TẤT TỐ QUYÊN và HÙNG QUỐC TRINH
TRUNG
QUỐC CỔ ĐẠI
TRỨ
DANH SỬ TỊCH I
畢素娟-熊國禎
中國古代著名史籍
Nguyên tác: Trung
Quốc Cổ Đại Trứ Danh Sử Tịch
Tác giả: Tất
Tố Quyên, Hùng Quốc Trinh
Trung Quốc
Văn Hoá Tri Thức Tùng Thư
Đài Loan
Thương Vụ Ấn Thư Quán phát hành
1993
MỤC LỤC
BIỂU TỔNG QUÁT NHỊ THẬP
NGŨ SỬ
CÁC LOẠI KỶ TRUYỆN THỂ TỪ
XƯA ĐẾN NAY
Hán Thư - bộ sử đầu tiên
theo thể Kỷ Truyện
BIỂU TỔNG QUÁT NHỊ THẬP NGŨ SỬ
Triều đại |
Tên |
Người soạn |
Số quyển |
Phân chia |
Bị chú |
|||||
Bản kỷ |
Thư chí |
Biểu |
Thế gia |
Liệt truyện |
Mục khác |
|
||||
Tây Hán |
Sử ký |
Tư Mã Thiên |
130 |
12 |
8 |
10 |
30 |
70 |
|
Trước đời Đường ba bộ này gọi chung là Tam Sử |
Đông Hán |
Hán Thư |
Ban Cố |
100 |
12 |
10 |
8 |
|
70 |
|
|
Nam Triều Tống |
Hậu Hán
Thư |
Phạm Diệp |
120 |
10 |
30 |
|
|
80 |
|
|
Tây Tấn |
Tam Quốc
Chí |
Trần Thọ |
65 |
4 |
|
|
|
61 |
|
|
Đường |
Tấn Thư |
Phòng Huyền Linh (nhóm) |
130 |
10 |
20 |
|
|
70 |
Tải Ký 30 |
|
Nam Triều Lương |
Tống Thư |
Thẩm Ước |
100 |
10 |
30 |
|
|
60 |
|
|
Nam Triều Lương |
Nam Tề
Thư |
Tiêu Tử Hiển |
59 |
8 |
11 |
|
|
40 |
|
|
Đường |
Lương Thư |
Diêu Tư Liêm |
56 |
6 |
|
|
|
50 |
|
|
Đường |
Trần Thư |
Diêu Tư Liêm |
36 |
5 |
|
|
|
30 |
|
|
Bắc Tề |
Nguỵ Thư |
Nguỵ Thu |
130 |
14 |
20 |
|
|
96 |
|
Các bộ Sử trên đời Đường gọi là Thập Tam Sử |
Đường |
Bắc Tề
Thư |
Lý Bách Dược |
50 |
8 |
|
|
|
42 |
|
|
Đường |
Chu Thư |
Lệnh Hồ Đức Phân (nhóm) |
50 |
8 |
|
|
|
42 |
|
|
Đường |
Tuỳ Thư |
Nguỵ Trưng (nhóm) |
85 |
5 |
30 |
|
|
50 |
|
|
Đường |
Nam Sử |
Lý Diên Thọ |
80 |
10 |
|
|
|
70 |
|
|
Đường |
Bắc Sử |
Lý Diên Thọ |
100 |
12 |
|
|
|
88 |
|
|
Hậu Tấn |
Cựu Đường
Thư |
Lưu Hú (nhóm) |
200 |
20 |
30 |
|
|
150 |
|
|
Bắc Tống |
Tân Đường
Thư |
Âu Dương Tu, Tống Kỳ |
225 |
10 |
50 |
15 |
|
150 |
|
|
Bắc Tống |
Cựu Ngũ
Đại Sử |
Tiết Cư Chính (nhóm) |
150 |
61 |
12 |
|
|
77 |
|
|
Bắc Tống |
Tân Ngũ
Đại Sử |
Âu Dương Tu |
74 |
12 |
|
Thế Gia Niên Phổ 1 |
10 |
45 |
Tứ Di Phụ Lục 3, khảo 3 |
Các bộ sử trên trừ Cựu Đường Thư, Cựu Ngũ Đại Sử,
đời Tống gọi là Thập Thất Sử |
Nguyên |
Tống Sử |
Thoát Thoát (nhóm) |
496 |
47 |
162 |
32 |
|
225 |
|
|
Nguyên |
Liêu Sử |
Thoát Thoát (nhóm) |
116 |
30 |
32 |
8 |
|
45 |
Quốc Ngữ giải 1 |
|
Nguyên |
Kim Sử |
Thoát Thoát (nhóm) |
135 |
19 |
39 |
4 |
|
73 |
|
|
Minh |
Nguyên
Sử |
Tống Liêm (nhóm) |
210 |
47 |
58 |
8 |
|
97 |
|
|
Dân Quốc |
Tân Nguyên
Sử |
Kha Thiệu Mân |
257 |
26 |
70 |
7 |
|
154 |
|
Các bộ sử trên trừ Tân Nguyên Sử, đời Thanh gọi Là
Khâm Định Nhị Thập Tứ Sử, Dân Quốc lúc đầu thêm Tân Nguyên Sử gọi là Nhị Thập
Ngũ Sử |
Thanh |
Minh Sử |
Trương Đình Ngọc (nhóm) |
332 |
24 |
75 |
13 |
|
220 |
|
|
Dân Quốc |
Thanh Sử
Cảo |
Triệu Nhĩ Tốn (nhóm) |
529 |
25 |
135 |
53 |
|
316 |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
CÁC LOẠI KỶ TRUYỆN THỂ TỪ XƯA ĐẾN
NAY
Sử Ký và Tiền Tứ Sử
Tác giả của Sử Ký (史記) là Tư Mã Thiên (司馬遷), tự là Tử Trường (子長), người đất Hạ Dương (夏陽), Tả Phùng Dục (左馮翊) đời Tây Hán [nay là huyện Tây Hàn, Thiểm Tây],
sinh năm Hán Cảnh Đế nguyên niên (TCN 145) chết khoảng năm Chinh Hoà 3 (TCN 90)
đời Hán Võ Đế. Hoạt động chủ yếu của Tư Mã Thiên trong đời đều dưới thời Hán Võ
Đế, là thời kỳ thịnh vượng đầu tiên sau thời Văn Cảnh[1], xã hội an định, kinh tế phát triển, học thuật văn hoá phồn vinh chưa
từng có.
Tổng kết kinh nghiệm về việc nhà Tần mất, nhà
Hán lên, củng cố chính quyền thống nhất là nhu cầu thực tế khẩn bách. Sau khi
triều Tây Hán thành lập, mở rộng con đường hiến thư, sưu tập văn hiến điển tịch
để tìm nguyên nhân diệt vong của Tần triều, tìm kiếm phương sách trị quốc an
dân, về tình hình chính trị đã đạt được những bước tiến bộ lớn, là điều kiện tất
yếu để chuẩn bị cho việc sản sinh ra bộ Sử Ký.
Phụ thân của Tư Mã Thiên là Tư Mã Đàm (司馬談), đã đảm nhiệm chức
vụ Thái Sử Lệnh một thời gian lâu thời Hán Võ Đế. Thái Sử Lệnh là người chưởng
quản quan viên ghi chép quốc sử, cũng là người phụ trách trông coi sách vở,
thiên văn lịch pháp, điều hành các đại điển tế lễ của hoàng gia. Tư Mã Đàm học
thức uyên bác, biết thiên văn lịch pháp và am tường điển chương chế độ, từng viết
quyển Luận Lục Gia Yếu Chỉ (論六家要旨) phân tích bình luận rất có cơ sở về các lưu
phái học thuật đời Tiên Tần.
Thấy sau kinh Xuân Thu không ai biên soạn lịch
sử, các sự tích nói về “minh chúa, hiền quân, trung thần, liệt nghĩa” không được
ghi chép, Tư Mã Đàm định thực hiện biên soạn và biện luận một bộ lịch sử nên
trong nhiều năm chuẩn bị công việc này. Trước khi qua đời, ông cầm tay Tư Mã
Thiên, rơi lệ tha thiết dặn dò:
Chớ có quên rằng ta muốn biên chép một bộ sử,
con phải ghi nhớ lời đó.
Sinh ra trong một
gia đình như thế lại được đích thân phụ thân dạy dỗ, Tư Mã Thiên từ nhỏ đã ham
thích đọc sách, 10 tuổi đã thông thuộc cổ văn, được tiếp xúc với các tác phẩm của
Đổng Trọng Thư (董仲舒), Khổng An Quốc (孔安國) nên ông có thể giúp cha trong việc soạn sử. Năm 20
tuổi, Tư Mã Thiên du hành xuống vùng Giang Hoài ở phương nam điều tra thực địa
về lịch sử. Ông bắt đầu từ Trường An, theo phương nam xuống Giang Lăng, đến bờ
sông Mịch La (汨羅) điếu Khuất Nguyên, đi thuyền trên Nguyên Tương (沅湘), xem núi Cửu Nghi (九疑) khảo sát mộ vua Thuấn và
sự tích ở đó.
Ông lên Lô Sơn (廬山) để tìm câu trả lời về
công nghiệp trị thuỷ của vua Đại Vũ (大禹) rồi lại theo đường từ Việt (越) sang Ngô (吳) xem xét cung thất của
Xuân Thân Quân (春申君). Sau đó ông lại qua sông đi lên miền bắc, tìm tòi hỏi han những sự tích
liên quan đến Hàn Tín (韓信). Về sau ông lại đến nước Tề, nước Lỗ để chiêm ngưỡng
di tích của Khổng Tử. Về phía tây ông đến quê hương rất nhiều nhân vật Tần, Hán
phỏng vấn những người già cả, khảo sát chiến trường nơi Sở, Hán tương tranh,
sau cùng đi qua đất Lương, đất Sở để về lại Trường An.
Không lâu, Tư Mã
Thiên được làm lang trung, tuy quan chức không cao nhưng nhiều lần được theo
Hán Võ Đế ra ngoài đi tuần, từng qua núi Không Động (崆峒) ở phía tây, núi Thái Sơn
(泰山) ở phía đông, lên
Kiệt Thạch (碣石) rồi ra đến bờ biển còn phía bắc thì ra khỏi Trường Thành, lên đến Cửu
Nguyên.
Năm Nguyên Đỉnh 6
đời Hán Võ Đế (TCN 111), ông phụng mệnh đi sứ một dải tây nam, tới tận Côn
Minh. Vì nhiều lần du lịch ra bên ngoài nên ông được xem nhiều khu vực núi
sông, tiếp xúc rộng rãi với đủ mọi giai tầng nên kiến văn tăng lên rất nhiều, lại
sưu tầm dò hỏi được nhiều tư liệu lịch sử khiến cho tâm địa cũng thêm rộng rãi.
Những điều miêu tả hay thêm vào trong Sử Ký rất đặc biệt thân thiết ý vị, văn
chương lưu loát, biến hoá nhẹ nhàng đều là hậu quả kinh lịch thực tế của Tư Mã
Thiên.
Sau khi đi sứ phương
nam trở về, cha ông Tư Mã Đàm lâm bệnh nguy kịch, trước khi qua đời đã đem di
nguyện về việc viết sử tha thiết trao lại cho ông. Ba năm sau, năm Nguyên Phong
3 (TCN 108) đời Hán Võ Đế, Tư Mã Thiên được giữ chức Thái Sử Lệnh, ông đọc và sửa
lại các tài liệu cổ sử, các văn bản trong thư khố, hoàn thành công việc mà cha
ông đã tích cực chuẩn bị. Năm Thái Sơ nguyên niên (TCN 104), Tư Mã Thiên cùng
hơn 20 học giả chế định lại lịch Thái Sơ rồi sau đó dốc toàn lực viết thành
sách.
Năm Thiên Hán 2
(TCN 99), Hán Võ Đế phái anh trai của sủng phi Lý phu nhân là Nhị Sư tướng quân
Lý Quảng Lợi (李廣利) đem quân đánh Hung Nô. Kỵ đô uý Lý Lăng (李陵) phụng mệnh suất lãnh
5000 bộ binh vào sâu đất Hồ, khổ chiến với trọng binh của địch mười mấy ngày
nhưng không có viện binh nên sau cùng phải đầu hàng Hung Nô. Hán Võ Đế hỏi Tư
Mã Thiên xét việc này như thế nào, Tư Mã Thiên nhận định rằng Lý Lăng tuy không
hoàn thành nhiệm vụ nhưng đã tận lực chiến đấu, giết được một số lớn địch quân,
công lao to lớn, chỉ vì ở vào tình huống không thể khác nên phải đầu hàng, bình
thường mà xét, ông nhất định sẽ tìm cơ hội thích hợp để báo đáp Hán triều.
Hán Võ Đế nghe
xong nổi cơn thịnh nộ, cho rằng Tư Mã Thiên có ý hạ thấp vai trò của Nhị Sư tướng
quân Lý Quảng Lợi mà biện hộ việc đầu hàng Hung Nô thay cho Lý Lăng nên bắt Tư
Mã Thiên giam vào ngục. Năm thứ hai, lại có tin đồn là Lý Lăng đã luyện tập
binh lính cho Hung Nô, Hán Võ Đế tin là thực, giết sạch già trẻ gia đình Lý
Lăng, tru diệt cả Tư Mã Thiên, xử ông tội cung hình (tức thiến bỏ bộ phận sinh
dục). Cung hình là tội nhục nhã nhất cho nam nhân, khiến cho Tư Mã Thiên không
còn muốn sống nữa. Hai năm sau, Hán Võ Đế đổi niên hiệu là Thái Thuỷ, đại xá
cho thiên hạ, Tư Mã Thiên ra khỏi ngục, lại được dùng làm Trung Thư Lệnh.
Trung Thư Lệnh là
chức vụ do hoạn quan đảm nhiệm, Tư Mã Thiên cảm thấy vô cùng hối nhục nên không
muốn nhận. Tuy nhiên, nghĩ đến di nguyện của phụ thân, trong lịch sử đã có rất
nhiều người gặp hoàn cảnh thống khổ đã trút nỗi hận bằng cách soạn sách lưu
truyền hậu thế nên ông đã kiên nhẫn chịu đựng để nỗ lực viết sách, đến năm
Chinh Hoà 2 (TCN 91), thì đã hoàn thành cơ bản việc biên soạn. Khi gặp tai hoạ
Lý Lăng, Tư Mã Thiên vì nghèo nên không thể dùng tiền chuộc tội, bạn bè cũng
không ai cứu, thị thần chung quanh hoàng đế cũng không ai nói giúp một lời.
Trong hoàn cảnh
tàn nhẫn của xã hội chuyên chế lại chịu cảnh lòng người bạc bẽo, việc đó gây ra
ảnh hưởng rất lớn trong tư tưởng của ông. Văn trong Sử Ký không những giàu về
tình cảm mà còn nhiều cảm khái, khiến cho Lỗ Tấn tiên sinh đã gọi là “tiếng kêu
tuyệt vọng của sử gia, một bài Ly Tao không vần” (史家之絕唱,無韻之離騷).[2]
Tư Mã Thiên viết
xong bộ sử cũng không xác định được sẽ gọi tên là gì. Cổ nhân viết sách không đặt
tên trước cũng là một việc bình thường. Đời Hán, các học giả gọi bộ sách đó là
Thái Sử Công (太史公), Thái Sử Công Thư (太史公書), Thái Sử Công Ký (太史公記) hay Thái Sử Ký (太史記). Trong sách này có đến
tám chỗ Tư Mã Thiên gọi là Sử Ký, vốn chỉ là một cái tên gọi chung chung để chỉ
cổ sử của các quốc gia. Cho đến cuối thời Đông Hán, người ta mới đem Thái Sử
Công Ký (太史公記) viết gọn lại là Sử Ký (史記). Sử Ký từ đó thành biệt danh của bộ sử do Tư Mã
Thiên soạn.
Sau khi Tư Mã
Thiên qua đời, đến thời Hán Tuyên Đế (漢宣帝), cháu ngoại của ông là Dương Uẩn (楊惲) đem công bố toàn bộ Sử
Ký, truyền lại đến nay. Trong Tư Mã Thiên truyện của Hán Thư có viết “mười
thiên bị khuyết, có mục lục mà không có sách” cho thấy khi mới lưu truyền thì bộ
sách này cũng đã tàn khuyết rồi. Còn như bị mất những mục nào thì người đời sau
mỗi người nói một cách, tình huống hiện tại nói cho rõ ràng cũng khó mà khảo định.
Nội dung Sử Ký nay còn đó vốn chỉ là theo bản cuối đời Hán Võ Đế.
Hậu kỳ nhà Tây Hán
có rất nhiều người làm công việc tục bổ, thêm vào nhiều nhất là bác sĩ Chử Thiếu
Tôn (褚少孫) đời Nguyên Đế, Thành Đế. Bộ phận ông ta thêm vào mở đầu đều là “Chử
tiên sinh nói”, ở bản Sử Ký hiện nay thì cách thức để thấp hơn một dòng để cho
dễ phân biệt.
Những gì ông ta
thêm vào cũng không cùng một dạng thức. Trong bản Sử Ký hiện nay có nhiều việc
sau đời Hán Võ Đế được thêm vào, có chỗ văn tự lại trùng nhau, mâu thuẫn hoặc địa
phương bị lẫn lộn đều là do người đời sau thêm hoặc chêm vào nên người đọc sách
cần cẩn thận xem xét phân biệt. Tuy nhiên cũng có những tình huống, Sử Ký đã bảo
tồn nguyên bản mà ra.
Nội dung của Sử Ký
vô cùng phong phú, có thể nói rằng thông quán cổ kim, bao la vạn tượng, một bộ thông
sử bách khoa toàn thư, từ thời đại truyền thuyết là Hoàng Đế cho tới chính thời
đại của tác giả là đời Hán Võ Đế, tập hợp từ trên xuống dưới hơn 3000 năm,
trong đó có tất cả chính trị, quân sự, xã hội, kinh tế, văn hóa, học thuật,
thiên văn luật lịch, sông ngòi địa lý thậm chí đến cả biên cương, địa khu của
các dân tộc thiểu số, sơn xuyên địa vực, phong tục nhân tình không gì là không
bao gồm, hay sơ lược để sót.
Tư Mã Thiên coi trọng
hoạt động kinh tế, sản xuất của con người, là người đầu tiên mở ra “hóa thực liệu
truyện” và “bình chuẩn thư”. Ông coi trọng quan hệ giữa các dân tộc, chủ trương
bảo vệ vương triều nhà Tây Hán làm trung tâm thống nhất, từ “Hung Nô liệt truyện”
đến “Tây Nam di liệt truyện” miêu tả năm thiên sử về dân tộc thiểu số. Ông cũng
coi trọng tư tưởng văn hóa biến thiên, lập truyện cho mỗi đại biểu của Bách Gia
Chư Tử, khai mở cho con đường tư tưởng học thuật hậu thế.
Ông cũng tạo dựng
được rường mối ngôn ngữ hành vi của các bậc đế vương, cốt ý để phản ảnh lịch sử
công lao của minh chủ, hiền quân, trung thần, nghĩa sĩ mà cũng miêu tả được một
xã hội rộng lớn trong các giai đoạn, bao quát lịch sử hoạt động một hạ tầng
nhân sĩ, làm du hiệp, thích khách, xu nịnh, hoạt kê, hóa thực, nho lâm các loại
dân chúng và lập truyện cho các nhân vật, nỗ lực phản ảnh một xã hội toàn diện.
Đó là khí phách to lớn qui mô trước nay chưa từng có để tổng kết lịch sử, thích
ứng với thời kỳ phong kiến trung ương tập quyền và lý tưởng to lớn “cứu thiên
nhân chi tế, thông cổ kim chi biến, thành nhất gia chi ngôn” (究天人之際,通古今之變,成一家之言) của Tư Mã Thiên.
Trước khi có Sử Ký
thì cổ sử hoặc là ký ngôn, hoặc là ký sự tả một phương diện mà thôi, hay chỉ
ghi lại một đoạn lịch sử, hoặc hạn chế vào một địa vực, lẻ tẻ vụn vặt một số mảnh
tạp ký theo cách giản dị của văn tự đời cổ. Nói tóm lại, thô sơ vụng về, ấu trĩ
non nớt (樸拙稚嫩), thiếu sót rất nhiều.
Còn Sử Ký chân
chính thành thực viết ra, sáng tạo một qui mô mới, tạo thể lệ hoàn chỉnh mà
nghiêm mật, dung hợp quán thông các loại sử liệu, cắt xén chọn lựa, sửa đổi
thêm bớt, viết thành một bộ sử liệu phong phú, chủ đề minh bạch có đầu có đuôi
thì đây là lần đầu. Ông đem văn hoá hơn ba nghìn năm, tư tưởng hành vi của quân
thần sĩ thứ và xã hội tự nhiên biến hoá phát triển đúc chung trong một lò, thực
tế phản ảnh xu thế lịch sử khách quan của một đại nhất thống đời Tần Hán.
Sử Ký cũng mở đầu
cho việc đưa nhân vật làm trung tâm trong Kỷ Truyện Thể. Trong tất cả 130 thiên
của bộ sách, bao gồm 12 bản kỷ, 10 biểu, 8 thư, 30 thế gia, 70 liệt truyện, tổng
cộng 52,650 chữ là một thể hệ hoàn chỉnh.
Bản Kỷ dựa theo
năm tháng theo thứ tự mà ghi chép hành vi ngôn ngữ của đế vương và các sự việc lớn,
lấy vua chúa làm trung tâm để biên chép việc chính trị, kinh tế, quân sự, văn
hoá, ngoại giao và mọi sự kiện trọng đại. Bản Kỷ là dây buộc của toàn thể bộ
sách, được đặt trước nhất trong sách là tượng trưng cho quân quyền chí thượng
trong xã hội phong kiến. Thế Gia là lịch sử ghi chép con cháu thế tập của các
vương hầu được phong quốc, thực tế chính là bản kỷ của các vua chư hầu, cũng
biên tập theo lối biên niên, có điều vì địa vị thấp hơn thiên tử nên để ở dưới.
Liệt Truyện chủ yếu
là truyện ký của các nhân vật mọi loại, mọi giới phần nhiều là tương tướng, đại
thần, đạt quan, quí tộc, trung và hạ tầng giai cấp thống trị và các đại biểu có
ảnh hưởng đến xã hội trong các lãnh vực, mỗi thành phần một tỉ số. Cũng có một
số liệt truyện, truyện ký về dân tộc thiểu số và một số quốc gia hoặc địa khu
có lai vãng với Trung Hoa. Liệt Truyện chiếm nhiều nhất trong sách, chia ra làm
bốn loại như trên.
Chỉ miêu tả một cá
nhân thì gọi là chuyên truyện, chẳng hạn như Hoài Âm Hầu liệt truyện (淮陰侯列傳), tả hai người hoặc
vài người thì gọi là hợp truyện chẳng hạn như Tôn Tử, Ngô Khởi liệt truyện (孫子吳起列傳) chép về hai người,
Liêm Pha Lạn Tương Như liệt truyện (廉頗藺相如列傳) chép về bốn người, bao gồm luôn cả Triệu Xa
(趙奢), Lý Mục (李牧).
Hợp truyện ghi lại
những nhân vật hoặc sự tích có liên quan, hoặc hành vi cùng một loại. Đem các
nhân vật cùng một loại tính chất hoặc nhân vật cùng chuyên một nghề hợp chung với
nhau một chỗ ghi chép thì gọi là loại truyện, chẳng hạn như Du Hiệp liệt truyện
(遊俠列傳), Khốc Lại liệt
truyện (酷吏列傳), Hoá Thực liệt truyện (貨殖列傳). Ngoài ra còn có phụ truyện là truyện về mặt sau của
một cá nhân như họ hàng, con cháu đời sau hoặc các sự tích tương cận với người
đó bao gồm những liên hệ phức tạp và quan hệ, thuận theo thứ tự mà bày ra thành
biểu cách để giản hoá, điều lý và dùng bổ sung cho bản kỷ, thế gia, liệt truyện
nếu chưa đầy đủ. Biểu lại phân ra niên biểu, thế biểu và nguyệt biểu ba loại
khác nhau.
Niên biểu dựa theo
niên đại mà trình bày, sử liệu xem ra thực chẳng hạn như Lục Quốc Niên Biểu (六國年表), Hán Hưng Dĩ Lai Tương
Tướng Danh Thần Niên Biểu (漢興以來將相名臣年表). Thế biểu là nhân vì niên đại đã lâu, sử liệu
không còn nên không thể dựa vào năm mà sắp xếp, chỉ có thể xếp đặt lờ mờ chẳng
hạn như Tam Đại Thế Biểu (三代世表). Nguyệt biểu là Tần Sở Chi Tế Nguyệt Biểu (秦楚之際月表), trong mấy năm Sở
Hán tương tranh, chính quyền không còn, chiến tranh càng lúc càng khốc liệt, biến
hoá kịch liệt nếu theo năm mà viết thì không đủ chi bằng chiếu theo biến hoá của
sự việc thì phong phú và nhanh chóng hơn. Trong sách chuyên ký chế độ duyên cách
điển chương, ấy cũng là một dạng chuyên đề tư liệu hối biên, chẳng hạn như
Thiên Quan Thư (天官書) chuyên ký thiên văn, tinh tượng, Cừ Hà Thư (河渠書) chuyên ghi chép về thuỷ
lợi và dòng chảy của sông ngòi, Bình Chuẩn Thư (平準書) chuyên viết về chính
sách kinh tế. Năm loại thể tài mỗi loại đều có phân công, bên trong nối kết với
nhau, hỗ tương bổ sung, tương phụ tương thành, tạo thành một chỉnh thể nghiêm mật.
Sử Ký khai sáng ra
lối Kỷ Truyện, các sử học gia từ Ban Cố (班固) trở về sau không ai là
không mô phỏng theo cách thức này. Từ Hán Thư cho đến Thanh Sử Cảo, các bộ
chính sử đời xưa không đâu không dùng thể tài này, có khác chăng là ở một số mục
thì điều chỉnh cục bộ, chẳng hạn như Hán Thư đem chữ Thư (書) đổi thành Chí (志), đem Thế Gia (世家) hợp với Liệt Truyện (列傳) làm một.
Nhân vì các mục chủ
yếu không ngoài Kỷ, Biểu, Chí nhưng cũng có thời kỳ tăng thêm thành Kỷ, Biểu,
Chí, Truyện. Nhân vì biểu và chí khó phân biệt nên từ Hậu Hán Thư và Tam Quốc
Chí trở đi nhiều bộ sử đã lược đi hai bộ phận này. Lại nhân vì kỷ và truyện là
hai phần tương đối trọng yếu không thể thiếu được, hậu thế đã gọi gộp xưng là
thể kỷ truyện.
Các bộ sử kỷ truyện
thể thêm vào thì đều lấy đế vương, tương tướng làm tâm điểm của lịch sử, việc gọi
tên và địa vị cao hay thấp cũng phản ảnh trật tự vương triều và nhu yếu cai trị.
Ấy là lý do mà loại sử theo thể kỷ truyện đã được gọi là chính sử theo cách gọi
của ngày xưa.
Trong Sử Ký có rất
nhiều đoạn ghi Thái Sử Công viết (太史公曰). Hậu nhân đem đặt thành một thiên để lên
trên gọi là Tự (序), còn nếu đặt tại cuối cùng của một thiên thì gọi là Tán (贊) còn nếu chêm vào giữa
môt thiên thì gọi là luận (論). Đó là Tư Mã Thiên phỏng theo Tả Truyện để sáng tạo
một hình thức sử luận. Nội dung của phần này phong phú, nhiều màu sắc, hoặc vẽ
rồng điểm nhãn, siển minh chủ yếu trong một thiên, hoặc thêm vào kiến văn, giảng
rõ về nguyên tắc tìm kiếm thu thập tài liệu, cũng có khi đem những điều trong
lòng mà nêu ra sự yêu ghét bàn luận về nhân vật, cũng có khi nghị luận cổ kim,
tổng kết trị loạn hưng suy để đem kinh nghiệm ra giáo huấn, bút thế tung hoành,
không câu nệ khiến cho Sử Ký tăng thêm sinh động, hoạt bát trong sắc thái lý luận.
Người đời sau tuy cũng đi theo lối sử luận của ông nhưng vì không có đủ kiến thức
và văn tài nên kém xa.
Sử Ký là một bộ thực
lục thu thập tài liệu rộng rãi, chọn lựa cẩn thận, nguồn gốc sử liệu thật là
phong phú bao gồm điển tịch thời cổ và văn hiến, chẳng hạn như Thượng Thư (尚書), Xuân Thu (春秋), Thi Kinh (詩經), Luận Ngữ (論語), Tả Truyện (左傳), Quốc Ngữ (國語), Thế Bản (世本), Chiến Quốc Sách (戰國策), Sở Hán Xuân Thu (楚漢春秋) cho chí sách vở chư tử
bách gia, lại có đáng án văn thư quốc gia như điệp ký, phổ điệp các đời Xuân
Thu, liệt phong, công lệnh. Ngoài những tư liệu thuộc loại văn tự, còn rất nhiều
tài liệu điều tra thực địa, phỏng vấn bao gồm văn vật, cổ tích, thạch khắc, bi
văn, đồ đạc trong cung thất, đồ tượng cổ nhân, lịch sử truyền thuyết và kiến
văn đương thế.
Tư Mã Thiên biên
soạn lịch sử chú trọng việc miêu tả tường tận việc mới xảy ra còn việc đã lâu
thì ông chỉ viết sơ sài, kỹ về việc hiện tại mà qua loa về chuyện ngày xưa. Rất
nhiều chuyện cận đại và đương đại, Tư Mã Thiên đã chính mình chứng kiến hay
nghe thấy chẳng hạn như “Ta nghe rằng Phùng vương tôn đã nói …” trong phần Tán
của Triệu thế gia hay “ Ta trông thấy Lý tướng quân, ấp úng như kẻ hạ tiện
không nói nên câu” [余睹李將軍,悛悛如鄙人,口不能道辭] trong phần Tán của Lý tướng quân liệt truyện.
Trong sách loại này ghi chép rất nhiều, làm tăng thêm tính chân thực và sự thân
thiết trong Sử Ký. Sử Ký cũng ghi chép rất nhiều câu ca dao thơ phú, tục ngữ và
lời lẽ dân gian hạ tiện chẳng hạn như lời quê kệch nói rằng “lợi lệnh trí hôn”
(thấy lợi thì tối mắt lại) [ 鄙語云:利令智昏] trong phần Tán của Bình Nguyên Quân liệt truyện,
hay tục ngữ có câu “thước có chỗ ngắn mà tấc có chỗ dài” [尺有所短,寸有所長] trong phần Tán của Bạch
Khởi liệt truyện hay “nước sông Toánh (Dĩnh) trong, thì nhà họ Quan bình yên,
nước sông Toánh (Dĩnh) đục, thì cả họ Quan phải tội ” [潁水清,灌氏寧;潁水濁,灌氏族 ] trong Nguỵ Kỳ Võ An Hầu
liệt truyện. Những loại tài liệu như thế rất là chân thực mà lại sinh động.
Sử liệu đa dạng và
phong phú tập trung tại một nơi, có cả kinh truyện, điển tịch, có đáng án tư liệu,
có cả ghi chép quan phương, miệng lưỡi dân gian, tài liệu văn tự và vật thực để
dựa vào, có lời tao nhã của văn nhân, sĩ phu, lại cũng có văn từ của bọn đầu đường
xó chợ, lại có truyền thuyết cổ sử mà lại cũng có kiến văn của người đời nay.
Tác giả nếu như thiếu đi một mảng khảo đính chuyên biệt, công phu gọt rũa, hun đúc
dung hoá thì không thể nào vận dụng được như thế.
Tư Mã Thiên đối với
việc thu thập sử liệu, gìn giữ cực kỳ cẩn thận và một thái độ thật khoa học. Đối
với truyền thuyết từ thời viễn cổ thì ông “khảo tín ư lục nghệ” (考信於六藝) như trong phần
Tán của Bá Di liệt truyện. Lục Nghệ là kinh điển của nho gia đời cổ.
Ấy là ông nói rằng
truyền thuyết cần phải có văn hiến cổ đại để ấn chứng thì mới có thể tin được.
Nếu không có được tư liệu nguyên thuỷ để dựa vào thì ông thà không giảng giải.
Ngũ Đế bản kỷ (五帝本紀) thì những truyện kỷ có
liên quan đến Hoàng Đế (黃帝) ông đều coi đi coi lại sau đó mới chọn những lời lẽ
tao nhã nhất để chép vào trong sách. Vì niên đại đã quá lâu, sử liệu không đầy
đủ, có những sử liệu bị tàn khuyết hay những miêu tả khác nhau, nhất thời khó
có thể xác định đâu là đúng, đâu là sai, cái nào thật, cái nào giả. Nếu như ông
biết thì ông giảng giải, còn như ông không biết thì ông bỏ trống không giải
thích. Những gì đáng tin thì ông nói đáng tin, còn như không đáng tin thì ông
cũng nói rằng không đáng tin chứ ông không phán đoán một cách khinh suất. Ấy gọi
là nguyên tắc soạn sử “khuyết nghi” (闕疑) [bỏ trống những điều còn nghi ngờ] và “tín
dĩ truyền tín, nghi dĩ truyền nghi” (信以傳信,疑以傳疑) [lấy việc tin được để giải thích việc tin
được, chỗ nào còn nghi ngờ thì để là nghi ngờ].
Trong sách Sử Ký,
có khi cùng một sự kiện mà Bản Kỷ, Liệt Truyện, Thế Gia và Niên Biểu có chỗ
không giống nhau. Việc đó cũng có thể vì tác giả sơ suất, không so sánh trước
sau, cũng có khi vì nguồn sử liệu bất đồng, không thể định được đâu là đúng,
đâu là sai, chỉ còn cách ghi lại mà không bỏ đi, để cho người sau khảo chứng.
Những chuyện như thế, xem ra ổn thoả hơn là phán đoán vội vã rồi miễn cưỡng đưa
ra kết luận.
Tư Mã Thiên cũng
tôn trọng tinh thần của thực lục với thực tế lịch sử. Ban Cố trong Tư Mã Thiên
truyện ở Hán Thư có viết: Từ Lưu Hướng (劉向) Dương Hùng (揚雄) hễ từng đọc sách đều
khen Tư Mã Thiên có tài lương sử, kính phục việc sắp đặt sự kiện, biện luận mà
không phô trương, trung thực mà không quê kệch, văn thì ngay thẳng, sự thì tới
tận gốc, không hư mỹ, không ẩn ác, cho nên mới gọi là thực lục. Tư Mã Thiên ghi
chép nhân vật lịch sử rất là khách quan, công chính, thực sự cầu thị. Từ viễn cổ
đến thời đại của tác giả, hơn ba nghìn năm, các loại nhân vật đâu chỉ hàng
nghìn, hàng vạn. Vậy mà tả người này không tả người khác, xem xét công lao đối
với lịch sử, ảnh hưởng lớn nhỏ thế nào, tuyển chọn ra các nhân vật điển hình.
Sử Ký miêu tả nhân
vật đều theo một cách thức nghiêm nhặt, không giống kiểu chung chung của hậu thế.
Tư Mã Thiên cũng giỏi về việc dùng một bút pháp giản dị để khắc hoạ nhân vật bằng
những nét đặc trưng chủ yếu, chẳng hạn như Hạng Vũ (項羽) thì dũng mãnh hào sảng,
Lưu Bang (劉邦) thì cơ linh, giảo trá, Phạm Tăng (范增) thì âm hiểm, Trương
Lương (張良) thì mưu trí, Tiêu Hà (蕭何) thì ổn trọng, Hàn Tín (韓信) thì đa trí, Lý Quảng (李廣) thì thiện xạ, mọi người
đều vẽ ra những sống động, truyền thần. Bất kể luận hoàng đế hay là cổ thánh,
tiên hiền, dưới ngòi bút của Tư Mã Thiên cũng đều là những con người bằng xương
bằng thịt ta thấy ở trên đời. Sử Ký tuy cũng ca tụng công đức nhưng cũng phô
bày tội ác và khuyết điểm, bỉnh bút trực thư, không che dấu chút nào.
Chẳng hạn như đối
với Hán Cao Tổ Lưu Bang, ông tả là người thâm mưu viễn lự, có hùng tài đại lược,
tri nhân thiện nhiệm, tòng gián như lưu, lại tả ông ta không lo việc kinh doanh
trong nhà, thích rượu hiếu sắc, say tuý luý sau khi xưng đế rồi áo gấm về làng,
cả cái tội về sau chém giết công thần. Cách miêu tả của Sử Ký rất là linh hoạt
tinh tế, thỉnh thoảng trong thiên truyện lại nảy ra một tính cách chủ yếu của
nhân vật, còn các vấn đề khác thì phân tán trong chương bên ngoài.
Cách đó gọi là hỗ
kiến pháp (互見法) để tả người, rất tiện trong cách tập trung bút mực, phân biệt chính phụ
rõ ràng, làm giảm được độ dài của thiên. Chúng ta đọc Sử Ký cũng nên dùng hỗ kiến
pháp, lấy một thiên làm chủ, dùng chương khác xen lẫn vào những nơi có liên
quan thì mới khỏi phiến diện. Sử Ký tả người cốt để khách quan phản ảnh thực tế
lịch sử, không cầu toàn trách bị, không lấy thành bại luận anh hùng chẳng hạn
như đầu đời Hán ba đại công thần là Hàn Tín (韓信), Bành Việt (彭越), Kinh Bố (黥布) đều vì tội mưu phản mà
ba họ bị tru diệt.
Sau khi Lưu Bang
chết rồi, vương triều Tây Hán cũng không ai khôi phục cho ba người đó nhưng Tư
Mã Thiên đã dám lập truyện cho họ, ghi chép toàn bộ công tội đúng sai của một đời
người. Đến như Hạng Vũ chưa phải là thiên tử nhưng cũng xếp vào bản kỷ, Khổng Tử
chưa từng là chư hầu, Trần Thiệp (陳涉) tuy đã lập niên hiệu xây cung điện nhưng chỉ
được nửa năm rồi thất bại mà chết nhưng cũng đều được liệt vào thế gia (世家), ấy cũng vì Tư Mã Thiên
tôn trọng giá trị thực tế của lịch sử. Ấy cũng là vì sau khi nhà Tần diệt vong,
nhà Hán chưa lên, thuộc về một giai đoạn trung gian, thực tế thì Hạng Vũ là người
chi phối chính cục thời kỳ đó, cũng là đại biểu của chính quyền đương thời.
Tư Mã Thiên đã
nói: Chính trị từ Vũ mà ra, hiệu thì là Bá Vương, tuy ngôi vị không được đến
lúc cuối, nhưng từ cận cổ đến nay chưa từng có vậy. (phần Tán trong Hạng Vũ bản
kỷ). Cũng tương tự, ảnh hưởng của Khổng Tử và Trần Thiệp với đương thời và hậu
thế rất to lớn, trên thực tế địa vị lịch sử hoàn toàn có thể tương đương với một
chư hầu cho nên mới liệt vào thế gia.
Tư Mã Thiên viết:
Bậc quân vương cho chí hiền nhân trong thiên hạ rất đông, đương thời thì vinh,
chết rồi thì hết. Khổng Tử là người dân thường, truyền hơn mười đời, người đi học
đều tôn trọng. Từ thiên tử vương hầu, cho chí kẻ trong sáu nghề đều theo phu tử,
có thể nói là bậc chí thánh vậy. (trong phần Tán của Khổng Tử Thế Gia). Ấy là lời
phê bình và tôn sùng phản ảnh được thực tế lịch sử.
Ông lại viết: Trần
Thiệp tuy đã chết nhưng đã khiến cho vương hầu tương tướng quên nhà Tần, cũng
là nhờ công đầu của Thiệp vậy. (Trần Thiệp Thế Gia). Đó cũng là khẳng định công
lao của Trần Thiệp là người đầu tiên khởi nghĩa chống lại nhà Tần. Những việc
đó thể hiện tư tưởng tiến bộ của Tư Mã Thiên. Tư Mã Thiên tổng kết việc Tần
vong, Hán hưng, đem kinh nghiệm lịch sử để giáo huấn, coi trọng nhân tâm và đồng
tình với khổ nạn của dân chúng, phản đối hình pháp nghiêm khắc, bạo ngược hại
dân, chủ trương thanh tĩnh vô vi, để cho dân được nghỉ ngơi. Ấy chính là cơ sở
tư tưởng to lớn ông thành tựu.
Sách Sử Ký văn bút
sinh động, nghị luận tinh tường, những sự việc chêm vào đều miêu tả một cách giản
khiết, rõ ràng, chẳng hạn như Hạng Vũ bản kỷ, Cao Tổ bản kỷ, Liêm Pha – Lạn
Tương Như liêt truyện, Nguỵ công tử liệt truyện, Lý tướng quân liệt truyện,
Thích khách liệt truyện, các thiên đó miêu tả nhân vật sống động, tính cách mới
mẻ. Ngôn ngữ trong Sử Ký đều thông tục dễ hiểu, có sao viết vậy mà tình tiết lại
đậm đà. Trong sách dẫn dụng cổ thư, các chữ khó hiểu các đời trước đều được đổi
thành những tiếng bình dị theo ngôn ngữ đời Hán mà không mất nguyên ý, ấy cũng
là chỗ cao minh hơn người của Tư Mã Thiên.
Thế nhưng Sử Ký
cũng vẫn có những chỗ sai sót. Vì chưng tư liệu không đủ nên trong sách cũng có
nhiều chỗ không đúng sự thực căn cứ vào truyền thuyết hay cố sự chẳng hạn như
Chu U Vương đốt phong hoả để đùa cợt chư hầu, Công Tôn Chử Cữu và Trình Anh xả
thân cứu Triệu Võ. Cho chí việc Tô Tần, Trương Nghi hợp tung liên hoành tuy
tình tiết ly kỳ hấp dẫn người đọc nhưng lại không phù hợp với sự thực. Gần đây
những sách viết trên lụa tìm thấy trong mộ đời Hán đào được ở Mã Vương Đôi (馬王堆) là bộ Chiến Quốc Tung
Hoành Gia Thư (戰國縱橫家書) đã chứng minh được những sai lầm trong bộ Sử Ký.
Trong sách cũng những
chỗ sai lầm, mâu thuẫn hay sơ lược, đặc biệt là thời Chiến Quốc,
người nghiên cứu cần sưu tập thêm các tư liệu khác
để tham
khảo và hiệu đính, không nên mù quáng dễ dàng tin. Có như thế, Sử Ký mới không
mất giá trị to lớn của một bộ sử thời cổ.
Từ
trước đến nay, số người chú giải Sử Ký rất nhiều, nổi tiếng nhất là Tam Gia Chú
(三家注)
tức Sử Ký Tập Giải (史記集解) của Bùi Nhân (裴駰) đời Nam
Tống, Sử Ký Sách Ẩn (史記索隱) của Tư Mã Trinh (司馬貞) và Sử
Ký Chính Nghĩa (史記正義) của Trương Thủ Tiết (張守節) đời Đường.
Chú giải của ba nhà này vốn là những bản khắc riêng, đến thời Bắc Tống mới hợp
lại làm một, đem những lời chú giải của ba nhà phụ vào bên dưới chính văn của Sử
Ký. Năm Đồng Trị đời Thanh, Kim Lăng thư cục đã san hành Sử Ký hợp chung với
Tam Gia Chú để khắc bản. Trung Hoa thư cục ở Bắc Kinh căn cứ theo bản Kim Lăng
thư cục mà gia công ấn hành bản tiêu điểm (tức bản đã hiệu đính), hiện nay là bản
tiện lợi nhất để xem.
Hán Thư - bộ sử đầu tiên theo thể Kỷ
Truyện
Hán Thư còn gọi là Tiền Hán Thư , tác giả
chính yếu là Ban Cố (班固) nhưng bộ sách này cũng đã có người đi trước soạn, rồi lại có người đi
sau tiếp nối theo chứ không phải là tác phẩm của riêng một người. Ban Cố, tự Mạnh
Kiên (孟堅), người An Lăng,
Phù Phong (nay là Hàm Dương, Thiểm Tây). Ông sinh năm Kiến Võ 8 đời Hán Quang
Vũ (CN 32), chết năm Vĩnh Nguyên 4 đời Hán Hòa Đế (CN 92). Ông xuất thân sử học
thế gia, tằng tổ là Ban Du (班斿) học rộng tài cao, đã từng cùng Lưu Hướng (劉向) trông coi kho sách của hoàng gia, vua Thành Đế
ban cho ông toàn bộ phó bản sách của tàng thư, trong đó có cả Sử Ký.
Nhờ những bộ sách khó mà có được vào thời đó nên
họ Ban trở thành một đại đồ thư quán (thư viện lớn), rất nhiều học giả đến nhà
ông xem sách, Dương Hùng (楊雄) cũng là một trong số ấy.
Cha ông là Ban Bưu (班彪), thứ tôn của Ban Du (班斿), có cơ hội đọc rất nhiều sách và cũng được gặp
gỡ, giao thiệp với nhiều học giả. Hậu kỳ Tây Hán, có đến hơn mười người tiếp tục
tăng bổ Sử Ký còn tiếp tục sáng tác thì cũng không ít. Ban Bưu cho rằng những bộ
sách này đều không vừa ý nên ông đã sưu tập tài liệu, viết ra một bộ Hậu Truyện
(後傳) gồm 65 thiên, bộ sách
này sau trở thành bản nền của Hán Thư (漢書).
Thuở còn nhỏ, Ban Cố thường theo cha lên kinh
đô Lạc Dương học tập. Ông là người rất thông minh, 9 tuổi đã có thể làm văn, đọc
thơ phú. Năm 16 tuổi ông vào nhà Thái Học, bác lãm quần thư, tinh thông sở trường
của các nhà, từ phú văn chương đều cực giỏi, lại là người khoan hậu, khiêm tốn,
không cậy tài mà kiêu ngạo. Ở nhà Thái Học, ông đọc sách suốt bảy năm, đến khi
cha mất thì mới đưa linh cữu trở về An Lăng (安陵).
Năm Vĩnh Bình nguyên niên đời vua Minh Đế (CN
58), ông ở nhà bắt đầu sửa lại cuốn sách của cha, thấy rằng Hậu Truyện (後傳) vẫn còn sơ sài nên đã chuyên tâm nghiên cứu,
sưu tập sử liệu, có ý viết thành một bộ sách lớn. Ai ngờ ông bị người ta vu cáo
có ý soạn quốc sử riêng nên bị bắt bỏ ngục. Em ông là Ban Siêu (班超) lên kinh đô Lạc Dương dâng thư lên vua Minh Đế
(kêu oan) được triệu vào để tâu rõ nguyên ủy. Ban Siêu cho Minh Đế xem bản thảo,
nhà vua rất tán thưởng tài hoa của Ban Cố nên đặt Ban Cố làm chức hiệu thư lang
(校書郎), lệnh sử Lan Đài (nơi
giữ sách trong cung vua thời Đông Hán) là chức quan quản thủ đồ thư và với những
người khác cùng tu bổ bản kỷ của vua Quang Vũ nhà Hán, soạn tiểu sử và sự tích
các công thần, và viết 28 thiên trong Liệt Truyện, về sau lại cùng nhóm Lưu
Trân (劉珍) biên soạn một
phần trong Đông Quan Hán Ký (東觀漢記).
Năm Vĩnh Bình 7 (CN 64) vua Minh Đế ra lệnh
cho Ban Cố viết tiếp Hán Thư cho xong. Lan Đài là nơi tàng thư của hoàng gia,
Ban Cố có thể tùy ý đọc và tham khảo, thu thập những tinh hoa để sử dụng nên rất
thuận lợi cho việc soạn Hán Thư, đến năm Kiến Sơ 7 đời Chương Đế (CN 82), Hán
Thư phần lớn đã hoàn thành.
Ban Cố vốn có giao hảo tốt đẹp với người ngoại
thích đang giữ quyền hành là Đậu Hiến (竇憲), từng là bí thư, cố vấn quân sự cho Đậu Hiến.
Về sau Đậu Hiến bị thất sủng nên tự sát, Ban Cố cũng liên lụy nên bị bắt và chết
ở trong ngục, bản thảo sách ông làm cũng bị phá hoại nghiêm trọng. Khi đó bộ
Hán Thư còn 8 biểu và phần Thiên Văn Chí chưa viết xong.
Về sau, vua Hòa Đế hạ chiếu ra lệnh cho người
em gái của Ban Cố là Ban Chiêu (班昭) [tức Tào đại gia] sửa sang lại di cảo. Ban Chiêu từ nhỏ đã được gia
đình hun đúc, tài học xuất chúng, nên tham khảo tàng thư của hoàng gia, ngoại
trừ việc tu bổ và sửa đổi nguyên cảo ra lại viết tiếp thêm tám biểu, còn Mã Tục
(馬續) tiếp tay bổ trợ cho phần
Thiên Văn Chí khiến cho Hán Thư lần đầu thành một bản hoàn chỉnh. Ban Chiêu là
nữ sử gia duy nhất trong lịch sử Trung Hoa, trong tất cả 24 bộ sử không còn một
người đàn bà nào khác, sự đóng góp của bà trong Hán Thư mãi mãi được ghi trong
sử sách.
Hán Thư bắt đầu từ Hán Cao Tổ nguyên niên (206 TCN), kết thúc năm Địa Hoàng 4
(CN 23) đời Vương Mãng (王莽), tổng cộng 230 năm, thể lệ cơ bản đi theo hai phần Kỷ và Truyện trong
Sử Ký làm chủ thể, chỉ đổi Bản Kỷ thành Kỷ, bỏ đi phần Thế Gia, đem nhập chung
vào Liệt Truyện. Nhân vì trên thực tế đời Hán không có nước chư hầu nên mới
không có phần Thế Gia, ấy cũng là do thực tế lịch sử. Hán Thư đổi Thư thành Chí
để cho khỏi trùng với Thư trong cái tên Hán Thư. Hán Thư bao gồm Kỷ 12 thiên,
Biểu 8 thiên, Chí 10 thiên, Liệt Truyện 70 thiên cộng tất cả là 100 thiên, người
đời sau chia ra thành 120 quyển.
Hán Thư nối tiếp các thời đại để viết sử, đó
là sáng kiến của Ban Cố, cách thức đó có thể hoàn chỉnh và bảo tồn văn hiến một
triều đại, là tôn chỉ thể hiện và phát dương công đức bản triều nên đối với các
đời sau có ảnh hưởng rất lớn. Về sau chính sử luôn luôn dùng Hán Thư làm tiêu
chuẩn, cắt một triều đại ra thành sử, danh xưng phần nhiều gọi là Thư. Hán Thư
là bộ sử đầu tiên của Trung Hoa viết theo thể Kỷ Truyện về một triều đại kế thế,
đời trước truyền ngôi cho đời sau.
Hán Thư gồm 80 vạn chữ, sử liệu phong phú, rõ
ràng chân thực phi thường. Phần trước của Hán Võ Đế phần nhiều căn cứ trên Sử
Ký nhưng cũng có tăng thêm và thay đổi. Chẳng hạn như Giả Nghị Truyện (賈誼傳) tăng thêm phần tấu nghị Trị An Sách (治安策), Triều Thác Truyện (晁錯傳) chép thêm Cử Hiền Lương Đối Sách (舉賢良對策), Ngôn Binh Sự Thư (言兵事書), Giáo Thái Tử Sớ (教太子疏), ngoài Sử Ký còn có thêm những sử liệu mới.
Từ Hán Võ Đế trở đi các bộ phận ngoài di thư của Ban Bưu làm bản gốc còn tham
khảo đến hơn chục nhà viết thêm vào Sử Ký và sử dụng một số lớn chiếu lệnh, tấu
nghị, thi phú, Hán Trứ Ký (漢著記), thiên văn lịch và cả những sử liệu mà gia đình họ Ban tai nghe mắt
thấy. Trước đây đã có người dưới góc độ văn học đã chê Ban Cố chép lại quá nhiều
tư liệu nguyên thủy, thế nhưng dưới quan điểm sử học thi đây chính là một ưu điểm
lớn của Hán Thư. Trong Hán Thư có dẫn chứng rất nhiều văn bản và tài liệu
nguyên thủy nay đã thất truyền nên từ Hán Thư chúng ta có thể bảo tồn những tài
liệu đó.
Hán Thư cũng thêm những mục Hình Pháp Chí (刑法志), Ngũ Hành Chí (五行志), Địa Lý Chí (地理志), Nghệ Văn Chí (藝文志). Hình Pháp Chí là lần đầu được hệ thống và
đưa vào, thuật về biến đổi của chế độ pháp luật và các điều văn bản luật lệ cụ
thể. Địa Lý Chí ghi chép các quận quốc và khu vực hành chánh đương thời chia ra
sao, lịch sử của biến thiên duyên cách và thứ tự tổng số người, các sản vật mỗi
nơi và tình trạng phát triển kinh tế, dân tình phong tục. Về vấn đề này trước
đây chưa có ai ghi chép về cương vực của Trung Hoa, Ban Cố chép về 103 quận và
hộ khẩu của từng quận, mỗi quận có huyện nhiều ít thế nào, có sông ngòi ra sao
và sơn mạch rất có giá trị, việc nghiên cứu khu vực địa lý được bảo tồn rất nhiều
tư liệu.
Đặc biệt là Nghệ Văn Chí tóm gọn lại Thất Lược
(七略) của Lưu Hâm (劉歆), khảo chứng về nguyên lưu khác nhau của các
phái học thuật, nội dung trước tác, tình trạng còn mất ra sao và ghi chép thư tịch
đương thời còn tồn tại, lại phân loại cộng chung 596 nhà, 12269 quyển. Thất Lược
vốn sớm thất truyền, nhờ Nghệ Văn Chí mà lưu giữ được một tư liệu quí báu.
Nghệ Văn Chí trong Hán Thư ghi lại mục lục
sách vở nên cũng biết được số lượng và tình huống thư tịch thời Chiến Quốc trở
về sau. Chính sử về sau phần nhiều mô phỏng theo cách của ông để viết về nội
dung trong phần này.
Thực Hóa Chí (食貨志) là do Bình Chuẩn Thư (平準書) trong Sử Ký biến thành nhưng mở rộng ra nhiều,
nội dung cũng thêm phong phú, chia ra thành hai thiên thượng và hạ. Thượng
thiên bàn về Thực tức trạng huống kinh tế của nông nghiệp, còn hạ thiên bàn về
Hóa tức tình trạng thương nghiệp và hóa tệ, là một thiên chuyên về kinh tế
đương thời.
Bách Quan Công Khanh Biểu (百官公卿表) trong Hán Thư rất được hậu nhân tán thưởng,
trước là giảng thuật tình hình phân quan thiết chức đời Tần Hán, quyền hạn và bổng
lộc của từng quan chức số lượng như thế nào, sau đó mới chia ra thành 14 cấp,
34 quan cách (trật) thành một biểu đồ đơn giản, ghi chép các công khanh đại thần,
thăng giáng, thuyên chuyển, bãi miễn, tuy chiếm không nhiều chỗ nhưng khiến cho
người ta nhìn là biết ngay tình thế biến thiên của chế độ quan liêu thời đó.
Cách thức Hán Thư ghi chép rất nghiêm cẩn, chú
trọng sử thực. Các hệ thống hoàn bị, sự việc gì cũng có đầu có đuôi, ghi chép
minh bạch, hành văn chỉnh tề, tao nhã, súc tích đọc lên như âm vận từ phú, có một
địa vị trọng yếu trên phương diện văn chương. Một số thiên nổi tiếng như Tô Vũ
Truyện (蘇武傳) miêu tả sứ thần
nhà Hán là Tô Vũ (蘇武) bị Hung Nô giam
cầm 19 năm, kiên nghị bất khuất, hình ông chăn cừu ở Bắc Hải cầm cờ tiết vọng về
phương nam đã trở thành một biểu tượng không chịu khuất phục của người Trung
Hoa. Truyện miêu tả phi thường linh hoạt, cảm động lòng người, lời lẽ khúc chiết
minh bạch khiến cho nghìn năm sau vẫn còn sống động. Hoắc Quang Truyện (霍光傳), Trương Vũ Truyện (張禹傳), Chu Mãi Thần Truyện (朱買臣傳) cũng đều tả lột được tinh thần, có giá trị
rất cao trong văn học.
Về nội dung tư tưởng mà xét, Hán Thư không như
Sử Ký. Tư Mã Thiên không hoàn toàn dùng tiêu chuẩn nho gia của Khổng Tử để phán
đoán đúng sai, ấy chính là chỗ quí giá của ông. Thế nhưng Ban Cố đã nhấn mạnh
tư tưởng chính thống, tuyên dương vương triều nhà Hán là “thừa Nghiêu vận” (承堯運) [kế thừa thiên mệnh của vua Nghiêu] dựa trên
thần quyền nhận được từ thần linh, đề cao việc duy trì đẳng cấp trật tự, “nhỏ
không được vượt lớn, tiện không được vượt quí” (小不得僭大,賤不得逾貴) cần an phận thủ kỷ, không phạm thượng tác loạn. Điều này cho thấy thời
Đông Hán giới cầm quyền đã chọn tư tưởng Nho gia là tư tưởng chính thống ngay cả
trong lãnh vực sử học. Việc đó có liên quan đến gia thế, từng trải và giáo dục
mà Ban Cố đã thừa hưởng. Tư tưởng chính thống của Ban Cố trong Hán Thư đã ảnh
hưởng sâu rộng đến chính sử của người Trung Hoa sau này.
Hán Thư dùng nhiều chữ cổ, từ cổ nên hơi khó đọc.
Nhiều địa phương thời Đông Hán có người không biết chữ, nhà kinh học (經學家) trứ danh là Mã Dung (馬融) khi còn trẻ phải đến học Hán Thư ở nhà Ban
Chiêu. Cuối đời Đông Hán thì đã có Phục Kiền (服虔), Ứng Thiệu (應劭) làm công việc chú giải Hán Thư. Sang đến đời
Đường, Nhan Sư Cổ (顏師古) tập hợp các
chú thích của 23 học giả từ trước, sửa chữa những sai lầm và thêm vào những chỗ
còn thiếu, hoàn thành tân chú cho Hán Thư.
Sang đời Thanh, Vương Tiên Khiêm (王先謙) tập hợp thêm thành quả nghiên cứu của hơn 40
nhà từ đời Đường trở về sau làm thành bộ Hán Thư Bổ Chú (漢書補注). Những nghiên cứu đó là công cụ trọng yếu của
người đọc sách giúp chúng ta hiểu được các tự âm, tự nghĩa và chân tướng của sử
liệu trong Hán Thư. Trước mắt, bản Hán Thư tốt nhất là bản Trung Hoa thư cục ở Bắc
Kinh ấn hành, là bản tiêu điểm in chữ chì, bản này đã được nhiều chuyên gia
kham hiệu, lại được ngắt câu phân đoạn, là bản tiện dụng nhất.
Hậu Hán Thư và Tam Quốc Chí
Hậu Hán Thư
Hậu Hán Thư là một
bộ sử thuộc thể kỷ truyện (紀傳體史書) ghi chép lịch sử đời Đông Hán, toàn bộ 120 quyển,
bao gồm bản kỷ 10 quyển, liệt truyện 80 quyển, chí 30 quyển, chủ yếu ghi chép từ
năm đầu tiên của vua Quang Võ nhà Đông Hán là năm Kiến Võ nguyên niên (CN 25) đến
Hán Hiến Đế Kiến An 25 (CN 220), cộng cả thảy 195 năm. Tác giả của Kỷ, Truyện là
Phạm Diệp (范曄) thời Lưu Tống[3] còn tác giả của Chí
là Tư Mã Bưu (司馬彪) thời Tấn.
Phạm Diệp tự là Uý
Tông (蔚宗), người Thuận Dương (nay ở đông nam huyện Chiết Xuyên, tỉnh Hà Nam), gia
đình sống ở Sơn Âm (nay là Thiệu Hưng, Chiết Giang), sinh năm CN 396, xuất thân
thế tộc, ông nội, cha đều làm quan và đều yêu thích văn chương.
Tổ phụ từng viết
và chú thích Cốc Lương Truyện (穀梁傳), cha thì có văn tập còn được lưu truyền. Phạm Diệp
rất có tài, tinh thông văn mặc đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của gia đình, từ khi
còn nhỏ đã đọc rất nhiều sách. Thời Tống Văn Đế ông từng giữ chức thượng thư bộ
Lại nhưng vì kiêu ngạo, bỏ bê công việc không chịu câu thúc nên bị biếm làm
thái thú Tuyên Thành khiến cho trong lòng u uất bất đắc chí, định bụng sẽ san định
lại các nhà trong đó Hậu Hán Thư là một. Ông mở đầu bằng việc soạn thảo Hậu Hán
Thư.
Về sau, tuy được
thăng lên làm Tả Vệ Tướng Quân, Thái Tử Thiêm Sự tham dự các việc quan trọng
nhưng vì tính cách cuồng ngạo nên bị ghép vào tội mưu phản, bị giết năm Nguyên
Gia 22 (CN 445) khi mới 48 tuổi. Khi Phạm Diệp chết, phần Chí trong bản thảo Hậu
Hán Thư chưa xong, về sau bị huỷ bỏ nên chỉ còn hai phần Kỷ, Truyện lưu truyền
trên đời mà thôi. Tới đời Lương, Lưu Thiệu khi chú thích sách của họ Phạm, vì
trong sách không có phần Chí nên lấy 8 Chí, 30 quyển trong Tục Hán Thư của Tư
Mã Bưu bổ túc vào Hậu Hán Thư thành bản hiện lưu hành ngày nay.
Tư Mã Bưu (司馬彪), tự là Thiệu Thống (紹統), con trai lớn của Cao
Dương Vương Tư Mã Mục (司馬睦) đời Tấn. Ông từng soạn sử đời Đông Hán, làm phần Kỷ,
Chí, Truyện 80 thiên, lấy tên là Tục Hán Thư. Hậu Hán Thư của Phạm Diệp xong rồi
thì Tục Hán Thư của Tư Mã Bưu dần dần bị đào thải, chỉ có 8 chí nhân vì bổ túc
trong sách của Phạm Diệp nên mới được truyền lại.
Trước khi Phạm Diệp
viết Hậu Hán Thư thì đã có nhiều người viết về đời Đông Hán và nhiều bộ sử đã
lưu truyền chẳng hạn như Lưu Trân (劉珍) viết Đông Quan Hán Ký (東觀漢記), Tạ Thừa (謝承) viết Hậu Hán Thư (後漢書), Tư Mã Bưu (司馬彪) viết Tục Hán Thư (續漢書), Tiết Oánh (薛瑩) viết Hậu Hán Ký (後漢記), Hoa Kiểu (華嶠) viết Hậu Hán Thư (後漢書), Tạ Thẩm (謝沈) viết Hậu Hán Thư (後漢書), Trương Oánh (張瑩) viết Hậu Hán Nam Ký (後漢南記) khoảng mươi bản khác
nhau. Phạm Diệp kiêm thu sở trường của các nhà, Hậu Hán Thư của ông sau khi
truyền ra thì các nhà khác đều mờ dần.
Sử liệu tối chủ yếu
trong Hậu Hán Thư của Phạm Diệp lấy từ Đông Quan Hán Ký. Sở dĩ gọi là Đông Quan
là vì trong cung của Đông Hán có nơi lưu giữ sách vở và sử quan biên soạn sách.
Việc biên soạn Đông Quan Hán Ký khởi đầu vào Vĩnh Bình thứ 5 (CN 62) đời Hán
Minh Đế, trước sau tập trung sử quan để tu soạn cả thảy năm lần, cho đến năm
Hoàng Sơ 6 (CN 225) đời Nguỵ Văn Đế mới hoàn thành, trước sau 163 năm trong đó
đến mấy chục học giả tham gia như Ban Cố (班固), Lưu Trân (劉珍), Thôi Thực (崔寔), Sái Ung (蔡邕), Dương Bưu (楊彪).
Đông Quan Hán Ký
thực ra chỉ là gộp chung sử liệu một triều Đông Hán, theo cách Bản Kỷ, Niên Biểu,
Chí, Liệt Truyện, Tải Ký năm bộ phận biên tập cơ bản giống như thể tài của Sử
Ký, Hán Thư.
Cũng vì người Đông
Hán căn cứ vào tài liệu sử đương thời mà biên soạn nên giá trị sử liệu rất cao.
Từ đời Nguỵ Tấn về sau các học giả biên soạn sử Đông Hán chủ yếu thu thập tài
liệu từ Đông Quan Hán Ký. Trước đời Đường, Đông Quan Hán Ký và Sử Ký, Hán Thư được
xếp ngang nhau gọi là Tam Sử. Đến đời Đường, Hậu Hán Thư của Phạm Diệp thay thế
Đông Quan Hán Ký cùng với Sử Ký, Hán Thư hợp lại gọi là Tam Sử. Đông Quan Hán
Ký tuy đã thất truyền nhưng các sử liệu phần nhiều truyền lại ở trong Hậu Hán
Thư.
Hậu Hán Thư tuy cơ
bản sắp đặt theo lối của Sử Ký, Hán Thư nhưng cũng có biến hoá và cũng có chỗ
sáng tạo mới. Trong Hán Thư, mỗi vị hoàng đế là một thiên trong Bản Kỷ, đời
Đông Hán ba ông vua Thương (殤), Xung (沖), Chất (質) thời gian tại vị ngắn
không có nhiều sự tích nên Hậu Hán Thư tham chiếu lệ trước về Tần Thuỷ Hoàng bản
kỷ trong Sử Ký.
Về mục này, Sử Ký
phụ thêm nhị thế Hồ Hợi (胡亥) và Tần vương tử Anh nên tại Hoà Đế Kỷ trong Hậu
Hán Thư cũng phụ thêm Thương Đế, ở Thuận Đế Kỷ phía sau cũng phụ thêm Xung Đế,
Chất Đế hai người. Cách biên soạn đó làm giảm được số lượng các thiên mà lại
không để sử thực di lậu ra ngoài.
Thiên sau cùng của
Bản Kỷ là Hoàng Hậu Kỷ, vượt qua Sử Ký, Hán Thư ngoại trừ Lã Hậu thì
xếp ra ngoài bản kỷ thuộc về Ngoại Thích Truyện. Phạm Diệp viết hoàng hậu trong
Bản Kỷ, cải cách đó phù hợp với sáu bà hoàng hậu khác lâm triều là thực tế lịch
sử.
Liệt Truyện trong
Hậu Hán Thư có thêm các mục đảng cố (黨錮), hoạn giả (宦者), văn uyển (文苑), độc hành (獨行), phương thuật (方術), dật dân (逸民) và liệt nữ (列女) bảy loại. Đảng Cố (bè đảng
trong triều) và Hoạn Giả (hoạn quan) là hai mục mới, phản ảnh tình huống thực tế
thời kỳ Đông Hán. Hoạn quan đời Đông Hán phần nhiều tham dự triều chính, rất
nhiều đại thần liêm khiết, chính trực bị bè đảng của chúng kết tội rồi sát hại,
hoạn quan thiết lập đảng cố chi ngục để giam những người đứng đầu, phản ảnh một
đặc điểm của thời đại là mâu thuẫn và đấu tranh nội bộ trong triều đình.
Trong Dật Dân Truyện
(truyện dân thường) ghi lại truyện Lương Hồng (梁鴻) và vợ là Mạnh Quang (孟光), phẩm hạnh cao khiêt lại
tài hoa vì việc tránh né nhà Thục mà ẩn cư trong núi rừng, đem sức ra tự trồng
tỉa sinh sống, suốt đời không ra làm quan, đặc biệt sáng tác bài ca Ngũ Y (五噫之歌) để tỏ chí khí.
Hậu Hán Thư, quyển
83 có truyện Hán Âm lão phụ (漢陰老父) miêu tả đời Hán Hoàn Đế thường du ngoạn các nơi,
đi đến đân dân chúng đểu chạy ra xem, ở đất Hán Âm có một người nhà nông già vẫn
tiếp tục cày ruộng, không ngó ngàng gì đến. Viên thượng thư đi theo nhà vua là
Trương Ôn (張溫) rất là kỳ quái nên sai người đến hỏi:
Vì sao mọi người
ai ai cũng đi xem hoàng đế, chỉ có mình ngươi cày ruộng không ngừng?
Người nông phu già
cười không đáp. Trương Ôn đích thân đến hỏi, lão nông nói rằng:
Ta là người sơn dã
không biết nói năng, xin hỏi vì thiên hạ loạn mà lập thiên tử hay vì có tài mà
lập thiên tử? Lập thiên tử ấy là coi ông ta cai trị thiên hạ cũng như vua như
cha, hay là bắt dân chúng hầu hạ thiên tử chăng? Trước đây vua Nghiêu, vua Thuấn
trị nước thì nóc nhà cũng không cao, mái tranh cũng không cắt (để giảm sức dân)
mà bách tính đều yên ổn cả.
Vậy mà ngày nay
hoàng thượng của ông, buông lỏng con người của mình, làm dân lao khổ không hề
đoái hoài, nhàn du khắp nơi, ta vì ngươi mà xấu hổ, sao ông vẫn để người ta chạy
đến xem. Trương Ôn nghe xong cảm thấy thẹn thùng, hỏi họ tên ông lão, ông già
đó không trả lời mà đi. Phạm Diệp viết truyện ông già ở Hán Âm cho thấy suy
nghĩ sử học của ông rất tiến bộ.
Liệt Nữ Truyện mở
đầu việc viết về đàn bà khiến cho người sau đặc biệt chú ý. Phạm Diệp cho rằng
nếu sách sử mà không đề cập đến phụ nữ thì không đúng nên ông chọn những phụ nữ
tài hoa, phẩm hạnh ưu tú các loại để viết thành truyện ký chẳng hạn như người
tiếp tục sau Ban Cố (班固) hoàn thành Hán Thư là nữ sử học gia Ban Chiêu (班昭), cắt khung cửi khuyên chồng
cầu học là vợ của Nhạc Dương Tử (樂羊子), Hoàn Thiếu Quân (桓少君) chọn chồng thì trọng phẩm
hạnh, khinh phú quí, vợ Vương Bá (王霸) khinh danh lợi trọng thanh tiết, người có
tài hơn người là Sái Văn Cơ (蔡文姬), cũng không phải vì tái giá mà không lập truyện,
cho thấy Phạm Diệp quả thức có cách nhìn rất độc đáo. Về sau các bộ sử khác đã
đổi liệt nữ (列女) thành liệt nữ (烈女)[4], chỉ
chọn những trinh phụ gìn giữ tam cương, ngũ thường ghi trên bi văn cho thấy kiến
thức sử học còn kém xa Hậu Hán Thư.
Hậu Hán Thư ghi
chép người và sự việc thường đi theo nhau, không kể niên đại trước sau. Tác giả
của Luận Hành (論衡) Vương Sung (王充) là người sơ kỳ đời Đông Hán, tác giả Tiềm Phu Luận
(潛夫論) là Vương Phù
cùng với tác giả của Xương Ngôn (昌言) là Trọng Trường Thống (仲長統) là người cuối đời Đông
Hán nhưng vì bọn họ đều giỏi trước thuật, coi nhẹ công danh lợi lộc nên ba người
chung một truyện, để cho sự tích các tư tưởng gia này không bị mờ nhạt. Trương
Thuần (張純) và Trịnh Khang Thành (鄭康成) không cùng thời, nhưng vì đều do học tập mà vươn
lên nên cũng hợp lại trong một truyện.
Mục Dư Phục Chí (輿服志) và Bách Quan Chí (百官志) trong Hậu Hán Duệ (後漢睿) cũng là những mục mà sử
trước không có. Dư Phục Chí ghi chép phản ảnh chế độ đẳng cấp trong thời phong
kiến về các loại xe, trang sức trên xe, phục trang và hình dạng những món đeo,
thay đổi từng thời kỳ là sử liệu trọng yếu cho những ai nghiên cứu về xe và y
phục đời Hán. Bách Quan Chí ghi chép từ trung ương đến địa phương phân biệt quan,
thiết lập chức đời Đông Hán như thế nào.
Hậu Hán Thư không
có hai phần Thực Hoá Chí (食貨志) và Nghệ Văn Chí (藝文志) nên đã thiếu sót về kinh
tế và văn hoá điển tịch của một đời. Về sau Thực Hoá Chí trong Tấn Thư có truy
cầu tình trạng kinh tế các triều đại trước đã bổ túc phần nào nhưng Hậu Hán Thư
thì chỉ có các phần Kỷ, Truyện (Chí là bổ túc sau) thế nhưng văn bút của Phạm
Diệp rất hay, an bài sắp xếp có thứ tự, giỏi về tỉa tót sử liệu, thêm vào liền
lạc mà không rườm rà, chỗ này giúp cho chỗ kia, tương bổ tương thành. Đến như sử
học gia trứ danh là Lưu Tri Cơ (劉知幾) cũng bình luận là “đơn giản nhưng vẫn chu
đáo, thưa mà không lọt chỗ nào” (簡而且周,疏而不漏)[5].
Tư tưởng của Phạm
Diệp xem ra tiến bộ, quan điểm chọn sử mới mẻ, yêu ghét rõ ràng, văn bút sắc
bén, trong phần Luận, Tán có thể từng chữ thấy được, khen chê phân minh. Ông là
người chính trực, không màng danh lợi, tính hạnh cao khiết là người viết liệt
truyện riêng một cõi.
Trong Đảng Cố Truyện,
bút pháp sinh động của ông miêu tả Trương Kiệm (張儉), Phạm Bàng (范滂), Lý Ưng (李膺) là những người cương
chính, không a dua, coi cái chết như trở về đầy chính khí lẫm liệt. Không lạ gì
khi hàng nghìn năm sau, cuối đời Thanh chí sĩ yêu nước Đàm Tự Đồng (譚嗣同) khi bị kết tội đã viết
Tuyệt Mệnh Thi:
(望門投止思張儉,忍死須臾待杜根。
我自橫刀向天笑,去留肝膽兩昆侖。)
“Vọng môn đầu chỉ tư Trương Kiệm,
Nhẫn tử tu du đãi Đỗ Căn.
Ngã tự hoành đao hướng thiên tiếu,
Khứ lưu can đảm lưỡng Côn Lôn.”
Việc
chạy trốn rất gay go mong được người dân che chở như Trương Kiệm, Các đồng chí
của ta thì được như Đỗ Căn biết nhẫn nhục để được sống mà hoàn thành đại nghiệp.
Cầm ngang thanh đao ngửng lên trời cười lớn, Sống chết gì thì cũng can đảm như
ngọn núi Côn Lôn [ám chỉ Khang (Hữu Vi) và Lương (Khải Siêu)].
Điều
này cho thấy ảnh hưởng của Hậu Hán Thư rung động lòng người. Hoạn Giả Truyện ca
tụng Sái Luân (蔡倫) là kẻ sĩ trung nghĩa, mắng chửi
Hầu Lãm (侯覽) là cái gốc của tai hoạ “hung
gia hại quốc (凶家害國). Hậu Hán Thư viết xong trễ
nhưng lại thoát ra khỏi cái khuôn sáo cũ, có nhiều ưu điểm nên truyền bá rộng
rãi cho đời sau thật cũng phải ngẫu nhiên.
Các
chú bản Hậu Hán Thư như Kỷ, Truyện chủ yếu do Chương Hoài thái tử (章懷) đời
Đường là Lý Hiền (李賢) chú thích còn Chí là do Lưu Thiệu
(劉昭) đời Lương thời Nam Triều chú giải.
Hậu
Hán Thư bổ chú (後漢書補注) của học giả đời Thanh Huệ Đống
(惠棟), Hậu Hán Thư tập giải (後漢書集解)
của Vương Tiên Khiêm (王先謙)
đều là những trước tác nghiên cứu chủ yếu về Hậu Hán Thư. Trước mắt thì bản
tiêu điểm Hậu Hán Thư do Trung Hoa thư cục Bắc Kinh ấn hành theo bản nền in đời
Tống Thiệu Hưng, tham hiệu các sách đã chỉnh lý mà thành là bộ hiện nay tiện dụng
và dễ đọc hơn cả.
Tam Quốc Chí
Tam
Quốc Chí 65 quyển bao gồm Nguỵ Thư (魏書)
30 quyển, Thục Thư (蜀書)
15 quyển, Ngô Thư (吳書) 20 quyển chủ yếu ghi chép lịch
sử khi ba nước Nguỵ, Thục, Ngô chia chân vạc. Trước thời Bắc Tống,Tam Quốc Chí
vốn là ba bộ sử riêng rẽ bao gồm Nguỵ Thư, Thục Thư và Ngô Thư, đến thời Bắc Tống
mới gộp lại làm một rồi khắc bản in ra, đổi tên thành Tam Quốc Chí. Toàn bộ sách
này chỉ có Kỷ, Truyện mà không có Chí, Biểu.
Tác
giả là Trần Thọ (陳壽), tự Thừa Tộ (承祚),
là người Hán ở Ba Tây An đầu đời Tây Tấn, sinh vào đời Hán Hậu Chủ Lưu Kiến
Hưng thứ 11 (CN 233). Ông từ nhỏ đã hiếu học, bái học giả người cùng quận là
Tiêu Chu làm thầy. Thời Thục Hán làm lệnh sử ở Quan Các (觀閣),
sau khi Thục mất về tay nhà Tấn thì làm trứ tác lang, nhận chức Trung Chính ở bản
quận, ông soạn Tam Quốc Chí vào thời gian này. Người đương thời khen ông là giỏi
viết thêm vào, có tài của một sử gia giỏi. Có người tên là Hạ Hầu Trạm (夏侯湛)
đã từng viết một bộ Nguỵ Thư nhưng khi xem thấy Trần Thọ viết Tam Quốc Chí thì
đã tự mình huỷ sách đó đi, từ đó gác bút. Đại quan đương thời là Trương Hoa (張華)
từng nói với Trần Thọ rằng: “Nay đem Tấn Thư giao cho ngươi” cho thấy tài hoa của
ông và Tam Quốc Chí đều được mọi người coi trọng.
Về
sau ông được thăng lên làm trị thư thị ngự sử, năm Nguyên Khang 7 (CN 297) đời
Tấn Huệ Đế thì qua đời, thọ 65 tuổi. Đương thời Lương Châu đại trung chính, thượng
thư lang là Phạm Quân (范頵)
đã tâu lên:
Cố
trị thư thị ngự sử Trần Thọ soạn Tam Quốc Chí, lời lẽ nhiều lần khuyên răn, hiểu
rõ việc đắc thất, có ích cho phong hoá. Tuy lời văn không hay bằng Tương Như
nhưng chất thì cao hơn, mong được sao lục.
Ông
ta tán tụng ưu điểm phi thường nên Tấn Huệ Đế hạ lệnh cho gọi Lạc Dương lệnh và
Hà Nam doãn cho người đến nhà Trần Thọ sao lục lấy một bộ, nên từ đó Tam Quốc
Chí được chính thức lưu truyền trên đời.
Trước
khi Trần Thọ viết Tam Quốc Chí thì đã từng xuất hiện các bộ sử liên quan đến
Nguỵ, Ngô như Vương Thẩm (王沈)
viết Nguỵ Thư, Ngư Hoạn (魚豢)
viết Nguỵ Lược, Vi Thiệu (韋昭)
viết Ngô Thư. Các phần Nguỵ Thư, Ngô Thư trong Tam Quốc Chí chủ yếu lấy tài liệu
trong các bộ sử này.
Triều
đình nhà Thục không đặt để sử quan nên không có người chuyên môn phụ trách việc
biên soạn Thục sử, tài liệu trong Thục Thư là do chính Trần Thọ đi sưu tập và
biên soạn. Trần Thọ viết sách vào thời đại còn gần với thời Tam Quốc nên việc
có thể lợi dụng thành quả của người khác không nhiều, lại thêm ông ta là tư
nhân trước thuật nên không có điều kiện để có được nhiều văn bản triều đình.
Chúng ta khi đọc Tam Quốc Chí cần thông cảm về việc khó khăn của Trần Thọ không
có đủ sử liệu nên nội dung không được sung thực, rất nhiều nhân vật trọng yếu
như Từ Cán (徐幹), Trần Lâm (陳琳),
Ứng Dương (應瑒), Đinh Nghi (丁儀),
Đinh Dị (丁廙) đều không được truyền lại còn
những người được truyền cũng thường là giản lược. Tào Tháo thực hiện đồn điền,
cửu phẩm trung chính chế thịnh hành thời Nguỵ Tấn Nam Bắc Triều trong sách đều
ghi chép rất giản lược.
Trần
Thọ Truyện trong Tấn Thư có nói:
Đinh
Nghi, Đinh Dị là danh nhân đương thời, Trần Thọ từng xin con cháu họ nghìn hộc
gạo nhưng bị cự tuyệt không cho nên không viết truyện về họ Đinh.
Lại
cũng chép:
Phụ thân Trần Thọ là
tham quân của Mã Tốc (馬謖),
sau khi Mã Tốc làm mất Nhai Đình bị Gia Cát Lượng (諸葛亮) giết, cha cũng bi liên quan nên vì thế Trần Thọ
ở trong Tam Quốc Chí mới chê Gia Cát Lượng không có tài tướng lược.
Tuy
nhiên trong nhiều năm qua, không ít học giả trứ danh đã nghiên cứu khảo chứng,
giả thuyết đó rất khó đứng vững, là những lời không thực, không thể tin hẳn. Những
người đó đối với sử liệu trong Tam Quốc Chí đều chuẩn xác, đáng tin là điều rõ
ràng là ba nước Nguỵ, Thục, Ngô chia ra thế chân vạc, vì thế cái tên Tam Quốc
Chí ở đó mà ra. Trần Thọ là người nước Tấn trong Tam Quốc, làm quan nước Tấn, Tấn
theo Nguỵ mà thống nhất toàn quốc, sở dĩ ông phải đặt Nguỵ Thư lên trên, dùng Bản
Kỷ để tường thuật mấy đời đế vương của nước Nguỵ. Thế nhưng đối với Thục, Ngô
hai chúa, trên hình thức nói là Truyện, phương pháp ghi nhận thực ra giống như Bản
Kỷ, theo năm tháng mà cài thêm sự việc vào, trên thực tế để Thục, Ngô xếp ngang
bằng với địa vị của Nguỵ, phản ảnh tình huống chân thực của lịch sử cho thấy Trần
Thọ quả là một sử học gia có kiến thức.
Cách
cài thêm sự việc trong Tam Quốc Chí cũng giản khiết, cắt xén rất hợp cách,
trong cả ba cuốn rất ít chỗ nào trùng hợp. Việc chọn lựa tài liệu cũng mười phần
thận trọng, nên đã lưu lại nhiều tài liệu quí giá. Chẳng hạn như Hoa Đà Truyện
(華陀傳) bảo tồn được tư liệu y học cổ đại,
Trương Lỗ Truyện (張魯傳) bảo tồn được tư liệu sử về Đạo
giáo của Trung Hoa. Trong Tam Quốc Chí các việc liên quan đến các dân tộc Tiên
Ti (鮮卑), Ô Hoàn (烏桓),
Cao Cú Lệ (高句麗) cũng đều là những sử liệu vô
cùng giá trị.
Về
phương diện văn học, Tam Quốc Chí cũng có vị thế rất cao. Văn bút của Trần Thọ
rất phong thái, chẳng hạn Chu Du Truyện (周瑜傳),
Lục Tốn Truyện (陸遜傳) đều miêu tả rất sinh động. Người
xưa đã nói rằng:
Bút
pháp của Trần Thọ không kém gì Tư Mã Thiên.
Theo
lời của Diệp Thích (葉適)
đời Tống thì “một chữ một câu cũng đều có cân lượng đến Thiên [Tư Mã] hay Cố [Ban]
cũng phải khen”. Lưu Hi Tải (劉煕載)
đời Thanh cho rằng lời nói này quả không ngoa. Từ trước tới nay không ít sử học
gia nhận định rằng trong các sử thư chép về đời Tam Quốc, chỉ có sách của Trần
Thọ là có thể sánh ngang với Sử Ký, Hán Thư. Do đó, nhiều nhà khác cũng viết về
đời Tam Quốc nhưng đều biến mất không còn nghe nói tới, chỉ còn Tam Quốc Chí là
được lưu truyền tới bây giờ. Giới sử học đem Sử Ký, Hán Thư, Hậu Hán Thư và Tam
Quốc Chí gộp chung lại gọi là Tứ Sử đều là những danh tác trong sử học truyền
thể.
Tuy
nhiên Tam Quốc Chí cũng có chỗ khiếm khuyết mà Trần Thọ chưa chép xuống, nếu
chúng ta muốn tìm về chế độ điển chương thời kỳ này thì chỉ còn cách mượn từ Tấn
Thư. Trong sách Trần Thọ cũng có phần che đậy và nói tốt cho Tào Nguỵ và họ Tư
Mã, đó cũng là bệnh chung của sử thư các đời trước, người đọc cần để ý.
Khi
Trần Thọ viết Tam Quốc Chí, do rất nhiều nguyên nhân nên rất nhiều sử liệu ông
chưa từng được tiếp xúc. Tống Văn Đế đời Nam Triều đã nhận định rằng Tam Quốc
Chí quá giản lược nên đã ra lệnh cho Bùi Tùng Chi (裴松之)
viết bổ chú. Bùi Tùng Chi (372-451), tự là Thế Kỳ (世期),
người Văn Hỉ (聞喜) tỉnh Hà Đông (河東)
[nay là Văn Hỉ, tỉnh Sơn Tây], thời Đông Tấn làm nội sử ở Linh Lăng, quốc tử
bác sĩ, sau khi Nam Triều dứt, đời Tống làm trung thư thị lang. Việc bổ chú Tam
Quốc Chí không giống như Sử Ký hay Hán Thư, Bùi Tùng Chi chủ yếu tăng bổ sử thực,
sử liệu cực kỳ phong phú.
Thống
kê một cách đơn giản, trong tăng bổ có liệt kê hơn 200 loại trước tác của người
đời Nguỵ, Tấn trong đó sử liệu so ra hoàn chỉnh, chú văn và điều mục nhiều, ước
chừng 54 vạn chữ, xem ra gấp ba lần chính văn. Nếu nói về giá trị sử liệu, những
tài liệu đó cũng không kém gì chính bản Tam Quốc Chí. Sách vở được dẫn trong phần
tăng bổ đến nay phần lớn đã thất truyền nhưng cũng nhờ họ Bùi trưng dẫn mà
chúng ta ngày nay còn có thể biết được đại khái nên những thêm vào của Bùi Tùng
Chi càng được người ta quí trọng. Theo như chính Bùi Tùng Chi qui nạp, nội dung
chú văn đặt nặng bốn phương diện:
-
Thứ nhất, những gì Trần Thọ chưa ghi chép thì
thêm vào, chẳng hạn như Võ Đế Kỷ trong Nguỵ Chí liên quan đến Tào Tháo, tình trạng
đồn điền của nước Nguỵ cũng đều được thêm vào.
-
Thứ hai là cùng một việc nhưng mỗi nơi chép một
khác thì chọn những điều chưa đề cập để cho nghiên cứu của người sau được đầy đủ
hơn.
-
Thứ ba là về những ghi chép sai lầm thì sửa lại,
chẳng hạn như Tôn Sách Truyện (孫策傳)
đã khảo biện lại tuổi tác của Tôn Sách.
-
Thứ tư là biện luận lại những điều thời sự và
những điều Trần Thọ không ghi chép chính xác.
Nói
chung việc ông làm là bổ khuyết (補缺),
thêm vào những việc được ghi chép khác nhau (備異),
cải chính những sai lầm (糾謬)
và biện luận (論辯). Phương pháp chú thích đó đã mở
đầu cho cục diện bổ chú thư tịch nên về sau các sử học gia đều coi phần bổ chú
của họ Bùi trong Tam Quốc Chí là một bộ phận trọng yếu, không thể tách rời.
Chính vì thế khi đọc Tam Quốc Chí thì nhất định phải dùng phần chú thích của
Bùi Tùng Chi như sử văn chính thức.
Nghiên
cứu và chú thích Tam Quốc Chí của các đời sau thì chủ yếu có Lương Chương Cự (梁章巨)
đời Thanh với Tam Quốc Chí bàng chứng (三國志旁證),
Hàng Thế Tuấn (杭世駿) với Tam Quốc Chí bổ chú (三國志補注)
và gần đây có Lư Bật (盧弼)
với Tam Quốc Chí tập giải (三國志集解).
Các
sử tịch trứ danh và trọng yếu của Trung Hoa các đời trước ta thấy có Thiệu Hưng
(紹興) đời Tống được Thiệu Hi (紹熙)
tăng bổ và san khắc ấn hành rồi thu góp thành Bách Nạp Bản Nhị Thập Tứ Sử (百衲本二十四史),
tụ trân bản trong Võ Anh Điện nhà Thanh, hoạt tự bản ở Kim Lăng, và bản in của
Giang Nam thư cục. Hiện nay Trung Hoa thư cục ở Bắc Kinh cũng đã xuất bản tiêu
điểm bản Tam Quốc Chí, căn cứ vào những bản trước đây và tham chiếu bản tàn
khuyết đời Đông Tấn của Ngô Chí rồi hiệu đính mà thành.
Sử
Ký mở ra cách biên soạn theo kỷ truyện thể, đến Hán Thư thì định hình. Hậu Hán
Thư và Tam Quốc Chí tuy cũng có Kỷ và Truyện nhưng không có Chí và Biểu, thành
tựu cũng cao như những sách được soạn cùng thời đó và được lưu truyền rộng rãi củng
cố thêm cho Kỷ Truyện Thể.
Bốn
bộ sách này được viết vào thời đại rất sớm và thành tựu cũng rất sớm. Kinh Tịch
Chí (經籍志) trong Tuỳ Thư xếp bốn bộ này
ngang hàng nhau, tới đời Thanh thì cái tên Tiền Tứ Sử mới được lưu truyền rộng
rãi.
ĐẶC ĐIỂM CỦA KỶ TRUYỆN THỂ
Sau Tiền Tứ Sử (前四史), chính sử phần lớn do triều đình soạn (quan
tu), chỉ có Tống Thư (宋書) viết về Nam Triều của Thẩm Ước (沈約), Tân Ngũ Đại Sử (新五代史) của Âu Dương Tu đời Tống là những bộ sử tư
nhân trước tác. Đời Tùy hoàng đế từng hạ lệnh cấm chỉ tư nhân soạn sử, lại thiết
lập cơ cấu quan tu sử thư (cơ quan soạn sử của triều đình). Đời Đường thì việc
soạn sử càng được coi trọng nên triều đình đã thiết lập cơ quan chuyên môn gọi
là Sử Quán (史館). Thời Đường
Thái Tông, Đường Cao Tông thì tể tướng Phòng Huyền Linh (房玄齡), Ngụy Trưng (魏徵) đều trực tiếp tham dự việc tu soạn sử, nên
riêng một triều đại nhà Đường đã có sáu bộ sử thư do triều đình soạn. Từ đó,
quan tu sử thư và việc tể tướng trông nom coi sóc việc soạn quốc sử trở thành định
chế, mỗi khi có vương triều mới thành lập đều soạn sử về triều đại trước làm
công tác theo đó để xem xét và an dân.
Tấn Thư
Tấn Thư là do Tạng Vinh (臧榮) đời Đường Thái Tông dùng Tấn Thư (晉書) làm bản nền (底本) rồi sau đó tham khảo các bản của 18 nhà khác
mà hoàn thành.
Đặc điểm nổi bật và mới mẻ trong Tấn Thư là tăng
thêm phần Tải Ký (載記) chuyên về ghi
chép các chính quyền thiết lập bởi các dân tộc thiểu số Hung Nô (匈奴), Tiên Ti (鮮卑), Yết (猲), Đê (氐), Khương (羌). Trong số 16 nước
có Tiền Triệu, Hậu Triệu, Tiền Yên, Tiền Tần, Hậu Tần, Hậu Thục, Hậu Lương, Hậu
Yên, Tây Tần, Bắc Yên, Nam Lương, Nam Yên, Bắc Lương, Hạ đều được chép vào phần
Tải Ký chỉ có Tiền Lương, Tây Lương thì chỉ có người ghi trong liệt truyện vì kẻ thống trị
tối cao của Tiền Lương là Trương Quĩ Nguyên (張軌原) là bầy tôi nhà Tấn có tính chất tiếm ngụy
nên dưới mắt tác giả, người thống trị tối cao của Tây Lương là thủy tổ của
hoàng đế nhà Đường Lý Hạo (李暠) hiển nhiên không thể chép được.
Nội dung so ra rộng rãi, ký thuật cũng tường tận,
lưu giữ được không ít các tư liệu quí giá như truyện Bùi Tú (裴秀傳), đưa vào miêu tả của ông về địa vực triều cống
(禹貢地圖) trong phần Tự, bảo tồn
phương pháp vẽ địa đồ tối cổ của Trung Hoa, truyện Thúc Triết (束晳) ghi chép những phát hiện và chỉnh lý những tư
liệu trọng yếu về cổ văn vật. Đặc biệt nhất các Chí trong Tấn Thư đều truy thuật
nguyên lưu, không ít những điều mà chuyên gia đã sáng tác nên sử liệu cực kỳ
giá trị, chẳng hạn như Thiên Văn Chí (天文志), Luật Lịch Chí (律曆志) của Lý Thuần Phong (李淳風) là những phần được hậu nhân rất coi trọng. Cũng vì ông là một nhà
chuyên môn thông hiểu thiên văn, lịch pháp nên trong phần ghi chép ở mục Chí về
các thiên thể, nghi tượng, vị trí tinh tú đã đạt đến trình độ khoa học.
Thế nhưng Tấn Thư về phương diện thu thập tài
liệu thì không hoàn toàn chú ý đến việc phân biệt sử liệu nên thường chọn cả những
tiểu thuyết bút ký, những điều lạ lùng chỉ nghe nói vì người chấp bút phần nhiều
chuyên về văn chương bút mực, thơ phú nên tìm kiếm những lời lẽ bóng bẩy khiến
cho hậu nhân phê bình là “chỉ tìm đẹp đẽ mà không cầu sự thực” (競爲綺艷,不求篤實).
Tống Thư
Tống Thư là bộ sử soạn nhanh nhất trong Nhị Thập
Tứ Sử. Các phần Kỷ và Truyện hình thành không đầy một năm, cho thấy tài soạn sử
của Thẩm Ước (沈約) thật hơn người
và cũng cho thấy nhóm Từ Viên (徐爰) soạn Tống Thư rất có cơ sở. Đương thời không có người viết phần Chí
mà Chí là do người sau thêm vào.
Đặc điểm chủ yếu của Tống Thư ở tại bộ phận liệt
truyện là lần đầu tiên có đái tự pháp (帶敘法) nghĩa là từ một truyện viết về người khác mà
thêm vào nhưng chỉ là một đoạn viết về sự tích mà thôi. Làm như thế không cần
tăng thêm một mục trong truyện, lại có thể mở rộng việc dung chứa để lại cho hậu
thế một phương pháp hay trong cách viết sử. Chẳng hạn như Lưu Đạo Qui truyện (劉道規傳) bên trong có kèm vào Lưu Tuân (劉遵), Vương Nghĩa Chân truyện (王義真傳) có kèm thêm Đoàn Hoằng (段宏), Tạ Linh Vận truyện (謝靈運傳) có kèm thêm Tuân Ung (荀雍), Dương Tuyền Chi (羊璿之), Hà Trường Du (何長瑜) ba người. Nhưng cũng có khi gài vào quá nhiều,
khiến cho người ta có cảm tưởng là khách nổi hơn chủ, lại thêm gia tộc phụ
trong liệt truyện, trên nói về cha, ông, dưới lại nói về con, cháu kèm theo
anh, em, hôn nhân … cành rễ chằng chịt trở thành gia tộc truyện.
Chẳng hạn như truyện Lưu Mục Chi (劉穆之) thì lại kèm theo truyện về con trưởng là Lự
Chi (慮之), con của Lự Chi
là Ung (邕), con giữa của Mục
Chi là Thức Chi (式之), con của Thức
Chi là Vũ (瑀), con nhỏ của Mục
Chi là Trinh (貞), con rể Mục Chi
là Sái Hựu (蔡祐). Truyện Thẩm
Khánh (沈慶) cũng có phụ
thêm các truyện về con, em, con của anh, em họ.
Việc này phản ảnh các gia đình quyền quí và địa
chủ dưới thời Nguỵ Tấn Nam Bắc Triều, phong khí xã hội sùng thượng môn đệ, trọng
thị gia tộc sử và cái học về phổ hệ. Cũng việc này khi đối chiếu với Ân Hạnh
truyện (恩幸傳) thì chủ yếu
ghi chép người do nhà nghèo, bần hàn xuất thân mà lên làm đại quan, nhưng cố ý
hạ thấp và phần lớn chỉ là những kẻ nịnh hót hoàng đế và cấu kết với giới quyền
quí nên mới lên cao được cho thấy cách nhìn về giới quí tộc nghiêm trọng như thế
nào.
Phần Chí của Tống Thư các việc thêm vào thỉnh
thoảng lên đến thời Nguỵ Tấn, không chỉ hạn chế vào đời Tống nên đã để lại rất
nhiều tư liệu quí, đặc biệt trong Nhạc Chí (樂志) đã bảo tồn được rất nhiều thơ của nhạc phủ từ
đời Hán Nguỵ về sau và ghi chép rõ ràng về rất nhiều nhạc khí thời cổ. Châu Quận
Chí (州郡志) ghi chép việc
nhân khẩu di cư xuống phương nam từ thời Đông Tấn trở về sau, và ở tại phương
nam lập thành châu quận. Đây là những văn hiến trọng yếu cho việc nghiên cứu về
duyên cách địa lý và biến động nhân khẩu ở phía nam.
Nam Tề Thư
Nam Tề Thư là do Tiêu Tử Hiển (蕭子顯) nước Lương thời Nam Triều trước tác. Ông là
tông thất nước Tề của Nam Triều, lại là bầy tôi nước Lương nên việc khảo sát hết
sức bảo hộ vẽ vời cho các đời vua trước. Vì ông là người cùng thời viết về người
cùng thời nên việc sắp xếp và tuyển chọn sử liệu có rất nhiều điều kiện thuận lợi,
ghi xuống được nhiều tài liệu nguyên thuỷ chẳng hạn như Tổ Xung Chi truyện (祖沖之傳), có những ghi chép rất sớm liên quan đến Tổ
Xung Chi, nội dung xác thực là một thiên văn hiến quí báu, hay như Thẩm Văn Quí
truyện (沈文季傳) trong đó bản
tồn được sử thực về việc phát sinh cuộc nổi dậy của Đường Ngu ở một dải Chiết
Giang.
Lương Thư, Trần Thư
Lương Thư và Trần Thư đều do cha con Diêu Tư
Liêm (姚思廉) soạn ra dưới đời
Đường. Cha con Diêu Tư Liêm biên soạn Lương Thư, Trần Thư mất mấy chục năm tâm
huyết, việc thu thập tài liệu và biên soạn đều rất công phu, trong sách bảo tồn
được rất nhiều sử liệu qui giá, chẳng hạn như Hầu Cảnh Truyện (侯景傳) dùng đến gần hai vạn chữ để tường thuật thêm
vào việc xảy ra của loạn Hầu Cảnh. Nho Lâm Truyện (儒林傳) trong Lương Thư ghi chép vể Phạm Trấn (范縝) một tư tưởng gia vô thần và thu lục toàn văn
tác phẩm Thần Diệt Luận (神滅論). Kể từ thời Đông Tấn tới lúc đó, Phật giáo thịnh hành nhưng có thể
đem việc đó ghi trong sử thư thì thật là khó khăn và quí giá. Trần Thư ghi chép
việc hưng khởi và diệt vong của triều Trần, về sử thực thì rất rõ ràng, đối với
nguyên nhân việc hưng vong của Trần triều rất có giá trị.
Lương Thư so với Trần Thư thì nội dung sung thực
hơn, văn bút tối hảo trong bốn bộ sử Tống, Tề, Lương, Trần. Văn tự tinh luyện,
đái tự giản khiết, văn nhân Lục Triều và Sơ Đường khi bổ sung, nghị luận đều
thích lối dùng biền thể của Diêu Tư Liêm, tản văn của cha con họ Diêu dùng chữ
giản minh, ký thuật lịch sử không đi theo lối văn phong ác liệt của Lục Triều
nên được hậu nhân rất ca tụng.
Lương Thư và Trần Thư đều là các bộ sử quan tu
đầu đời Đường do Nguỵ Trưng (魏徵) làm tổng giám tu, các phần tổng luận của các bộ sử phần nhiều do tay
Nguỵ Trưng viết. Nguỵ Trưng là tể tướng nổi tiếng đời Đường, tổng luận của ông
đứng trên góc độ một chính trị gia nên bình luận lịch sử, kiến thức so với cha
con họ Diêu thì cao hơn nhiều. Tại Bắc Tề Thư, Chu Thư, Tuỳ Thư cũng có luận
thuật của Nguỵ Trưng xứng đáng để chung ta coi trọng. Còn phần Chí của Tuỳ Thư
phần nhiều lên tới Nam Bắc Triều nên có thể coi như tham khảo thêm cho người đọc
Lương Thư, Trần Thư.
Nguỵ Thư
Nguỵ Thư là trước tác thời Bắc Tề, là bộ sử
chuyên về ghi chép về chính quyền các dân tộc thiểu số duy nhất trong 24 bộ sử.
Trong sách ký thuật về sự phát triển, hưng thịnh, thống nhất phương bắc và quá
trình phong kiến hoá, môn phiệt hoá của bộ lạc Thác Bạt (拓跋) người Tiên Ti sống ở phương bắc Trung Hoa.
Nguỵ Thư ở trước bản kỷ có một thiên biệt lập Tự Ký (序紀) đi ngược về tiên tổ Thác Bạt Khuê (拓拔珪), bảo lưu được nhiều sử liệu trọng yếu là
cách thức mà các bộ sử trước đây chưa từng có.
Nguỵ Thư lần đầu tiên có Thích Lão Chí (釋老志) ghi chép về Phật, Lão hai tôn giáo lưu truyền
ra sao, đặc biệt về Phật giáo lưu truyền thịnh suy thời Bắc Nguỵ là sử liệu trọng
yếu có hệ thống liên quan đến hai tôn giáo này thời kỳ rất sớm. Quan Thị Chí (官氏志) ngoài ghi chép về chức quan còn ghi chép về
bộ tộc Tiên Ti trước đây đã thay đổi tên họ, là sử liệu trọng yếu về việc phong
kiến hoá, môn phiệt hoá của bộ tộc Tiên Ti. Thực Hoá Chí (食貨志) ghi chép về Quân Điền Chế (均田制) và Tam Trường Chế (三長制) có gia trị sử liệu cao là nghiên cứu quan trọng
về Quân Điền Chế đời Nguỵ và đời Tuỳ Đường lúc khởi đầu của bộ lạc Thác Bạt.
Những nhân vật nghiên cứu trứ danh sử thời cổ
của Trung Hoa đã coi Nguỵ Thư thuộc loại “uế sử” (穢史) vì khi soạn Nguỵ Thư đã dùng ngòi bút bảo vệ
thế lực thống trị Bắc Nguỵ, Bắc Tề và dùng cả những điều ân oán của tư nhân dẫn
đến mâu thuẫn nội bộ của giới cầm quyền khiến cho các thế tộc trực tiếp can thiệp
vào việc biên soạn sử thư. Thực ra, giới sử học cũng đã có chỗ thiên vị, cong
queo nhưng việc thu thập tài liệu ở đây quá lộ liễu. Dưới phương diện giá trị sử
liệu, Nguỵ Thư nếu loại trừ những phần thiên vị ra, việc tường thuật cũng khách
quan. Trước khi thu thập tài liệu, những sử thư liên quan đến Bắc Nguỵ đều
không được lưu truyền, cho thấy Nguỵ Thư cũng có những ưu điểm của nó.
Bắc Tề Thư
Bắc Tề Thư do Lý Bách Dược (李百藥) đời Đường soạn, chủ yếu ký tải lịch sử Đông
Nguỵ và Bắc Tề. Sau thời Trung Đường, nguyên thư dần dần tàn khuyết, đến thời Bắc
Tống thì chỉ còn 17 quyển, trong ba phần chỉ còn không đầy một. Các quyển khác
hậu nhân đã lấy Bắc Sử (北史) đem bổ túc vào, nhiều bàn tay, tài liệu tạp nhạp mà thành cho nên thể
lệ hỗn loạn, ký sự có nhiều chỗ mâu thuẫn với nhau.
Chu Thư
Chu Thư (周書) là thời Đường sơ triều đình ra lệnh cho bọn Hồ
Đức Phân (狐德棻) biên soạn. Chu
Thư nhận định rõ ràng Bắc Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Chu và Bắc Ngụy, Đông Ngụy, Bắc Tề là chính thống, quan hệ kế thừa, thể lệ khi
ký thuật có những thay đổi cho phù hợp. Chẳng hạn tại Văn Đế Kỷ (文帝紀) trong Chu
Thư lấy niên hiệu của hoàng đế Tây Ngụy để ghi chép, tường thuật rõ ràng hoàng
đế, phế đế, cung đế Tây Ngụy tổng cộng 22 năm về chính sự, quân sự, nhân vật,
truyện ký cũng đều có những cách thức vận dụng. Chính quyền Hậu Lương trước sau
đều dựa vào Tây Ngụy, Bắc Chu và Tùy được chép trong Chu Thư là do thể lệ sắp xếp
đặc biệt. Nội dung Chu Thư ghi chép đã bao gồm các sự kiện trọng đại của bốn
triều đại đồng thời của Đông Ngụy, Bắc Tề, Lương, Trần nên việc so sánh bao
quát, ở một trình độ nhất định có thể cho chúng ta một tầm nhìn toàn cảnh của
trạng huống phát triển.
Liệt Truyện trong Chu Thư có một thiên Dị Vực
Truyện (異域傳) chia ra làm
hai quyển thượng hạ. Quyển thượng ghi chép các nước Cao Ly, Bách Tề, Thị còn
quyển hạ thì chép về Đột Quyết, Thổ Cốc Hồn và các nước ở Tây Vực, nội dung đề
cập đến chế độ chính trị, sản vật các địa phương, phong thổ nhân tình, biếu xén
qua lại, đường sá gần xa các tình huống trong đó giải thích được trung nguyên địa
khu nhà Đường, việc buôn bán qua lại với các chính quyền tây bắc và tình hình
giao thông.
Nam Sử, Bắc Sử
Nam Sử, Bắc Sử do người Sơ Đường là Lý Diên Thọ
(李延壽) biên soạn, dùng cơ sở
từ các bộ Tống Thư, Nam Tề Thư, Lương Thư, Trần Thư, Nguỵ Thư, Bắc Tề Thư, Chu
Thư, Tuỳ Thư, lấy tinh hoa và bỏ bớt những chỗ phồn tạp, sao chép, chữa những
chỗ vụng về, thay đổi và thêm vào mà làm thành. Ở góc độ sử học mà xét, ông đã
tổng kết và nối liền các đoạn lịch sử phức tạp của Nam Bắc Triều, giải thích và
chỉnh sửa được lịch sử và mạch lạc phát triển của Nam, Bắc Triều tiện lợi cho
người đọc nhìn được tổng thể và phân tích vấn đề của các thời kỳ lịch sử.
Nam Sử, Bắc Sử được soạn thảo thời kỳ đầu nhà
Đường, toàn quốc thống nhất nên tác giả có thể chọn ra từ tám bộ sách và loại
trừ những thiên kiến do phân liệt chính trị và hạn chế tạo thành và theo sử
quan của một quốc gia thống nhất để cải chính và chỉ ra những điều gọi là tiếm
nguỵ (僭僞), sách lỗ (索虜)[6], đảo di (島夷)[7], sửa lại những chỗ lệch lạc, thậm chí bỏ cả các triều đại gọi là nam,
bắc vương triều, cải chính bát thư và loại trừ những đoạn trước đây bào chữa, bảo
vệ các triều đại mà chỉ căn cứ vào sự thực trong Nam Sử, Bắc Sử, đồng thời tăng
bổ nhiều sử liệu bên ngoài tám bộ sách ở trên.
Vì có những điểm mạnh đó nên các sử gia đời
sau rất coi trọng. Tác giả của Tư Trị Thông Giám (資治通鑑) là Tư Mã Quang (司馬光) đã ca ngợi phong cách chêm vào rất giản dị mạnh
mẽ, so với Bát Thư thì hay hơn, là một bộ giai sử thời cận thế, lại nhận định rằng
sau Trần Thọ (陳壽) thì chỉ có Lý
Diên Thọ (李延壽) là có thể so
sánh được. Chính vì như thế, Nam Sử, Bắc Sử so với Bát Thư thì lưu truyền rộng
rãi, ảnh hưởng cũng to lớn. Trước đời Bắc Tống, bát thư phần nhiều đã bị mất
mát, hai bộ sử này giúp cho việc hoàn chỉnh và bảo tồn lại cho đời sau.
Đương nhiên, Nam Sử, Bắc Sử cũng có những chỗ
chưa đầy đủ, có nhiều phần trong Bát Thư đã bị cắt bỏ chẳng hạn như tấu sớ liên
quan đến quân điền (均田) của Lý Thế An (李世安) đời Bắc Nguỵ, biện luận về thần uy của Lương Phạm Chẩn (梁范縝) đều là những sử liệu trọng yếu nhưng lại bị
bỏ đi. Sở dĩ Nhị Sử vẫn không thể thay thế được Bát Sử, chúng ta khi nghiên cứu
về giai đoạn lịch sử này vẫn phải dùng cả hai bộ để tham chiếu, lấy dài bổ túc
cho ngắn thì mới có được cái nhìn toàn diện.
Tuỳ Thư
Tuỳ Thư do nhóm Nguỵ Trưng (魏徵) đời Đường
soạn, là bộ sử hoàn hảo nhất trong các bộ sử quan tu đầu đời Đường. Người chủ
biên là Nguỵ Trưng làm tể tướng đời Đường là một bầy tôi nổi tiếng về can gián.
Khi chủ trì biên soạn các mục Kỷ và Truyện trong bộ Tùy Thư, ông đặc biệt nhấn
mạnh là dùng sử để xem xét tư tưởng hi vọng Đường Thái Tông có thể “theo đó
mà soi xét thì tồn vong trị loạn có thể vì thế mà cai trị được” (以隋爲鑑,則存亡治亂可得而治). Vì thế, Nguỵ Trưng trình bày rất rõ ràng lịch sử của 38 năm đời nhà
Tùy, thuật lại rất chân thực việc Tùy Dạng Đế (隋煬帝) dùng rất nhiều gỗ đá, ba lần xuống kinh đô
Giang Nam và hoang loạn vô sỉ, sinh hoạt hủ bại, nhân dân phản kháng chính sách
hà khắc, tàn bạo cuối đời Tùy. Sách theo tình hình cụ thể có sao ghi vậy rất sống
động và khách quan về nguyên nhân nhà Tùy diệt vong giữ lại được nhiều sử liệu
quí giá.
Đầu đời Đường, năm bộ sử quan tu Lương Thư (梁書), Trần Thư (陳書), Bắc Tề Thư (北齊書), Chu Thư (周書) và Tùy Thư (隋書) được đương thời gọi chung là Ngũ Đại Sử (五代史). Năm bộ sử này đều chỉ có phần Bản Kỷ (本紀) và Liệt Truyện (列傳), không có các phần Biểu (表) và Chí (志) nên về sau hợp biên 10 thiên, 30 quyển Chí cộng
chung lại gọi là Ngũ Đại Sử Chí (五代史志).
Khi hợp biên năm bộ sử thư thì phụ vào sau bộ
Tùy Thư nên gọi là Tùy Đường Chí (隋書志). Sử học gia các đời xem bộ Tùy Thư và Thập Chí đều đánh giá rất cao
vì các tác giả biên soạn phần lớn là những người có chuyên môn thành thục nên
miêu tả các học giả đương đại, danh nhân đều nội dung phong phú, chân thực mà lối
hành văn cũng lưu loát, bảo tồn cho hậu thế chế độ điển chương từ đời Ngụy Tấn
về sau, những thay đổi biến hóa trong sử liệu, thậm chí truy nguyên đến tận đời
Hán Ngụy.
Chẳng hạn như Thực Hóa Chí (食貨志) có ghi chép tình trạng kinh tế từ thời Đông
Tấn đến nay những gì ghi chép liên quan đến quân điền (均田), tô dung điệu (租庸調), hóa tệ (貨幣) các loại đều là tài liệu trọng yếu trong việc
nghiên cứu về kinh tế đời Tùy Đường. Địa Lý Chí (地理志) ghi chép từ đời Tây Tấn đến nay, vì chiến loạn,
tai ương, đói kém nên nhân khẩu một số lớn di cư về phía nam, phương nam thành
lập quận Kiều Thiên và tình trạng quận ra sao (cũng như Yên Châu, Thanh Châu
nguyên là châu ở phương bắc, về sau nhân khẩu di cư xuống phía nam nên cũng
thành lập Yên Châu, Thanh Châu ở phía nam). Về Hình Pháp Chí (刑法志) thì trong đó mục Tùy Luật (隋律) là bộ pháp điển được truyền lại rất sớm của
Trung Hoa, Luật Lịch Chí (律曆志) và Thiên Văn Chí (天文志) ghi chép tường tận các thanh luật và đo lường từ đời Ngụy Tấn đến
nay, tăng giảm thế nào, tổng kết được các thành tựu về thiên văn học thời Nam Bắc
Triều. Tùy Thư cũng ghi chép rõ ràng về viên chu của Tổ Xung Chi (祖沖之).
Tổ Xung Chi
Về Kinh Tịch Chí (經籍志) trong Tùy Thư thì tiếp
theo Nghệ Văn Chí (藝文志) của Hán Thư là một mục lục rất trọng yếu, thuật lại tất cả các thư tịch
trong khoảng 600 năm từ đời Hán đến đời Tùy, quyển nào còn, quyển nào mất, diễn
tiến của học thuật, là lần tổng kết thứ hai về thư tịch và học thuật thời cổ của
Trung Hoa. Họ rút tỉa ra các ưu điểm trong Tấn Trung Kinh Bộ (晉中經簿) và Thất Lục (七錄), đem các loại đồ thư
chia thành bốn bộ, trực tiếp nêu rõ bốn loại lớn là kinh, sử, tử, tập rồi sau
đó lại chia thành những loại nhỏ, ghi chép tất cả các sách vở từ đời Hán. Kinh
Tịch Chí (經籍志) định ra phép phân loại trong bốn bộ đồ thư, ảnh hưởng rất lớn, trong mục
lục sử đóng một vai trò trọng yếu, kéo dài đến hơn một nghìn năm, đến nay các
sách kim cổ vẫn phân loại đều không hoàn toàn thoát ra ngoài phương pháp này.
Cựu Đường Thư
Đường Thư do Lưu Hướng (劉昫) đời Hậu Tấn soạn, là bộ sử sớm nhất về đời Đường,
cũng để phân biệt với bộ Đường Thư do Âu Dương Tu (歐陽修) soạn, nhưng trước để chữ cựu, gọi là Cựu Đường
Thư còn bộ của Âu Dương Tu thì gọi là Tân Đường Thư (新唐書).
Cựu Đường Thư tả về đời loạn do dân chúng viết
ra trong lúc gấp gáp nên có nhiều chỗ không trơn tru. Nửa trước của phần Bản Kỷ
là lấy từ thực lục và sử quán đời Đường biên soạn quốc sử mà trích ra nhưng việc
cắt xén cũng đắc thể, văn chương cũng trang nhã.
Từ Đường Võ Tông trở về sau, vì không có đủ tiền
bạc để hoàn thành sử liệu nên tất cả đều do các tác giả sắp xếp, nội dung tạp
nhạp, ghi chép chỗ nọ đối nghịch với chỗ kia không phải là ít. Bộ phận Liệt
Truyện phân chia tình huống đại thể giống nhau nhưng nhân vật cuối đời Đường có
nhiều chỗ thiếu sót, thậm chí có khi một người mà hai truyện, việc nọ trùng với
việc kia. Lịch Chí (曆志), Kinh Tịch Chí (經籍志) chỉ thuật đến Đường Huyền Tông (tại vị CN 712 – 756) người sau phê
bình là cẩu thả, phô trương không có căn cứ gì hết.
Nếu nói riêng về giá trị sử liệu, Cựu Đường
Thư cũng không nên coi thường. Tác giả sống sau đời Đường không lâu nên có điều
kiện để xem xét và thu góp một số lượng ghi chép nguyên thủy chẳng hạn như Ý
Tông Bản Kỷ (懿宗本紀), Hi Tông Bản
Kỷ (僖宗本紀) có nhiều sự
kiện liên quan đến việc nổi dậy của Bàng Huân (龐勳) và Hoàng Sào (黃巢), những chi tiết đó là những sử liệu trọng yếu.
Liệt Truyện có ghi chép nhiều về các dân tộc
thiểu số hơn hẳn các bộ sử trước, trong đó có những việc liên quan đến Đột Quyết
(突厥), Hồi Hột (回紇), Thổ Phồn (吐蕃) tương đối tường tận như cuộc hôn nhân giữa
Văn Thành công chúa (文成公主) và Tùng Tán Cán Bố (松贊幹布), và những sự việc do người của Kim Thành công chúa (金城公主) cất giữ.
Những việc giao thiệp qua lại liên quan đến
triều đình nhà Đường và những quốc gia chung quanh như Nhật Bản, Triều Tiên, Ấn
Độ cũng được ghi chép. Những truyện về Lý Mật (李密), Vương Thế Sung (王世充), Đậu Kiến Đức (竇建德), Lưu Hắc Thát (劉黑闥), Đỗ Phục Uy (杜伏威), Lý Tử Thông (李子通) là những tài liệu trọng yếu về những nổi dậy
cuối đời Tùy.
Những nhân vật đại biểu cho văn hóa kỹ thuật
như khoa học gia nổi danh Lý Thuần Phong (李淳風), Tôn Tư Mạo (孫思邈), văn học cự phách như Lý Bạch (李白), Đỗ Phủ (杜甫), Hàn Dũ (韓愈), Liễu Tông Nguyên (柳宗元), sử học gia, kinh học gia như Diêu Tư Liêm (姚思廉), Khổng Dĩnh Đạt (孔穎達), Phật học đại sư Huyền Trang (玄奘) thì Cựu Đường Thư đề ghi chép các sự tích
bình sinh của họ, là những sử liệu trân quí sớm nhất thời kỳ đó. Tư Mã Quang (司馬光) đời Tống biên soạn Tư Trị Thông Giám (資治通鑑) phần nhiều thu thập tài liệu từ Cựu Đường
Thư, điều đó cho thấy Cựu Đường Thư đã có ảnh hưởng lâu dài, Tân Đường Thư
không thể hoàn toàn thay thế được.
Tân Đường Thư
Tân Đường Thư do Âu Dương Tu (歐陽修), Tống Kỳ (宋祁) đời Bắc Tống biên soạn, vì muốn phân biệt với
Cựu Đường Thư nên có cái tên đó. Tân Đường Thư soạn thành sách vào thời Bắc Tống,
so với Cựu Đường Thư thì muộn hơn trên một trăm năm, thời đó xã hội yên bình
nên đã tập hợp được không ít tài liệu mới cho thấy trong một trăm năm đó việc
nghiên cứu sử nhà Đường đã có nhiều thành quả mới, lại vào tay Âu Dương Tu, Tống
Kỳ là những văn nhân trứ danh nên có những chỗ độc đáo, tốt nhất là các bộ phận
Chí, Biểu, phẩm chất hơn hẳn Cựu Đường Thư.
Thực Hóa Chí liên quan đến tình trạng ruộng đất
và ghi chép về thuế má, so với ghi chép từ các sách vở trước thì phong phú hơn
nhiều. Địa Lý Chí các đạo cương vực so với thời toàn thịnh của nhà Đường là những
năm Khai Nguyên (開元)[8] có 15 đạo, hộ khẩu thì lấy tiêu chuẩn từ những năm Thiên Bảo (天寶), chế độ châu quận duyên cách thì dựa theo những
năm Thiên Hựu (天祐) nên cách trình
bày rất là chu đáo. Nghệ Văn Chí thì ngoài Kinh Tịch Chí của Cựu Đường Thư còn
thêm vào rất nhiều sách vở, văn tập người đời Đường có đến hơn 100 nhà nên tổng
số lên đến hơn 600 nhà. Cựu Đường Thư không có Tuyển Cử Chí (選舉志) nhưng Tân Đường Thư nghiên cứu Cựu Ngũ Đại Sử
thì chép Tuyển Cử Chí nên giữ lại được tài liệu về cách thức dùng người đời Đường.
Tân Đường Thư cũng lần đầu chép về Binh Chí (兵志), ghi chép phủ binh chế đời Đường thuật lại những
tình huống được và mất, hưng thịnh và suy vong, đưa ra những sử liệu về quân sự.
Thế nhưng quan trọng hơn nữa đây là lần đầu vấn đề này được nêu ra và từ đó các
bộ sử tiếp theo đã sử dụng làm phong phú cho nội dung của Nhị Thập Tứ Sử.
Tân Đường Thư kế thừa thể lệ của Sử Ký, Hán
Thư nên cũng biên soạn Tể Tướng Biểu (宰相表), Phương Sảng Biểu (方鏯表), Tông Thất Thế Hệ Biểu (宗室世系表), khôi phục lại những sáng lệ trước đây của Tư Mã Thiên như Kỷ, Truyện,
Chí, Biểu. Những phần đó giúp cho những ai nghiên cứu về đời Đường, những thay
đổi lên xuống của các tể tướng, thế lực phiên trấn đều có thể thấy được rất rõ
ràng.
Thế nhưng Tân Đường Thư cũng có những khuyết
điểm. Bộ phận Truyện quá giản lược, văn tự so với Cựu Đường Thư ít hơn đến 2/3,
rất nhiều sử liệu bị loại bỏ, phần Bản Kỷ thì toàn bộ các chiếu lệnh bị bỏ đi,
nhiều nhân vật trọng yếu cũng không có truyện ký chẳng hạn như Huyền Trang (玄奘), Nhất Hạnh (一行), Thần Tú (神秀), Huệ Năng (慧能), Tôn Tư Mạo (孫思邈) và toàn bộ lịch sử Phật giáo đời Đường không
ghi chép gì, các phần về khoa học kỹ thuật
cũng chẳng được bao nhiêu. Một phần vốn dĩ rất
sinh động là Truyện Ký, chẳng hạn Cao Sơn Chi Truyện (高仙芝傳), Phong Thường Thanh Truyện (封常清傳) bị bỏ đi khiến cho không còn ý vị gì. Những
bộ phận đó bị đơn giản hóa không còn được như Cựu Đường Thư. Trên quan điểm
biên soạn lịch sử, Tân Đường Thư vẫn giữ được các yếu tố nghiêm, cẩn, giản, khiết.
Cả hai bộ Tân Đường Thư và Cựu Đường Thư đều có sở trường, không thể bỏ đi bộ
nào, nên đọc để tham chiếu, bổ túc cho nhau như vậy mới có ích.
Cựu Ngũ Đại Sử
Cựu Ngũ Đại Sử do Tiết Cư Chính (薛居正) đời Bắc Tống biên soạn, chẳng khác gì Đường
Thư chia ra thành một tân một cựu thì Ngũ Đại Sử cũng có hai loại, bộ viết trước
gọi là Cựu Ngũ Đại Sử (舊五代史), bộ viết sau gọi là Tân Ngũ Đại Sử (新五代史).
Cựu Ngũ Đại Sử tuy dựa theo đời Ngũ Đại viết
thành sách nhưng ở các phần Thế Tập Liệt Truyện (世襲列傳), Tiếm Ngụy Liệt Truyện (僭僞列傳), Ngoại Quốc Liệt Truyện (外國列傳) đều gộp chung phương nam và bắc Hán tất cả
10 nước và Khiết Đan (契丹), Thổ Phồn (吐蕃) đều gồm lại nhưng thực tế thì lúc đó vào thời Ngũ Đại Thập Quốc thì
các dân tộc đó đều là một bộ phận riêng.
Thời gian biên soạn Cựu Ngũ Đại Sử ngắn nên
không mất nhiều công lao chỉnh lý sử liệu và nhuận sắc văn tự. Thế nhưng so
sánh với Tân Ngũ Đại Sử thì lại dài hơn. Nhóm Tiết Cư Chính trải qua các triều
Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu nên hiểu rõ lịch sử đương thời, rất nhiều chiếu lệnh,
công văn, đáng án, thậm chí hành trạng, mộ chí, minh văn thời kỳ đó cũng đều tai
nghe mắt thấy, sưu tầm sử liệu đương nhiên thuận lợi hơn nhiều. Sở dĩ các việc
Cựu Ngũ Đại Sử so sánh với Tân Ngũ Đại Sử thì xác thực, tường tận, sử liệu cũng
phong phú hơn. Về sau Tư Mã Quang (司馬光) biên soạn Tư Trị Thông Giám (資治通鑑), Hồ Tam Tỉnh (胡三省) soạn Thông Giám Chú (通鑑注) đều sử dụng tài liệu trong Cựu Ngũ Đại Sử rất
nhiều.
Thời Bắc Tống, Tân và Cựu Ngũ Đại Sử cùng lưu
hành. Vua Chương Tông nhà Kim đã ban chiếu ra lệnh các học giả chuyên dùng Tân
Ngũ Đại Sử, cho nên Cựu Ngũ Đại Sử dần dần mất đi không còn nghe thấy nữa.
Bản Cựu Ngũ Đại Sử ngày nay là do đời Thanh
Càn Long sao lục từ Vĩnh Lạc Đại Điển (永樂大典), lại lấy dẫn văn của Sách Phủ Nguyên Qui (册府元龜) bổ sung vào, dùng lại sử tịch trong đó cùng
khảo đính loại thư, văn tập, bi văn đời Ngũ Đại nên nguyên thư cũng được khôi
phục bảy, tám phần mười nhưng vẫn còn những dấu vết sửa đổi của sử gia đời
Thanh.
Tân Ngũ Đại Sử
Ngũ Đại Sử là do Âu Dương Tu (歐陽修) đời Bắc Tống soạn. Tân Ngũ Đại Sử học theo
Nam Sử, Bắc Sử đả phá giới hạn triều đại, đem phần Kỷ của ngũ triều tung hợp
thành một nơi, theo thời gian trước sau mà trình bày. Bộ phận Liệt Truyện hoàn
toàn thu thập theo loại rồi theo đó mà biên soạn, chia thành gia nhân (家人), bầy tôi (臣), nhất hạng (一行), Đường lục thần (唐六臣), nghĩa nhi (義兒), linh quan (伶官), hoạn giả (宦者) tất cả quan lại nhiều triều đại biên tập tại
tạp truyện (雜傳). Loại biên tập
này và các sử lệ truyền khác nhau rất nhiều, thế nhưng đối với việc tra xem
nhân vật loại nào hoặc đường lối lịch sử phát triển và so sánh thì rất tiện, chẳng
hạn tra tư liệu về hí kịch sử thì xem Linh Quan Truyện (伶官傳), tra chế độ con nuôi thì xem Nghĩa Nhi Truyện
(義兒傳).
Tân Ngũ Đại Sử thêm vào Cựu Ngũ Đại Sử không
ít, những tư liệu mới chưa từng sưu tập lại hấp thu được những thành tựu mới
trong việc nghiên cứu về Ngũ Đại Sử của người đời Tống chẳng hạn như Ngũ Đại Sử
Bổ (五代史補), Ngũ Đại Hội
Yếu (五代會要), Ngũ Đại Sử
Khuyết Văn (五代史闕文), Cửu Quốc
Chí (九國志). Ngay cả những
loại tiểu thuyết lặt vặt, bút ký, dã sử, tạp sử nội dung cũng có rất nhiều tư
liệu lịch sử. Lối hành văn trong Tân Ngũ Đại Sử nghiêm cẩn, bỏ đi những bộ phận
tạp nhạp trong Cựu Ngũ Đại Sử, đính chính được nhiều điểm sai lầm. Thế nhưng
cũng có những chỗ cắt xén quá đáng khiến người đọc không hiểu được nguyên bản
như thế nào. Phần cắt bỏ trong Chí cũng có chỗ vụng về nên những phần chế độ điển
chương về kinh tế, chính trị thời Ngũ Đại đã hoàn toàn không còn giữ được nữa.
Tân Ngũ Đại Sử tăng thêm phần Thập Quốc Thế
Gia Niên Phổ (十國世家年譜), trình bày
các chính quyền từ khi kiến lập và truyền tập các niên đại rất là sơ sài. Tứ Di
Phụ Lục (四夷附錄) ghi chép các
dân tộc ở chung quanh Trung Hoa, còn Ti Thiên Khảo (司天考) và Chức Phương Khảo (職方考) thì thay thế cho các mục thiên văn, lịch
pháp, địa lý đều rất là giản lược, không có gì đặc sắc.
Mục đích của Âu Dương Tu khi viết Tân Ngũ Đại
Sử là học theo bút pháp Khổng Tử viết Xuân Thu, dùng các loạn thần tặc tử, thiếu
liêm chính xấu hổ của năm đời Tiên [Ti], Thát [Đát] nên nhân đó cố ý truy cầu “khen
chê nghĩa liệt” (褒貶義例) khiến cho văn tự quá ư giản lược, hành văn trúc trắc làm người đọc
phát chán.
Tống Sử
Cả ba bộ Tống Sử, Liêu Sử và Kim Sử đều được
hoàn thành trong hai năm rưỡi thời nhà Nguyên, từ Chí Nguyên năm thứ ba đến năm
thứ năm (1343 – 1345), lấy tên người soạn là Thoát Thoát (脫脫). Thực ra Thoát Thoát chỉ là người tổng giám
tu, những người tham gia biên soạn thì Âu Dương Huyền (歐陽玄) có công nhiều nhất.
Tống Sử là bộ sử có nội dung dài nhất trong 25
bộ, là sử tịch trứ danh của Trung Hoa về chính quyền họ Triệu nhà Tống hơn 300
năm, chính trị tương đối ổn định, kinh tế phồn vinh, học thuật văn hóa thăng tiến,
ấn loát bằng bản khắc thịnh hành, thư tịch biên tả đều được in ra lưu truyền. Do
đó khi triều Nguyên tu sửa Tống Sử đã có rất nhiều sử liệu để dùng đến, chẳng hạn
như biên niên thì có Lịch Triều Thực Lục, là quốc sử viết theo thể kỷ truyện
ghi chép rõ ràng, là hội yếu về chế độ điển chương.
Ngoài ra còn có một số lượng lớn sách do tư
nhân soạn, chẳng hạn như chuyên ký về Bắc Tống là bộ Tục Tư Trị Thông Giám Trường
Biên (續資治通鑑長編) của Lý Đào
(李燾), chuyên ký Tam Triều Bắc
Minh Hội Biên (三朝北盟會編) viết về
quan hệ hòa hay chiến với nhà Kim của ba triều Huy Tông (徽宗), Khâm Tông (欽宗), Cao Tông (高宗) của Từ Mộng Tân (徐夢莘) và rất nhiều văn tập, bút ký của dân chúng đời
Tống khiến cho bộ Tống Sử trở thành một biên tập rất lớn.
Trong Tống Sử, phần Chí số lượng rất lớn, chiếm
1/3 toàn bộ sách. Phần này có hệ thống và rõ ràng tường thuật chế độ điển
chương các phương diện chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá đời Tống chẳng hạn
Thực Hoá Chí (食貨志) thì dựa theo
kinh tế mà phân biệt các loại nông nghiệp, diêm nghiệp, trà nghiệp, thủ công
nghiệp cùng chế độ hoá tệ, chế độ thuế khoá, phu dịch. Tuyển Cử Chí (選舉志), Chức Quan Chí (職官志) chép rõ việc tuyển mộ, đề bạt quan liêu và
chế độ thi cử đời Tống cùng cơ cấu các cấp quan liêu, tình huống tổ chức, bao
trùm cả thực ấp của các chức quan, ấm bổ (tập ấm), bổng lộc các loại, từ đó có
thể nhìn ra chế độ tập quyền trung ương đời Tống được củng cố như thế nào. Binh
Chí (兵志) phân chia ra
các chủng loại quân đội, chiêu mộ, tuyển bổ, lương thực được cấp, huấn luyện, đồn
trú, khí giới khôi giáp các chế độ.
Thể lệ của Tống Sử hoàn bị, các phần Kỷ, Biểu,
Chí đều hoàn thành bao trùm một số lượng lớn mà cũng có những sáng tạo mới. Liệt
Truyện là phần phong phú nhất, tổng cộng chép về hơn 2000 người, bổ túc cho những
nhân vật quan trọng mà liệt truyện trong Ngũ Đại Sử nay chép vào trong Chu Tam Thần
Truyện (周三臣傳), lại phân
chia ra hai truyện ngoại quốc, man di, phân chia rõ ràng dân tộc thiểu số trong
nước và giới hạn các nước ngoài ở chung quanh.
Tống Sử sáng lập Đạo Học Truyện (道學傳) đối với các nhân vật đại biểu trong đạo học
như Chu Đôn Di (周敦頤), Trình Hạo (程顥), Trình Di (程頤), Thiệu Ung (邵雍), Chu Hi (朱熹) đều lập thành truyện riêng, lại thêm ca tụng
để đưa ra phái Trình Chu Lý Học (程朱理學) và nghiêng về Nguyên Hựu Đảng (元祐黨), hạ thấp Tân Đảng (新黨), chủ trương bảo thủ và bài xích tiến bộ, nhấn
mạnh và phản ảnh ý thức của giai cấp thống trị.
Sử liệu của Tống Sử tuy phong phú, các bộ phận
tuy lớn nhưng trước thì rõ ràng mà sau lại sơ lược nên chưa bao trùm hết mọi việc.
Vì việc soạn sách gấp rút nên có những thiếu sót trong sử liệu lại thêm cắt xén
không cẩn thận nên nghị luận trong sự ký có điều mâu thuẫn, một người mà hai
truyện, có mục mà không có văn nên khuyết điểm là điều không tránh khỏi.
Liêu Sử
Liêu Sử ghi chép về lịch sử của tộc Khiết Đan
(契丹) ở phía bắc Trung Hoa
thành lập triều đại Liêu. Liêu Sử chép lại đặc điểm khi giới quí tộc người Khiết
Đan thích ứng về chính trị và quân sự để tổ chức thành một tổ chức độc hữu
không câu nệ theo các mục lục của sử cũ, sáng tạo mới hai chí Doanh Vệ (營衛) và Binh Vệ (兵衛).
Doanh Vệ Chí thuật lại tổng quát về tình hình
sinh hoạt, việc thành lập Doanh Vệ và Hành Doanh của chính quyền người Liêu,
phân bố và chiến trận của người Khiết Đan còn bình thời thì họ làm ruộng, săn bắn,
đánh cá. Binh Vệ Chí (兵衛志) chia ra Binh Chế (兵制), Ngự Trướng Thân Quân (御帳親軍), Doanh Vệ Kỵ Quân (宫衛騎軍), Đại Thủ Lãnh Bộ Tộc Quân (大首領部族軍), Đơn Bộ Tộc Quân (單部族軍), Ngũ Kinh Hương Đinh (五京鄉丁) các tổng mục, tổ chức quân sự của người Liêu chặn giữ những nơi hiểm
yếu. Phương pháp ghi chép tường thuật này rất đặc sắc.
Phần Biểu trong Liêu Sử rất nhiều, đó là một đặc
điểm.Tổng cộng có cả thảy tám Biểu, bao gồm Thế Biểu (世表), Hoàng Tử Biểu (皇子表), Công Chúa Biểu (公主表), Hoàng Tộc Biểu (皇族表), Ngoại Thích Biểu (外戚表), Du Hạnh Biểu (遊幸表), Bộ Tộc Biểu (部族表), Thuộc Quốc Biểu (屬國表). Các Biểu như Du Hạnh Biểu, Bộ Tộc Biểu, Thuộc
Quốc Biểu là những mục mới có lần đầu trong Liêu Sử. Những Biểu đó chiếm phạm
vi không nhiều, ghi chép về nhân vật và sự kiện cũng không ít, so với bộ phận kỷ,
truyện thì có những tác dụng bổ sung.
Quyển sau cùng trong Liêu Sử là Quốc Ngữ Giải
(國語解), nhằm chú thích các tiếng
Khiết Đan có trong sách về quan chế, doanh vệ, bộ tộc, địa danh, giúp cho người
đọc Liêu Sử có phương tiện rất lớn nhưng dịch âm cũng có một số sai lầm. Về
sau, dưới đời Thanh trong Liêu Kim Nguyên Tam Sử Quốc Ngữ Giải (遼金元三史國語解) đã bổ túc cho những thiếu sót này.
Liêu Sử là bộ sử giản lược nhất trong 25 bộ sử,
việc ghi chép cũng không hay. Liên quan đến lịch sử bộ tộc Khiết Đan tồn tại
hơn 90 năm bao gồm chính quyền Tây Liêu mà chỉ lướt qua trong phần Bản Kỷ còn hơn
200 người Liêu thì chỉ có hơn 100 thiên liệt truyện quả thực thiếu sót rất nhiều.
Ngoài việc soạn thảo gấp gáp, sơ sài thì về phạm vi sử liệu cũng ít ỏi vì đời
Liêu cấm sách rất nghiêm nhặt, không cho trước thuật các truyện tích ở phía nam
khiến cho hậu nhân khó tìm sử liệu đời Liêu nên không cách gì có thể bổ túc được.
Liêu Sử là thành tựu duy nhất chép về lịch sử triều đại người Liêu nhưng lại là
bộ chính sử không để lại nhiều chi tiết liên quan đến họ.
Kim Sử
Kim Sử là bộ sử tốt nhất trong ba bộ Tống,
Liêu, Kim, xưa nay vẫn được giới sử học khen ngợi nói rằng bộ sách này từ đầu đến
cuối đều hoàn chỉnh, bố cục nghiêm mật, chặt chẽ mà không sơ sài, phong phú mà
không tạp nhạp (約而不疏,贍而不蕪), thể lệ cũng không sáng tạo cái mới. Trước
Bản Kỷ một thiên trong Kim Sử là Thế Kỷ (世紀) thuật về tiên thế của Kim Thái Tổ A Cốt Đả (金太祖阿骨打) ấy là mô phỏng cách miêu tả trong thiên
sau cùng Bản Kỷ của Ngụy Thư (魏書) là Thế Kỷ Bổ (世紀補) tường thuật một số hoàng đế ở sau là đoạn đầu của Kim Sử.
Triều đại nhà Kim là một thời chiến tranh rất
phức tạp nên Kim Sử đem việc chủ đạo của mỗi chiến dịch tập trung trong Bản Kỷ
hoặc Liệt Truyện, cách thức đó quả là ngăn nắp đâu ra đấy, lại không trùng hợp
với nhau, từ một kỷ hay một truyện có thể mở ra được khung cảnh chung liên quan
đến chiến tranh, việc tra cứu rất tiện lợi. Mục Chí trong Kim Sử có hệ thống và
rõ ràng đầy đủ, chiếm đến 1/3 của Kim thư, còn Hà Cừ Chí (河渠志), Binh Chí (兵志), Thực Hóa Chí (食貨志), Tuyển Cử Chí (選舉志), Bách Quan Chí (百官志) đều viết rất kỹ. Chẳng hạn như Thực Hóa Chí
trong đó chia ra nhiều mục nhỏ, ghi chép rõ ràng về mọi phương diện kinh tế đời
Kim.
Phần Biểu trong Kim Sử cũng có điều mới mẻ, là
lần đầu tiên biên chế về Giao Sính Biểu (交聘表) chép về việc hòa đàm, giao chiến, khánh hạ,
chia buồn các việc qua lại giữa các nước Tống, Tây Hạ, Cao Ly cũng đều chép đầy
đủ khiến cho người đọc qua là hiểu. Thiên sau cùng của Kim Sử là Kim Quốc Ngữ
Giải (金國語解) chia ra làm cách
xưng hô của quan lại và của người thường, tính chất, tác dụng giống như tác dụng
trong Quốc Ngữ Giải (國語解) của Liêu Sử (遼史). Tuy nhiên tên dịch không thống nhất nên có khuyết điểm dễ bị lẫn lộn
với tên Hán. Việc biên soạn Kim Sử cũng có một số điểm đáng suy nghĩ, tiết lộ
nhiều điều trọng yếu của nhân vật hay sự kiện.
Nguyên Sử - Tân Nguyên Sử
Nguyên Sử là do Tống Liêm (宋濂) đời Minh soạn. Nguyên Sử là một bộ sử biên soạn
đúng đắn, văn tự mạch lạc rõ ràng, viết dễ hiểu bảo tồn được sự đối chiếu sử liệu
phong phú trong sử thư.
Các kỷ về đời vua trong Nguyên Sử có nội dung
rõ ràng, nêu rõ khác biệt giữa các đời vua, chủ yếu ở những người tại vị lâu
dài nên sử liệu gốc có nhiều, thành thử ghi chép dài. Ngược lại, nếu thời gian ở
trên ngôi ngắn thì cũng chỉ miêu thuật đơn giản. Sự tích của các vua Thái Tổ,
Thái Tông vì có Nguyên Triều Bí Sử (元朝祕史) chưa được dịch ra, tư liệu ít nên bản kỷ chỉ có một quyển. Định Tông,
Hiến Tông tại vị thời gian ngắn nên những việc thực sự làm được cũng ký thuật
đơn giản. Từ vua Thế Tổ trở về sau, sử liệu phong phú nên những việc được tường
thuật kỹ lưỡng. Thế Tổ Kỷ (世祖紀) nhiều đến 14 quyển, Hiến Tông Kỷ (寧宗紀) cũng lên đến 10 quyển.
Mục Chí trong Nguyên Sử miêu tả rất tốt, thu
thập được nhiều sử liệu quí giá, phản ảnh nội dung trọng yếu trong xã hội đời
Nguyên. Thiên Văn Chí (天文士) phản ảnh thành quả nghiên cứu của khoa học gia kiệt xuất đời Nguyên
là Quách Thủ Kính (郭守敬). Lịch Chí (曆志) thì căn cứ vào Thụ Thời Lịch Kinh (授時曆經) của Quách Thủ Kính và Thụ Thời Lịch Nghị (授時曆議) của lịch toán gia đời Nguyên Lý Khiêm (李謙) biên soạn. Địa Lý Chí (地理志) thì gốc vốn là từ Đại Nguyên Nhất Thống Chí
(大元大一統志) của Nhạc Huyền (岳鉉). Hà Cừ Chí (河渠志) rút ra từ Hà Phòng Ký (河防記) của Âu Dương Huyền (歐陽玄) và dựa theo các sách Hải Vận Kỷ Nguyên (海運紀原), Hà Phòng Thông Nghị (河防通議) mà biên soạn. Những sách này đã mất, mục
Chí trong Nguyên Sử đã giúp chúng ta bảo lưu được tinh hoa của những bộ sách
này. Nguyên Sử bỏ mất mục Nghệ Văn Chí (藝文志) nên thư mục đời Nguyên không còn tồn tại nữa.
Nguyên Sử cũng sáng tạo mới truyện Thích Lão (釋老) chuyên về ghi chép tình huống các phương diện
tôn giáo, trong đó có thể trình bày các nội dung trọng yếu về địa vị tôn giáo đời
Nguyên, việc phát triển và truyền bá. Bộ phận Nguyên Sử bản kỷ phần nhiều lấy
ra từ thực lục của 13 triều nhà Nguyên nhưng bộ thực lục này ngày nay đã thất
truyền nên tài liệu ghi trong bản kỷ càng thêm trân quí. Triều Thuận Đế (順帝) không có thực lục để dựa vào nhưng đầu đời
Minh khi tu bổ Nguyên Sử thì cũng đã cho người đến Đại Đô của nhà Nguyên (tức Bắc
Kinh ngày nay), Sơn Đông các nơi thu thập sử liệu, những điều tai nghe mắt thấy
đều là từ những người sống trong thời Nguyên Thuận Đế nên tư liệu rất xác thực,
trùng tu Nguyên Sử đã từ đó mà bổ túc.
Sở dĩ sử liệu về thời kỳ Thuận Đế Kỷ được coi
là đáng tin vì Nguyên Sử hoàn thành vào những năm đầu của nhà Minh, cách thời kỳ
nhà Nguyên diệt vong chỉ một, hai năm. Sử liệu tản lạc mất mát ở các nơi, người
biên soạn chưa được đọc tới, các loại sử liệu viết bằng tiếng Mông Cổ thì người
không biết tiếng Mông Cổ không đọc được, lại gấp gáp cho mau xong nên nhiều sử
liệu trọng yếu không được tham khảo đến chẳng hạn như Nguyên Triều Bí Sử (元朝祕史), Chuyết Canh Lục (輟耕錄) của Đào Tông Nghi (陶宗儀), Tây Du Lục (西遊錄) của Gia Luật Sở Tài (耶律楚材) nên sử liệu bị thiếu sót và nhiều chỗ sai lầm.
Người triều Minh không thỏa mãn với Nguyên Sử
nên đã soạn Nguyên Sử Bổ Di (元史補遺), Nguyên Sử Chính Ngộ (元史正誤) nhưng cũng chưa từng được dùng để sửa đổi lại.
Công tác soạn lại Nguyên Sử chính yếu xảy ra
dưới triều Thanh. Đầu đời Thanh, Thiệu Viễn Bình (邵遠平) soạn Nguyên Sử Loại Biên (元史類編), Ngụy Nguyên (魏源) soạn Nguyên Sử Tân Biên (元史新編) đều là so sánh Nguyên Sử với các sử liệu để
tăng bổ, sửa lại những chỗ sai lầm.
Đời Thanh, Hồng Quân căn cứ vào sử Mông Cổ do
Tây phương lưu truyền để soạn ra Nguyên Sử Dịch Văn Chứng Bổ (元史譯文證補) khiến cho sử liệu đời Nguyên càng thêm
phong phú. Tiền Đại Hân (錢大昕), Lý Văn Điền (李文田) cũng tuyên dương, chú thích, chỉnh lý Nguyên Sử Bí Sử (元朝祕史) khiến cho người đời chú ý, những công tác
đó đều chuẩn bị cho việc soạn lại Nguyên Sử.
Cuối đời Thanh, thu góp các thành quả nghiên cứu
của người đi trước và tham khảo tư liệu Trung Hoa và nước ngoài để soạn thành
chuyên thư thì chủ yếu có Tân Nguyên Sử (新元史) của Kha Thiệu Mân (柯劭忞), Mông Ngột Nhi Sử Ký (蒙兀兒史記) của Đồ Ký (屠寄), Nguyên Thư (元書) của Tăng Liêm (曾廉).
Trong số này Mông Ngột Nhi Sử Ký của Đồ Ký có giá
trị hơn cả, tham khảo cẩn thận, dung hợp cựu sử với tài liệu mới, sắp xếp lại
khiến cho người đọc thích thú, tiếc rằng bộ sách này viết chưa xong.
Bộ sách của Tăng Liêm tuy thể lệ hoàn chỉnh
nhưng nội dung thô kệch, hẹp hòi nên bộ sách được coi trọng nhất vẫn là Tân
Nguyên Sử.
Thành tựu chủ yếu của Tân Nguyên Sử là từ các
đời Minh, Thanh về sau việc nghiên cứu về sử nhà Nguyên đã tổng hợp, chỉnh sửa
và biên tập, sắp xếp theo một thể lệ nhất định thành chuyên thư nghiêm mật, sửa
chữa lại những khuyết điểm nghiêm trọng của các bộ Nguyên Sử cũ, loại bỏ những
trùng hợp và làm sáng tỏ những sai lầm hay thiếu sót. Như mô phỏng Ngụy Thư (魏書) và Kim Sử (金史), bản kỷ trước tăng gia một thiên Tự Kỷ (序紀), bổ sung lịch sử trước khi Thành Cát Tư Hãn (成吉田汘) kiến quốc.
Trong Liệt Truyện đặc biệt có truyện Hàn Lâm
Nhi (韓林兒) tường thuật việc
cuối đời Minh đảng Khăn Đỏ (紅巾) nổi lên. Thế nhưng Tân Nguyên Sử có rất nhiều việc đáng lẽ phải làm
mà không làm như phần Nghệ Văn Chí (藝文志) mà nhóm Tiền Đại Hân đã từng bổ soạn nhưng Tân Nguyên Sử lại không
thu nhập. Về phương diện tôn giáo tuy có tăng bổ nhưng không đủ, đối với sử liệu
Tây phương chưa khai thác được nhiều. Văn bút và cựu văn cũng chưa phân biệt rõ
rệt những tên dịch ra đều lệch lạc nên khiến cho khó có thể phân biệt. Năm
1930, Tân Nguyên Sử hoàn thành nhưng quan điểm sử học rất cũ kỹ, nói chung Tân
Nguyên Sử còn cách xa kỳ vọng của mọi người.
Minh Sử
Minh Sử do Trương Đình Ngọc (張廷玉) đời Thanh soạn là bộ sử mất nhiều thời gian
biên toản nhất trong tất cả 25 bộ sử của Trung Hoa. Bộ sử này ba lần thay đổi bản
thảo, trước sau mất tất cả vài chục năm và được coi như là bộ sử quan tu thành
tựu rất cao.
Minh Sử viết rất hay là do bản thảo đầu tiên của
nhóm Vạn Tư Đồng (萬斯同) biên soạn, dưới
sự chi trì của những học giả trứ danh đời Minh như Hoàng Tông Hi (黄宗羲), Cố Viêm Võ (顧炎武) mất mấy chục năm tâm huyết mới hoàn thành.
Những người này vốn là người có nhiệt tình yêu
nước, yêu dân nên khi tu soạn bộ Minh Sử đã hết lòng hết sức, không màng danh lợi,
thực lòng công tác biên soạn nên bố cục nghiêm chỉnh, hoàn bị, các vấn đề lớn của
sử nhà Minh trong ba trăm năm đều được ghi chép kỹ lưỡng.
Đối với những việc nổi bật đời Minh cũng đều
được đặc biệt soạn riêng thành một bộ phận, chẳng hạn trong Liệt Truyện các mục
Yêm Đảng (閹黨), Lưu Tặc (流賊), Thổ Ti (土司) là những sáng tạo mới.
Yêm Đảng Truyện tường thuật những việc làm bất
chính các hoạn quan cùng phe đảng của bọn Vương Chấn (王振), Lưu Cẩn (劉瑾), Nguỵ Trung Hiền (魏忠賢) gây ra tai ương cho dân chúng.
Thổ Ti Truyện ghi chép về các dân tộc thiểu số
vùng tây nam chia ra khu vực Hồ Quảng, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quí Châu, Quảng Tây
năm vùng thổ ti, tuy rằng lập trường sai lầm, lởi lẽ nhiều phần coi thường
nhưng cũng giữ được nhiều sử liệu quí giá về các dân tộc thiểu số.
Về Lưu Tặc là chỉ Lý Tự Thành (李自成), Trương Hiến Trung (張獻忠) các vụ nổi dậy cuối đời Minh, những người
này bị miệt thị theo lập trường của tác giả nhưng nếu khách quan mà nói, Lưu Tặc
Truyện bảo tồn được nhiều sự kiện về các biến động này.
Mục Chí của Minh Sử tường thuật rất thành
công, nội dung đầy đủ chính xác. Thiên Văn Chí (天文志), Lịch Chí (曆志), Hà Cừ Chí (河渠志) bao gồm nhiều sử liệu ghi chép các phương diện
khoa học, kỹ thuật, phản ảnh những thành tựu mới đời Minh. Nghệ Văn Chí (藝文志) không giống so với các bộ sử có từ trước và
chỉ chép về những gì người đời Minh đã trước tác. Minh Sử lại có thêm Thất
Khanh Biểu (七卿表). Thất Khanh Biểu
chỉ thượng thư Lục Bộ và thêm đô ngự sử Đô Sát Viện.
Để củng cố cho quyền lực của hoàng đế, vua đời
Minh phế bỏ tả, hữu thừa tướng, đem quyền lực phân tán xuống sáu bộ nên Lục Bộ
có quyền nhiều hơn. Đô Sát Viện trông coi, giám sát bách quan nên có quyền lực
rất lớn. Thất Khanh Biểu dùng hình thức biểu cách ghi chép rõ ràng các quan
viên cao cấp có thể thay đổi lẫn cho nhau, giản dị mà dễ hiểu rất tiện cho việc
tra cứu. Minh triều tuy có cái tên cửu khanh (九卿) nhưng thông chính sứ và đại lý tự khanh quyền
hành không bằng được thất khanh nên liệt kê trong biểu cũng sơ lược hơn.
Khuyết điểm chủ yếu của Minh Sử là sự tuyên
dương danh giáo cương thường và chống lại các cuộc nổi dậy rất rõ ràng, đối với
việc hưng khởi của vương triều Thanh và việc nhà Nam Minh kháng Thanh là việc xảy
ra ngay khi bộ sử này được soạn nên không dám viết thẳng ra, thậm chí còn bẻ
cong hay nắn lại.
Thanh Sử Cảo
Thanh Sử Cảo được thực hiện thời đầu Dân Quốc
do cơ quan biên tu đặc biệt của Quốc Sử Quán, Triệu Nhĩ Tốn làm chủ biên. Năm
1914 bắt đầu soạn, đến năm 1927 thì hoàn thành phần lớn. Tuy nhiên vì thời thế
loạn lạc nên bộ sách này chưa kịp tu chính cho cẩn thận, chu đáo mà đã phải in
ra. Thành thử Thanh Sử Cảo cũng là một bộ chính sử nhưng chưa hoàn tất.
Bộ sách này tuy được biên tu dưới thời Dân Quốc
nhưng những người soạn thảo đều là lão thần của nhà Thanh còn lại, đầu óc bảo
thủ, giữ vững quan điểm thống trị của Thanh triều nên đối với cuộc cách mạng
Tân Hợi hay các cuộc khởi nghĩa đều tỏ vẻ chê bai, nặng lời sỉ mạ còn đối với
nhà Thanh thì hết lời ca tụng và mỹ hoá việc xâm lược. Vào thời kỳ đó, chính phủ
Quốc Dân không thừa nhận nên ra lệnh cấm phát hành.
Tuy nhiên, Thanh Sử Cảo đã tập trung nhiều tài
liệu đời nhà Thanh, đến nay vẫn còn là một bộ sách tham khảo rất quan trọng về
Thanh sử. Về phương diện thể lệ, Thanh Sử Cảo không câu chấp vào các luật lệ của
đời trước và thích ứng được với tình huống thay đổi của xã hội đời Thanh, sáng
lập một thể loại biên mục mới, chẳng hạn Giao Thông Chí, Bang Giao Chí là những
đề mục mà các bộ sử trước chưa hề có.
Giao Thông Chí bao gồm cả những sự kiện mới xuất
hiện cuối đời Thanh như đường sắt, tàu vận tải (thâu thuyền), điện báo, bưu
chính. Trong sách có niên biểu của các đại thần, phiên bộ (藩部) thế biểu, giao sính (交聘) niên biểu … là những tài liệu thiết thực và hữu
dụng rất tiện cho việc tra cứu. Nghệ Văn Chí là do đời Thanh đã biên tập Tứ Khố
Toàn Thư Tổng Mục Đề Yếu nên đã chiếu theo Minh Sử để lục ra những trước thuật
của người đời Thanh.
Nói tóm lại, nếu theo nội dung mà luận Thanh Sử
Cảo thì các mục chí, biểu rất hữu dụng, phần bản kỷ thì giản lược, liệt truyện
sai sót nhiều. Thế nhưng vì ngày hôm nay chưa có một bộ sử chính thức của đời
Thanh nên bộ sách này là một tài liệu tham khảo rất quan trọng.[9]
[1] “Văn Cảnh chi trị” chỉ thời
kỳ thịnh vượng dưới hai triều Hán Văn Đế và Hán Cảnh Đế.
[2] 漢文學史綱要 (Hán Văn Học Sử Cương Yếu)
[3] Triều đại Nam Tống (420-479) là triều đại đầu tiên của Nam triều trong
thời kỳ Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này kéo dài 59 năm và có mười
hoàng đế. Vì họ của nhà vua là Lưu nên cũng được gọi là Lưu Tống để phân biệt với
triều đại Triệu Tống (960-1279) do Triệu Khuông Dẫn lập ra.
[4] Liệt (列) có nghĩa là bày
ra, nói chung đàn bà còn liệt (烈) là người cứng cỏi, không chịu nhục. Hai chữ tuy cùng âm nhưng nghĩa
khác nhau, một đằng nói chung đàn bà, nếu có tài, có công đều được ghi nhận, một
đằng chỉ đề cao những người trung trinh theo lễ giáo.
[5] Sử Thông (史通) Bổ Chú (補注)
[6] Chỉ người Hồ Lỗ tết tóc ở quan ngoại Trung Hoa với ý khinh miệt.
[7] Chỉ các dân tộc sống ngoài biển hay ven biển, cũng có ý khinh ghét.
Các dân tộc bên ngoài Trung Hoa bị gọi bằng những tên man (nam), di (đông),
nhung (tây), địch (bắc).
[8] Niên hiệu của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ (713-741).
[9] Ghi chú của người dịch: Tác giả là người sống và làm việc tại Hoa lục
nên không tham khảo các sách ở Đài Loan. Khi thiên di sang Đài Loan, chính quyền
Trung Hoa dân quốc đã mang theo tài liệu và bản gốc Thanh sử cảo rồi sau đó Viện
Nghiên Cứu Quốc Phòng thành lập một uỷ ban, hiệu đính và thêm bớt bộ Thanh sử cảo
cũ để thành một bản mới (in năm 1961, Dân quốc 50). Bộ sách này có tên là Thanh
sử (清史) [bỏ đi chữ cảo
ý nói đây là bộ sử chính thức, không còn là bản thảo như các ấn bản trước] bao
gồm 8 tập lớn được sắp xếp để nội dung đồng nhất với các bản sử triều đại khác
(Tống sử, Nguyên sử, Minh sử...).
Trong số 8 tập này, 7 tập đầu là tu đính
lại bộ Thanh sử cảo, 529 quyển do Triệu Nhĩ Tốn làm tổng tài trước đây. Riêng tập
8, đây là đóng góp của nhóm biên soạn bao gồm 21 quyển mới theo thứ tự Nam Minh
kỷ (5 quyển), Minh di thần liệt truyện (2 quyển), Trịnh Thành Công tải ký (2
quyển), Hồng Tú Toàn tải ký (8 quyển), Cách mạng đảng nhân liệt truyện (4 quyển).
Như vậy, tổng cộng bộ Thanh sử nay lên thành 550 quyển.