nghiêng tập vở, tóc dài tà áo vờn bay
Em đi dịu
dàng, bờ vai em nhỏ
Chim non
lề đường, nằm im dấu mỏ
Dưới cội
mai vàng.
Anh theo
Ngọ về, gót giày lặng lẽ đường quê.
Tiếp đó, cái tên Phạm Thiên Thư lại vút lên với ca khúc
Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng:
Rằng xưa
có gã từ quan
Lên non
tìm động hoa vàng ngủ say
Ừ thì
mình ngại mưa mau
Cũng đưa
anh đến bên cầu nước xuôi
Sông này
chảy một dòng thôi
Mây đầu
sông thẫm tóc người cuối sông.
Rồi liên tiếp, tiếng hát Thái Thanh lại đi vào lòng người
với Em Lễ Chùa Này, Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu…
Thời gian những năm này, chiến tranh ở miền Nam leo thang
dữ dội. Đêm đêm đại bác vọng về thành phố với ánh hỏa châu đè nặng lên lòng
người. Trong tình cảnh đó, những bài thơ của Phạm Thiên Thư được thầy phù thủy
âm thanh Phạm Duy phổ nhạc với tiếng hát Thái Thanh đã như những cơn gió xuân
đưa con người ra khỏi bầu khí chiến tranh. Tiếng hát Thái Thanh đã đưa những
vần thơ lãng mạn diễm ảo lên nhiều cung bậc. Người ta mơ theo tiếng hát và quên
đi thực cảnh tang tóc quanh mình. Nhạc lời Trịnh Công Sơn đơn điệu chuyên chở
chất bi thảm của chiến tranh. Còn thơ nhạc Phạm Thiên Thư và Phạm Duy có thiền
vị diễm ảo như mây ở ngoài chiến tranh. Giới trẻ chào đón Ngày Xưa Hoàng Thị và
Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng cũng là điều tự nhiên.
Tôi ngạc nhiên không ngờ người bạn có dáng dấp gồ ghề mặt
to, miệng hô răng vẩu, mũi to tai lớn, cử chỉ và tiếng cười thuần chất nông dân
lại là người sáng tạo những bài thơ diễm lệ đi ra ngoài tiếng bom đạn ngày càng
dữ dội trên khắp đất nước. Từ đó tôi mới biết Phạm Thiên Thư đã đi tu từ năm
1964 với pháp danh Thích Tuệ Không. Và trong 9 năm ở chùa, Phạm Thiên Thư đã
sáng tác nhiều thơ. Cũng trong thời gian này có một cái duyên đẹp là Phạm Thiên
Thư đã gặp Phạm Duy qua nhà văn hóa Nguyễn Đức Quỳnh. Ông Quỳnh gợi ý: “Nhạc
ông Duy toàn chất đời, nay gặp cư sĩ làm thơ về đạo, vậy hai ông nên kết hợp”.
Và sự kết hợp này là một cơ duyên tuyệt vời. Theo lời nhạc sĩ Phạm Duy, thì khi
đi vào tâm ca, tâm phẫn ca, vỉa hè ca và tục ca là ông đã bế tắc về hướng sáng
tác. Gặp Phạm Thiên Thư ông đã bắt được những bài thơ đạo, thơ thiền, đạo đi
vào đời với tình lãng mạn thanh thoát, và những bài thơ này đã đưa ông ra khỏi
những những đắng cay, chán chường để đi vào một hướng sáng tác mới với đạo ca,
thiền ca. Thơ Phạm Thiên Thư đã khai thông bế tắc về hướng sáng tác cho Phạm
Duy, còn nhạc Phạm Duy đã chắp cho thơ của Thư bay lên. Một Nhạc, một Thơ đã
thành tri kỷ nương nhau tạo thành một nguồn âm thanh mới với tình ca, đạo ca,
thiền ca hút hồn người trong lửa đạn chiến tranh.
Trong căn hầm ở đầu cầu Lăng Cô, tôi đã ngồi bên ly cà
phê với chiếc máy cassette, nghe đi nghe lại: Em tan trường về… Ngày xưa có gã
từ quan… và nghĩ đến Phạm Thiên Thư. Tôi đoán Thư đã nương cửa Phật để tránh
lính, nhưng thời gian ở chùa đã giúp Thư làm được những việc có giá trị lớn,
khai phá một dòng thơ lãng mạn đượm màu thiền mà Phạm Duy đã tạo thành những ca
khúc diễm ảo. Trong khi đó chiến tranh đã giết mất những nhà văn trẻ như Doãn
Dân, Y Uyên, Song Linh và nhạc sĩ Dzũng Chinh.
Mấy năm đầu thập niên 70, tôi có người em học Quốc Gia
Hành Chánh, cũng làm thơ và chịu nhiều ảnh hưởng của Phạm Thiên Thư với những
câu thơ như:
Những
trang kinh vô tự
Đưa ta
vào tâm hư.
Năm 73, tôi có dịp vào Sài Gòn, đã nghe chú em nói nhiều
về Phạm Thiên Thư. Em tôi coi Thư là thầy, rất ngưỡng mộ chất sống của ông thầy
nửa đạo nửa đời với những bài thơ đượm thiền vị. Và chú em đã ghi cho tôi địa
chỉ của Thư.
Nhà họ Phạm gần Tỉnh Đường Gia Định và chợ Bà Chiểu, từ
đường Chi Lăng rẽ trái vào một con đường nhỏ khá dài. Trước ngõ có cây hoa
vàng, tôi không biết là loại hoa gì. Ngôi nhà khang trang có sân rộng, phía
ngoài gần cổng là cái gác gỗ, dưới là mái hiên rộng. Phía trước hiên có mấy
chục chậu cây cảnh, trong đó có nhiều loại hoa mọc ngoài đường. Tôi nhớ nhất là
hai chậu hoa ngũ sắc.
Phạm Thiên Thư tiếp tôi ở hàng hiên với cái bàn dài bằng
tre. Thư vẫn nguyên dáng dấp thời 58, 59, nhưng mập mạp hơn với phong thái đạo
sĩ ở cử chỉ và khung cảnh chung quanh. Sau mười mấy năm gặp lại, Thư vui và nói
nhiều về những việc Thư đã làm. Nay tôi chỉ còn nhớ mấy điểm đặc biệt:
Thứ nhất, Thư cho biết dưới Hiên Văn này Thư đã tiếp
nhiều nhà văn, nhà thơ Pháp, Mỹ, Nhật… Họ đã đến với những cuộc phỏng vấn.
Thứ nhì, Thư nói về Đoạn Trường Vô Thanh. Thư muốn thay
Nguyễn Du nối dài đời Kiều. Đời trước đau khổ trầm luân không nói lên được. Đời
sau của Kiều là đời ngộ đạo thông hiểu lẽ phù du mộng ảo, vô tướng, vô ngã của
đời người. Thư đi xa hơn Nguyễn Du là đã Việt hóa Đoạn Trường Vô Thanh với con
người, khung cảnh, điển tích Việt Nam.
Thứ ba, Thư nói đến chương trình thi hóa kinh Phật. Hoài
bão của Thư là Việt hóa kinh Phật với những vần thơ đơn giản, phổ thông dễ vào
tâm trí của mọi người.
Trong khi Thư nói, chiếc khánh bằng đồng treo trước hiên
theo từng cơn gió lắc lư phát ra tiếng leng keng…đã tạo thành một khung cảnh
lạ. Tôi nhìn lên chiếc khánh trong khi tai nghe cả hai thứ âm thanh. Lời người
hòa lẫn tiếng leng keng theo gió… Tôi chợt thấy Thư khéo tạo cho mình một khung
cảnh lạ, khung cảnh thoát tục của một đạo sĩ.
Tôi từ giã Phạm Thiên Thư với hình ảnh từ giã một đạo sĩ.
Người bạn cũ thời 16, 17, nay thành nhà thơ nổi tiếng, nên ngôn ngữ có phần cao
ngạo. Cuộc gặp gỡ chỉ có Thư nói. Thư diễn giảng và nói đến cái lớn của mình.
Tôi thấy ở Thư một mâu thuẫn lớn. Chín năm trong chùa cho Thư thấm nhuần đạo để
Thư nói đến cái không của đời người, làm thơ thiền nhìn đời hư ảo, nhưng cái
ngã không nhẹ theo thơ mà rất nặng.
3. Khoảng tháng 9, 10 năm 81, sau khi chạy từ kinh tế mới Gia Ray, Long
Khánh về Sài Gòn và có được chỗ an cư ở cà phê Ngự Uyển, trong ngõ Con Mắt khu
Ông Tạ, tôi gặp ký giả Vũ Uyên Giang, bạn tù chung ở K1, trại cải tạo Suối Máu.
Giang rủ tôi tới quán cà phê của Phạm Thiên Thư, ở đường Yên Đổ. Gần chục năm
không nghĩ đến họ Phạm, giờ nghe Vũ Uyên Giang nhắc đến Thư, tôi vui nghĩ đến ông
bạn đạo sĩ với Hiên Văn tre trúc và chiếc khánh đồng leng keng theo gió. Hai
chúng tôi đạp xe từ khu Ông Tạ lên đường Yên Đổ. Quán cà phê của Thư ở gần góc
Yên Đổ với đường Hai Bà Trưng. Chúng tôi bước vào quán, Thư nhận ra, đứng dậy
vui cười đón tiếp. Quán nhỏ, có 4, 5 cái bàn vuông, phía trong lỉnh kỉnh chai,
bình đựng rượu. Thư đem đến hai ly cà phê pha bằng vợt. Thư không còn dáng sẻ
đạo sĩ của năm 1973 mà xuề xòa của một chủ quán. Quán vắng khách. Thư ngồi than
việc làm ăn khó khăn. Bây giờ đọc những bài viết về nhà thơ họ Phạm thì giai
đoạn này Thư sống với bà vợ thứ hai là Đỗ Thị Mai Trinh, rất đẹp, con gái nhà
văn Hoàng Ly, chuyên viết truyện đường rừng, nhưng tôi không thấy bóng dáng Mai
Trinh. Sau khi nói chuyện làm ăn, Thư hân hoan cho chúng tôi biết là đang viết
Trường Ca Việt Nam ca ngợi đảng Cộng Sản đã chiến thắng để giải phóng con
người, giải phóng đất nước thoát ách đế quốc, một chiến thắng chưa từng có
trong lịch sử Việt Nam.
Tôi quá ngạc nhiên trước quan điểm và lý luận của Thư,
nhưng không tiện tranh luận vì vô ích và nguy hiểm, nên cuối cùng chỉ nói là
đảng Cộng Sản nhân danh cách mạng đã chiếm hết tất cả những chữ nghĩa đẹp nhất
của thế gian. Việc họ làm, họ đã tự tuyên dương cũng đã hết chữ. Ông làm trường
ca để ca ngợi cuộc chiến thắng của họ, tôi sợ ông không vượt qua được những chữ
họ đã dùng. Nhưng ông có tài làm thơ hy vọng tìm được chữ tuyệt vời hơn.
4. Khoảng đầu năm 1982, tôi gặp Phạm Thiên Thư trên đường Chi Lăng, gần
ngã tư Chi Lăng – Võ Di Nguy. Thư cho biết là Chủ Nhật tới sẽ khai trương quán
cà phê vỉa hè đầu đường Hoàng Hoa Thám, con đường đâm ra đường Chi Lăng, gần
nhà của Phạm Thiên Thư và hẹn tôi tới buổi khai trương.
Sáng Chủ Nhật theo hẹn, tôi rủ ông Nguyễn Gia Đôn, người
tôi đang dạy tiếng Anh và nhà văn Hoàng Quốc Hải, bạn thân của ông Đôn thời Đôn
ở Hà Nội, vào Sài Gòn để nghiên cứu về văn hóa miền Nam, tới quán cà phê vỉa hè
của một nhà thơ lớn của miền Nam. Ngày hôm trước khi rủ hai ông cán bộ văn hóa,
tôi đã nói qua về Phạm Thiên Thư và những tác phẩm của Thư, nhất là tập Hậu
Truyện Kiều – Đoạn Trường Vô Thanh. Khi nghe tôi nói về Đoạn Trường Vô Thanh,
ông Hải đã nói một câu mà tôi đã quên, ý nói là làm một việc thừa, vô ích.
Khi tới nơi, tôi thấy Thư đang ngồi xổm quạt lửa, lò dùng
than củi – khói bay mù mịt. Mặt Thư vốn gồ ghề, nay thêm nước mắt, nước mũi vì
khói. Dáng đạo sĩ đã biến mất, chỉ còn dáng một ông nông dân thổi lửa, quạt lò.
Tôi đến chỗ bếp lò cho Thư biết, rồi tìm chỗ ngồi ở một cái bàn dưới gốc cây để
tìm bóng râm dưới tàn cây.
Chừng 20 phút sau, Thư bưng cái khay đựng 3 ly cà phê đen
tới để ra bàn. Tôi giới thiệu Thư với hai ông khách và nói thêm là hai ông muốn
hiểu nội dung của Đoạn Trường Vô Thanh. Thư cười tươi, bảo là rất hân hạnh được
hai ông chú ý tới tập thơ hậu Kiều. Nói rồi Thư đi tới mấy cái bàn khác. Tôi để
ý nhìn Mai Trinh, nhưng bà ở xa không tới bàn chúng tôi, nên tôi không thấy
được dung nhan. Nhìn quán cà phê vỉa hè với ánh nắng, tôi buồn đoán là quán sẽ
không thọ. Khắp nơi đâu cũng quán cà phê. Sao Thư lại liều bán cà phê trên vỉa
hè ít cây cối này? Đường cùng đến thế sao? Chúng tôi ngồi trên nửa tiếng, Thư
vẫn loay hoay ở bếp lò, không tới ngồi tiếp bạn. Thấy hai ông Đôn và Hải có vẻ
bồn chồn, tôi để tiền ra bàn, tính tới chào Thư để về, thì Thư tới mời chúng
tôi đến nhà Nguyễn Tiến Văn, cũng ở trên đường Chi Lăng, cách quán cà phê của
Thư mấy trăm thước.
Nhà Nguyễn Tiến Văn khang trang, rộng rãi, nhưng không có
đồ đạc. Chỉ độc nhất một chiếc đàn piano để ở góc nhà. Sau khi chủ, khách bắt
tay nhau, ông Tiến Văn giải chiếu hoa xuống nền nhà. Mọi người ngồi xếp bằng
trên chiếu.
Tôi mở đầu với việc giới thiệu hai ông cán bộ văn hóa,
nhất là ông Hoàng Quốc Hải từ Bộ Văn Hóa ở Hà Nội vào Nam để tìm hiểu về văn
hóa miền Nam. Nhân dịp gặp nhà thơ Phạm Thiên Thư, hai ông muốn hiểu về mục
đích và nội dung của Đoạn Trường Vô Thanh. Hy vọng nhà thơ Phạm Thiên Thư hoan
hỷ nói về tác phẩm của mình theo sự thỉnh cầu của hai vị khách văn hóa.
Phạm Thiên Thư cám ơn sự quan tâm đến tác phẩm của hai
ông, rồi vào đề bằng những câu thơ mở đầu của Đoạn Trường Vô Thanh:
Lòng như bát
ngát mây xanh
Thân như sương
tụ trên cành đông mai.
Cuộc đời
chớp lóe, mưa bay,
Càng đi
càng thấy dặm dài nỗi không.
Tư tưởng hư ảo, cái không của đời người này xuyên suốt
tác phẩm qua 27 phần. Mỗi phần nói về một chuyện hay một hai nhân vật. Về nhân
vật gồm có: Thúy Kiều, Kim Trọng, Thúy Vân với Tiểu Nguyệt (con của Thúy Vân
với Kim Trọng), Vương Quan, Vương ông, Vương bà, Hồ Ông (dòng dõi Hồ Quý Ly),
Ẩn Lan (con gái Hồ Ông, người yêu của Vương Quan, Hồ Tôn Hiến. Những nhân vật được
nói đến nhiều nhất là Kim Trọng, Hồ Tôn Hiến và Từ Hải (qua sự hồi tưởng của
Kiều). Còn toàn thể mấy ngàn câu thơ là nói về đời Kiều: Thanh thản với đàn,
với thơ, với hành hương… mà ở chỗ nào cũng đắm chìm vào suy tưởng về sự hư ảo,
về cái không của kiếp người.
Đoạn Trường Vô Thanh có mấy đặc điểm:
Thứ nhất, nhân vật từ Đoạn Trường Tân Thanh qua Đoạn
Trường Vô Thanh đã trở thành người Việt từ Từ Hải đến gia đình Kiều, vì thế sau
khi mua lại khu vườn nhà cũ, gia đình Kiều đã hồi hương, trở về đất Việt.
Thứ nhì, khung cảnh toàn truyện và điển tích đã được Việt
hóa với những Trương Chi, An Tiêm, Từ Thức… Hội xuân được tổ chức với hát quan
họ, trống quân, đu dây, đô vật, tuồng chèo.
Thứ ba, màu vàng đã tràn khắp tác phẩm với cỏ vàng, lá
vàng, rừng vàng, cúc vàng và mai vàng.
Thứ tư, Đoạn Trường Vô Thanh dài 3296 câu, hơn Đoạn
Trường Tân Thanh 20 câu. Vậy là Vô Thanh đã phá kỷ lục của Tân Thanh.
Kết của Đoạn Trường Vô Thanh tưng bừng với đất nước thịnh
trị:
Non Hồng
núi Tản chim ca
Sông Hà
sông Cửu la đà dòng xuôi
Núi sông
chiếu diệu tinh khôi
Ngọc lên
mặt biển, vàng trôi mạch rừng
Mừng người
trời đất tưng bừng
Ruộng
Lam trâu kéo một vừng long lanh.
Trên đây là người viết tóm tắt một số điểm trong Đoạn
Trường Vô Thanh. Còn thực sự Phạm Thiên Thư đã trình bày tác phẩm của ông rất
tuyệt, vừa nói từng điểm vừa đọc thơ dẫn chứng. Tôi chưa đọc Đoạn Trường Vô
Thanh nên chú ý nghe Thư diễn giảng. Cả hai ông Đôn và Hải chăm chú và bị cuốn
hút theo dòng ngôn ngữ của Thư với những câu thơ trác tuyệt. Phạm Thiên Thư đã
nói về Đoạn Trường Vô Thanh trong khoảng một tiếng.
Khi Thư kết thúc, tôi vui là Thư đã không làm tôi thất
vọng, vì tôi đã giới thiệu một nhà thơ lớn của miền Nam với hai ông cán bộ văn
hóa của đảng Cộng Sản. Ngôn ngữ với những vần thơ của Thư đã làm mờ đi sự tương
phản giữa một người bán cà phê hè đường với một nhà thơ. Ở đây thư đã linh hoạt
với những câu thơ tuyệt tác của mình: Như khi mô tả tiếng đàn Thúy Kiều:
Năm cung
da diết đê mê
Nắng
hoen thềm phấn, mây kề song hương.
Ngón
cong – đàn trổ nụ hường
Ngón
xuôi – tơ rụng hoa vương mấy dòng.
hay nói về sự hư ảo của đời người:
Trăm năm
là mấy nhịp cầu
Bước
chân kiếm hỏi bể dâu ngậm lời
Tử sinh
một cõi con người
Thấp,
cao, thành, bại, khóc cười dở dang
Buồn vui
trong giấc mơ màng
Mấy ai
thoát khỏi con đàng khói mây.
Nhìn hai ông cán bộ chú ý với nét mặt vui, tôi biết Thư
đã chinh phục được cả hai ông với những câu thơ trác tuyệt cùng sự diễn giải tư
tưởng Phật giáo làm nền cho cả tác phẩm.
5. Khoảng giữa năm 1982, tôi gặp Phạm Thiên Thư trên đường Lê Văn Duyệt,
gần ngã ba Ông Tạ. Trên xe đạp của Thư lủng lẳng mấy giỏ đựng bình rượu. Tôi
đưa Thư vào cái chái của tôi sau cà phê Ngự Uyển. Thư cho biết đã bỏ quán cà
phê vỉa hè Hoàng Hoa Thám và nay đi bỏ mối rượu thuốc của nhà làm. Tôi đưa Thư
lên cà phê Ngự Uyển, bảo cô Bội Yến thay băng cho nghe tiếng hát của cô. Thư
yên lặng uống, nhìn quanh không nói gì. Tôi đoán có lẽ Thư đang so sánh cà phê
Ngự Uyển với quán cà phê của Thư ở đường Yên Đổ và trên vỉa hè Hoàng Hoa Thám.
Từ đó, trên đường đi bỏ mối rượu thuốc, thỉnh thoảng Thư
ghé lại cái chái của tôi. Có một lần Thư đọc cho nghe bài tứ tuyệt:
Một túp lều
tranh mấy luống rau
Đêm nghe
mưa nhỏ đụng hoa bầu
Rung đùi
ngồi khoác chăn đơn rách
Hào khí
ngâm hoài thơ bốn câu.
Tôi lắc đầu nói: Không được, bế tắc quá. Hào khí để làm
gì, chớ hào khí để ngâm thơ như thế thì thành chim quốc. Rồi cười đọc hai câu
trong Đoạn Trường Vô Thanh:
Chí người
như cánh chim cao
Lạ thay
lòng lại giam vào hữu thanh.
Tôi đọc để đùa, nhưng không ngờ Thư đã cúi xuống lấy khăn
lau mắt.
6. Khoảng cuối thập niên 1990 ở Chicago, qua chuyện trò với một người bạn ở
Sài gòn, tôi biết tin Phạm Thiên Thư đang hành nghề “Bấm Huyệt Đạo Trị Bệnh”.
Sau đó qua người bạn này, Thư gửi cho tôi một bản in roneo chỉ dạy xoa bóp
huyệt đạo để tự chữa bệnh, gọi là “Phương Pháp Luyện Tập Điện Công Dưỡng Sinh
Phathata (Pháp – Thân – Tâm)”. Tập roneo 6 trang gồm hai phần, mỗi phần 3 bài.
Đọc xong những bài chỉ dẫn, tôi nghĩ nếu luyện tập theo những bài chỉ dẫn thì
dễ bị Tẩu Hỏa Nhập Ma như những cao thủ luyện công không đúng phương pháp trong
truyện chưởng của Kim Dung, vì phương pháp của Thư phức tạp quá, rất khó theo.
Và thầm phục cái đầu đầy thơ như thế mà lại nghĩ ra được những phương pháp trị
bệnh cứu người của nhà thơ họ Phạm.
Đến năm 2006, đọc bài “Gặp lại Phạm Thiên Thư sau 25
năm” trên Net của Vũ Uyên Giang, tôi mới biết Phạm Thiên Thư
đã trở lại nghề bán cà phê. Nhưng bây giờ tiệm cà phê của ông bề thế, là ngôi
nhà hai tầng, tầng trên gia đình ở, tầng dưới là tiệm cà phê, với tên Cà Phê
Hoa Vàng, ở số Y1B Hồng Lĩnh, quận 10 (khu này trước 1975 là Cư Xá Sĩ Quan Chí
Hòa).
Trong bài “Cuộc đời và hình ảnh nhà thơ Phạm
Thiên Thư hiện nay”, trên Net, ông Phạm Văn Hà viết: ”
Đoạn Trường Vô Thanh, tiếp nối Đoạn Trường Tân Thanh của đại thi hào Nguyễn Du.
Tác phẩm này dài hơn truyện Kiều 20 câu, ông có vẻ tự hào kể lại. Ông nói cuộc
đời ông và cuộc đời của Nguyễn Du có sự trùng hợp kỳ lạ. Nguyễn Du sinh năm
canh thìn thì ông cũng sinh năm canh thìn. Cha của Nguyễn Du chết lúc Nguyễn Du
10 tuổi thì cha ông cũng chết lúc ông 10 tuổi. Nguyễn Du ở Thái Bình 10 năm thì
ông cũng ở Thái Bình 10 năm. Nguyễn Du nghiên cứu kinh Kim Cương thì ông thi
hóa kinh Kim Cương. Nguyễn Du viết truyện Kiều thì ông viết Đoạn Trường Vô
Thanh. Ông còn kể nhiều nữa nhưng tôi không nhớ hết. Chắc ý ông muốn nói ông có
đủ điều kiện để tái kiếp Nguyễn Du chăng? Đặc biệt Nguyễn Du có ba bà vợ thì
ông cũng có 3 bà vợ. Bà vợ đầu là nữ sĩ Tuệ Mai, con gái nhà thơ Á Nam Trần
Tuấn Khải. Sau khi hai người chia tay, ông cáp với bà Đỗ Thị Mai Trinh, con gái
nhà văn Hoàng Ly, chuyên viết truyện đường rừng, có với bà này 3 đứa con. Thập
niên 80 hai người ly dị. Ông bán căn nhà ở đường Trần Kế Xương, Gia Định, được
40 cây, ông chỉ lấy 10 cây, còn lại để bà lo cho mấy đứa con. Ông lên xã Nha
Bích tỉnh Bình Phước mua mấy mẫu rẫy, nhờ người trông coi trong khi ông vẫn ở
Sài Gòn dạy điện công Phathata (pháp-thân-tâm). Ông lấy bà ba là Trần Thị Như
Báu là một nha sĩ. Bà này trông có vẻ nhà quê, không có gì là trí thức, tướng mình
dây, chân dài như người mẫu, kém ông 10 tuổi. Bà ta có một người con gái riêng
là y tá. Khi mua căn nhà hiện ở bây giờ, ông bán mảnh rẫy ở Nha Bích được 400
triệu, bỏ vào xây. Xây xong, vợ ông làm giấy tờ cho con gái đứng tên, coi như
ông trắng tay, đành mang kiếp ăn nhờ, ở đậu. Thời gian đầu bà chẳng coi ông ra
gì, cư xử mách qué với ông. Nhưng sau này bà ta đổi thái độ vì nhờ tiếng
tăm của ông quán cà phê mới đông khách. Vắng ông khách cũng vắng theo”.
Theo Vũ Uyên Giang trong bài “Gặp Lại Phạm Thiên Thư sau
25 năm” thì từ sau ngày Phạm Duy trở về Việt Nam sinh sống và được hát lại
những bản nhạc phổ thơ của Phạm Thiên Thư, khi được báo chí phỏng vấn, Phạm Duy
đã giới thiệu quán Hoa Vàng của Phạm Thiên Thư, nên sinh viên nam nữ kéo đến
khá đông.
Trong bài “Phạm Thiên Thư – Cõi hoa vàng trên ngọn
Hồng Lĩnh“, Hoàng Phương Anh ghi lại hình ảnh của nhà thơ: “Ở
tuổi tám hai, ông đi lại chầm chậm, nói chuyện nhớ nhớ “ngày xưa”, quên
quên “Hoàng Thị”. Hàng ngày hai buổi sáng, chiều, với y phục bình dị, ông lặng
lẽ ngồi ở bàn riêng kê ngay sát cửa chính, như thiền sư trầm mặc nghĩ về cõi
nhân gian”.
Kết
Trong khoảng 10 năm từ 1973 đến mấy năm đầu thập niên
1980, tôi gặp Phạm Thiên Thư không bao nhiêu, nhưng mỗi lần gặp lại thấy Thư
biến đổi với hình ảnh khác nhau: Năm 73, Thư là hình ảnh siêu thoát của một đạo
sĩ dưới Hiên Văn trong động hoa vàng. Năm 81 Thư xuề xòa trong hình ảnh của chủ
quán cà phê. Năm 82 là hình ảnh của người đạp xe đi bán rượu thuốc. Tới thập
niên 1990, Thư trở về nghề bán cà phê mà có người ca tụng: Cà phê Hoa Vàng
trang nhã, tịch mịch và rất nên thơ, khách thường là những người đứng tuổi. Ai
vào, nếu để ý sẽ thấy một “lão nông” ngồi lặng lẽ ở góc nhà. Đó chính là thi sĩ
Phạm Thiên Thư.
Đời sống của Phạm Thiên Thư đã thay đổi theo hoàn cảnh
của xã hội. Nhưng có cái tuyệt là dù cuộc sống biến đổi, nhưng Thư vẫn sống
cuộc đời thơ. Sau 1975, Phạm Thiên Thư không còn làm thơ tình lãng mạn, siêu
thoát, nhưng đã dùng tài để khai phá con đường chưa ai đặt chân đến là thi hóa
những bộ kinh Phật, làm tự điển cười gọi là tiếu liệu pháp, với 24 ngàn câu thơ
tứ tuyệt và nhiều tác phẩm khác. Và tới nay những tác phẩm của Thư đã đạt tới
126.000 câu thơ. Sau Thư khó có người làm thơ đạt tới số lượng đó.
Có một điều lạ tôi không thể hiểu là Phạm Thiên Thư theo
mẹ di cư vào Nam, đi học và trưởng thành ở Sài Gòn, nhưng ông có khuynh hướng
thiên Cộng. Điều này tôi đã ngờ ngợ trong lần gặp ông năm 1973, khi ông nói về
chính nghĩa dân tộc trong cuộc chiến với hàm ý là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng
Miền Nam có chính nghĩa dân tộc. Đến năm 1981, gặp ông ở quán cà phê đường Yên
Đổ, ông cho biết đang viết Trường Ca Việt Nam để ca ngợi cuộc chiến thắng của
đảng Cộng Sản. Cũng trong thời gian ấy tôi nghe vài người bạn văn nói là Thư
làm thơ ca tụng Hồ Chí Minh. Ông Hà Thi (nguoivietnam.net) cho biết sau
30/4/75, Phạm Thiên Thư thực hiện cuốn Kinh Hồng, ca ngợi chế độ mới. Có thể
Kinh Hồng là Trường Ca Việt Nam mà Thư đã nói với tôi. Nhưng có lẽ đảng Cộng
Sản không cho Phạm Thiên Thư nhập vào dòng chính, nên thơ và Kinh Hồng không
hiện lên được.
Như thế trường hợp Phạm Thiên Thư giống học giả Nguyễn
Hiến Lê. Tôi nhắc đến học giả họ Lê, vì ông là người nghiên cứu thiên kinh vạn
quyển, viết sách nhận định những vấn đề cổ kim, đông tây, thông suốt chế độ
cộng sản Nga, Tàu, Đông Âu và đã sống với tất cả những biến cố chính trị Việt
Nam từ Pháp thuộc tới Cộng Sản, tới chế độ Cộng Hòa miền Nam, nhưng từ 1945 tới
1975 ông vẫn tin vào bộ mặt dân tộc của đảng Cộng Sản, tin vào sự cao đẹp của
đảng viên cộng sản và của chủ nghĩa xã hội Mac-xit. Từ những niềm tin này ông
đã viết:
“Đọc trước sau khoảng hai chục cuốn viết về Cộng Sản Nga,
Trung Hoa, Đông Âu, tôi tuy ghét, tởm Staline, Mao Trạch Đông… nhưng vẫn tin
rằng chế độ cộng sản công bằng hơn chế độ tư bản, nhất là cộng sản Bắc Việt
dưới sự lãnh đạo thời kháng chiến của Hồ chủ tịch mà tám, chín phần mười người
Việt kính mến, khắp thế giới phục thì không thể nào tàn nhẫn như Nga, Trung Hoa
được, đảng có lỗi lầm thì sửa đổi ngay…. Ông lên án chế độ miền Nam là tham
nhũng, ăn cắp, ăn cướp, phè phỡn, bóc lột, con người không có tư cách… Tôi vẫn
thường nói với nhà tôi: Cộng Sản vào đây thì chỉ nội 48 giờ là hết cái tệ đó!
(Nguyễn Hiến Lê – Hồi ký, tập 3 – Văn Nghệ California – 1988, trg 20).
Chính vì những niềm tin đối với đảng Cộng Sản như thế,
nên tuy sống thoải mái trong chế độ dân chủ tự do ở miền Nam để làm văn hóa,
nhưng ông vẫn duy trì thái độ bất hợp tác với chính quyền Cộng Hòa như không
nhận giải thưởng văn chương toàn quốc với cuốn Đại Cương Triết Học Trung Quốc
của ông và ông Giản Chi. Chắc ông nhìn chính quyền quốc gia theo luận điệu
tuyên truyền của Cộng Sản. May mắn là sau 1975, ông còn sống được 6 năm để nhìn
ra bản chất của bộ mặt thật của đảng Cộng Sản và đảng viên Cộng Sản, như ông đã
tổng kết trong bộ Hồi Ký tập 3 của ông:
– Về chế độ thì thất bại trong tất cả các mặt hành chánh,
kinh tế, văn hóa, giáo dục và xã hội.
– Về đảng viên thì ăn cắp, hối lộ, chài bẫy nhau, cấu kết
tham nhũng, thi nhau thủ lợi và thiếu nhân cách.
– Về xã hội thì bất công, tàn nhẫn, sa đọa về tinh thần
và mất nhân phẩm.
Chỉ trong mấy năm được sống với chế độ cộng Sản, niềm tin
mang nặng trong 30 năm của ông tan tành và học giả họ Lê phải cay đắng kết
luận: “Từ đó người miền Nam chẳng những có tâm trạng khinh kháng chiến mà còn
tự hào mình là ngụy nữa, vì ngụy có tư cách hơn kháng chiến. Và người ta đâm ra
thất vọng khi thấy chân diện mục của một số anh em cách mạng đó, thấy vài nét
của xã hội miền Bắc: Bạn bè, hàng xóm tố cáo lẫn nhau, con cái không dám nhận
cha mẹ, học trò cấp hai đêm tới đón đường cô giáo để bóp vú… thì ra nhìn xa ngỡ
tượng tô vàng” (Nguyễn Hiến Lê – sdd- trg 92)
Chỉ sống với Cộng Sản 6 năm, học giả Nguyễn Hiến Lê tỉnh
mộng. Còn Phạm Thiên Thư thì sống dài dài lăn lóc với xã hội chủ nghĩa, nhưng
ông vẫn làm Kinh Hồng, biến những áp chế, tàn bạo, bất nhân của chế độ cộng sản
thành kinh để tụng niệm như kinh Phật thì thật đáng sợ.
Có cái may là đảng Cộng Sản không nhận Kinh Hồng, nên ông
phải làm tiếp việc thi hóa kinh Phật, làm tự điển cười… Nhà thơ Phạm Thiên Thư
có mâu thuẫn nội tâm giữa nghĩ và làm, giữa mộng và thực. Có phải do mâu thuẫn
này mà ông đã khóc khi tôi đọc 2 câu thơ trong Đoạn Trường Vô Thanh:
Chí người
như cánh chim cao
Lạ thay
lòng lại giam vào hữu thanh.
Việt Dương