Saturday, June 21, 2025

Nguyễn Duy Chính: TẤT TỐ QUYÊN và HÙNG QUỐC TRINH TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI TRỨ DANH SỬ TỊCH I

 

 

TẤT TỐ QUYÊN và HÙNG QUỐC TRINH

TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI

TRỨ DANH SỬ TỊCH I

畢素娟-熊國禎

中國古代著名史籍

 




 

Nguyên tác: Trung Quốc Cổ Đại Trứ Danh Sử Tịch

Tác giả: Tất Tố Quyên, Hùng Quốc Trinh

Trung Quốc Văn Hoá Tri Thức Tùng Thư

Đài Loan Thương Vụ Ấn Thư Quán phát hành

1993



BIỂU TỔNG QUÁT NHỊ THẬP NGŨ SỬ

 

Triều đại

Tên

Người soạn

Số quyển

Phân chia

Bị chú

Bản kỷ

Thư chí

Biểu

Thế gia

Liệt truyện

Mục khác

 

Tây Hán

 

Sử ký

Tư Mã Thiên

130

12

8

10

30

70

 

Trước đời Đường ba bộ này gọi chung là Tam Sử

Đông Hán

 

Hán Thư

Ban Cố

100

12

10

8

 

70

 

Nam Triều Tống

 

Hậu Hán Thư

Phạm Diệp

120

10

30

 

 

80

 

Tây Tấn

 

Tam Quốc Chí

Trần Thọ

65

4

 

 

 

61

 

Đường

 

Tấn Thư

Phòng Huyền Linh (nhóm)

130

10

20

 

 

70

Tải Ký 30

Nam Triều Lương

 

Tống Thư

Thẩm Ước

100

10

30

 

 

60

 

Nam Triều Lương

 

Nam Tề Thư

Tiêu Tử Hiển

59

8

11

 

 

40

 

Đường

 

Lương Thư

Diêu Tư Liêm

56

6

 

 

 

50

 

Đường

 

Trần Thư

Diêu Tư Liêm

36

5

 

 

 

30

 

Bắc Tề

 

Nguỵ Thư

Nguỵ Thu

130

14

20

 

 

96

 

Các bộ Sử trên đời Đường gọi là Thập Tam Sử

Đường

 

Bắc Tề Thư

Lý Bách Dược

50

8

 

 

 

42

 

Đường

Chu Thư

Lệnh Hồ Đức Phân (nhóm)

50

8

 

 

 

42

 

Đường

 

Tuỳ Thư

Nguỵ Trưng (nhóm)

85

5

30

 

 

50

 

Đường

 

Nam Sử

Lý Diên Thọ

80

10

 

 

 

70

 

Đường

 

Bắc Sử

Lý Diên Thọ

100

12

 

 

 

88

 

Hậu Tấn

 

Cựu Đường Thư

Lưu Hú (nhóm)

200

20

30

 

 

150

 

Bắc Tống

 

Tân Đường Thư

Âu Dương Tu, Tống Kỳ

225

10

50

15

 

150

 

Bắc Tống

 

Cựu Ngũ Đại Sử

Tiết Cư Chính (nhóm)

150

61

12

 

 

77

 

Bắc Tống

 

Tân Ngũ Đại Sử

Âu Dương Tu

74

12

 

Thế Gia Niên Phổ

1

10

45

Tứ Di Phụ Lục 3, khảo 3

Các bộ sử trên trừ Cựu Đường Thư, Cựu Ngũ Đại Sử, đời Tống gọi là Thập Thất Sử

Nguyên

Tống Sử

 

Thoát Thoát (nhóm)

496

47

162

32

 

225

 

Nguyên

 

Liêu Sử

Thoát Thoát (nhóm)

116

30

32

8

 

45

Quốc Ngữ giải 1

Nguyên

 

Kim Sử

Thoát Thoát (nhóm)

135

19

39

4

 

73

 

Minh

 

Nguyên Sử

Tống Liêm (nhóm)

210

47

58

8

 

97

 

Dân Quốc

 

Tân Nguyên Sử

Kha Thiệu Mân

257

26

70

7

 

154

 

Các bộ sử trên trừ Tân Nguyên Sử, đời Thanh gọi Là Khâm Định Nhị Thập Tứ Sử,

Dân Quốc lúc đầu thêm Tân Nguyên Sử gọi là Nhị Thập Ngũ Sử

Thanh

 

Minh Sử

Trương Đình Ngọc (nhóm)

332

24

75

13

 

220

 

Dân Quốc

 

Thanh Sử Cảo

Triệu Nhĩ Tốn (nhóm)

529

25

135

53

 

316

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


CÁC LOẠI KỶ TRUYỆN THỂ TỪ XƯA ĐẾN NAY

Sử Ký và Tiền Tứ Sử

Tác giả của Sử Ký (史記) là Tư Mã Thiên (司馬遷), tự là Tử Trường (子長), người đất Hạ Dương (夏陽), Tả Phùng Dục (左馮翊) đời Tây Hán [nay là huyện Tây Hàn, Thiểm Tây], sinh năm Hán Cảnh Đế nguyên niên (TCN 145) chết khoảng năm Chinh Hoà 3 (TCN 90) đời Hán Võ Đế. Hoạt động chủ yếu của Tư Mã Thiên trong đời đều dưới thời Hán Võ Đế, là thời kỳ thịnh vượng đầu tiên sau thời Văn Cảnh[1], xã hội an định, kinh tế phát triển, học thuật văn hoá phồn vinh chưa từng có.

Tổng kết kinh nghiệm về việc nhà Tần mất, nhà Hán lên, củng cố chính quyền thống nhất là nhu cầu thực tế khẩn bách. Sau khi triều Tây Hán thành lập, mở rộng con đường hiến thư, sưu tập văn hiến điển tịch để tìm nguyên nhân diệt vong của Tần triều, tìm kiếm phương sách trị quốc an dân, về tình hình chính trị đã đạt được những bước tiến bộ lớn, là điều kiện tất yếu để chuẩn bị cho việc sản sinh ra bộ Sử Ký.

Phụ thân của Tư Mã Thiên là Tư Mã Đàm (司馬談), đã đảm nhiệm chức vụ Thái Sử Lệnh một thời gian lâu thời Hán Võ Đế. Thái Sử Lệnh là người chưởng quản quan viên ghi chép quốc sử, cũng là người phụ trách trông coi sách vở, thiên văn lịch pháp, điều hành các đại điển tế lễ của hoàng gia. Tư Mã Đàm học thức uyên bác, biết thiên văn lịch pháp và am tường điển chương chế độ, từng viết quyển Luận Lục Gia Yếu Chỉ (論六家要旨) phân tích bình luận rất có cơ sở về các lưu phái học thuật đời Tiên Tần.

Thấy sau kinh Xuân Thu không ai biên soạn lịch sử, các sự tích nói về “minh chúa, hiền quân, trung thần, liệt nghĩa” không được ghi chép, Tư Mã Đàm định thực hiện biên soạn và biện luận một bộ lịch sử nên trong nhiều năm chuẩn bị công việc này. Trước khi qua đời, ông cầm tay Tư Mã Thiên, rơi lệ tha thiết dặn dò:

Chớ có quên rằng ta muốn biên chép một bộ sử, con phải ghi nhớ lời đó.

Sinh ra trong một gia đình như thế lại được đích thân phụ thân dạy dỗ, Tư Mã Thiên từ nhỏ đã ham thích đọc sách, 10 tuổi đã thông thuộc cổ văn, được tiếp xúc với các tác phẩm của Đổng Trọng Thư (董仲舒), Khổng An Quốc (孔安國) nên ông có thể giúp cha trong việc soạn sử. Năm 20 tuổi, Tư Mã Thiên du hành xuống vùng Giang Hoài ở phương nam điều tra thực địa về lịch sử. Ông bắt đầu từ Trường An, theo phương nam xuống Giang Lăng, đến bờ sông Mịch La (汨羅) điếu Khuất Nguyên, đi thuyền trên Nguyên Tương (沅湘), xem núi Cửu Nghi (九疑) khảo sát mộ vua Thuấn và sự tích ở đó.

Ông lên Lô Sơn (廬山) để tìm câu trả lời về công nghiệp trị thuỷ của vua Đại Vũ (大禹) rồi lại theo đường từ Việt () sang Ngô () xem xét cung thất của Xuân Thân Quân (春申君). Sau đó ông lại qua sông đi lên miền bắc, tìm tòi hỏi han những sự tích liên quan đến Hàn Tín (韓信). Về sau ông lại đến nước Tề, nước Lỗ để chiêm ngưỡng di tích của Khổng Tử. Về phía tây ông đến quê hương rất nhiều nhân vật Tần, Hán phỏng vấn những người già cả, khảo sát chiến trường nơi Sở, Hán tương tranh, sau cùng đi qua đất Lương, đất Sở để về lại Trường An.

Không lâu, Tư Mã Thiên được làm lang trung, tuy quan chức không cao nhưng nhiều lần được theo Hán Võ Đế ra ngoài đi tuần, từng qua núi Không Động (崆峒) ở phía tây, núi Thái Sơn (泰山) ở phía đông, lên Kiệt Thạch (碣石) rồi ra đến bờ biển còn phía bắc thì ra khỏi Trường Thành, lên đến Cửu Nguyên.

Năm Nguyên Đỉnh 6 đời Hán Võ Đế (TCN 111), ông phụng mệnh đi sứ một dải tây nam, tới tận Côn Minh. Vì nhiều lần du lịch ra bên ngoài nên ông được xem nhiều khu vực núi sông, tiếp xúc rộng rãi với đủ mọi giai tầng nên kiến văn tăng lên rất nhiều, lại sưu tầm dò hỏi được nhiều tư liệu lịch sử khiến cho tâm địa cũng thêm rộng rãi. Những điều miêu tả hay thêm vào trong Sử Ký rất đặc biệt thân thiết ý vị, văn chương lưu loát, biến hoá nhẹ nhàng đều là hậu quả kinh lịch thực tế của Tư Mã Thiên.

Sau khi đi sứ phương nam trở về, cha ông Tư Mã Đàm lâm bệnh nguy kịch, trước khi qua đời đã đem di nguyện về việc viết sử tha thiết trao lại cho ông. Ba năm sau, năm Nguyên Phong 3 (TCN 108) đời Hán Võ Đế, Tư Mã Thiên được giữ chức Thái Sử Lệnh, ông đọc và sửa lại các tài liệu cổ sử, các văn bản trong thư khố, hoàn thành công việc mà cha ông đã tích cực chuẩn bị. Năm Thái Sơ nguyên niên (TCN 104), Tư Mã Thiên cùng hơn 20 học giả chế định lại lịch Thái Sơ rồi sau đó dốc toàn lực viết thành sách.

Năm Thiên Hán 2 (TCN 99), Hán Võ Đế phái anh trai của sủng phi Lý phu nhân là Nhị Sư tướng quân Lý Quảng Lợi (李廣利) đem quân đánh Hung Nô. Kỵ đô uý Lý Lăng (李陵) phụng mệnh suất lãnh 5000 bộ binh vào sâu đất Hồ, khổ chiến với trọng binh của địch mười mấy ngày nhưng không có viện binh nên sau cùng phải đầu hàng Hung Nô. Hán Võ Đế hỏi Tư Mã Thiên xét việc này như thế nào, Tư Mã Thiên nhận định rằng Lý Lăng tuy không hoàn thành nhiệm vụ nhưng đã tận lực chiến đấu, giết được một số lớn địch quân, công lao to lớn, chỉ vì ở vào tình huống không thể khác nên phải đầu hàng, bình thường mà xét, ông nhất định sẽ tìm cơ hội thích hợp để báo đáp Hán triều.

Hán Võ Đế nghe xong nổi cơn thịnh nộ, cho rằng Tư Mã Thiên có ý hạ thấp vai trò của Nhị Sư tướng quân Lý Quảng Lợi mà biện hộ việc đầu hàng Hung Nô thay cho Lý Lăng nên bắt Tư Mã Thiên giam vào ngục. Năm thứ hai, lại có tin đồn là Lý Lăng đã luyện tập binh lính cho Hung Nô, Hán Võ Đế tin là thực, giết sạch già trẻ gia đình Lý Lăng, tru diệt cả Tư Mã Thiên, xử ông tội cung hình (tức thiến bỏ bộ phận sinh dục). Cung hình là tội nhục nhã nhất cho nam nhân, khiến cho Tư Mã Thiên không còn muốn sống nữa. Hai năm sau, Hán Võ Đế đổi niên hiệu là Thái Thuỷ, đại xá cho thiên hạ, Tư Mã Thiên ra khỏi ngục, lại được dùng làm Trung Thư Lệnh.

Trung Thư Lệnh là chức vụ do hoạn quan đảm nhiệm, Tư Mã Thiên cảm thấy vô cùng hối nhục nên không muốn nhận. Tuy nhiên, nghĩ đến di nguyện của phụ thân, trong lịch sử đã có rất nhiều người gặp hoàn cảnh thống khổ đã trút nỗi hận bằng cách soạn sách lưu truyền hậu thế nên ông đã kiên nhẫn chịu đựng để nỗ lực viết sách, đến năm Chinh Hoà 2 (TCN 91), thì đã hoàn thành cơ bản việc biên soạn. Khi gặp tai hoạ Lý Lăng, Tư Mã Thiên vì nghèo nên không thể dùng tiền chuộc tội, bạn bè cũng không ai cứu, thị thần chung quanh hoàng đế cũng không ai nói giúp một lời.

Trong hoàn cảnh tàn nhẫn của xã hội chuyên chế lại chịu cảnh lòng người bạc bẽo, việc đó gây ra ảnh hưởng rất lớn trong tư tưởng của ông. Văn trong Sử Ký không những giàu về tình cảm mà còn nhiều cảm khái, khiến cho Lỗ Tấn tiên sinh đã gọi là “tiếng kêu tuyệt vọng của sử gia, một bài Ly Tao không vần” (史家之絕唱,無韻之離騷).[2]

Tư Mã Thiên viết xong bộ sử cũng không xác định được sẽ gọi tên là gì. Cổ nhân viết sách không đặt tên trước cũng là một việc bình thường. Đời Hán, các học giả gọi bộ sách đó là Thái Sử Công (太史公), Thái Sử Công Thư (太史公書), Thái Sử Công Ký (太史公記) hay Thái Sử Ký (太史記). Trong sách này có đến tám chỗ Tư Mã Thiên gọi là Sử Ký, vốn chỉ là một cái tên gọi chung chung để chỉ cổ sử của các quốc gia. Cho đến cuối thời Đông Hán, người ta mới đem Thái Sử Công Ký (太史公記) viết gọn lại là Sử Ký (史記). Sử Ký từ đó thành biệt danh của bộ sử do Tư Mã Thiên soạn.

Sau khi Tư Mã Thiên qua đời, đến thời Hán Tuyên Đế (漢宣帝), cháu ngoại của ông là Dương Uẩn (楊惲) đem công bố toàn bộ Sử Ký, truyền lại đến nay. Trong Tư Mã Thiên truyện của Hán Thư có viết “mười thiên bị khuyết, có mục lục mà không có sách” cho thấy khi mới lưu truyền thì bộ sách này cũng đã tàn khuyết rồi. Còn như bị mất những mục nào thì người đời sau mỗi người nói một cách, tình huống hiện tại nói cho rõ ràng cũng khó mà khảo định. Nội dung Sử Ký nay còn đó vốn chỉ là theo bản cuối đời Hán Võ Đế.

Hậu kỳ nhà Tây Hán có rất nhiều người làm công việc tục bổ, thêm vào nhiều nhất là bác sĩ Chử Thiếu Tôn (褚少孫) đời Nguyên Đế, Thành Đế. Bộ phận ông ta thêm vào mở đầu đều là “Chử tiên sinh nói”, ở bản Sử Ký hiện nay thì cách thức để thấp hơn một dòng để cho dễ phân biệt.

Những gì ông ta thêm vào cũng không cùng một dạng thức. Trong bản Sử Ký hiện nay có nhiều việc sau đời Hán Võ Đế được thêm vào, có chỗ văn tự lại trùng nhau, mâu thuẫn hoặc địa phương bị lẫn lộn đều là do người đời sau thêm hoặc chêm vào nên người đọc sách cần cẩn thận xem xét phân biệt. Tuy nhiên cũng có những tình huống, Sử Ký đã bảo tồn nguyên bản mà ra.

Nội dung của Sử Ký vô cùng phong phú, có thể nói rằng thông quán cổ kim, bao la vạn tượng, một bộ thông sử bách khoa toàn thư, từ thời đại truyền thuyết là Hoàng Đế cho tới chính thời đại của tác giả là đời Hán Võ Đế, tập hợp từ trên xuống dưới hơn 3000 năm, trong đó có tất cả chính trị, quân sự, xã hội, kinh tế, văn hóa, học thuật, thiên văn luật lịch, sông ngòi địa lý thậm chí đến cả biên cương, địa khu của các dân tộc thiểu số, sơn xuyên địa vực, phong tục nhân tình không gì là không bao gồm, hay sơ lược để sót.

Tư Mã Thiên coi trọng hoạt động kinh tế, sản xuất của con người, là người đầu tiên mở ra “hóa thực liệu truyện” và “bình chuẩn thư”. Ông coi trọng quan hệ giữa các dân tộc, chủ trương bảo vệ vương triều nhà Tây Hán làm trung tâm thống nhất, từ “Hung Nô liệt truyện” đến “Tây Nam di liệt truyện” miêu tả năm thiên sử về dân tộc thiểu số. Ông cũng coi trọng tư tưởng văn hóa biến thiên, lập truyện cho mỗi đại biểu của Bách Gia Chư Tử, khai mở cho con đường tư tưởng học thuật hậu thế.

Ông cũng tạo dựng được rường mối ngôn ngữ hành vi của các bậc đế vương, cốt ý để phản ảnh lịch sử công lao của minh chủ, hiền quân, trung thần, nghĩa sĩ mà cũng miêu tả được một xã hội rộng lớn trong các giai đoạn, bao quát lịch sử hoạt động một hạ tầng nhân sĩ, làm du hiệp, thích khách, xu nịnh, hoạt kê, hóa thực, nho lâm các loại dân chúng và lập truyện cho các nhân vật, nỗ lực phản ảnh một xã hội toàn diện. Đó là khí phách to lớn qui mô trước nay chưa từng có để tổng kết lịch sử, thích ứng với thời kỳ phong kiến trung ương tập quyền và lý tưởng to lớn “cứu thiên nhân chi tế, thông cổ kim chi biến, thành nhất gia chi ngôn” (究天人之際,通古今之變,成一家之言) của Tư Mã Thiên.

Trước khi có Sử Ký thì cổ sử hoặc là ký ngôn, hoặc là ký sự tả một phương diện mà thôi, hay chỉ ghi lại một đoạn lịch sử, hoặc hạn chế vào một địa vực, lẻ tẻ vụn vặt một số mảnh tạp ký theo cách giản dị của văn tự đời cổ. Nói tóm lại, thô sơ vụng về, ấu trĩ non nớt (樸拙稚嫩), thiếu sót rất nhiều.

Còn Sử Ký chân chính thành thực viết ra, sáng tạo một qui mô mới, tạo thể lệ hoàn chỉnh mà nghiêm mật, dung hợp quán thông các loại sử liệu, cắt xén chọn lựa, sửa đổi thêm bớt, viết thành một bộ sử liệu phong phú, chủ đề minh bạch có đầu có đuôi thì đây là lần đầu. Ông đem văn hoá hơn ba nghìn năm, tư tưởng hành vi của quân thần sĩ thứ và xã hội tự nhiên biến hoá phát triển đúc chung trong một lò, thực tế phản ảnh xu thế lịch sử khách quan của một đại nhất thống đời Tần Hán.

Sử Ký cũng mở đầu cho việc đưa nhân vật làm trung tâm trong Kỷ Truyện Thể. Trong tất cả 130 thiên của bộ sách, bao gồm 12 bản kỷ, 10 biểu, 8 thư, 30 thế gia, 70 liệt truyện, tổng cộng 52,650 chữ là một thể hệ hoàn chỉnh.

Bản Kỷ dựa theo năm tháng theo thứ tự mà ghi chép hành vi ngôn ngữ của đế vương và các sự việc lớn, lấy vua chúa làm trung tâm để biên chép việc chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá, ngoại giao và mọi sự kiện trọng đại. Bản Kỷ là dây buộc của toàn thể bộ sách, được đặt trước nhất trong sách là tượng trưng cho quân quyền chí thượng trong xã hội phong kiến. Thế Gia là lịch sử ghi chép con cháu thế tập của các vương hầu được phong quốc, thực tế chính là bản kỷ của các vua chư hầu, cũng biên tập theo lối biên niên, có điều vì địa vị thấp hơn thiên tử nên để ở dưới.

Liệt Truyện chủ yếu là truyện ký của các nhân vật mọi loại, mọi giới phần nhiều là tương tướng, đại thần, đạt quan, quí tộc, trung và hạ tầng giai cấp thống trị và các đại biểu có ảnh hưởng đến xã hội trong các lãnh vực, mỗi thành phần một tỉ số. Cũng có một số liệt truyện, truyện ký về dân tộc thiểu số và một số quốc gia hoặc địa khu có lai vãng với Trung Hoa. Liệt Truyện chiếm nhiều nhất trong sách, chia ra làm bốn loại như trên.

Chỉ miêu tả một cá nhân thì gọi là chuyên truyện, chẳng hạn như Hoài Âm Hầu liệt truyện (淮陰侯列傳), tả hai người hoặc vài người thì gọi là hợp truyện chẳng hạn như Tôn Tử, Ngô Khởi liệt truyện (孫子吳起列傳) chép về hai người, Liêm Pha Lạn Tương Như liệt truyện (廉頗藺相如列傳) chép về bốn người, bao gồm luôn cả Triệu Xa (趙奢), Lý Mục (李牧).

Hợp truyện ghi lại những nhân vật hoặc sự tích có liên quan, hoặc hành vi cùng một loại. Đem các nhân vật cùng một loại tính chất hoặc nhân vật cùng chuyên một nghề hợp chung với nhau một chỗ ghi chép thì gọi là loại truyện, chẳng hạn như Du Hiệp liệt truyện (遊俠列傳), Khốc Lại liệt truyện (酷吏列傳), Hoá Thực liệt truyện (貨殖列傳). Ngoài ra còn có phụ truyện là truyện về mặt sau của một cá nhân như họ hàng, con cháu đời sau hoặc các sự tích tương cận với người đó bao gồm những liên hệ phức tạp và quan hệ, thuận theo thứ tự mà bày ra thành biểu cách để giản hoá, điều lý và dùng bổ sung cho bản kỷ, thế gia, liệt truyện nếu chưa đầy đủ. Biểu lại phân ra niên biểu, thế biểu và nguyệt biểu ba loại khác nhau.

Niên biểu dựa theo niên đại mà trình bày, sử liệu xem ra thực chẳng hạn như Lục Quốc Niên Biểu (六國年表), Hán Hưng Dĩ Lai Tương Tướng Danh Thần Niên Biểu (漢興以來將相名臣年表). Thế biểu là nhân vì niên đại đã lâu, sử liệu không còn nên không thể dựa vào năm mà sắp xếp, chỉ có thể xếp đặt lờ mờ chẳng hạn như Tam Đại Thế Biểu (三代世表). Nguyệt biểu là Tần Sở Chi Tế Nguyệt Biểu (秦楚之際月表), trong mấy năm Sở Hán tương tranh, chính quyền không còn, chiến tranh càng lúc càng khốc liệt, biến hoá kịch liệt nếu theo năm mà viết thì không đủ chi bằng chiếu theo biến hoá của sự việc thì phong phú và nhanh chóng hơn. Trong sách chuyên ký chế độ duyên cách điển chương, ấy cũng là một dạng chuyên đề tư liệu hối biên, chẳng hạn như Thiên Quan Thư (天官書) chuyên ký thiên văn, tinh tượng, Cừ Hà Thư (河渠書) chuyên ghi chép về thuỷ lợi và dòng chảy của sông ngòi, Bình Chuẩn Thư (平準書) chuyên viết về chính sách kinh tế. Năm loại thể tài mỗi loại đều có phân công, bên trong nối kết với nhau, hỗ tương bổ sung, tương phụ tương thành, tạo thành một chỉnh thể nghiêm mật.

Sử Ký khai sáng ra lối Kỷ Truyện, các sử học gia từ Ban Cố (班固) trở về sau không ai là không mô phỏng theo cách thức này. Từ Hán Thư cho đến Thanh Sử Cảo, các bộ chính sử đời xưa không đâu không dùng thể tài này, có khác chăng là ở một số mục thì điều chỉnh cục bộ, chẳng hạn như Hán Thư đem chữ Thư () đổi thành Chí (), đem Thế Gia (世家) hợp với Liệt Truyện (列傳) làm một.

Nhân vì các mục chủ yếu không ngoài Kỷ, Biểu, Chí nhưng cũng có thời kỳ tăng thêm thành Kỷ, Biểu, Chí, Truyện. Nhân vì biểu và chí khó phân biệt nên từ Hậu Hán Thư và Tam Quốc Chí trở đi nhiều bộ sử đã lược đi hai bộ phận này. Lại nhân vì kỷ và truyện là hai phần tương đối trọng yếu không thể thiếu được, hậu thế đã gọi gộp xưng là thể kỷ truyện.

Các bộ sử kỷ truyện thể thêm vào thì đều lấy đế vương, tương tướng làm tâm điểm của lịch sử, việc gọi tên và địa vị cao hay thấp cũng phản ảnh trật tự vương triều và nhu yếu cai trị. Ấy là lý do mà loại sử theo thể kỷ truyện đã được gọi là chính sử theo cách gọi của ngày xưa.

Trong Sử Ký có rất nhiều đoạn ghi Thái Sử Công viết (太史公曰). Hậu nhân đem đặt thành một thiên để lên trên gọi là Tự (), còn nếu đặt tại cuối cùng của một thiên thì gọi là Tán () còn nếu chêm vào giữa môt thiên thì gọi là luận (). Đó là Tư Mã Thiên phỏng theo Tả Truyện để sáng tạo một hình thức sử luận. Nội dung của phần này phong phú, nhiều màu sắc, hoặc vẽ rồng điểm nhãn, siển minh chủ yếu trong một thiên, hoặc thêm vào kiến văn, giảng rõ về nguyên tắc tìm kiếm thu thập tài liệu, cũng có khi đem những điều trong lòng mà nêu ra sự yêu ghét bàn luận về nhân vật, cũng có khi nghị luận cổ kim, tổng kết trị loạn hưng suy để đem kinh nghiệm ra giáo huấn, bút thế tung hoành, không câu nệ khiến cho Sử Ký tăng thêm sinh động, hoạt bát trong sắc thái lý luận. Người đời sau tuy cũng đi theo lối sử luận của ông nhưng vì không có đủ kiến thức và văn tài nên kém xa.

Sử Ký là một bộ thực lục thu thập tài liệu rộng rãi, chọn lựa cẩn thận, nguồn gốc sử liệu thật là phong phú bao gồm điển tịch thời cổ và văn hiến, chẳng hạn như Thượng Thư (尚書), Xuân Thu (春秋), Thi Kinh (詩經), Luận Ngữ (論語), Tả Truyện (左傳), Quốc Ngữ (國語), Thế Bản (世本), Chiến Quốc Sách (戰國策), Sở Hán Xuân Thu (楚漢春秋) cho chí sách vở chư tử bách gia, lại có đáng án văn thư quốc gia như điệp ký, phổ điệp các đời Xuân Thu, liệt phong, công lệnh. Ngoài những tư liệu thuộc loại văn tự, còn rất nhiều tài liệu điều tra thực địa, phỏng vấn bao gồm văn vật, cổ tích, thạch khắc, bi văn, đồ đạc trong cung thất, đồ tượng cổ nhân, lịch sử truyền thuyết và kiến văn đương thế.

Tư Mã Thiên biên soạn lịch sử chú trọng việc miêu tả tường tận việc mới xảy ra còn việc đã lâu thì ông chỉ viết sơ sài, kỹ về việc hiện tại mà qua loa về chuyện ngày xưa. Rất nhiều chuyện cận đại và đương đại, Tư Mã Thiên đã chính mình chứng kiến hay nghe thấy chẳng hạn như “Ta nghe rằng Phùng vương tôn đã nói …” trong phần Tán của Triệu thế gia hay “ Ta trông thấy Lý tướng quân, ấp úng như kẻ hạ tiện không nói nên câu” [余睹李將軍,悛悛如鄙人,口不能道辭] trong phần Tán của Lý tướng quân liệt truyện. Trong sách loại này ghi chép rất nhiều, làm tăng thêm tính chân thực và sự thân thiết trong Sử Ký. Sử Ký cũng ghi chép rất nhiều câu ca dao thơ phú, tục ngữ và lời lẽ dân gian hạ tiện chẳng hạn như lời quê kệch nói rằng “lợi lệnh trí hôn” (thấy lợi thì tối mắt lại) [ 鄙語云:利令智昏] trong phần Tán của Bình Nguyên Quân liệt truyện, hay tục ngữ có câu “thước có chỗ ngắn mà tấc có chỗ dài” [尺有所短,寸有所長] trong phần Tán của Bạch Khởi liệt truyện hay “nước sông Toánh (Dĩnh) trong, thì nhà họ Quan bình yên, nước sông Toánh (Dĩnh) đục, thì cả họ Quan phải tội ” [潁水清,灌氏寧;潁水濁,灌氏族 ] trong Nguỵ Kỳ Võ An Hầu liệt truyện. Những loại tài liệu như thế rất là chân thực mà lại sinh động.

Sử liệu đa dạng và phong phú tập trung tại một nơi, có cả kinh truyện, điển tịch, có đáng án tư liệu, có cả ghi chép quan phương, miệng lưỡi dân gian, tài liệu văn tự và vật thực để dựa vào, có lời tao nhã của văn nhân, sĩ phu, lại cũng có văn từ của bọn đầu đường xó chợ, lại có truyền thuyết cổ sử mà lại cũng có kiến văn của người đời nay. Tác giả nếu như thiếu đi một mảng khảo đính chuyên biệt, công phu gọt rũa, hun đúc dung hoá thì không thể nào vận dụng được như thế.

Tư Mã Thiên đối với việc thu thập sử liệu, gìn giữ cực kỳ cẩn thận và một thái độ thật khoa học. Đối với truyền thuyết từ thời viễn cổ thì ông “khảo tín ư lục nghệ” (考信於六藝) như trong phần Tán của Bá Di liệt truyện. Lục Nghệ là kinh điển của nho gia đời cổ.

Ấy là ông nói rằng truyền thuyết cần phải có văn hiến cổ đại để ấn chứng thì mới có thể tin được. Nếu không có được tư liệu nguyên thuỷ để dựa vào thì ông thà không giảng giải.

Ngũ Đế bản kỷ (五帝本紀) thì những truyện kỷ có liên quan đến Hoàng Đế (黃帝) ông đều coi đi coi lại sau đó mới chọn những lời lẽ tao nhã nhất để chép vào trong sách. Vì niên đại đã quá lâu, sử liệu không đầy đủ, có những sử liệu bị tàn khuyết hay những miêu tả khác nhau, nhất thời khó có thể xác định đâu là đúng, đâu là sai, cái nào thật, cái nào giả. Nếu như ông biết thì ông giảng giải, còn như ông không biết thì ông bỏ trống không giải thích. Những gì đáng tin thì ông nói đáng tin, còn như không đáng tin thì ông cũng nói rằng không đáng tin chứ ông không phán đoán một cách khinh suất. Ấy gọi là nguyên tắc soạn sử “khuyết nghi” (闕疑) [bỏ trống những điều còn nghi ngờ] và “tín dĩ truyền tín, nghi dĩ truyền nghi” (信以傳信,疑以傳疑) [lấy việc tin được để giải thích việc tin được, chỗ nào còn nghi ngờ thì để là nghi ngờ].

Trong sách Sử Ký, có khi cùng một sự kiện mà Bản Kỷ, Liệt Truyện, Thế Gia và Niên Biểu có chỗ không giống nhau. Việc đó cũng có thể vì tác giả sơ suất, không so sánh trước sau, cũng có khi vì nguồn sử liệu bất đồng, không thể định được đâu là đúng, đâu là sai, chỉ còn cách ghi lại mà không bỏ đi, để cho người sau khảo chứng. Những chuyện như thế, xem ra ổn thoả hơn là phán đoán vội vã rồi miễn cưỡng đưa ra kết luận.

Tư Mã Thiên cũng tôn trọng tinh thần của thực lục với thực tế lịch sử. Ban Cố trong Tư Mã Thiên truyện ở Hán Thư có viết: Từ Lưu Hướng (劉向) Dương Hùng (揚雄) hễ từng đọc sách đều khen Tư Mã Thiên có tài lương sử, kính phục việc sắp đặt sự kiện, biện luận mà không phô trương, trung thực mà không quê kệch, văn thì ngay thẳng, sự thì tới tận gốc, không hư mỹ, không ẩn ác, cho nên mới gọi là thực lục. Tư Mã Thiên ghi chép nhân vật lịch sử rất là khách quan, công chính, thực sự cầu thị. Từ viễn cổ đến thời đại của tác giả, hơn ba nghìn năm, các loại nhân vật đâu chỉ hàng nghìn, hàng vạn. Vậy mà tả người này không tả người khác, xem xét công lao đối với lịch sử, ảnh hưởng lớn nhỏ thế nào, tuyển chọn ra các nhân vật điển hình.

Sử Ký miêu tả nhân vật đều theo một cách thức nghiêm nhặt, không giống kiểu chung chung của hậu thế. Tư Mã Thiên cũng giỏi về việc dùng một bút pháp giản dị để khắc hoạ nhân vật bằng những nét đặc trưng chủ yếu, chẳng hạn như Hạng Vũ (項羽) thì dũng mãnh hào sảng, Lưu Bang (劉邦) thì cơ linh, giảo trá, Phạm Tăng (范增) thì âm hiểm, Trương Lương (張良) thì mưu trí, Tiêu Hà (蕭何) thì ổn trọng, Hàn Tín (韓信) thì đa trí, Lý Quảng (李廣) thì thiện xạ, mọi người đều vẽ ra những sống động, truyền thần. Bất kể luận hoàng đế hay là cổ thánh, tiên hiền, dưới ngòi bút của Tư Mã Thiên cũng đều là những con người bằng xương bằng thịt ta thấy ở trên đời. Sử Ký tuy cũng ca tụng công đức nhưng cũng phô bày tội ác và khuyết điểm, bỉnh bút trực thư, không che dấu chút nào.

Chẳng hạn như đối với Hán Cao Tổ Lưu Bang, ông tả là người thâm mưu viễn lự, có hùng tài đại lược, tri nhân thiện nhiệm, tòng gián như lưu, lại tả ông ta không lo việc kinh doanh trong nhà, thích rượu hiếu sắc, say tuý luý sau khi xưng đế rồi áo gấm về làng, cả cái tội về sau chém giết công thần. Cách miêu tả của Sử Ký rất là linh hoạt tinh tế, thỉnh thoảng trong thiên truyện lại nảy ra một tính cách chủ yếu của nhân vật, còn các vấn đề khác thì phân tán trong chương bên ngoài.

Cách đó gọi là hỗ kiến pháp (互見法) để tả người, rất tiện trong cách tập trung bút mực, phân biệt chính phụ rõ ràng, làm giảm được độ dài của thiên. Chúng ta đọc Sử Ký cũng nên dùng hỗ kiến pháp, lấy một thiên làm chủ, dùng chương khác xen lẫn vào những nơi có liên quan thì mới khỏi phiến diện. Sử Ký tả người cốt để khách quan phản ảnh thực tế lịch sử, không cầu toàn trách bị, không lấy thành bại luận anh hùng chẳng hạn như đầu đời Hán ba đại công thần là Hàn Tín (韓信), Bành Việt (彭越), Kinh Bố (黥布) đều vì tội mưu phản mà ba họ bị tru diệt.

Sau khi Lưu Bang chết rồi, vương triều Tây Hán cũng không ai khôi phục cho ba người đó nhưng Tư Mã Thiên đã dám lập truyện cho họ, ghi chép toàn bộ công tội đúng sai của một đời người. Đến như Hạng Vũ chưa phải là thiên tử nhưng cũng xếp vào bản kỷ, Khổng Tử chưa từng là chư hầu, Trần Thiệp (陳涉) tuy đã lập niên hiệu xây cung điện nhưng chỉ được nửa năm rồi thất bại mà chết nhưng cũng đều được liệt vào thế gia (世家), ấy cũng vì Tư Mã Thiên tôn trọng giá trị thực tế của lịch sử. Ấy cũng là vì sau khi nhà Tần diệt vong, nhà Hán chưa lên, thuộc về một giai đoạn trung gian, thực tế thì Hạng Vũ là người chi phối chính cục thời kỳ đó, cũng là đại biểu của chính quyền đương thời.

Tư Mã Thiên đã nói: Chính trị từ Vũ mà ra, hiệu thì là Bá Vương, tuy ngôi vị không được đến lúc cuối, nhưng từ cận cổ đến nay chưa từng có vậy. (phần Tán trong Hạng Vũ bản kỷ). Cũng tương tự, ảnh hưởng của Khổng Tử và Trần Thiệp với đương thời và hậu thế rất to lớn, trên thực tế địa vị lịch sử hoàn toàn có thể tương đương với một chư hầu cho nên mới liệt vào thế gia.

Tư Mã Thiên viết: Bậc quân vương cho chí hiền nhân trong thiên hạ rất đông, đương thời thì vinh, chết rồi thì hết. Khổng Tử là người dân thường, truyền hơn mười đời, người đi học đều tôn trọng. Từ thiên tử vương hầu, cho chí kẻ trong sáu nghề đều theo phu tử, có thể nói là bậc chí thánh vậy. (trong phần Tán của Khổng Tử Thế Gia). Ấy là lời phê bình và tôn sùng phản ảnh được thực tế lịch sử.

Ông lại viết: Trần Thiệp tuy đã chết nhưng đã khiến cho vương hầu tương tướng quên nhà Tần, cũng là nhờ công đầu của Thiệp vậy. (Trần Thiệp Thế Gia). Đó cũng là khẳng định công lao của Trần Thiệp là người đầu tiên khởi nghĩa chống lại nhà Tần. Những việc đó thể hiện tư tưởng tiến bộ của Tư Mã Thiên. Tư Mã Thiên tổng kết việc Tần vong, Hán hưng, đem kinh nghiệm lịch sử để giáo huấn, coi trọng nhân tâm và đồng tình với khổ nạn của dân chúng, phản đối hình pháp nghiêm khắc, bạo ngược hại dân, chủ trương thanh tĩnh vô vi, để cho dân được nghỉ ngơi. Ấy chính là cơ sở tư tưởng to lớn ông thành tựu.

Sách Sử Ký văn bút sinh động, nghị luận tinh tường, những sự việc chêm vào đều miêu tả một cách giản khiết, rõ ràng, chẳng hạn như Hạng Vũ bản kỷ, Cao Tổ bản kỷ, Liêm Pha – Lạn Tương Như liêt truyện, Nguỵ công tử liệt truyện, Lý tướng quân liệt truyện, Thích khách liệt truyện, các thiên đó miêu tả nhân vật sống động, tính cách mới mẻ. Ngôn ngữ trong Sử Ký đều thông tục dễ hiểu, có sao viết vậy mà tình tiết lại đậm đà. Trong sách dẫn dụng cổ thư, các chữ khó hiểu các đời trước đều được đổi thành những tiếng bình dị theo ngôn ngữ đời Hán mà không mất nguyên ý, ấy cũng là chỗ cao minh hơn người của Tư Mã Thiên.

Thế nhưng Sử Ký cũng vẫn có những chỗ sai sót. Vì chưng tư liệu không đủ nên trong sách cũng có nhiều chỗ không đúng sự thực căn cứ vào truyền thuyết hay cố sự chẳng hạn như Chu U Vương đốt phong hoả để đùa cợt chư hầu, Công Tôn Chử Cữu và Trình Anh xả thân cứu Triệu Võ. Cho chí việc Tô Tần, Trương Nghi hợp tung liên hoành tuy tình tiết ly kỳ hấp dẫn người đọc nhưng lại không phù hợp với sự thực. Gần đây những sách viết trên lụa tìm thấy trong mộ đời Hán đào được ở Mã Vương Đôi (馬王堆) là bộ Chiến Quốc Tung Hoành Gia Thư (戰國縱橫家書) đã chứng minh được những sai lầm trong bộ Sử Ký.

Trong sách cũng những chỗ sai lầm, mâu thuẫn hay sơ lược, đặc biệt là thời Chiến Quốc, người nghiên cứu cần sưu tập thêm các tư liệu khác để tham khảo và hiệu đính, không nên mù quáng dễ dàng tin. Có như thế, Sử Ký mới không mất giá trị to lớn của một bộ sử thời cổ.

Từ trước đến nay, số người chú giải Sử Ký rất nhiều, nổi tiếng nhất là Tam Gia Chú (三家注) tức Sử Ký Tập Giải (史記集解) của Bùi Nhân (裴駰) đời Nam Tống, Sử Ký Sách Ẩn (史記索隱) của Tư Mã Trinh (司馬貞) và Sử Ký Chính Nghĩa (史記正義) của Trương Thủ Tiết (張守節) đời Đường. Chú giải của ba nhà này vốn là những bản khắc riêng, đến thời Bắc Tống mới hợp lại làm một, đem những lời chú giải của ba nhà phụ vào bên dưới chính văn của Sử Ký. Năm Đồng Trị đời Thanh, Kim Lăng thư cục đã san hành Sử Ký hợp chung với Tam Gia Chú để khắc bản. Trung Hoa thư cục ở Bắc Kinh căn cứ theo bản Kim Lăng thư cục mà gia công ấn hành bản tiêu điểm (tức bản đã hiệu đính), hiện nay là bản tiện lợi nhất để xem.

Hán Thư - bộ sử đầu tiên theo thể Kỷ Truyện

Hán Thư còn gọi là Tiền Hán Thư , tác giả chính yếu là Ban Cố (班固) nhưng bộ sách này cũng đã có người đi trước soạn, rồi lại có người đi sau tiếp nối theo chứ không phải là tác phẩm của riêng một người. Ban Cố, tự Mạnh Kiên (孟堅), người An Lăng, Phù Phong (nay là Hàm Dương, Thiểm Tây). Ông sinh năm Kiến Võ 8 đời Hán Quang Vũ (CN 32), chết năm Vĩnh Nguyên 4 đời Hán Hòa Đế (CN 92). Ông xuất thân sử học thế gia, tằng tổ là Ban Du (班斿) học rộng tài cao, đã từng cùng Lưu Hướng (劉向) trông coi kho sách của hoàng gia, vua Thành Đế ban cho ông toàn bộ phó bản sách của tàng thư, trong đó có cả Sử Ký.

Nhờ những bộ sách khó mà có được vào thời đó nên họ Ban trở thành một đại đồ thư quán (thư viện lớn), rất nhiều học giả đến nhà ông xem sách, Dương Hùng (楊雄) cũng là một trong số ấy.

Cha ông là Ban Bưu (班彪), thứ tôn của Ban Du (班斿), có cơ hội đọc rất nhiều sách và cũng được gặp gỡ, giao thiệp với nhiều học giả. Hậu kỳ Tây Hán, có đến hơn mười người tiếp tục tăng bổ Sử Ký còn tiếp tục sáng tác thì cũng không ít. Ban Bưu cho rằng những bộ sách này đều không vừa ý nên ông đã sưu tập tài liệu, viết ra một bộ Hậu Truyện (後傳) gồm 65 thiên, bộ sách này sau trở thành bản nền của Hán Thư (漢書).

Thuở còn nhỏ, Ban Cố thường theo cha lên kinh đô Lạc Dương học tập. Ông là người rất thông minh, 9 tuổi đã có thể làm văn, đọc thơ phú. Năm 16 tuổi ông vào nhà Thái Học, bác lãm quần thư, tinh thông sở trường của các nhà, từ phú văn chương đều cực giỏi, lại là người khoan hậu, khiêm tốn, không cậy tài mà kiêu ngạo. Ở nhà Thái Học, ông đọc sách suốt bảy năm, đến khi cha mất thì mới đưa linh cữu trở về An Lăng (安陵).

Năm Vĩnh Bình nguyên niên đời vua Minh Đế (CN 58), ông ở nhà bắt đầu sửa lại cuốn sách của cha, thấy rằng Hậu Truyện (後傳) vẫn còn sơ sài nên đã chuyên tâm nghiên cứu, sưu tập sử liệu, có ý viết thành một bộ sách lớn. Ai ngờ ông bị người ta vu cáo có ý soạn quốc sử riêng nên bị bắt bỏ ngục. Em ông là Ban Siêu (班超) lên kinh đô Lạc Dương dâng thư lên vua Minh Đế (kêu oan) được triệu vào để tâu rõ nguyên ủy. Ban Siêu cho Minh Đế xem bản thảo, nhà vua rất tán thưởng tài hoa của Ban Cố nên đặt Ban Cố làm chức hiệu thư lang (校書郎), lệnh sử Lan Đài (nơi giữ sách trong cung vua thời Đông Hán) là chức quan quản thủ đồ thư và với những người khác cùng tu bổ bản kỷ của vua Quang Vũ nhà Hán, soạn tiểu sử và sự tích các công thần, và viết 28 thiên trong Liệt Truyện, về sau lại cùng nhóm Lưu Trân (劉珍) biên soạn một phần trong Đông Quan Hán Ký (東觀漢記).

Năm Vĩnh Bình 7 (CN 64) vua Minh Đế ra lệnh cho Ban Cố viết tiếp Hán Thư cho xong. Lan Đài là nơi tàng thư của hoàng gia, Ban Cố có thể tùy ý đọc và tham khảo, thu thập những tinh hoa để sử dụng nên rất thuận lợi cho việc soạn Hán Thư, đến năm Kiến Sơ 7 đời Chương Đế (CN 82), Hán Thư phần lớn đã hoàn thành.

Ban Cố vốn có giao hảo tốt đẹp với người ngoại thích đang giữ quyền hành là Đậu Hiến (竇憲), từng là bí thư, cố vấn quân sự cho Đậu Hiến. Về sau Đậu Hiến bị thất sủng nên tự sát, Ban Cố cũng liên lụy nên bị bắt và chết ở trong ngục, bản thảo sách ông làm cũng bị phá hoại nghiêm trọng. Khi đó bộ Hán Thư còn 8 biểu và phần Thiên Văn Chí chưa viết xong.

Về sau, vua Hòa Đế hạ chiếu ra lệnh cho người em gái của Ban Cố là Ban Chiêu (班昭) [tức Tào đại gia] sửa sang lại di cảo. Ban Chiêu từ nhỏ đã được gia đình hun đúc, tài học xuất chúng, nên tham khảo tàng thư của hoàng gia, ngoại trừ việc tu bổ và sửa đổi nguyên cảo ra lại viết tiếp thêm tám biểu, còn Mã Tục (馬續) tiếp tay bổ trợ cho phần Thiên Văn Chí khiến cho Hán Thư lần đầu thành một bản hoàn chỉnh. Ban Chiêu là nữ sử gia duy nhất trong lịch sử Trung Hoa, trong tất cả 24 bộ sử không còn một người đàn bà nào khác, sự đóng góp của bà trong Hán Thư mãi mãi được ghi trong sử sách.

Hán Thư bắt đầu từ Hán Cao Tổ nguyên niên (206 TCN), kết thúc năm Địa Hoàng 4 (CN 23) đời Vương Mãng (王莽), tổng cộng 230 năm, thể lệ cơ bản đi theo hai phần Kỷ và Truyện trong Sử Ký làm chủ thể, chỉ đổi Bản Kỷ thành Kỷ, bỏ đi phần Thế Gia, đem nhập chung vào Liệt Truyện. Nhân vì trên thực tế đời Hán không có nước chư hầu nên mới không có phần Thế Gia, ấy cũng là do thực tế lịch sử. Hán Thư đổi Thư thành Chí để cho khỏi trùng với Thư trong cái tên Hán Thư. Hán Thư bao gồm Kỷ 12 thiên, Biểu 8 thiên, Chí 10 thiên, Liệt Truyện 70 thiên cộng tất cả là 100 thiên, người đời sau chia ra thành 120 quyển.

Hán Thư nối tiếp các thời đại để viết sử, đó là sáng kiến của Ban Cố, cách thức đó có thể hoàn chỉnh và bảo tồn văn hiến một triều đại, là tôn chỉ thể hiện và phát dương công đức bản triều nên đối với các đời sau có ảnh hưởng rất lớn. Về sau chính sử luôn luôn dùng Hán Thư làm tiêu chuẩn, cắt một triều đại ra thành sử, danh xưng phần nhiều gọi là Thư. Hán Thư là bộ sử đầu tiên của Trung Hoa viết theo thể Kỷ Truyện về một triều đại kế thế, đời trước truyền ngôi cho đời sau.

Hán Thư gồm 80 vạn chữ, sử liệu phong phú, rõ ràng chân thực phi thường. Phần trước của Hán Võ Đế phần nhiều căn cứ trên Sử Ký nhưng cũng có tăng thêm và thay đổi. Chẳng hạn như Giả Nghị Truyện (賈誼傳) tăng thêm phần tấu nghị Trị An Sách (治安策), Triều Thác Truyện (晁錯傳) chép thêm Cử Hiền Lương Đối Sách (舉賢良對策), Ngôn Binh Sự Thư (言兵事書), Giáo Thái Tử Sớ (教太子疏), ngoài Sử Ký còn có thêm những sử liệu mới. Từ Hán Võ Đế trở đi các bộ phận ngoài di thư của Ban Bưu làm bản gốc còn tham khảo đến hơn chục nhà viết thêm vào Sử Ký và sử dụng một số lớn chiếu lệnh, tấu nghị, thi phú, Hán Trứ Ký (漢著記), thiên văn lịch và cả những sử liệu mà gia đình họ Ban tai nghe mắt thấy. Trước đây đã có người dưới góc độ văn học đã chê Ban Cố chép lại quá nhiều tư liệu nguyên thủy, thế nhưng dưới quan điểm sử học thi đây chính là một ưu điểm lớn của Hán Thư. Trong Hán Thư có dẫn chứng rất nhiều văn bản và tài liệu nguyên thủy nay đã thất truyền nên từ Hán Thư chúng ta có thể bảo tồn những tài liệu đó.

Hán Thư cũng thêm những mục Hình Pháp Chí (刑法志), Ngũ Hành Chí (五行志), Địa Lý Chí (地理志), Nghệ Văn Chí (藝文志). Hình Pháp Chí là lần đầu được hệ thống và đưa vào, thuật về biến đổi của chế độ pháp luật và các điều văn bản luật lệ cụ thể. Địa Lý Chí ghi chép các quận quốc và khu vực hành chánh đương thời chia ra sao, lịch sử của biến thiên duyên cách và thứ tự tổng số người, các sản vật mỗi nơi và tình trạng phát triển kinh tế, dân tình phong tục. Về vấn đề này trước đây chưa có ai ghi chép về cương vực của Trung Hoa, Ban Cố chép về 103 quận và hộ khẩu của từng quận, mỗi quận có huyện nhiều ít thế nào, có sông ngòi ra sao và sơn mạch rất có giá trị, việc nghiên cứu khu vực địa lý được bảo tồn rất nhiều tư liệu.

Đặc biệt là Nghệ Văn Chí tóm gọn lại Thất Lược (七略) của Lưu Hâm (劉歆), khảo chứng về nguyên lưu khác nhau của các phái học thuật, nội dung trước tác, tình trạng còn mất ra sao và ghi chép thư tịch đương thời còn tồn tại, lại phân loại cộng chung 596 nhà, 12269 quyển. Thất Lược vốn sớm thất truyền, nhờ Nghệ Văn Chí mà lưu giữ được một tư liệu quí báu.

Nghệ Văn Chí trong Hán Thư ghi lại mục lục sách vở nên cũng biết được số lượng và tình huống thư tịch thời Chiến Quốc trở về sau. Chính sử về sau phần nhiều mô phỏng theo cách của ông để viết về nội dung trong phần này.

Thực Hóa Chí (食貨志) là do Bình Chuẩn Thư (平準書) trong Sử Ký biến thành nhưng mở rộng ra nhiều, nội dung cũng thêm phong phú, chia ra thành hai thiên thượng và hạ. Thượng thiên bàn về Thực tức trạng huống kinh tế của nông nghiệp, còn hạ thiên bàn về Hóa tức tình trạng thương nghiệp và hóa tệ, là một thiên chuyên về kinh tế đương thời.

Bách Quan Công Khanh Biểu (百官公卿表) trong Hán Thư rất được hậu nhân tán thưởng, trước là giảng thuật tình hình phân quan thiết chức đời Tần Hán, quyền hạn và bổng lộc của từng quan chức số lượng như thế nào, sau đó mới chia ra thành 14 cấp, 34 quan cách (trật) thành một biểu đồ đơn giản, ghi chép các công khanh đại thần, thăng giáng, thuyên chuyển, bãi miễn, tuy chiếm không nhiều chỗ nhưng khiến cho người ta nhìn là biết ngay tình thế biến thiên của chế độ quan liêu thời đó.

Cách thức Hán Thư ghi chép rất nghiêm cẩn, chú trọng sử thực. Các hệ thống hoàn bị, sự việc gì cũng có đầu có đuôi, ghi chép minh bạch, hành văn chỉnh tề, tao nhã, súc tích đọc lên như âm vận từ phú, có một địa vị trọng yếu trên phương diện văn chương. Một số thiên nổi tiếng như Tô Vũ Truyện (蘇武傳) miêu tả sứ thần nhà Hán là Tô Vũ (蘇武) bị Hung Nô giam cầm 19 năm, kiên nghị bất khuất, hình ông chăn cừu ở Bắc Hải cầm cờ tiết vọng về phương nam đã trở thành một biểu tượng không chịu khuất phục của người Trung Hoa. Truyện miêu tả phi thường linh hoạt, cảm động lòng người, lời lẽ khúc chiết minh bạch khiến cho nghìn năm sau vẫn còn sống động. Hoắc Quang Truyện (霍光傳), Trương Vũ Truyện (張禹傳), Chu Mãi Thần Truyện (朱買臣傳) cũng đều tả lột được tinh thần, có giá trị rất cao trong văn học.

Về nội dung tư tưởng mà xét, Hán Thư không như Sử Ký. Tư Mã Thiên không hoàn toàn dùng tiêu chuẩn nho gia của Khổng Tử để phán đoán đúng sai, ấy chính là chỗ quí giá của ông. Thế nhưng Ban Cố đã nhấn mạnh tư tưởng chính thống, tuyên dương vương triều nhà Hán là “thừa Nghiêu vận” (承堯運) [kế thừa thiên mệnh của vua Nghiêu] dựa trên thần quyền nhận được từ thần linh, đề cao việc duy trì đẳng cấp trật tự, “nhỏ không được vượt lớn, tiện không được vượt quí” (小不得僭大,賤不得逾貴) cần an phận thủ kỷ, không phạm thượng tác loạn. Điều này cho thấy thời Đông Hán giới cầm quyền đã chọn tư tưởng Nho gia là tư tưởng chính thống ngay cả trong lãnh vực sử học. Việc đó có liên quan đến gia thế, từng trải và giáo dục mà Ban Cố đã thừa hưởng. Tư tưởng chính thống của Ban Cố trong Hán Thư đã ảnh hưởng sâu rộng đến chính sử của người Trung Hoa sau này.

Hán Thư dùng nhiều chữ cổ, từ cổ nên hơi khó đọc. Nhiều địa phương thời Đông Hán có người không biết chữ, nhà kinh học (經學家) trứ danh là Mã Dung (馬融) khi còn trẻ phải đến học Hán Thư ở nhà Ban Chiêu. Cuối đời Đông Hán thì đã có Phục Kiền (服虔), Ứng Thiệu (應劭) làm công việc chú giải Hán Thư. Sang đến đời Đường, Nhan Sư Cổ (顏師古) tập hợp các chú thích của 23 học giả từ trước, sửa chữa những sai lầm và thêm vào những chỗ còn thiếu, hoàn thành tân chú cho Hán Thư.

Sang đời Thanh, Vương Tiên Khiêm (王先謙) tập hợp thêm thành quả nghiên cứu của hơn 40 nhà từ đời Đường trở về sau làm thành bộ Hán Thư Bổ Chú (漢書補注). Những nghiên cứu đó là công cụ trọng yếu của người đọc sách giúp chúng ta hiểu được các tự âm, tự nghĩa và chân tướng của sử liệu trong Hán Thư. Trước mắt, bản Hán Thư tốt nhất là bản Trung Hoa thư cục ở Bắc Kinh ấn hành, là bản tiêu điểm in chữ chì, bản này đã được nhiều chuyên gia kham hiệu, lại được ngắt câu phân đoạn, là bản tiện dụng nhất.


            Hậu Hán Thư và Tam Quốc Chí

Hậu Hán Thư

Hậu Hán Thư là một bộ sử thuộc thể kỷ truyện (紀傳體史書) ghi chép lịch sử đời Đông Hán, toàn bộ 120 quyển, bao gồm bản kỷ 10 quyển, liệt truyện 80 quyển, chí 30 quyển, chủ yếu ghi chép từ năm đầu tiên của vua Quang Võ nhà Đông Hán là năm Kiến Võ nguyên niên (CN 25) đến Hán Hiến Đế Kiến An 25 (CN 220), cộng cả thảy 195 năm. Tác giả của Kỷ, Truyện là Phạm Diệp (范曄) thời Lưu Tống[3] còn tác giả của Chí là Tư Mã Bưu (司馬彪) thời Tấn.

Phạm Diệp tự là Uý Tông (蔚宗), người Thuận Dương (nay ở đông nam huyện Chiết Xuyên, tỉnh Hà Nam), gia đình sống ở Sơn Âm (nay là Thiệu Hưng, Chiết Giang), sinh năm CN 396, xuất thân thế tộc, ông nội, cha đều làm quan và đều yêu thích văn chương.

Tổ phụ từng viết và chú thích Cốc Lương Truyện (穀梁傳), cha thì có văn tập còn được lưu truyền. Phạm Diệp rất có tài, tinh thông văn mặc đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của gia đình, từ khi còn nhỏ đã đọc rất nhiều sách. Thời Tống Văn Đế ông từng giữ chức thượng thư bộ Lại nhưng vì kiêu ngạo, bỏ bê công việc không chịu câu thúc nên bị biếm làm thái thú Tuyên Thành khiến cho trong lòng u uất bất đắc chí, định bụng sẽ san định lại các nhà trong đó Hậu Hán Thư là một. Ông mở đầu bằng việc soạn thảo Hậu Hán Thư.

Về sau, tuy được thăng lên làm Tả Vệ Tướng Quân, Thái Tử Thiêm Sự tham dự các việc quan trọng nhưng vì tính cách cuồng ngạo nên bị ghép vào tội mưu phản, bị giết năm Nguyên Gia 22 (CN 445) khi mới 48 tuổi. Khi Phạm Diệp chết, phần Chí trong bản thảo Hậu Hán Thư chưa xong, về sau bị huỷ bỏ nên chỉ còn hai phần Kỷ, Truyện lưu truyền trên đời mà thôi. Tới đời Lương, Lưu Thiệu khi chú thích sách của họ Phạm, vì trong sách không có phần Chí nên lấy 8 Chí, 30 quyển trong Tục Hán Thư của Tư Mã Bưu bổ túc vào Hậu Hán Thư thành bản hiện lưu hành ngày nay.

Tư Mã Bưu (司馬彪), tự là Thiệu Thống (紹統), con trai lớn của Cao Dương Vương Tư Mã Mục (司馬睦) đời Tấn. Ông từng soạn sử đời Đông Hán, làm phần Kỷ, Chí, Truyện 80 thiên, lấy tên là Tục Hán Thư. Hậu Hán Thư của Phạm Diệp xong rồi thì Tục Hán Thư của Tư Mã Bưu dần dần bị đào thải, chỉ có 8 chí nhân vì bổ túc trong sách của Phạm Diệp nên mới được truyền lại.

Trước khi Phạm Diệp viết Hậu Hán Thư thì đã có nhiều người viết về đời Đông Hán và nhiều bộ sử đã lưu truyền chẳng hạn như Lưu Trân (劉珍) viết Đông Quan Hán Ký (東觀漢記), Tạ Thừa (謝承) viết Hậu Hán Thư (後漢書), Tư Mã Bưu (司馬彪) viết Tục Hán Thư (續漢書), Tiết Oánh (薛瑩) viết Hậu Hán Ký (後漢記), Hoa Kiểu (華嶠) viết Hậu Hán Thư (後漢書), Tạ Thẩm (謝沈) viết Hậu Hán Thư (後漢書), Trương Oánh (張瑩) viết Hậu Hán Nam Ký (後漢南記) khoảng mươi bản khác nhau. Phạm Diệp kiêm thu sở trường của các nhà, Hậu Hán Thư của ông sau khi truyền ra thì các nhà khác đều mờ dần.

Sử liệu tối chủ yếu trong Hậu Hán Thư của Phạm Diệp lấy từ Đông Quan Hán Ký. Sở dĩ gọi là Đông Quan là vì trong cung của Đông Hán có nơi lưu giữ sách vở và sử quan biên soạn sách. Việc biên soạn Đông Quan Hán Ký khởi đầu vào Vĩnh Bình thứ 5 (CN 62) đời Hán Minh Đế, trước sau tập trung sử quan để tu soạn cả thảy năm lần, cho đến năm Hoàng Sơ 6 (CN 225) đời Nguỵ Văn Đế mới hoàn thành, trước sau 163 năm trong đó đến mấy chục học giả tham gia như Ban Cố (班固), Lưu Trân (劉珍), Thôi Thực (崔寔), Sái Ung (蔡邕), Dương Bưu (楊彪).

Đông Quan Hán Ký thực ra chỉ là gộp chung sử liệu một triều Đông Hán, theo cách Bản Kỷ, Niên Biểu, Chí, Liệt Truyện, Tải Ký năm bộ phận biên tập cơ bản giống như thể tài của Sử Ký, Hán Thư.

Cũng vì người Đông Hán căn cứ vào tài liệu sử đương thời mà biên soạn nên giá trị sử liệu rất cao. Từ đời Nguỵ Tấn về sau các học giả biên soạn sử Đông Hán chủ yếu thu thập tài liệu từ Đông Quan Hán Ký. Trước đời Đường, Đông Quan Hán Ký và Sử Ký, Hán Thư được xếp ngang nhau gọi là Tam Sử. Đến đời Đường, Hậu Hán Thư của Phạm Diệp thay thế Đông Quan Hán Ký cùng với Sử Ký, Hán Thư hợp lại gọi là Tam Sử. Đông Quan Hán Ký tuy đã thất truyền nhưng các sử liệu phần nhiều truyền lại ở trong Hậu Hán Thư.

Hậu Hán Thư tuy cơ bản sắp đặt theo lối của Sử Ký, Hán Thư nhưng cũng có biến hoá và cũng có chỗ sáng tạo mới. Trong Hán Thư, mỗi vị hoàng đế là một thiên trong Bản Kỷ, đời Đông Hán ba ông vua Thương (), Xung (), Chất () thời gian tại vị ngắn không có nhiều sự tích nên Hậu Hán Thư tham chiếu lệ trước về Tần Thuỷ Hoàng bản kỷ trong Sử Ký.

Về mục này, Sử Ký phụ thêm nhị thế Hồ Hợi (胡亥) và Tần vương tử Anh nên tại Hoà Đế Kỷ trong Hậu Hán Thư cũng phụ thêm Thương Đế, ở Thuận Đế Kỷ phía sau cũng phụ thêm Xung Đế, Chất Đế hai người. Cách biên soạn đó làm giảm được số lượng các thiên mà lại không để sử thực di lậu ra ngoài.

Thiên sau cùng của Bản Kỷ là Hoàng Hậu Kỷ, vượt qua Sử Ký, Hán Thư ngoại trừ Lã Hậu thì xếp ra ngoài bản kỷ thuộc về Ngoại Thích Truyện. Phạm Diệp viết hoàng hậu trong Bản Kỷ, cải cách đó phù hợp với sáu bà hoàng hậu khác lâm triều là thực tế lịch sử.

Liệt Truyện trong Hậu Hán Thư có thêm các mục đảng cố (黨錮), hoạn giả (宦者), văn uyển (文苑), độc hành (獨行), phương thuật (方術), dật dân (逸民) và liệt nữ (列女) bảy loại. Đảng Cố (bè đảng trong triều) và Hoạn Giả (hoạn quan) là hai mục mới, phản ảnh tình huống thực tế thời kỳ Đông Hán. Hoạn quan đời Đông Hán phần nhiều tham dự triều chính, rất nhiều đại thần liêm khiết, chính trực bị bè đảng của chúng kết tội rồi sát hại, hoạn quan thiết lập đảng cố chi ngục để giam những người đứng đầu, phản ảnh một đặc điểm của thời đại là mâu thuẫn và đấu tranh nội bộ trong triều đình.

Trong Dật Dân Truyện (truyện dân thường) ghi lại truyện Lương Hồng (梁鴻) và vợ là Mạnh Quang (孟光), phẩm hạnh cao khiêt lại tài hoa vì việc tránh né nhà Thục mà ẩn cư trong núi rừng, đem sức ra tự trồng tỉa sinh sống, suốt đời không ra làm quan, đặc biệt sáng tác bài ca Ngũ Y (五噫之歌) để tỏ chí khí.

Hậu Hán Thư, quyển 83 có truyện Hán Âm lão phụ (漢陰老父) miêu tả đời Hán Hoàn Đế thường du ngoạn các nơi, đi đến đân dân chúng đểu chạy ra xem, ở đất Hán Âm có một người nhà nông già vẫn tiếp tục cày ruộng, không ngó ngàng gì đến. Viên thượng thư đi theo nhà vua là Trương Ôn (張溫) rất là kỳ quái nên sai người đến hỏi:

Vì sao mọi người ai ai cũng đi xem hoàng đế, chỉ có mình ngươi cày ruộng không ngừng?

Người nông phu già cười không đáp. Trương Ôn đích thân đến hỏi, lão nông nói rằng:

Ta là người sơn dã không biết nói năng, xin hỏi vì thiên hạ loạn mà lập thiên tử hay vì có tài mà lập thiên tử? Lập thiên tử ấy là coi ông ta cai trị thiên hạ cũng như vua như cha, hay là bắt dân chúng hầu hạ thiên tử chăng? Trước đây vua Nghiêu, vua Thuấn trị nước thì nóc nhà cũng không cao, mái tranh cũng không cắt (để giảm sức dân) mà bách tính đều yên ổn cả.

Vậy mà ngày nay hoàng thượng của ông, buông lỏng con người của mình, làm dân lao khổ không hề đoái hoài, nhàn du khắp nơi, ta vì ngươi mà xấu hổ, sao ông vẫn để người ta chạy đến xem. Trương Ôn nghe xong cảm thấy thẹn thùng, hỏi họ tên ông lão, ông già đó không trả lời mà đi. Phạm Diệp viết truyện ông già ở Hán Âm cho thấy suy nghĩ sử học của ông rất tiến bộ.

Liệt Nữ Truyện mở đầu việc viết về đàn bà khiến cho người sau đặc biệt chú ý. Phạm Diệp cho rằng nếu sách sử mà không đề cập đến phụ nữ thì không đúng nên ông chọn những phụ nữ tài hoa, phẩm hạnh ưu tú các loại để viết thành truyện ký chẳng hạn như người tiếp tục sau Ban Cố (班固) hoàn thành Hán Thư là nữ sử học gia Ban Chiêu (班昭), cắt khung cửi khuyên chồng cầu học là vợ của Nhạc Dương Tử (樂羊子), Hoàn Thiếu Quân (桓少君) chọn chồng thì trọng phẩm hạnh, khinh phú quí, vợ Vương Bá (王霸) khinh danh lợi trọng thanh tiết, người có tài hơn người là Sái Văn Cơ (蔡文姬), cũng không phải vì tái giá mà không lập truyện, cho thấy Phạm Diệp quả thức có cách nhìn rất độc đáo. Về sau các bộ sử khác đã đổi liệt nữ (列女) thành liệt nữ ()[4], chỉ chọn những trinh phụ gìn giữ tam cương, ngũ thường ghi trên bi văn cho thấy kiến thức sử học còn kém xa Hậu Hán Thư.

Hậu Hán Thư ghi chép người và sự việc thường đi theo nhau, không kể niên đại trước sau. Tác giả của Luận Hành (論衡) Vương Sung (王充) là người sơ kỳ đời Đông Hán, tác giả Tiềm Phu Luận (潛夫論) là Vương Phù cùng với tác giả của Xương Ngôn (昌言) là Trọng Trường Thống (仲長統) là người cuối đời Đông Hán nhưng vì bọn họ đều giỏi trước thuật, coi nhẹ công danh lợi lộc nên ba người chung một truyện, để cho sự tích các tư tưởng gia này không bị mờ nhạt. Trương Thuần (張純) và Trịnh Khang Thành (鄭康成) không cùng thời, nhưng vì đều do học tập mà vươn lên nên cũng hợp lại trong một truyện.

Mục Dư Phục Chí (輿服志) và Bách Quan Chí (百官志) trong Hậu Hán Duệ (後漢睿) cũng là những mục mà sử trước không có. Dư Phục Chí ghi chép phản ảnh chế độ đẳng cấp trong thời phong kiến về các loại xe, trang sức trên xe, phục trang và hình dạng những món đeo, thay đổi từng thời kỳ là sử liệu trọng yếu cho những ai nghiên cứu về xe và y phục đời Hán. Bách Quan Chí ghi chép từ trung ương đến địa phương phân biệt quan, thiết lập chức đời Đông Hán như thế nào.

Hậu Hán Thư không có hai phần Thực Hoá Chí (食貨志) và Nghệ Văn Chí (藝文志) nên đã thiếu sót về kinh tế và văn hoá điển tịch của một đời. Về sau Thực Hoá Chí trong Tấn Thư có truy cầu tình trạng kinh tế các triều đại trước đã bổ túc phần nào nhưng Hậu Hán Thư thì chỉ có các phần Kỷ, Truyện (Chí là bổ túc sau) thế nhưng văn bút của Phạm Diệp rất hay, an bài sắp xếp có thứ tự, giỏi về tỉa tót sử liệu, thêm vào liền lạc mà không rườm rà, chỗ này giúp cho chỗ kia, tương bổ tương thành. Đến như sử học gia trứ danh là Lưu Tri Cơ (劉知幾) cũng bình luận là “đơn giản nhưng vẫn chu đáo, thưa mà không lọt chỗ nào” (簡而且周,疏而不漏)[5].

Tư tưởng của Phạm Diệp xem ra tiến bộ, quan điểm chọn sử mới mẻ, yêu ghét rõ ràng, văn bút sắc bén, trong phần Luận, Tán có thể từng chữ thấy được, khen chê phân minh. Ông là người chính trực, không màng danh lợi, tính hạnh cao khiết là người viết liệt truyện riêng một cõi.

Trong Đảng Cố Truyện, bút pháp sinh động của ông miêu tả Trương Kiệm (張儉), Phạm Bàng (范滂), Lý Ưng (李膺) là những người cương chính, không a dua, coi cái chết như trở về đầy chính khí lẫm liệt. Không lạ gì khi hàng nghìn năm sau, cuối đời Thanh chí sĩ yêu nước Đàm Tự Đồng (譚嗣同) khi bị kết tội đã viết Tuyệt Mệnh Thi:

(望門投止思張儉,忍死須臾待杜根

我自橫刀向天笑,去留肝膽兩昆侖。)

“Vọng môn đầu chỉ tư Trương Kiệm,

Nhẫn tử tu du đãi Đỗ Căn.

Ngã tự hoành đao hướng thiên tiếu,

Khứ lưu can đảm lưỡng Côn Lôn.

Việc chạy trốn rất gay go mong được người dân che chở như Trương Kiệm, Các đồng chí của ta thì được như Đỗ Căn biết nhẫn nhục để được sống mà hoàn thành đại nghiệp. Cầm ngang thanh đao ngửng lên trời cười lớn, Sống chết gì thì cũng can đảm như ngọn núi Côn Lôn [ám chỉ Khang (Hữu Vi) và Lương (Khải Siêu)].

Điều này cho thấy ảnh hưởng của Hậu Hán Thư rung động lòng người. Hoạn Giả Truyện ca tụng Sái Luân (蔡倫) là kẻ sĩ trung nghĩa, mắng chửi Hầu Lãm (侯覽) là cái gốc của tai hoạ “hung gia hại quốc (凶家害國). Hậu Hán Thư viết xong trễ nhưng lại thoát ra khỏi cái khuôn sáo cũ, có nhiều ưu điểm nên truyền bá rộng rãi cho đời sau thật cũng phải ngẫu nhiên.

Các chú bản Hậu Hán Thư như Kỷ, Truyện chủ yếu do Chương Hoài thái tử (章懷) đời Đường là Lý Hiền (李賢) chú thích còn Chí là do Lưu Thiệu (劉昭) đời Lương thời Nam Triều chú giải.

Hậu Hán Thư bổ chú (後漢書補注) của học giả đời Thanh Huệ Đống (惠棟), Hậu Hán Thư tập giải (後漢書集解) của Vương Tiên Khiêm (王先謙) đều là những trước tác nghiên cứu chủ yếu về Hậu Hán Thư. Trước mắt thì bản tiêu điểm Hậu Hán Thư do Trung Hoa thư cục Bắc Kinh ấn hành theo bản nền in đời Tống Thiệu Hưng, tham hiệu các sách đã chỉnh lý mà thành là bộ hiện nay tiện dụng và dễ đọc hơn cả.

Tam Quốc Chí

Tam Quốc Chí 65 quyển bao gồm Nguỵ Thư (魏書) 30 quyển, Thục Thư (蜀書) 15 quyển, Ngô Thư (吳書) 20 quyển chủ yếu ghi chép lịch sử khi ba nước Nguỵ, Thục, Ngô chia chân vạc. Trước thời Bắc Tống,Tam Quốc Chí vốn là ba bộ sử riêng rẽ bao gồm Nguỵ Thư, Thục Thư và Ngô Thư, đến thời Bắc Tống mới gộp lại làm một rồi khắc bản in ra, đổi tên thành Tam Quốc Chí. Toàn bộ sách này chỉ có Kỷ, Truyện mà không có Chí, Biểu.

Tác giả là Trần Thọ (陳壽), tự Thừa Tộ (承祚), là người Hán ở Ba Tây An đầu đời Tây Tấn, sinh vào đời Hán Hậu Chủ Lưu Kiến Hưng thứ 11 (CN 233). Ông từ nhỏ đã hiếu học, bái học giả người cùng quận là Tiêu Chu làm thầy. Thời Thục Hán làm lệnh sử ở Quan Các (觀閣), sau khi Thục mất về tay nhà Tấn thì làm trứ tác lang, nhận chức Trung Chính ở bản quận, ông soạn Tam Quốc Chí vào thời gian này. Người đương thời khen ông là giỏi viết thêm vào, có tài của một sử gia giỏi. Có người tên là Hạ Hầu Trạm (夏侯湛) đã từng viết một bộ Nguỵ Thư nhưng khi xem thấy Trần Thọ viết Tam Quốc Chí thì đã tự mình huỷ sách đó đi, từ đó gác bút. Đại quan đương thời là Trương Hoa (張華) từng nói với Trần Thọ rằng: “Nay đem Tấn Thư giao cho ngươi” cho thấy tài hoa của ông và Tam Quốc Chí đều được mọi người coi trọng.

Về sau ông được thăng lên làm trị thư thị ngự sử, năm Nguyên Khang 7 (CN 297) đời Tấn Huệ Đế thì qua đời, thọ 65 tuổi. Đương thời Lương Châu đại trung chính, thượng thư lang là Phạm Quân (范頵) đã tâu lên:

Cố trị thư thị ngự sử Trần Thọ soạn Tam Quốc Chí, lời lẽ nhiều lần khuyên răn, hiểu rõ việc đắc thất, có ích cho phong hoá. Tuy lời văn không hay bằng Tương Như nhưng chất thì cao hơn, mong được sao lục.

Ông ta tán tụng ưu điểm phi thường nên Tấn Huệ Đế hạ lệnh cho gọi Lạc Dương lệnh và Hà Nam doãn cho người đến nhà Trần Thọ sao lục lấy một bộ, nên từ đó Tam Quốc Chí được chính thức lưu truyền trên đời.

Trước khi Trần Thọ viết Tam Quốc Chí thì đã từng xuất hiện các bộ sử liên quan đến Nguỵ, Ngô như Vương Thẩm (王沈) viết Nguỵ Thư, Ngư Hoạn (魚豢) viết Nguỵ Lược, Vi Thiệu (韋昭) viết Ngô Thư. Các phần Nguỵ Thư, Ngô Thư trong Tam Quốc Chí chủ yếu lấy tài liệu trong các bộ sử này.

Triều đình nhà Thục không đặt để sử quan nên không có người chuyên môn phụ trách việc biên soạn Thục sử, tài liệu trong Thục Thư là do chính Trần Thọ đi sưu tập và biên soạn. Trần Thọ viết sách vào thời đại còn gần với thời Tam Quốc nên việc có thể lợi dụng thành quả của người khác không nhiều, lại thêm ông ta là tư nhân trước thuật nên không có điều kiện để có được nhiều văn bản triều đình. Chúng ta khi đọc Tam Quốc Chí cần thông cảm về việc khó khăn của Trần Thọ không có đủ sử liệu nên nội dung không được sung thực, rất nhiều nhân vật trọng yếu như Từ Cán (徐幹), Trần Lâm (陳琳), Ứng Dương (應瑒), Đinh Nghi (丁儀), Đinh Dị (丁廙) đều không được truyền lại còn những người được truyền cũng thường là giản lược. Tào Tháo thực hiện đồn điền, cửu phẩm trung chính chế thịnh hành thời Nguỵ Tấn Nam Bắc Triều trong sách đều ghi chép rất giản lược.

Trần Thọ Truyện trong Tấn Thư có nói:

Đinh Nghi, Đinh Dị là danh nhân đương thời, Trần Thọ từng xin con cháu họ nghìn hộc gạo nhưng bị cự tuyệt không cho nên không viết truyện về họ Đinh.

Lại cũng chép:

Phụ thân Trần Thọ là tham quân của Mã Tốc (馬謖), sau khi Mã Tốc làm mất Nhai Đình bị Gia Cát Lượng (諸葛亮) giết, cha cũng bi liên quan nên vì thế Trần Thọ ở trong Tam Quốc Chí mới chê Gia Cát Lượng không có tài tướng lược.

Tuy nhiên trong nhiều năm qua, không ít học giả trứ danh đã nghiên cứu khảo chứng, giả thuyết đó rất khó đứng vững, là những lời không thực, không thể tin hẳn. Những người đó đối với sử liệu trong Tam Quốc Chí đều chuẩn xác, đáng tin là điều rõ ràng là ba nước Nguỵ, Thục, Ngô chia ra thế chân vạc, vì thế cái tên Tam Quốc Chí ở đó mà ra. Trần Thọ là người nước Tấn trong Tam Quốc, làm quan nước Tấn, Tấn theo Nguỵ mà thống nhất toàn quốc, sở dĩ ông phải đặt Nguỵ Thư lên trên, dùng Bản Kỷ để tường thuật mấy đời đế vương của nước Nguỵ. Thế nhưng đối với Thục, Ngô hai chúa, trên hình thức nói là Truyện, phương pháp ghi nhận thực ra giống như Bản Kỷ, theo năm tháng mà cài thêm sự việc vào, trên thực tế để Thục, Ngô xếp ngang bằng với địa vị của Nguỵ, phản ảnh tình huống chân thực của lịch sử cho thấy Trần Thọ quả là một sử học gia có kiến thức.

Cách cài thêm sự việc trong Tam Quốc Chí cũng giản khiết, cắt xén rất hợp cách, trong cả ba cuốn rất ít chỗ nào trùng hợp. Việc chọn lựa tài liệu cũng mười phần thận trọng, nên đã lưu lại nhiều tài liệu quí giá. Chẳng hạn như Hoa Đà Truyện (華陀傳) bảo tồn được tư liệu y học cổ đại, Trương Lỗ Truyện (張魯傳) bảo tồn được tư liệu sử về Đạo giáo của Trung Hoa. Trong Tam Quốc Chí các việc liên quan đến các dân tộc Tiên Ti (鮮卑), Ô Hoàn (烏桓), Cao Cú Lệ (高句麗) cũng đều là những sử liệu vô cùng giá trị.

Về phương diện văn học, Tam Quốc Chí cũng có vị thế rất cao. Văn bút của Trần Thọ rất phong thái, chẳng hạn Chu Du Truyện (周瑜傳), Lục Tốn Truyện (陸遜傳) đều miêu tả rất sinh động. Người xưa đã nói rằng:

Bút pháp của Trần Thọ không kém gì Tư Mã Thiên.

Theo lời của Diệp Thích (葉適) đời Tống thì “một chữ một câu cũng đều có cân lượng đến Thiên [Tư Mã] hay Cố [Ban] cũng phải khen”. Lưu Hi Tải (劉煕載) đời Thanh cho rằng lời nói này quả không ngoa. Từ trước tới nay không ít sử học gia nhận định rằng trong các sử thư chép về đời Tam Quốc, chỉ có sách của Trần Thọ là có thể sánh ngang với Sử Ký, Hán Thư. Do đó, nhiều nhà khác cũng viết về đời Tam Quốc nhưng đều biến mất không còn nghe nói tới, chỉ còn Tam Quốc Chí là được lưu truyền tới bây giờ. Giới sử học đem Sử Ký, Hán Thư, Hậu Hán Thư và Tam Quốc Chí gộp chung lại gọi là Tứ Sử đều là những danh tác trong sử học truyền thể.

Tuy nhiên Tam Quốc Chí cũng có chỗ khiếm khuyết mà Trần Thọ chưa chép xuống, nếu chúng ta muốn tìm về chế độ điển chương thời kỳ này thì chỉ còn cách mượn từ Tấn Thư. Trong sách Trần Thọ cũng có phần che đậy và nói tốt cho Tào Nguỵ và họ Tư Mã, đó cũng là bệnh chung của sử thư các đời trước, người đọc cần để ý.

Khi Trần Thọ viết Tam Quốc Chí, do rất nhiều nguyên nhân nên rất nhiều sử liệu ông chưa từng được tiếp xúc. Tống Văn Đế đời Nam Triều đã nhận định rằng Tam Quốc Chí quá giản lược nên đã ra lệnh cho Bùi Tùng Chi (裴松之) viết bổ chú. Bùi Tùng Chi (372-451), tự là Thế Kỳ (世期), người Văn Hỉ (聞喜) tỉnh Hà Đông (河東) [nay là Văn Hỉ, tỉnh Sơn Tây], thời Đông Tấn làm nội sử ở Linh Lăng, quốc tử bác sĩ, sau khi Nam Triều dứt, đời Tống làm trung thư thị lang. Việc bổ chú Tam Quốc Chí không giống như Sử Ký hay Hán Thư, Bùi Tùng Chi chủ yếu tăng bổ sử thực, sử liệu cực kỳ phong phú.

Thống kê một cách đơn giản, trong tăng bổ có liệt kê hơn 200 loại trước tác của người đời Nguỵ, Tấn trong đó sử liệu so ra hoàn chỉnh, chú văn và điều mục nhiều, ước chừng 54 vạn chữ, xem ra gấp ba lần chính văn. Nếu nói về giá trị sử liệu, những tài liệu đó cũng không kém gì chính bản Tam Quốc Chí. Sách vở được dẫn trong phần tăng bổ đến nay phần lớn đã thất truyền nhưng cũng nhờ họ Bùi trưng dẫn mà chúng ta ngày nay còn có thể biết được đại khái nên những thêm vào của Bùi Tùng Chi càng được người ta quí trọng. Theo như chính Bùi Tùng Chi qui nạp, nội dung chú văn đặt nặng bốn phương diện:

-          Thứ nhất, những gì Trần Thọ chưa ghi chép thì thêm vào, chẳng hạn như Võ Đế Kỷ trong Nguỵ Chí liên quan đến Tào Tháo, tình trạng đồn điền của nước Nguỵ cũng đều được thêm vào.

-          Thứ hai là cùng một việc nhưng mỗi nơi chép một khác thì chọn những điều chưa đề cập để cho nghiên cứu của người sau được đầy đủ hơn.

-          Thứ ba là về những ghi chép sai lầm thì sửa lại, chẳng hạn như Tôn Sách Truyện (孫策傳) đã khảo biện lại tuổi tác của Tôn Sách.

-          Thứ tư là biện luận lại những điều thời sự và những điều Trần Thọ không ghi chép chính xác.

Nói chung việc ông làm là bổ khuyết (補缺), thêm vào những việc được ghi chép khác nhau (備異), cải chính những sai lầm (糾謬) và biện luận (論辯). Phương pháp chú thích đó đã mở đầu cho cục diện bổ chú thư tịch nên về sau các sử học gia đều coi phần bổ chú của họ Bùi trong Tam Quốc Chí là một bộ phận trọng yếu, không thể tách rời. Chính vì thế khi đọc Tam Quốc Chí thì nhất định phải dùng phần chú thích của Bùi Tùng Chi như sử văn chính thức.

Nghiên cứu và chú thích Tam Quốc Chí của các đời sau thì chủ yếu có Lương Chương Cự (梁章巨) đời Thanh với Tam Quốc Chí bàng chứng (三國志旁證), Hàng Thế Tuấn (杭世駿) với Tam Quốc Chí bổ chú (三國志補注) và gần đây có Lư Bật (盧弼) với Tam Quốc Chí tập giải (三國志集解).

Các sử tịch trứ danh và trọng yếu của Trung Hoa các đời trước ta thấy có Thiệu Hưng (紹興) đời Tống được Thiệu Hi (紹熙) tăng bổ và san khắc ấn hành rồi thu góp thành Bách Nạp Bản Nhị Thập Tứ Sử (百衲本二十四史), tụ trân bản trong Võ Anh Điện nhà Thanh, hoạt tự bản ở Kim Lăng, và bản in của Giang Nam thư cục. Hiện nay Trung Hoa thư cục ở Bắc Kinh cũng đã xuất bản tiêu điểm bản Tam Quốc Chí, căn cứ vào những bản trước đây và tham chiếu bản tàn khuyết đời Đông Tấn của Ngô Chí rồi hiệu đính mà thành.

Sử Ký mở ra cách biên soạn theo kỷ truyện thể, đến Hán Thư thì định hình. Hậu Hán Thư và Tam Quốc Chí tuy cũng có Kỷ và Truyện nhưng không có Chí và Biểu, thành tựu cũng cao như những sách được soạn cùng thời đó và được lưu truyền rộng rãi củng cố thêm cho Kỷ Truyện Thể.

Bốn bộ sách này được viết vào thời đại rất sớm và thành tựu cũng rất sớm. Kinh Tịch Chí (經籍志) trong Tuỳ Thư xếp bốn bộ này ngang hàng nhau, tới đời Thanh thì cái tên Tiền Tứ Sử mới được lưu truyền rộng rãi.


ĐẶC ĐIỂM CỦA KỶ TRUYỆN THỂ

Sau Tiền Tứ Sử (前四史), chính sử phần lớn do triều đình soạn (quan tu), chỉ có Tống Thư (宋書) viết về Nam Triều của Thẩm Ước (沈約), Tân Ngũ Đại Sử (新五代史) của Âu Dương Tu đời Tống là những bộ sử tư nhân trước tác. Đời Tùy hoàng đế từng hạ lệnh cấm chỉ tư nhân soạn sử, lại thiết lập cơ cấu quan tu sử thư (cơ quan soạn sử của triều đình). Đời Đường thì việc soạn sử càng được coi trọng nên triều đình đã thiết lập cơ quan chuyên môn gọi là Sử Quán (史館). Thời Đường Thái Tông, Đường Cao Tông thì tể tướng Phòng Huyền Linh (房玄齡), Ngụy Trưng (魏徵) đều trực tiếp tham dự việc tu soạn sử, nên riêng một triều đại nhà Đường đã có sáu bộ sử thư do triều đình soạn. Từ đó, quan tu sử thư và việc tể tướng trông nom coi sóc việc soạn quốc sử trở thành định chế, mỗi khi có vương triều mới thành lập đều soạn sử về triều đại trước làm công tác theo đó để xem xét và an dân.

            Tấn Thư

Tấn Thư là do Tạng Vinh (臧榮) đời Đường Thái Tông dùng Tấn Thư (晉書) làm bản nền (底本) rồi sau đó tham khảo các bản của 18 nhà khác mà hoàn thành.

Đặc điểm nổi bật và mới mẻ trong Tấn Thư là tăng thêm phần Tải Ký (載記) chuyên về ghi chép các chính quyền thiết lập bởi các dân tộc thiểu số Hung Nô (匈奴), Tiên Ti (鮮卑), Yết (), Đê (), Khương (). Trong số 16 nước có Tiền Triệu, Hậu Triệu, Tiền Yên, Tiền Tần, Hậu Tần, Hậu Thục, Hậu Lương, Hậu Yên, Tây Tần, Bắc Yên, Nam Lương, Nam Yên, Bắc Lương, Hạ đều được chép vào phần Tải Ký chỉ có Tiền Lương, Tây Lương thì chỉ có người ghi trong liệt truyện vì kẻ thống trị tối cao của Tiền Lương là Trương Quĩ Nguyên (張軌原) là bầy tôi nhà Tấn có tính chất tiếm ngụy nên dưới mắt tác giả, người thống trị tối cao của Tây Lương là thủy tổ của hoàng đế nhà Đường Lý Hạo (李暠) hiển nhiên không thể chép được.

Nội dung so ra rộng rãi, ký thuật cũng tường tận, lưu giữ được không ít các tư liệu quí giá như truyện Bùi Tú (裴秀傳), đưa vào miêu tả của ông về địa vực triều cống (禹貢地圖) trong phần Tự, bảo tồn phương pháp vẽ địa đồ tối cổ của Trung Hoa, truyện Thúc Triết (束晳) ghi chép những phát hiện và chỉnh lý những tư liệu trọng yếu về cổ văn vật. Đặc biệt nhất các Chí trong Tấn Thư đều truy thuật nguyên lưu, không ít những điều mà chuyên gia đã sáng tác nên sử liệu cực kỳ giá trị, chẳng hạn như Thiên Văn Chí (天文志), Luật Lịch Chí (律曆志) của Lý Thuần Phong (李淳風) là những phần được hậu nhân rất coi trọng. Cũng vì ông là một nhà chuyên môn thông hiểu thiên văn, lịch pháp nên trong phần ghi chép ở mục Chí về các thiên thể, nghi tượng, vị trí tinh tú đã đạt đến trình độ khoa học.

Thế nhưng Tấn Thư về phương diện thu thập tài liệu thì không hoàn toàn chú ý đến việc phân biệt sử liệu nên thường chọn cả những tiểu thuyết bút ký, những điều lạ lùng chỉ nghe nói vì người chấp bút phần nhiều chuyên về văn chương bút mực, thơ phú nên tìm kiếm những lời lẽ bóng bẩy khiến cho hậu nhân phê bình là “chỉ tìm đẹp đẽ mà không cầu sự thực” (競爲綺艷,不求篤實).

            Tống Thư

Tống Thư là bộ sử soạn nhanh nhất trong Nhị Thập Tứ Sử. Các phần Kỷ và Truyện hình thành không đầy một năm, cho thấy tài soạn sử của Thẩm Ước (沈約) thật hơn người và cũng cho thấy nhóm Từ Viên (徐爰) soạn Tống Thư rất có cơ sở. Đương thời không có người viết phần Chí mà Chí là do người sau thêm vào.

Đặc điểm chủ yếu của Tống Thư ở tại bộ phận liệt truyện là lần đầu tiên có đái tự pháp (帶敘法) nghĩa là từ một truyện viết về người khác mà thêm vào nhưng chỉ là một đoạn viết về sự tích mà thôi. Làm như thế không cần tăng thêm một mục trong truyện, lại có thể mở rộng việc dung chứa để lại cho hậu thế một phương pháp hay trong cách viết sử. Chẳng hạn như Lưu Đạo Qui truyện (劉道規傳) bên trong có kèm vào Lưu Tuân (劉遵), Vương Nghĩa Chân truyện (王義真傳) có kèm thêm Đoàn Hoằng (段宏), Tạ Linh Vận truyện (謝靈運傳) có kèm thêm Tuân Ung (荀雍), Dương Tuyền Chi (羊璿之), Hà Trường Du (何長瑜) ba người. Nhưng cũng có khi gài vào quá nhiều, khiến cho người ta có cảm tưởng là khách nổi hơn chủ, lại thêm gia tộc phụ trong liệt truyện, trên nói về cha, ông, dưới lại nói về con, cháu kèm theo anh, em, hôn nhân … cành rễ chằng chịt trở thành gia tộc truyện.

Chẳng hạn như truyện Lưu Mục Chi (劉穆之) thì lại kèm theo truyện về con trưởng là Lự Chi (慮之), con của Lự Chi là Ung (), con giữa của Mục Chi là Thức Chi (式之), con của Thức Chi là Vũ (), con nhỏ của Mục Chi là Trinh (), con rể Mục Chi là Sái Hựu (蔡祐). Truyện Thẩm Khánh (沈慶) cũng có phụ thêm các truyện về con, em, con của anh, em họ.

Việc này phản ảnh các gia đình quyền quí và địa chủ dưới thời Nguỵ Tấn Nam Bắc Triều, phong khí xã hội sùng thượng môn đệ, trọng thị gia tộc sử và cái học về phổ hệ. Cũng việc này khi đối chiếu với Ân Hạnh truyện (恩幸傳) thì chủ yếu ghi chép người do nhà nghèo, bần hàn xuất thân mà lên làm đại quan, nhưng cố ý hạ thấp và phần lớn chỉ là những kẻ nịnh hót hoàng đế và cấu kết với giới quyền quí nên mới lên cao được cho thấy cách nhìn về giới quí tộc nghiêm trọng như thế nào.

Phần Chí của Tống Thư các việc thêm vào thỉnh thoảng lên đến thời Nguỵ Tấn, không chỉ hạn chế vào đời Tống nên đã để lại rất nhiều tư liệu quí, đặc biệt trong Nhạc Chí (樂志) đã bảo tồn được rất nhiều thơ của nhạc phủ từ đời Hán Nguỵ về sau và ghi chép rõ ràng về rất nhiều nhạc khí thời cổ. Châu Quận Chí (州郡志) ghi chép việc nhân khẩu di cư xuống phương nam từ thời Đông Tấn trở về sau, và ở tại phương nam lập thành châu quận. Đây là những văn hiến trọng yếu cho việc nghiên cứu về duyên cách địa lý và biến động nhân khẩu ở phía nam.

            Nam Tề Thư

Nam Tề Thư là do Tiêu Tử Hiển (蕭子顯) nước Lương thời Nam Triều trước tác. Ông là tông thất nước Tề của Nam Triều, lại là bầy tôi nước Lương nên việc khảo sát hết sức bảo hộ vẽ vời cho các đời vua trước. Vì ông là người cùng thời viết về người cùng thời nên việc sắp xếp và tuyển chọn sử liệu có rất nhiều điều kiện thuận lợi, ghi xuống được nhiều tài liệu nguyên thuỷ chẳng hạn như Tổ Xung Chi truyện (祖沖之傳), có những ghi chép rất sớm liên quan đến Tổ Xung Chi, nội dung xác thực là một thiên văn hiến quí báu, hay như Thẩm Văn Quí truyện (沈文季傳) trong đó bản tồn được sử thực về việc phát sinh cuộc nổi dậy của Đường Ngu ở một dải Chiết Giang.

            Lương Thư, Trần Thư

Lương Thư và Trần Thư đều do cha con Diêu Tư Liêm (姚思廉) soạn ra dưới đời Đường. Cha con Diêu Tư Liêm biên soạn Lương Thư, Trần Thư mất mấy chục năm tâm huyết, việc thu thập tài liệu và biên soạn đều rất công phu, trong sách bảo tồn được rất nhiều sử liệu qui giá, chẳng hạn như Hầu Cảnh Truyện (侯景傳) dùng đến gần hai vạn chữ để tường thuật thêm vào việc xảy ra của loạn Hầu Cảnh. Nho Lâm Truyện (儒林傳) trong Lương Thư ghi chép vể Phạm Trấn (范縝) một tư tưởng gia vô thần và thu lục toàn văn tác phẩm Thần Diệt Luận (神滅論). Kể từ thời Đông Tấn tới lúc đó, Phật giáo thịnh hành nhưng có thể đem việc đó ghi trong sử thư thì thật là khó khăn và quí giá. Trần Thư ghi chép việc hưng khởi và diệt vong của triều Trần, về sử thực thì rất rõ ràng, đối với nguyên nhân việc hưng vong của Trần triều rất có giá trị.

Lương Thư so với Trần Thư thì nội dung sung thực hơn, văn bút tối hảo trong bốn bộ sử Tống, Tề, Lương, Trần. Văn tự tinh luyện, đái tự giản khiết, văn nhân Lục Triều và Sơ Đường khi bổ sung, nghị luận đều thích lối dùng biền thể của Diêu Tư Liêm, tản văn của cha con họ Diêu dùng chữ giản minh, ký thuật lịch sử không đi theo lối văn phong ác liệt của Lục Triều nên được hậu nhân rất ca tụng.

Lương Thư và Trần Thư đều là các bộ sử quan tu đầu đời Đường do Nguỵ Trưng (魏徵) làm tổng giám tu, các phần tổng luận của các bộ sử phần nhiều do tay Nguỵ Trưng viết. Nguỵ Trưng là tể tướng nổi tiếng đời Đường, tổng luận của ông đứng trên góc độ một chính trị gia nên bình luận lịch sử, kiến thức so với cha con họ Diêu thì cao hơn nhiều. Tại Bắc Tề Thư, Chu Thư, Tuỳ Thư cũng có luận thuật của Nguỵ Trưng xứng đáng để chung ta coi trọng. Còn phần Chí của Tuỳ Thư phần nhiều lên tới Nam Bắc Triều nên có thể coi như tham khảo thêm cho người đọc Lương Thư, Trần Thư.

            Nguỵ Thư

Nguỵ Thư là trước tác thời Bắc Tề, là bộ sử chuyên về ghi chép về chính quyền các dân tộc thiểu số duy nhất trong 24 bộ sử. Trong sách ký thuật về sự phát triển, hưng thịnh, thống nhất phương bắc và quá trình phong kiến hoá, môn phiệt hoá của bộ lạc Thác Bạt (拓跋) người Tiên Ti sống ở phương bắc Trung Hoa. Nguỵ Thư ở trước bản kỷ có một thiên biệt lập Tự Ký (序紀) đi ngược về tiên tổ Thác Bạt Khuê (拓拔珪), bảo lưu được nhiều sử liệu trọng yếu là cách thức mà các bộ sử trước đây chưa từng có.

Nguỵ Thư lần đầu tiên có Thích Lão Chí (釋老志) ghi chép về Phật, Lão hai tôn giáo lưu truyền ra sao, đặc biệt về Phật giáo lưu truyền thịnh suy thời Bắc Nguỵ là sử liệu trọng yếu có hệ thống liên quan đến hai tôn giáo này thời kỳ rất sớm. Quan Thị Chí (官氏志) ngoài ghi chép về chức quan còn ghi chép về bộ tộc Tiên Ti trước đây đã thay đổi tên họ, là sử liệu trọng yếu về việc phong kiến hoá, môn phiệt hoá của bộ tộc Tiên Ti. Thực Hoá Chí (食貨志) ghi chép về Quân Điền Chế (均田制) và Tam Trường Chế (三長制) có gia trị sử liệu cao là nghiên cứu quan trọng về Quân Điền Chế đời Nguỵ và đời Tuỳ Đường lúc khởi đầu của bộ lạc Thác Bạt.

Những nhân vật nghiên cứu trứ danh sử thời cổ của Trung Hoa đã coi Nguỵ Thư thuộc loại “uế sử” (穢史) vì khi soạn Nguỵ Thư đã dùng ngòi bút bảo vệ thế lực thống trị Bắc Nguỵ, Bắc Tề và dùng cả những điều ân oán của tư nhân dẫn đến mâu thuẫn nội bộ của giới cầm quyền khiến cho các thế tộc trực tiếp can thiệp vào việc biên soạn sử thư. Thực ra, giới sử học cũng đã có chỗ thiên vị, cong queo nhưng việc thu thập tài liệu ở đây quá lộ liễu. Dưới phương diện giá trị sử liệu, Nguỵ Thư nếu loại trừ những phần thiên vị ra, việc tường thuật cũng khách quan. Trước khi thu thập tài liệu, những sử thư liên quan đến Bắc Nguỵ đều không được lưu truyền, cho thấy Nguỵ Thư cũng có những ưu điểm của nó.

            Bắc Tề Thư

Bắc Tề Thư do Lý Bách Dược (李百藥) đời Đường soạn, chủ yếu ký tải lịch sử Đông Nguỵ và Bắc Tề. Sau thời Trung Đường, nguyên thư dần dần tàn khuyết, đến thời Bắc Tống thì chỉ còn 17 quyển, trong ba phần chỉ còn không đầy một. Các quyển khác hậu nhân đã lấy Bắc Sử (北史) đem bổ túc vào, nhiều bàn tay, tài liệu tạp nhạp mà thành cho nên thể lệ hỗn loạn, ký sự có nhiều chỗ mâu thuẫn với nhau.

            Chu Thư

Chu Thư (周書) là thời Đường sơ triều đình ra lệnh cho bọn Hồ Đức Phân (狐德棻) biên soạn. Chu Thư nhận định rõ ràng Bắc Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Chu và Bắc Ngụy, Đông Ngụy, Bắc Tề là chính thống, quan hệ kế thừa, thể lệ khi ký thuật có những thay đổi cho phù hợp. Chẳng hạn tại Văn Đế Kỷ (文帝紀) trong Chu Thư lấy niên hiệu của hoàng đế Tây Ngụy để ghi chép, tường thuật rõ ràng hoàng đế, phế đế, cung đế Tây Ngụy tổng cộng 22 năm về chính sự, quân sự, nhân vật, truyện ký cũng đều có những cách thức vận dụng. Chính quyền Hậu Lương trước sau đều dựa vào Tây Ngụy, Bắc Chu và Tùy được chép trong Chu Thư là do thể lệ sắp xếp đặc biệt. Nội dung Chu Thư ghi chép đã bao gồm các sự kiện trọng đại của bốn triều đại đồng thời của Đông Ngụy, Bắc Tề, Lương, Trần nên việc so sánh bao quát, ở một trình độ nhất định có thể cho chúng ta một tầm nhìn toàn cảnh của trạng huống phát triển.

Liệt Truyện trong Chu Thư có một thiên Dị Vực Truyện (異域傳) chia ra làm hai quyển thượng hạ. Quyển thượng ghi chép các nước Cao Ly, Bách Tề, Thị còn quyển hạ thì chép về Đột Quyết, Thổ Cốc Hồn và các nước ở Tây Vực, nội dung đề cập đến chế độ chính trị, sản vật các địa phương, phong thổ nhân tình, biếu xén qua lại, đường sá gần xa các tình huống trong đó giải thích được trung nguyên địa khu nhà Đường, việc buôn bán qua lại với các chính quyền tây bắc và tình hình giao thông.

            Nam Sử, Bắc Sử

Nam Sử, Bắc Sử do người Sơ Đường là Lý Diên Thọ (李延壽) biên soạn, dùng cơ sở từ các bộ Tống Thư, Nam Tề Thư, Lương Thư, Trần Thư, Nguỵ Thư, Bắc Tề Thư, Chu Thư, Tuỳ Thư, lấy tinh hoa và bỏ bớt những chỗ phồn tạp, sao chép, chữa những chỗ vụng về, thay đổi và thêm vào mà làm thành. Ở góc độ sử học mà xét, ông đã tổng kết và nối liền các đoạn lịch sử phức tạp của Nam Bắc Triều, giải thích và chỉnh sửa được lịch sử và mạch lạc phát triển của Nam, Bắc Triều tiện lợi cho người đọc nhìn được tổng thể và phân tích vấn đề của các thời kỳ lịch sử.

Nam Sử, Bắc Sử được soạn thảo thời kỳ đầu nhà Đường, toàn quốc thống nhất nên tác giả có thể chọn ra từ tám bộ sách và loại trừ những thiên kiến do phân liệt chính trị và hạn chế tạo thành và theo sử quan của một quốc gia thống nhất để cải chính và chỉ ra những điều gọi là tiếm nguỵ (僭僞), sách lỗ (索虜)[6], đảo di (島夷)[7], sửa lại những chỗ lệch lạc, thậm chí bỏ cả các triều đại gọi là nam, bắc vương triều, cải chính bát thư và loại trừ những đoạn trước đây bào chữa, bảo vệ các triều đại mà chỉ căn cứ vào sự thực trong Nam Sử, Bắc Sử, đồng thời tăng bổ nhiều sử liệu bên ngoài tám bộ sách ở trên.

Vì có những điểm mạnh đó nên các sử gia đời sau rất coi trọng. Tác giả của Tư Trị Thông Giám (資治通鑑) là Tư Mã Quang (司馬光) đã ca ngợi phong cách chêm vào rất giản dị mạnh mẽ, so với Bát Thư thì hay hơn, là một bộ giai sử thời cận thế, lại nhận định rằng sau Trần Thọ (陳壽) thì chỉ có Lý Diên Thọ (李延壽) là có thể so sánh được. Chính vì như thế, Nam Sử, Bắc Sử so với Bát Thư thì lưu truyền rộng rãi, ảnh hưởng cũng to lớn. Trước đời Bắc Tống, bát thư phần nhiều đã bị mất mát, hai bộ sử này giúp cho việc hoàn chỉnh và bảo tồn lại cho đời sau.

Đương nhiên, Nam Sử, Bắc Sử cũng có những chỗ chưa đầy đủ, có nhiều phần trong Bát Thư đã bị cắt bỏ chẳng hạn như tấu sớ liên quan đến quân điền (均田) của Lý Thế An (李世安) đời Bắc Nguỵ, biện luận về thần uy của Lương Phạm Chẩn (梁范縝) đều là những sử liệu trọng yếu nhưng lại bị bỏ đi. Sở dĩ Nhị Sử vẫn không thể thay thế được Bát Sử, chúng ta khi nghiên cứu về giai đoạn lịch sử này vẫn phải dùng cả hai bộ để tham chiếu, lấy dài bổ túc cho ngắn thì mới có được cái nhìn toàn diện.

            Tuỳ Thư

Tuỳ Thư do nhóm Nguỵ Trưng (魏徵) đời Đường soạn, là bộ sử hoàn hảo nhất trong các bộ sử quan tu đầu đời Đường. Người chủ biên là Nguỵ Trưng làm tể tướng đời Đường là một bầy tôi nổi tiếng về can gián. Khi chủ trì biên soạn các mục Kỷ và Truyện trong bộ Tùy Thư, ông đặc biệt nhấn mạnh là dùng sử để xem xét tư tưởng hi vọng Đường Thái Tông có thể “theo đó mà soi xét thì tồn vong trị loạn có thể vì thế mà cai trị được” (以隋爲鑑,則存亡治亂可得而治). Vì thế, Nguỵ Trưng trình bày rất rõ ràng lịch sử của 38 năm đời nhà Tùy, thuật lại rất chân thực việc Tùy Dạng Đế (隋煬帝) dùng rất nhiều gỗ đá, ba lần xuống kinh đô Giang Nam và hoang loạn vô sỉ, sinh hoạt hủ bại, nhân dân phản kháng chính sách hà khắc, tàn bạo cuối đời Tùy. Sách theo tình hình cụ thể có sao ghi vậy rất sống động và khách quan về nguyên nhân nhà Tùy diệt vong giữ lại được nhiều sử liệu quí giá.

Đầu đời Đường, năm bộ sử quan tu Lương Thư (梁書), Trần Thư (陳書), Bắc Tề Thư (北齊書), Chu Thư (周書) và Tùy Thư (隋書) được đương thời gọi chung là Ngũ Đại Sử (五代史). Năm bộ sử này đều chỉ có phần Bản Kỷ (本紀) và Liệt Truyện (列傳), không có các phần Biểu () và Chí () nên về sau hợp biên 10 thiên, 30 quyển Chí cộng chung lại gọi là Ngũ Đại Sử Chí (五代史志).

Khi hợp biên năm bộ sử thư thì phụ vào sau bộ Tùy Thư nên gọi là Tùy Đường Chí (隋書志). Sử học gia các đời xem bộ Tùy Thư và Thập Chí đều đánh giá rất cao vì các tác giả biên soạn phần lớn là những người có chuyên môn thành thục nên miêu tả các học giả đương đại, danh nhân đều nội dung phong phú, chân thực mà lối hành văn cũng lưu loát, bảo tồn cho hậu thế chế độ điển chương từ đời Ngụy Tấn về sau, những thay đổi biến hóa trong sử liệu, thậm chí truy nguyên đến tận đời Hán Ngụy.

Chẳng hạn như Thực Hóa Chí (食貨志) có ghi chép tình trạng kinh tế từ thời Đông Tấn đến nay những gì ghi chép liên quan đến quân điền (均田), tô dung điệu (租庸調), hóa tệ (貨幣) các loại đều là tài liệu trọng yếu trong việc nghiên cứu về kinh tế đời Tùy Đường. Địa Lý Chí (地理志) ghi chép từ đời Tây Tấn đến nay, vì chiến loạn, tai ương, đói kém nên nhân khẩu một số lớn di cư về phía nam, phương nam thành lập quận Kiều Thiên và tình trạng quận ra sao (cũng như Yên Châu, Thanh Châu nguyên là châu ở phương bắc, về sau nhân khẩu di cư xuống phía nam nên cũng thành lập Yên Châu, Thanh Châu ở phía nam). Về Hình Pháp Chí (刑法志) thì trong đó mục Tùy Luật (隋律) là bộ pháp điển được truyền lại rất sớm của Trung Hoa, Luật Lịch Chí (律曆志) và Thiên Văn Chí (天文志) ghi chép tường tận các thanh luật và đo lường từ đời Ngụy Tấn đến nay, tăng giảm thế nào, tổng kết được các thành tựu về thiên văn học thời Nam Bắc Triều. Tùy Thư cũng ghi chép rõ ràng về viên chu của Tổ Xung Chi (祖沖之).


Tổ Xung Chi

Về Kinh Tịch Chí (經籍志) trong Tùy Thư thì tiếp theo Nghệ Văn Chí (藝文志) của Hán Thư là một mục lục rất trọng yếu, thuật lại tất cả các thư tịch trong khoảng 600 năm từ đời Hán đến đời Tùy, quyển nào còn, quyển nào mất, diễn tiến của học thuật, là lần tổng kết thứ hai về thư tịch và học thuật thời cổ của Trung Hoa. Họ rút tỉa ra các ưu điểm trong Tấn Trung Kinh Bộ (晉中經簿) và Thất Lục (七錄), đem các loại đồ thư chia thành bốn bộ, trực tiếp nêu rõ bốn loại lớn là kinh, sử, tử, tập rồi sau đó lại chia thành những loại nhỏ, ghi chép tất cả các sách vở từ đời Hán. Kinh Tịch Chí (經籍志) định ra phép phân loại trong bốn bộ đồ thư, ảnh hưởng rất lớn, trong mục lục sử đóng một vai trò trọng yếu, kéo dài đến hơn một nghìn năm, đến nay các sách kim cổ vẫn phân loại đều không hoàn toàn thoát ra ngoài phương pháp này.

            Cựu Đường Thư

Đường Thư do Lưu Hướng (劉昫) đời Hậu Tấn soạn, là bộ sử sớm nhất về đời Đường, cũng để phân biệt với bộ Đường Thư do Âu Dương Tu (歐陽修) soạn, nhưng trước để chữ cựu, gọi là Cựu Đường Thư còn bộ của Âu Dương Tu thì gọi là Tân Đường Thư (新唐書).

Cựu Đường Thư tả về đời loạn do dân chúng viết ra trong lúc gấp gáp nên có nhiều chỗ không trơn tru. Nửa trước của phần Bản Kỷ là lấy từ thực lục và sử quán đời Đường biên soạn quốc sử mà trích ra nhưng việc cắt xén cũng đắc thể, văn chương cũng trang nhã.

Từ Đường Võ Tông trở về sau, vì không có đủ tiền bạc để hoàn thành sử liệu nên tất cả đều do các tác giả sắp xếp, nội dung tạp nhạp, ghi chép chỗ nọ đối nghịch với chỗ kia không phải là ít. Bộ phận Liệt Truyện phân chia tình huống đại thể giống nhau nhưng nhân vật cuối đời Đường có nhiều chỗ thiếu sót, thậm chí có khi một người mà hai truyện, việc nọ trùng với việc kia. Lịch Chí (曆志), Kinh Tịch Chí (經籍志) chỉ thuật đến Đường Huyền Tông (tại vị CN 712 – 756) người sau phê bình là cẩu thả, phô trương không có căn cứ gì hết.

Nếu nói riêng về giá trị sử liệu, Cựu Đường Thư cũng không nên coi thường. Tác giả sống sau đời Đường không lâu nên có điều kiện để xem xét và thu góp một số lượng ghi chép nguyên thủy chẳng hạn như Ý Tông Bản Kỷ (懿宗本紀), Hi Tông Bản Kỷ (僖宗本紀) có nhiều sự kiện liên quan đến việc nổi dậy của Bàng Huân (龐勳) và Hoàng Sào (黃巢), những chi tiết đó là những sử liệu trọng yếu.

Liệt Truyện có ghi chép nhiều về các dân tộc thiểu số hơn hẳn các bộ sử trước, trong đó có những việc liên quan đến Đột Quyết (突厥), Hồi Hột (回紇), Thổ Phồn (吐蕃) tương đối tường tận như cuộc hôn nhân giữa Văn Thành công chúa (文成公主) và Tùng Tán Cán Bố (松贊幹布), và những sự việc do người của Kim Thành công chúa (金城公主) cất giữ.

Những việc giao thiệp qua lại liên quan đến triều đình nhà Đường và những quốc gia chung quanh như Nhật Bản, Triều Tiên, Ấn Độ cũng được ghi chép. Những truyện về Lý Mật (李密), Vương Thế Sung (王世充), Đậu Kiến Đức (竇建德), Lưu Hắc Thát (劉黑闥), Đỗ Phục Uy (杜伏威), Lý Tử Thông (李子通) là những tài liệu trọng yếu về những nổi dậy cuối đời Tùy.

Những nhân vật đại biểu cho văn hóa kỹ thuật như khoa học gia nổi danh Lý Thuần Phong (李淳風), Tôn Tư Mạo (孫思邈), văn học cự phách như Lý Bạch (李白), Đỗ Phủ (杜甫), Hàn Dũ (韓愈), Liễu Tông Nguyên (柳宗元), sử học gia, kinh học gia như Diêu Tư Liêm (姚思廉), Khổng Dĩnh Đạt (孔穎達), Phật học đại sư Huyền Trang (玄奘) thì Cựu Đường Thư đề ghi chép các sự tích bình sinh của họ, là những sử liệu trân quí sớm nhất thời kỳ đó. Tư Mã Quang (司馬光) đời Tống biên soạn Tư Trị Thông Giám (資治通鑑) phần nhiều thu thập tài liệu từ Cựu Đường Thư, điều đó cho thấy Cựu Đường Thư đã có ảnh hưởng lâu dài, Tân Đường Thư không thể hoàn toàn thay thế được.

            Tân Đường Thư

Tân Đường Thư do Âu Dương Tu (歐陽修), Tống Kỳ (宋祁) đời Bắc Tống biên soạn, vì muốn phân biệt với Cựu Đường Thư nên có cái tên đó. Tân Đường Thư soạn thành sách vào thời Bắc Tống, so với Cựu Đường Thư thì muộn hơn trên một trăm năm, thời đó xã hội yên bình nên đã tập hợp được không ít tài liệu mới cho thấy trong một trăm năm đó việc nghiên cứu sử nhà Đường đã có nhiều thành quả mới, lại vào tay Âu Dương Tu, Tống Kỳ là những văn nhân trứ danh nên có những chỗ độc đáo, tốt nhất là các bộ phận Chí, Biểu, phẩm chất hơn hẳn Cựu Đường Thư.

Thực Hóa Chí liên quan đến tình trạng ruộng đất và ghi chép về thuế má, so với ghi chép từ các sách vở trước thì phong phú hơn nhiều. Địa Lý Chí các đạo cương vực so với thời toàn thịnh của nhà Đường là những năm Khai Nguyên (開元)[8] có 15 đạo, hộ khẩu thì lấy tiêu chuẩn từ những năm Thiên Bảo (天寶), chế độ châu quận duyên cách thì dựa theo những năm Thiên Hựu (天祐) nên cách trình bày rất là chu đáo. Nghệ Văn Chí thì ngoài Kinh Tịch Chí của Cựu Đường Thư còn thêm vào rất nhiều sách vở, văn tập người đời Đường có đến hơn 100 nhà nên tổng số lên đến hơn 600 nhà. Cựu Đường Thư không có Tuyển Cử Chí (選舉志) nhưng Tân Đường Thư nghiên cứu Cựu Ngũ Đại Sử thì chép Tuyển Cử Chí nên giữ lại được tài liệu về cách thức dùng người đời Đường.

Tân Đường Thư cũng lần đầu chép về Binh Chí (兵志), ghi chép phủ binh chế đời Đường thuật lại những tình huống được và mất, hưng thịnh và suy vong, đưa ra những sử liệu về quân sự. Thế nhưng quan trọng hơn nữa đây là lần đầu vấn đề này được nêu ra và từ đó các bộ sử tiếp theo đã sử dụng làm phong phú cho nội dung của Nhị Thập Tứ Sử.

Tân Đường Thư kế thừa thể lệ của Sử Ký, Hán Thư nên cũng biên soạn Tể Tướng Biểu (宰相表), Phương Sảng Biểu (方鏯表), Tông Thất Thế Hệ Biểu (宗室世系表), khôi phục lại những sáng lệ trước đây của Tư Mã Thiên như Kỷ, Truyện, Chí, Biểu. Những phần đó giúp cho những ai nghiên cứu về đời Đường, những thay đổi lên xuống của các tể tướng, thế lực phiên trấn đều có thể thấy được rất rõ ràng.

Thế nhưng Tân Đường Thư cũng có những khuyết điểm. Bộ phận Truyện quá giản lược, văn tự so với Cựu Đường Thư ít hơn đến 2/3, rất nhiều sử liệu bị loại bỏ, phần Bản Kỷ thì toàn bộ các chiếu lệnh bị bỏ đi, nhiều nhân vật trọng yếu cũng không có truyện ký chẳng hạn như Huyền Trang (玄奘), Nhất Hạnh (一行), Thần Tú (神秀), Huệ Năng (慧能), Tôn Tư Mạo (孫思邈) và toàn bộ lịch sử Phật giáo đời Đường không ghi chép gì, các phần về khoa học kỹ thuật

cũng chẳng được bao nhiêu. Một phần vốn dĩ rất sinh động là Truyện Ký, chẳng hạn Cao Sơn Chi Truyện (高仙芝傳), Phong Thường Thanh Truyện (封常清傳) bị bỏ đi khiến cho không còn ý vị gì. Những bộ phận đó bị đơn giản hóa không còn được như Cựu Đường Thư. Trên quan điểm biên soạn lịch sử, Tân Đường Thư vẫn giữ được các yếu tố nghiêm, cẩn, giản, khiết. Cả hai bộ Tân Đường Thư và Cựu Đường Thư đều có sở trường, không thể bỏ đi bộ nào, nên đọc để tham chiếu, bổ túc cho nhau như vậy mới có ích.

            Cựu Ngũ Đại Sử

Cựu Ngũ Đại Sử do Tiết Cư Chính (薛居正) đời Bắc Tống biên soạn, chẳng khác gì Đường Thư chia ra thành một tân một cựu thì Ngũ Đại Sử cũng có hai loại, bộ viết trước gọi là Cựu Ngũ Đại Sử (舊五代史), bộ viết sau gọi là Tân Ngũ Đại Sử (新五代史).

Cựu Ngũ Đại Sử tuy dựa theo đời Ngũ Đại viết thành sách nhưng ở các phần Thế Tập Liệt Truyện (世襲列傳), Tiếm Ngụy Liệt Truyện (僭僞列傳), Ngoại Quốc Liệt Truyện (外國列傳) đều gộp chung phương nam và bắc Hán tất cả 10 nước và Khiết Đan (契丹), Thổ Phồn (吐蕃) đều gồm lại nhưng thực tế thì lúc đó vào thời Ngũ Đại Thập Quốc thì các dân tộc đó đều là một bộ phận riêng.

Thời gian biên soạn Cựu Ngũ Đại Sử ngắn nên không mất nhiều công lao chỉnh lý sử liệu và nhuận sắc văn tự. Thế nhưng so sánh với Tân Ngũ Đại Sử thì lại dài hơn. Nhóm Tiết Cư Chính trải qua các triều Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu nên hiểu rõ lịch sử đương thời, rất nhiều chiếu lệnh, công văn, đáng án, thậm chí hành trạng, mộ chí, minh văn thời kỳ đó cũng đều tai nghe mắt thấy, sưu tầm sử liệu đương nhiên thuận lợi hơn nhiều. Sở dĩ các việc Cựu Ngũ Đại Sử so sánh với Tân Ngũ Đại Sử thì xác thực, tường tận, sử liệu cũng phong phú hơn. Về sau Tư Mã Quang (司馬光) biên soạn Tư Trị Thông Giám (資治通鑑), Hồ Tam Tỉnh (胡三省) soạn Thông Giám Chú (通鑑注) đều sử dụng tài liệu trong Cựu Ngũ Đại Sử rất nhiều.

Thời Bắc Tống, Tân và Cựu Ngũ Đại Sử cùng lưu hành. Vua Chương Tông nhà Kim đã ban chiếu ra lệnh các học giả chuyên dùng Tân Ngũ Đại Sử, cho nên Cựu Ngũ Đại Sử dần dần mất đi không còn nghe thấy nữa.

Bản Cựu Ngũ Đại Sử ngày nay là do đời Thanh Càn Long sao lục từ Vĩnh Lạc Đại Điển (永樂大典), lại lấy dẫn văn của Sách Phủ Nguyên Qui (册府元龜) bổ sung vào, dùng lại sử tịch trong đó cùng khảo đính loại thư, văn tập, bi văn đời Ngũ Đại nên nguyên thư cũng được khôi phục bảy, tám phần mười nhưng vẫn còn những dấu vết sửa đổi của sử gia đời Thanh.

            Tân Ngũ Đại Sử

Ngũ Đại Sử là do Âu Dương Tu (歐陽修) đời Bắc Tống soạn. Tân Ngũ Đại Sử học theo Nam Sử, Bắc Sử đả phá giới hạn triều đại, đem phần Kỷ của ngũ triều tung hợp thành một nơi, theo thời gian trước sau mà trình bày. Bộ phận Liệt Truyện hoàn toàn thu thập theo loại rồi theo đó mà biên soạn, chia thành gia nhân (家人), bầy tôi (), nhất hạng (一行), Đường lục thần (唐六臣), nghĩa nhi (義兒), linh quan (伶官), hoạn giả (宦者) tất cả quan lại nhiều triều đại biên tập tại tạp truyện (雜傳). Loại biên tập này và các sử lệ truyền khác nhau rất nhiều, thế nhưng đối với việc tra xem nhân vật loại nào hoặc đường lối lịch sử phát triển và so sánh thì rất tiện, chẳng hạn tra tư liệu về hí kịch sử thì xem Linh Quan Truyện (伶官傳), tra chế độ con nuôi thì xem Nghĩa Nhi Truyện (義兒傳).

Tân Ngũ Đại Sử thêm vào Cựu Ngũ Đại Sử không ít, những tư liệu mới chưa từng sưu tập lại hấp thu được những thành tựu mới trong việc nghiên cứu về Ngũ Đại Sử của người đời Tống chẳng hạn như Ngũ Đại Sử Bổ (五代史補), Ngũ Đại Hội Yếu (五代會要), Ngũ Đại Sử Khuyết Văn (五代史闕文), Cửu Quốc Chí (九國志). Ngay cả những loại tiểu thuyết lặt vặt, bút ký, dã sử, tạp sử nội dung cũng có rất nhiều tư liệu lịch sử. Lối hành văn trong Tân Ngũ Đại Sử nghiêm cẩn, bỏ đi những bộ phận tạp nhạp trong Cựu Ngũ Đại Sử, đính chính được nhiều điểm sai lầm. Thế nhưng cũng có những chỗ cắt xén quá đáng khiến người đọc không hiểu được nguyên bản như thế nào. Phần cắt bỏ trong Chí cũng có chỗ vụng về nên những phần chế độ điển chương về kinh tế, chính trị thời Ngũ Đại đã hoàn toàn không còn giữ được nữa.

Tân Ngũ Đại Sử tăng thêm phần Thập Quốc Thế Gia Niên Phổ (十國世家年譜), trình bày các chính quyền từ khi kiến lập và truyền tập các niên đại rất là sơ sài. Tứ Di Phụ Lục (四夷附錄) ghi chép các dân tộc ở chung quanh Trung Hoa, còn Ti Thiên Khảo (司天考) và Chức Phương Khảo (職方考) thì thay thế cho các mục thiên văn, lịch pháp, địa lý đều rất là giản lược, không có gì đặc sắc.

Mục đích của Âu Dương Tu khi viết Tân Ngũ Đại Sử là học theo bút pháp Khổng Tử viết Xuân Thu, dùng các loạn thần tặc tử, thiếu liêm chính xấu hổ của năm đời Tiên [Ti], Thát [Đát] nên nhân đó cố ý truy cầu “khen chê nghĩa liệt” (褒貶義例) khiến cho văn tự quá ư giản lược, hành văn trúc trắc làm người đọc phát chán.

            Tống Sử

Cả ba bộ Tống Sử, Liêu Sử và Kim Sử đều được hoàn thành trong hai năm rưỡi thời nhà Nguyên, từ Chí Nguyên năm thứ ba đến năm thứ năm (1343 – 1345), lấy tên người soạn là Thoát Thoát (脫脫). Thực ra Thoát Thoát chỉ là người tổng giám tu, những người tham gia biên soạn thì Âu Dương Huyền (歐陽玄) có công nhiều nhất.

Tống Sử là bộ sử có nội dung dài nhất trong 25 bộ, là sử tịch trứ danh của Trung Hoa về chính quyền họ Triệu nhà Tống hơn 300 năm, chính trị tương đối ổn định, kinh tế phồn vinh, học thuật văn hóa thăng tiến, ấn loát bằng bản khắc thịnh hành, thư tịch biên tả đều được in ra lưu truyền. Do đó khi triều Nguyên tu sửa Tống Sử đã có rất nhiều sử liệu để dùng đến, chẳng hạn như biên niên thì có Lịch Triều Thực Lục, là quốc sử viết theo thể kỷ truyện ghi chép rõ ràng, là hội yếu về chế độ điển chương.

Ngoài ra còn có một số lượng lớn sách do tư nhân soạn, chẳng hạn như chuyên ký về Bắc Tống là bộ Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên (續資治通鑑長編) của Lý Đào (李燾), chuyên ký Tam Triều Bắc Minh Hội Biên (三朝北盟會編) viết về quan hệ hòa hay chiến với nhà Kim của ba triều Huy Tông (徽宗), Khâm Tông (欽宗), Cao Tông (高宗) của Từ Mộng Tân (徐夢莘) và rất nhiều văn tập, bút ký của dân chúng đời Tống khiến cho bộ Tống Sử trở thành một biên tập rất lớn.

Trong Tống Sử, phần Chí số lượng rất lớn, chiếm 1/3 toàn bộ sách. Phần này có hệ thống và rõ ràng tường thuật chế độ điển chương các phương diện chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá đời Tống chẳng hạn Thực Hoá Chí (食貨志) thì dựa theo kinh tế mà phân biệt các loại nông nghiệp, diêm nghiệp, trà nghiệp, thủ công nghiệp cùng chế độ hoá tệ, chế độ thuế khoá, phu dịch. Tuyển Cử Chí (選舉志), Chức Quan Chí (職官志) chép rõ việc tuyển mộ, đề bạt quan liêu và chế độ thi cử đời Tống cùng cơ cấu các cấp quan liêu, tình huống tổ chức, bao trùm cả thực ấp của các chức quan, ấm bổ (tập ấm), bổng lộc các loại, từ đó có thể nhìn ra chế độ tập quyền trung ương đời Tống được củng cố như thế nào. Binh Chí (兵志) phân chia ra các chủng loại quân đội, chiêu mộ, tuyển bổ, lương thực được cấp, huấn luyện, đồn trú, khí giới khôi giáp các chế độ.

Thể lệ của Tống Sử hoàn bị, các phần Kỷ, Biểu, Chí đều hoàn thành bao trùm một số lượng lớn mà cũng có những sáng tạo mới. Liệt Truyện là phần phong phú nhất, tổng cộng chép về hơn 2000 người, bổ túc cho những nhân vật quan trọng mà liệt truyện trong Ngũ Đại Sử nay chép vào trong Chu Tam Thần Truyện (周三臣傳), lại phân chia ra hai truyện ngoại quốc, man di, phân chia rõ ràng dân tộc thiểu số trong nước và giới hạn các nước ngoài ở chung quanh.

Tống Sử sáng lập Đạo Học Truyện (道學傳) đối với các nhân vật đại biểu trong đạo học như Chu Đôn Di (周敦頤), Trình Hạo (程顥), Trình Di (程頤), Thiệu Ung (邵雍), Chu Hi (朱熹) đều lập thành truyện riêng, lại thêm ca tụng để đưa ra phái Trình Chu Lý Học (程朱理學) và nghiêng về Nguyên Hựu Đảng (元祐黨), hạ thấp Tân Đảng (新黨), chủ trương bảo thủ và bài xích tiến bộ, nhấn mạnh và phản ảnh ý thức của giai cấp thống trị.

Sử liệu của Tống Sử tuy phong phú, các bộ phận tuy lớn nhưng trước thì rõ ràng mà sau lại sơ lược nên chưa bao trùm hết mọi việc. Vì việc soạn sách gấp rút nên có những thiếu sót trong sử liệu lại thêm cắt xén không cẩn thận nên nghị luận trong sự ký có điều mâu thuẫn, một người mà hai truyện, có mục mà không có văn nên khuyết điểm là điều không tránh khỏi.

            Liêu Sử

Liêu Sử ghi chép về lịch sử của tộc Khiết Đan (契丹) ở phía bắc Trung Hoa thành lập triều đại Liêu. Liêu Sử chép lại đặc điểm khi giới quí tộc người Khiết Đan thích ứng về chính trị và quân sự để tổ chức thành một tổ chức độc hữu không câu nệ theo các mục lục của sử cũ, sáng tạo mới hai chí Doanh Vệ (營衛) và Binh Vệ (兵衛).

Doanh Vệ Chí thuật lại tổng quát về tình hình sinh hoạt, việc thành lập Doanh Vệ và Hành Doanh của chính quyền người Liêu, phân bố và chiến trận của người Khiết Đan còn bình thời thì họ làm ruộng, săn bắn, đánh cá. Binh Vệ Chí (兵衛志) chia ra Binh Chế (兵制), Ngự Trướng Thân Quân (御帳親軍), Doanh Vệ Kỵ Quân (宫衛騎軍), Đại Thủ Lãnh Bộ Tộc Quân (大首領部族軍), Đơn Bộ Tộc Quân (單部族軍), Ngũ Kinh Hương Đinh (五京鄉丁) các tổng mục, tổ chức quân sự của người Liêu chặn giữ những nơi hiểm yếu. Phương pháp ghi chép tường thuật này rất đặc sắc.

Phần Biểu trong Liêu Sử rất nhiều, đó là một đặc điểm.Tổng cộng có cả thảy tám Biểu, bao gồm Thế Biểu (世表), Hoàng Tử Biểu (皇子表), Công Chúa Biểu (公主表), Hoàng Tộc Biểu (皇族表), Ngoại Thích Biểu (外戚表), Du Hạnh Biểu (遊幸表), Bộ Tộc Biểu (部族表), Thuộc Quốc Biểu (屬國表). Các Biểu như Du Hạnh Biểu, Bộ Tộc Biểu, Thuộc Quốc Biểu là những mục mới có lần đầu trong Liêu Sử. Những Biểu đó chiếm phạm vi không nhiều, ghi chép về nhân vật và sự kiện cũng không ít, so với bộ phận kỷ, truyện thì có những tác dụng bổ sung.

Quyển sau cùng trong Liêu Sử là Quốc Ngữ Giải (國語解), nhằm chú thích các tiếng Khiết Đan có trong sách về quan chế, doanh vệ, bộ tộc, địa danh, giúp cho người đọc Liêu Sử có phương tiện rất lớn nhưng dịch âm cũng có một số sai lầm. Về sau, dưới đời Thanh trong Liêu Kim Nguyên Tam Sử Quốc Ngữ Giải (遼金元三史國語解) đã bổ túc cho những thiếu sót này.

Liêu Sử là bộ sử giản lược nhất trong 25 bộ sử, việc ghi chép cũng không hay. Liên quan đến lịch sử bộ tộc Khiết Đan tồn tại hơn 90 năm bao gồm chính quyền Tây Liêu mà chỉ lướt qua trong phần Bản Kỷ còn hơn 200 người Liêu thì chỉ có hơn 100 thiên liệt truyện quả thực thiếu sót rất nhiều. Ngoài việc soạn thảo gấp gáp, sơ sài thì về phạm vi sử liệu cũng ít ỏi vì đời Liêu cấm sách rất nghiêm nhặt, không cho trước thuật các truyện tích ở phía nam khiến cho hậu nhân khó tìm sử liệu đời Liêu nên không cách gì có thể bổ túc được. Liêu Sử là thành tựu duy nhất chép về lịch sử triều đại người Liêu nhưng lại là bộ chính sử không để lại nhiều chi tiết liên quan đến họ.

            Kim Sử

Kim Sử là bộ sử tốt nhất trong ba bộ Tống, Liêu, Kim, xưa nay vẫn được giới sử học khen ngợi nói rằng bộ sách này từ đầu đến cuối đều hoàn chỉnh, bố cục nghiêm mật, chặt chẽ mà không sơ sài, phong phú mà không tạp nhạp (約而不疏,贍而不蕪), thể lệ cũng không sáng tạo cái mới. Trước Bản Kỷ một thiên trong Kim Sử là Thế Kỷ (世紀) thuật về tiên thế của Kim Thái Tổ A Cốt Đả (金太祖阿骨打) ấy là mô phỏng cách miêu tả trong thiên sau cùng Bản Kỷ của Ngụy Thư (魏書) là Thế Kỷ Bổ (世紀補) tường thuật một số hoàng đế ở sau là đoạn đầu của Kim Sử.

Triều đại nhà Kim là một thời chiến tranh rất phức tạp nên Kim Sử đem việc chủ đạo của mỗi chiến dịch tập trung trong Bản Kỷ hoặc Liệt Truyện, cách thức đó quả là ngăn nắp đâu ra đấy, lại không trùng hợp với nhau, từ một kỷ hay một truyện có thể mở ra được khung cảnh chung liên quan đến chiến tranh, việc tra cứu rất tiện lợi. Mục Chí trong Kim Sử có hệ thống và rõ ràng đầy đủ, chiếm đến 1/3 của Kim thư, còn Hà Cừ Chí (河渠志), Binh Chí (兵志), Thực Hóa Chí (食貨志), Tuyển Cử Chí (選舉志), Bách Quan Chí (百官志) đều viết rất kỹ. Chẳng hạn như Thực Hóa Chí trong đó chia ra nhiều mục nhỏ, ghi chép rõ ràng về mọi phương diện kinh tế đời Kim.

Phần Biểu trong Kim Sử cũng có điều mới mẻ, là lần đầu tiên biên chế về Giao Sính Biểu (交聘表) chép về việc hòa đàm, giao chiến, khánh hạ, chia buồn các việc qua lại giữa các nước Tống, Tây Hạ, Cao Ly cũng đều chép đầy đủ khiến cho người đọc qua là hiểu. Thiên sau cùng của Kim Sử là Kim Quốc Ngữ Giải (金國語解) chia ra làm cách xưng hô của quan lại và của người thường, tính chất, tác dụng giống như tác dụng trong Quốc Ngữ Giải (國語解) của Liêu Sử (遼史). Tuy nhiên tên dịch không thống nhất nên có khuyết điểm dễ bị lẫn lộn với tên Hán. Việc biên soạn Kim Sử cũng có một số điểm đáng suy nghĩ, tiết lộ nhiều điều trọng yếu của nhân vật hay sự kiện.

            Nguyên Sử - Tân Nguyên Sử

Nguyên Sử là do Tống Liêm (宋濂) đời Minh soạn. Nguyên Sử là một bộ sử biên soạn đúng đắn, văn tự mạch lạc rõ ràng, viết dễ hiểu bảo tồn được sự đối chiếu sử liệu phong phú trong sử thư.

Các kỷ về đời vua trong Nguyên Sử có nội dung rõ ràng, nêu rõ khác biệt giữa các đời vua, chủ yếu ở những người tại vị lâu dài nên sử liệu gốc có nhiều, thành thử ghi chép dài. Ngược lại, nếu thời gian ở trên ngôi ngắn thì cũng chỉ miêu thuật đơn giản. Sự tích của các vua Thái Tổ, Thái Tông vì có Nguyên Triều Bí Sử (元朝祕史) chưa được dịch ra, tư liệu ít nên bản kỷ chỉ có một quyển. Định Tông, Hiến Tông tại vị thời gian ngắn nên những việc thực sự làm được cũng ký thuật đơn giản. Từ vua Thế Tổ trở về sau, sử liệu phong phú nên những việc được tường thuật kỹ lưỡng. Thế Tổ Kỷ (世祖紀) nhiều đến 14 quyển, Hiến Tông Kỷ (寧宗紀) cũng lên đến 10 quyển.

Mục Chí trong Nguyên Sử miêu tả rất tốt, thu thập được nhiều sử liệu quí giá, phản ảnh nội dung trọng yếu trong xã hội đời Nguyên. Thiên Văn Chí (天文士) phản ảnh thành quả nghiên cứu của khoa học gia kiệt xuất đời Nguyên là Quách Thủ Kính (郭守敬). Lịch Chí (曆志) thì căn cứ vào Thụ Thời Lịch Kinh (授時曆經) của Quách Thủ Kính và Thụ Thời Lịch Nghị (授時曆議) của lịch toán gia đời Nguyên Lý Khiêm (李謙) biên soạn. Địa Lý Chí (地理志) thì gốc vốn là từ Đại Nguyên Nhất Thống Chí (大元大一統志) của Nhạc Huyền (岳鉉). Hà Cừ Chí (河渠志) rút ra từ Hà Phòng Ký (河防記) của Âu Dương Huyền (歐陽玄) và dựa theo các sách Hải Vận Kỷ Nguyên (海運紀原), Hà Phòng Thông Nghị (河防通議) mà biên soạn. Những sách này đã mất, mục Chí trong Nguyên Sử đã giúp chúng ta bảo lưu được tinh hoa của những bộ sách này. Nguyên Sử bỏ mất mục Nghệ Văn Chí (藝文志) nên thư mục đời Nguyên không còn tồn tại nữa.

Nguyên Sử cũng sáng tạo mới truyện Thích Lão (釋老) chuyên về ghi chép tình huống các phương diện tôn giáo, trong đó có thể trình bày các nội dung trọng yếu về địa vị tôn giáo đời Nguyên, việc phát triển và truyền bá. Bộ phận Nguyên Sử bản kỷ phần nhiều lấy ra từ thực lục của 13 triều nhà Nguyên nhưng bộ thực lục này ngày nay đã thất truyền nên tài liệu ghi trong bản kỷ càng thêm trân quí. Triều Thuận Đế (順帝) không có thực lục để dựa vào nhưng đầu đời Minh khi tu bổ Nguyên Sử thì cũng đã cho người đến Đại Đô của nhà Nguyên (tức Bắc Kinh ngày nay), Sơn Đông các nơi thu thập sử liệu, những điều tai nghe mắt thấy đều là từ những người sống trong thời Nguyên Thuận Đế nên tư liệu rất xác thực, trùng tu Nguyên Sử đã từ đó mà bổ túc.

Sở dĩ sử liệu về thời kỳ Thuận Đế Kỷ được coi là đáng tin vì Nguyên Sử hoàn thành vào những năm đầu của nhà Minh, cách thời kỳ nhà Nguyên diệt vong chỉ một, hai năm. Sử liệu tản lạc mất mát ở các nơi, người biên soạn chưa được đọc tới, các loại sử liệu viết bằng tiếng Mông Cổ thì người không biết tiếng Mông Cổ không đọc được, lại gấp gáp cho mau xong nên nhiều sử liệu trọng yếu không được tham khảo đến chẳng hạn như Nguyên Triều Bí Sử (元朝祕史), Chuyết Canh Lục (輟耕錄) của Đào Tông Nghi (陶宗儀), Tây Du Lục (西遊錄) của Gia Luật Sở Tài (耶律楚材) nên sử liệu bị thiếu sót và nhiều chỗ sai lầm.

Người triều Minh không thỏa mãn với Nguyên Sử nên đã soạn Nguyên Sử Bổ Di (元史補遺), Nguyên Sử Chính Ngộ (元史正誤) nhưng cũng chưa từng được dùng để sửa đổi lại.

Công tác soạn lại Nguyên Sử chính yếu xảy ra dưới triều Thanh. Đầu đời Thanh, Thiệu Viễn Bình (邵遠平) soạn Nguyên Sử Loại Biên (元史類編), Ngụy Nguyên (魏源) soạn Nguyên Sử Tân Biên (元史新編) đều là so sánh Nguyên Sử với các sử liệu để tăng bổ, sửa lại những chỗ sai lầm.

Đời Thanh, Hồng Quân căn cứ vào sử Mông Cổ do Tây phương lưu truyền để soạn ra Nguyên Sử Dịch Văn Chứng Bổ (元史譯文證補) khiến cho sử liệu đời Nguyên càng thêm phong phú. Tiền Đại Hân (錢大昕), Lý Văn Điền (李文田) cũng tuyên dương, chú thích, chỉnh lý Nguyên Sử Bí Sử (元朝祕史) khiến cho người đời chú ý, những công tác đó đều chuẩn bị cho việc soạn lại Nguyên Sử.

Cuối đời Thanh, thu góp các thành quả nghiên cứu của người đi trước và tham khảo tư liệu Trung Hoa và nước ngoài để soạn thành chuyên thư thì chủ yếu có Tân Nguyên Sử (新元史) của Kha Thiệu Mân (柯劭忞), Mông Ngột Nhi Sử Ký (蒙兀兒史記) của Đồ Ký (屠寄), Nguyên Thư (元書) của Tăng Liêm (曾廉).

Trong số này Mông Ngột Nhi Sử Ký của Đồ Ký có giá trị hơn cả, tham khảo cẩn thận, dung hợp cựu sử với tài liệu mới, sắp xếp lại khiến cho người đọc thích thú, tiếc rằng bộ sách này viết chưa xong.

Bộ sách của Tăng Liêm tuy thể lệ hoàn chỉnh nhưng nội dung thô kệch, hẹp hòi nên bộ sách được coi trọng nhất vẫn là Tân Nguyên Sử.

Thành tựu chủ yếu của Tân Nguyên Sử là từ các đời Minh, Thanh về sau việc nghiên cứu về sử nhà Nguyên đã tổng hợp, chỉnh sửa và biên tập, sắp xếp theo một thể lệ nhất định thành chuyên thư nghiêm mật, sửa chữa lại những khuyết điểm nghiêm trọng của các bộ Nguyên Sử cũ, loại bỏ những trùng hợp và làm sáng tỏ những sai lầm hay thiếu sót. Như mô phỏng Ngụy Thư (魏書) và Kim Sử (金史), bản kỷ trước tăng gia một thiên Tự Kỷ (序紀), bổ sung lịch sử trước khi Thành Cát Tư Hãn (成吉田汘) kiến quốc.

Trong Liệt Truyện đặc biệt có truyện Hàn Lâm Nhi (韓林兒) tường thuật việc cuối đời Minh đảng Khăn Đỏ (紅巾) nổi lên. Thế nhưng Tân Nguyên Sử có rất nhiều việc đáng lẽ phải làm mà không làm như phần Nghệ Văn Chí (藝文志) mà nhóm Tiền Đại Hân đã từng bổ soạn nhưng Tân Nguyên Sử lại không thu nhập. Về phương diện tôn giáo tuy có tăng bổ nhưng không đủ, đối với sử liệu Tây phương chưa khai thác được nhiều. Văn bút và cựu văn cũng chưa phân biệt rõ rệt những tên dịch ra đều lệch lạc nên khiến cho khó có thể phân biệt. Năm 1930, Tân Nguyên Sử hoàn thành nhưng quan điểm sử học rất cũ kỹ, nói chung Tân Nguyên Sử còn cách xa kỳ vọng của mọi người.

            Minh Sử

Minh Sử do Trương Đình Ngọc (張廷玉) đời Thanh soạn là bộ sử mất nhiều thời gian biên toản nhất trong tất cả 25 bộ sử của Trung Hoa. Bộ sử này ba lần thay đổi bản thảo, trước sau mất tất cả vài chục năm và được coi như là bộ sử quan tu thành tựu rất cao.

Minh Sử viết rất hay là do bản thảo đầu tiên của nhóm Vạn Tư Đồng (萬斯同) biên soạn, dưới sự chi trì của những học giả trứ danh đời Minh như Hoàng Tông Hi (黄宗羲), Cố Viêm Võ (顧炎武) mất mấy chục năm tâm huyết mới hoàn thành.

Những người này vốn là người có nhiệt tình yêu nước, yêu dân nên khi tu soạn bộ Minh Sử đã hết lòng hết sức, không màng danh lợi, thực lòng công tác biên soạn nên bố cục nghiêm chỉnh, hoàn bị, các vấn đề lớn của sử nhà Minh trong ba trăm năm đều được ghi chép kỹ lưỡng.

Đối với những việc nổi bật đời Minh cũng đều được đặc biệt soạn riêng thành một bộ phận, chẳng hạn trong Liệt Truyện các mục Yêm Đảng (閹黨), Lưu Tặc (流賊), Thổ Ti (土司) là những sáng tạo mới.

Yêm Đảng Truyện tường thuật những việc làm bất chính các hoạn quan cùng phe đảng của bọn Vương Chấn (王振), Lưu Cẩn (劉瑾), Nguỵ Trung Hiền (魏忠賢) gây ra tai ương cho dân chúng.

Thổ Ti Truyện ghi chép về các dân tộc thiểu số vùng tây nam chia ra khu vực Hồ Quảng, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quí Châu, Quảng Tây năm vùng thổ ti, tuy rằng lập trường sai lầm, lởi lẽ nhiều phần coi thường nhưng cũng giữ được nhiều sử liệu quí giá về các dân tộc thiểu số.

Về Lưu Tặc là chỉ Lý Tự Thành (李自成), Trương Hiến Trung (張獻忠) các vụ nổi dậy cuối đời Minh, những người này bị miệt thị theo lập trường của tác giả nhưng nếu khách quan mà nói, Lưu Tặc Truyện bảo tồn được nhiều sự kiện về các biến động này.

Mục Chí của Minh Sử tường thuật rất thành công, nội dung đầy đủ chính xác. Thiên Văn Chí (天文志), Lịch Chí (曆志), Hà Cừ Chí (河渠志) bao gồm nhiều sử liệu ghi chép các phương diện khoa học, kỹ thuật, phản ảnh những thành tựu mới đời Minh. Nghệ Văn Chí (藝文志) không giống so với các bộ sử có từ trước và chỉ chép về những gì người đời Minh đã trước tác. Minh Sử lại có thêm Thất Khanh Biểu (七卿表). Thất Khanh Biểu chỉ thượng thư Lục Bộ và thêm đô ngự sử Đô Sát Viện.

Để củng cố cho quyền lực của hoàng đế, vua đời Minh phế bỏ tả, hữu thừa tướng, đem quyền lực phân tán xuống sáu bộ nên Lục Bộ có quyền nhiều hơn. Đô Sát Viện trông coi, giám sát bách quan nên có quyền lực rất lớn. Thất Khanh Biểu dùng hình thức biểu cách ghi chép rõ ràng các quan viên cao cấp có thể thay đổi lẫn cho nhau, giản dị mà dễ hiểu rất tiện cho việc tra cứu. Minh triều tuy có cái tên cửu khanh (九卿) nhưng thông chính sứ và đại lý tự khanh quyền hành không bằng được thất khanh nên liệt kê trong biểu cũng sơ lược hơn.

Khuyết điểm chủ yếu của Minh Sử là sự tuyên dương danh giáo cương thường và chống lại các cuộc nổi dậy rất rõ ràng, đối với việc hưng khởi của vương triều Thanh và việc nhà Nam Minh kháng Thanh là việc xảy ra ngay khi bộ sử này được soạn nên không dám viết thẳng ra, thậm chí còn bẻ cong hay nắn lại.

            Thanh Sử Cảo

Thanh Sử Cảo được thực hiện thời đầu Dân Quốc do cơ quan biên tu đặc biệt của Quốc Sử Quán, Triệu Nhĩ Tốn làm chủ biên. Năm 1914 bắt đầu soạn, đến năm 1927 thì hoàn thành phần lớn. Tuy nhiên vì thời thế loạn lạc nên bộ sách này chưa kịp tu chính cho cẩn thận, chu đáo mà đã phải in ra. Thành thử Thanh Sử Cảo cũng là một bộ chính sử nhưng chưa hoàn tất.

Bộ sách này tuy được biên tu dưới thời Dân Quốc nhưng những người soạn thảo đều là lão thần của nhà Thanh còn lại, đầu óc bảo thủ, giữ vững quan điểm thống trị của Thanh triều nên đối với cuộc cách mạng Tân Hợi hay các cuộc khởi nghĩa đều tỏ vẻ chê bai, nặng lời sỉ mạ còn đối với nhà Thanh thì hết lời ca tụng và mỹ hoá việc xâm lược. Vào thời kỳ đó, chính phủ Quốc Dân không thừa nhận nên ra lệnh cấm phát hành.

Tuy nhiên, Thanh Sử Cảo đã tập trung nhiều tài liệu đời nhà Thanh, đến nay vẫn còn là một bộ sách tham khảo rất quan trọng về Thanh sử. Về phương diện thể lệ, Thanh Sử Cảo không câu chấp vào các luật lệ của đời trước và thích ứng được với tình huống thay đổi của xã hội đời Thanh, sáng lập một thể loại biên mục mới, chẳng hạn Giao Thông Chí, Bang Giao Chí là những đề mục mà các bộ sử trước chưa hề có.

Giao Thông Chí bao gồm cả những sự kiện mới xuất hiện cuối đời Thanh như đường sắt, tàu vận tải (thâu thuyền), điện báo, bưu chính. Trong sách có niên biểu của các đại thần, phiên bộ (藩部) thế biểu, giao sính (交聘) niên biểu … là những tài liệu thiết thực và hữu dụng rất tiện cho việc tra cứu. Nghệ Văn Chí là do đời Thanh đã biên tập Tứ Khố Toàn Thư Tổng Mục Đề Yếu nên đã chiếu theo Minh Sử để lục ra những trước thuật của người đời Thanh.

Nói tóm lại, nếu theo nội dung mà luận Thanh Sử Cảo thì các mục chí, biểu rất hữu dụng, phần bản kỷ thì giản lược, liệt truyện sai sót nhiều. Thế nhưng vì ngày hôm nay chưa có một bộ sử chính thức của đời Thanh nên bộ sách này là một tài liệu tham khảo rất quan trọng.[9]

 



[1] “Văn Cảnh chi trị” chỉ thời kỳ thịnh vượng dưới hai triều Hán Văn Đế và Hán Cảnh Đế.

[2] 漢文學史綱要 (Hán Văn Học Sử Cương Yếu)

[3] Triều đại Nam Tống (420-479) là triều đại đầu tiên của Nam triều trong thời kỳ Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này kéo dài 59 năm và có mười hoàng đế. Vì họ của nhà vua là Lưu nên cũng được gọi là Lưu Tống để phân biệt với triều đại Triệu Tống (960-1279) do Triệu Khuông Dẫn lập ra.

[4] Liệt () có nghĩa là bày ra, nói chung đàn bà còn liệt () là người cứng cỏi, không chịu nhục. Hai chữ tuy cùng âm nhưng nghĩa khác nhau, một đằng nói chung đàn bà, nếu có tài, có công đều được ghi nhận, một đằng chỉ đề cao những người trung trinh theo lễ giáo.

[5] Sử Thông (史通) Bổ Chú (補注)

[6] Chỉ người Hồ Lỗ tết tóc ở quan ngoại Trung Hoa với ý khinh miệt.

[7] Chỉ các dân tộc sống ngoài biển hay ven biển, cũng có ý khinh ghét. Các dân tộc bên ngoài Trung Hoa bị gọi bằng những tên man (nam), di (đông), nhung (tây), địch (bắc).

[8] Niên hiệu của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ (713-741).

[9] Ghi chú của người dịch: Tác giả là người sống và làm việc tại Hoa lục nên không tham khảo các sách ở Đài Loan. Khi thiên di sang Đài Loan, chính quyền Trung Hoa dân quốc đã mang theo tài liệu và bản gốc Thanh sử cảo rồi sau đó Viện Nghiên Cứu Quốc Phòng thành lập một uỷ ban, hiệu đính và thêm bớt bộ Thanh sử cảo cũ để thành một bản mới (in năm 1961, Dân quốc 50). Bộ sách này có tên là Thanh sử (清史) [bỏ đi chữ cảo ý nói đây là bộ sử chính thức, không còn là bản thảo như các ấn bản trước] bao gồm 8 tập lớn được sắp xếp để nội dung đồng nhất với các bản sử triều đại khác (Tống sử, Nguyên sử, Minh sử...).

Trong số 8 tập này, 7 tập đầu là tu đính lại bộ Thanh sử cảo, 529 quyển do Triệu Nhĩ Tốn làm tổng tài trước đây. Riêng tập 8, đây là đóng góp của nhóm biên soạn bao gồm 21 quyển mới theo thứ tự Nam Minh kỷ (5 quyển), Minh di thần liệt truyện (2 quyển), Trịnh Thành Công tải ký (2 quyển), Hồng Tú Toàn tải ký (8 quyển), Cách mạng đảng nhân liệt truyện (4 quyển). Như vậy, tổng cộng bộ Thanh sử nay lên thành 550 quyển.