TẤT TỐ QUYÊN và HÙNG QUỐC TRINH
TRUNG
QUỐC CỔ ĐẠI
TRỨ
DANH SỬ TỊCH II
畢素娟-熊國禎
中國古代著名史籍
Nguyên tác: Trung Quốc Cổ Đại Trứ Danh Sử Tịch
Tác giả: Tất Tố Quyên, Hùng Quốc Trinh
Trung Quốc Văn Hoá Tri Thức Tùng Thư
Đài Loan Thương Vụ Ấn Thư Quán phát hành
1993
MỤC LỤC
Bộ sử biên niên sớm nhất:
Xuân Thu
Văn bút bay bổng và ưu mỹ
- Tả Truyện
Khởi đầu việc biên soạn
Tư Trị Thông Giám
Biên soạn xuất sắc, tổ chức
tinh mật
Thành tựu to lớn của
Thông Giám
BIÊN NIÊN SỬ THỜI KỲ ĐẦU
Gọi là thể biên niên vì chiếu theo năm, tháng,
ngày theo thời gian thứ tự mà ghi chép xuống. Từ khi lịch sử phát triển đến
nay, tối nguyên thủy và sơ đẳng nhất chính là theo năm, tháng, ngày mà ghi xuống
từng việc, từng việc.
Bộ sử biên niên sớm nhất: Xuân Thu
Xuân Thu (春秋) nguyên là danh xưng thông dụng để gọi các bộ
lịch sử do triều đình soạn thời thượng cổ. Thời đại giáp cốt văn, một năm chỉ
có hai mùa xuân và thu, về sau một năm chia ra làm xuân hạ thu đông bốn mùa
nhưng những việc lớn của triều đình vẫn chỉ cử hành ở hai mùa xuân và thu cho
nên cổ nhân đặc biệc coi trọng hai mùa này. Sử quan ghi nhận quốc gia đại sự
trong một năm, nên gọi quốc sử là xuân thu. Trong Minh Quỉ Thiên (明鬼篇) của Mặc Tử (墨子) có viết xuân thu của nước Chu, xuân thu của nước
Yên, xuân thu của nước Tống, xuân thu của nước Tề, ấy là chỉ sử thư của các nước
Chu, Yên, Tống, Tề. Về sau sử thư các nước đều thất truyền, chỉ nước Lỗ còn lại
Xuân Thu lưu truyền đến nay nên xuân thu trở thành tên gọi sử thư của nước Lỗ.
Khổng Tử là người đầu
tiên trong lịch sử khai môn thu nhận học trò, đem văn hóa, điển tịch dạy dỗ kẻ
bình dân bách tính. Ông dạy học sinh rằng có sáu môn ắt phải học, ấy là Thi,
Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu nên gọi là lục nghệ (六藝). Lịch sử là một môn học bắt buộc trong chương
trình, Khổng Tử đem Xuân Thu là sử quan tu của nước Lỗ làm tài liệu giáo khoa,
do đó Xuân Thu trở thành một bộ kinh điển trọng yếu của Nho gia. Đời xưa, văn tự
chỉ có thể khắc trên mai rùa (giáp cốt), sắt đá (kim thạch) hay thanh tre (trúc
giản), truyền bá cực kỳ khó khăn. Cũng nhờ nỗ lực của môn hạ Khổng tử truyền từ
đời này sang đời khác nên Xuân Thu nước Lỗ còn lưu truyền được trong dân gian đến
tận ngày nay.
Bản Xuân Thu còn tồn tại bao gồm hơn một
vạn sáu nghìn chữ, ghi chép từ năm Lỗ Ẩn Công nguyên niên cho đến năm Lỗ Ai
Công 14 tức là từ năm 722 TCN đến năm 480 TCN, chép tất cả các việc lớn trong lịch
sử 242 năm nên hậu thế gọi thời kỳ 242 năm này là Xuân Thu thời đại.
Xuân Thu là một bộ tín sử, cho nên tài liệu
lịch sử trong sách là loại chân thực có thể tin được, chẳng hạn sách chép nước
Lỗ có 34 lần nhật thực, nay dùng phương pháp khoa học hiện đại, tính toán kỹ lưỡng
có thể chứng thực được 33 lần.
Ký sự trong Xuân Thu, có rất nhiều điều
ngày nay đã có thể ấn chứng bằng các văn vật, cổ tịch mới đào được. Xuân Thu là
sử thư quan tu của nước Lỗ, sử dụng niên kỷ nước Lỗ nhưng trong đó ghi chép
không chỉ hạn chế trong nước Lỗ mà chép cả đại sự các nước chư hầu thời Xuân
Thu. Ngoại trừ Thượng Thư trong đó bảo tồn một số văn hiến thượng cổ ra, Xuân
Thu là sách sử duy nhất ghi được một số sự kiện lịch sử trước đời Tần liên quan
đến Trung Hoa còn lưu lại đến ngày nay nên các sử liệu đó cực kỳ quí giá.
Ký sự ghi trong Xuân Thu cực kỳ giản lược,
cơ bản là một điều chỉ ghi một sự kiện, phần nhiều đơn giản vài chữ thôi, giống
như chỉ ghi một tiêu đề. Điều dài nhất trong sách chỉ khoảng hơn 40 chữ, còn ngắn
nhất thì chỉ có một chữ, như năm Ẩn Công 8 thì ghi “Minh” (螟). Vì lối ghi chép thời cổ giản dị như thế, người
ta không thể giải nghĩa được cho rõ ràng. Nếu muốn học lịch sử, cần phải dựa
vào những người lớn tuổi am tường các sự kiện lớn đến giảng giải, dạy dỗ để so
sánh và trình bày cho minh bạch, cái đó gọi là truyện (傳). Truyện là chú thích và giải thích.
Hiện nay lưu truyền về truyện có ba loại:
Tả Truyện (左傳), Công Dương
Truyện (公羊傳), Cốc Lương
Truyện (穀梁傳). Cả ba này hợp
lại được gọi là Xuân Thu Tam Truyện. Sử quan đời xưa ghi lại sự kiện có hai tác
dụng, một là chân thực ghi lại lịch sử, hai là dùng để khuyến khích việc tốt lành,
trừng trị việc xấu xa bao hàm trong các sự việc đó. Thực ra, từ cổ đến kim, dù
văn tự nào thì ghi chép cũng mang theo một ý nghĩa khen chê và cảm tính trong
đó, có điều thời thượng cổ việc chữ nghĩa khó khăn, phức tạp, công cụ để ghi
chép mỗi nơi một khác, sử quan chỉ có thể dùng những chữ rất tinh luyện để viết
xuống nên bao giờ cũng phải đắn đo, kỹ lưỡng.
Về sau, trong quá trình giải thích lịch sử
đối với khuyến thiện trừng ác đã được xưng tụng quá đà, lắm khi khiên cưỡng cho
rằng cổ nhân một lời khen chê (一字褒貶) đều là chữ nhỏ nghĩa lớn (微言大義) nên khen một tiếng thì cực kỳ vinh diệu, chê một chữ thì không khác
gì sỉ nhục đáng chém. Người đọc đem một chữ chẻ ra làm tư, nhai văn, nhá chữ
khiến cho càng lúc càng phiền toái, càng giảng giải càng thêm ly kỳ. Trong Xuân
Thu tam truyện, Công Dương Truyện và Cốc Lương Truyện đều chuyên chú vào việc
giảng giải “vi ngôn đại nghĩa” (chữ nhỏ nghĩa lớn), do đó, hai bộ sách này
không có giá trị sử liệu gì, không thể coi là sử thư chân chính, có thể bỏ qua
mà không cần bàn tới. Tả Truyện cốt lấy việc gài thêm sự kiện là chính, ghi
chép tường tận, cụ thể, văn bút điêu luyện sinh động, là một bộ sách danh tiếng
không những trong sử học mà cả văn học nữa.
Văn bút bay bổng và ưu mỹ - Tả Truyện
Tả Truyện vốn có tên gọi là Tả Thị Xuân Thu (左氏春秋), vốn cùng với Xuân Thu là hai bộ sách đi
song song, không giống như Công Dương Truyện (公羊傳) hay Cốc Lương Truyện (穀梁傳). Công Dương Truyện, Cốc Lương Truyện phụ thuộc
vào kinh Xuân Thu, đem kinh văn và truyện văn cùng đặt tại một chỗ để đối chiếu
với nhau. Còn Tả Thị Xuân Thu vốn là một quyển sách riêng, nhưng được tác giả
trứ danh đời Hán là Lưu Hâm (劉歆) rất coi trọng và thường dẫn dụng sách của họ Tả để giải thích Xuân
Thu, gọi tên sách là Xuân Thu Tả Thị Truyện (春秋左氏傳), như vậy cũng đã phân ra làm kinh và truyện
hai bên khác nhau. Cho đến đời Tấn, Đỗ Dự (杜預) biên soạn Xuân Thu Kinh Truyện Tập Giải (春秋經傳集解), khi đó mới đem truyện văn chia thành từng
năm phụ vào phía sau kinh văn, cứ một đoạn kinh văn thì lại một đoạn truyện
văn, thành hình thức mà chúng ta thấy ngày nay.
Tả Khưu Minh
Thời gian Tả Truyện
ghi chép đồng thời với Xuân Thu nhưng có vượt qua một chút, so với Xuân Thu thì
sớm hơn 83 năm chủ yếu trong khoảng thời kỳ 12 người từ thời Lỗ Ẩn Công đến Lỗ
Ai Công và trở lại tận đời Chu Tuyên Vương (周宣王)
23 (TCN 805). Ông theo niên kỷ mà ghi chép đến đời Lỗ Ai Công 27 (TCN 468), so
với Xuân Thu thì nhiều hơn 13 năm. Nếu so với cách thức có gì ghi nấy (流水帳)
rất giản lược, ký sự của Tả Truyện mười phần phong phú và cụ thể, trong đó có
ghi lại lời nói, hành động, khi thì ghi chi tiết, khi thì ghi tổng quát, khi
thì truy cầu, có khi phụ thêm, cũng có chỗ phân tích, bình luận, là một cách thức
hoàn chỉnh của sử biên niên. Có thể nói Tả Truyện đã rộng rãi thu góp các loại
cổ sử cựu văn, cơ sở công tư, thu thập xem xét cẩn thận ghi chép các phương diện
chính trị, kinh tế, quân sự, xã hội, văn hoá và sự kiện xã hội Trung Quốc thời
đại Tiên Tần.
Vì kinh Xuân Thu ghi
chép giản lược, nhiều chỗ không dễ gì hiểu cho thấu, khi đọc tưởng chừng như một
bản mộc mạc khô khan, không thích thú gì. Tả Truyện thì không như vậy, ghi chép
chân thực bay bổng, lời văn bóng bẩy ưu mỹ, đem sử liệu phong phú vào sự tình
khiến cho mạch lạc, giảng giải rõ ràng, sống động cụ thể khiến cho người đọc cảm
thấy thích thú. Chẳng hạn như năm Ẩn Công nguyên niên, Xuân Thu chép: Hạ, tháng
Năm, Trịnh bá thắng Đoàn ở Yên (夏,五月,鄭伯克段於鄢) trước sau chỉ có 9 chữ, ghi trong Tả Truyện thì thành một thiên lịch sử
đầy tình tiết, khúc chiết, nhân vật sinh động, có đầu có đuôi.
Nếu không có Tả Truyện
ghi chép thêm vào thì thật khó mà giải thích được tình hình cụ thể việc đó như
thế nào. Trong Xuân Thu có rất nhiều chỗ không minh bạch, đều phải dựa vào Tả
Truyện để bổ sung cho rõ ràng nên người sau mới có thể hiểu được. Hoàn Đàm (桓譚)
thời Đông Hán viết: Kinh và Truyện của họ Tả cũng chẳng khác gì mặt trong, mặt
ngoài của chiếc áo, hai bên đối đãi mới thành được. Nếu có Kinh mà không có
Truyện thì dù bậc thánh nhân có nhắm mắt suy nghĩ mười năm cũng không thể hiểu
được (左氏經之與傳,猶衣之表裏, 相待而成。經而無傳,使聖人閉目思之,十年不能知也。). Câu nói đó rất có
lý, cho thấy Tả Truyện quan trọng như thế nào đối với kinh Xuân Thu.
Phần lớn Tả Truyện căn
cứ vào sử liệu đáng tin, dùng cách chêm vào là phương thức chủ yếu, đối với các
sự việc mà kinh Xuân Thu chép thì chỉ chọn những điểm trọng yếu để chú thích và
thuyết minh. Nếu như không có Tả Truyện ghi chép bổ sung qua lại thì giá trị của
kinh Xuân Thu sẽ bị giảm đi nhiều. Tả Truyện còn ghi chép thêm rất nhiều sự kiện
lịch sử mà kinh Xuân Thu không viết. Thời kỳ Xuân Thu phần lớn là việc dân
chúng hai nước Tấn Sở tranh bá làm cốt lõi, thế nên trong kinh Xuân Thu đã
phóng đại việc tường thuật chiến tranh giữa hai nước không nói gì đến việc phát
triển của họ nhưng Tả Truyện đã ghi chép rất rõ ràng.
Chẳng hạn như ba đại
chiến dịch ở thành Bộc (濮), Bí (邲)
và Yên Lăng (鄢陵) hai nước Tấn, Sở thắng lợi ra sao, thịnh suy
chuyển biến thế nào. Xuân Thu tuy có ghi chép những việc đó nhưng không cho biết
khởi nguyên việc tranh chấp và diễn tiến, còn Tả Truyện thì chép từ đầu chí cuối
rất chi tiết, chu đáo và thuật lại chuyện cũ rất tường tận. Nếu không có Tả
Truyện, độc giả sẽ không thể nào biết được ba chiến dịch lớn này ra sao.
Tả Truyện vì có giá trị
sử liệu rất cao nên được người ta coi trọng, đồng thời thành quả văn học và
cách dùng chữ cũng rất cao. Tác giả giỏi về việc bất ngờ đưa ra đặc trưng và bản
chất, dùng những chữ đơn giản để diễn tả những việc phiền phức và tường thuật
điều nào ra điều nấy, nhất là miêu tả chiến tranh, mạch lạc phân minh, có âm
thanh, có màu sắc, lại sành việc dùng những chữ rất đơn giản, thông qua những
chi tiết nhỏ nhặt và nội tâm khiến cho nhân vật được khắc hoạ thật linh hoạt. Tả
Truyện cũng thêm vào những lời lẽ ngoại giao, rất nhiều trường hợp ghi lại như chính
người ta phát ngôn. Các quốc gia đời Xuân Thu có liên lạc ngoại giao rất phức tạp,
miệng lưỡi sứ thần trực tiếp quan hệ đến vinh nhục, an nguy của đất nước cho
nên việc ăn nói giao thiệp rất được coi trọng.
Tả Truyện đối với vấn
đề này đã cài thêm rất sinh động. Nhiều đoạn đối thoại uyển chuyển hàm súc,
ngoài mềm trong cứng, ý vị sâu xa, xem thấy văn tán trùng trùng khiến ung dung khoan
thai mà cốt cách cứng rắn vấn đề đưa ra không chịu nhường một tấc nào. Đó là
phong cách chính trị của thời đó, tác giả Tả Truyện phải rèn đúc, mài dũa nên công
lao bỏ ra không nhỏ. Trong Tả Truyện có rất nhiều truyện lịch sử chẳng hạn như
Tào Quế (曹劌) luận về chiến tranh, Tề Hoàn Công (齊桓公)
đánh nước Sở, Cung Chi Kỳ (宮之奇) khuyên can Giả Đạo (假道),
Chúc Chi Võ (燭之武) đẩy lui được quân Tần, Giới Chi Thôi (介之推)
không nói chuyện lộc, Huyền Cao (弦高) khao quân Tần, Tri Oanh
(知罃) từ Sở trở về Tấn đều là những đoạn văn ưu mỹ,
tình tiết rung động lòng người, quả là danh thiên giai tác trong văn học sử.
Nói về tác giả và thời
gian hoàn thành Tả Truyện thì xưa nay thảo luận đã nhiều, ý kiến cũng mỗi người
một khác. Theo như Tư Mã Thiên viết trong Sử Ký, tác giả của Tả Thị Xuân Thu là
Lỗ quân tử Tả Khưu Minh (左丘明). Khổng Tử từng viết về
ông này như sau: Xảo ngôn, lệnh sắc, túc cung, Tả Khưu Minh sỉ chi, Khưu diệc
sỉ chi. Nặc oán nhi hữu kỳ nhân, Tả Khưu Minh sỉ chi, Khưu diệc sỉ chi (巧言、令色、足恭, 左丘明恥之,丘亦恥之。匿怨而友其人,左丘明恥之,丘亦恥之。) nghĩa là nếu như ăn nói khéo, giỏi nịnh nọt
mà được coi là cung kính thì Khưu Minh lấy làm hổ thẹn, mà Khưu này cũng hổ thẹn.
Nếu phải che dấu lòng oán hận mà kết giao bằng hữu, Tả Khưu Minh lấy làm hổ thẹn,
mà Khưu này cũng hổ thẹn. (Luận Ngữ, Công Dã Tràng)
Điều này cho thấy Tả
Khưu Minh được Khổng Tử rất kính trọng và ông cũng đồng thời với Khổng Tử, hoặc
so với Khổng Tử thì lớn hơn vài tuổi. Trong sách Tả Truyện có không ít đoạn văn
là chứng cứ nói tác giả là người nước Lỗ, chẳng hạn như nhiều khi chữ “tôi”
(ngã) được dùng để thay cho người nước Lỗ, đối với Lỗ công chỉ gọi là Công, đối
với Lỗ đại phu thì không để chữ Lỗ ở đằng trước.
Nếu phân tích nội dung
trong sách, các bộ phận Tả Truyện không cân đối, thời kỳ đầu rất sơ sài, thời kỳ
sau lại rõ ràng, hậu kỳ thì thời Tương Công (襄公),
Chiêu Công (昭公) là đầy đủ nhất, hai vị Công này thời gian tại
vị cộng chung là 63 năm, tính ra là ¼ cả thời kỳ Xuân Thu nhưng nội dung chiếm
khoảng một nửa của toàn thể quyển sách. Khổng Tử sinh vào năm 551 TCN (Lỗ Tương
Công 22), chết năm 479 TCN (Lỗ Ai Công 16). Tả Truyện đối với các việc đương thế
tác giả đều tai nghe mắt thấy nên các sự việc thêm vào đều chu tường, ấy cũng
là chuyện tự nhiên. Còn đối với những sự việc mà thời gian rất gần, tác giả
không tiện bình phẩm cho nên khi viết về Định Công (定公),
Ai Công (哀公) thì sự việc tương đối giản lược. Ngoài ra,
nhân vì viết về người đồng thời nên đối với Khổng Tử, với kinh Xuân Thu thì
thái độ tương đối độc lập và tự do, tác giả có xem xét và thu thập tài liệu nên
kiến giải không thiên lệch.
Như vậy việc tôn kính
Khổng Tử nâng lên bậc thánh nhân, tôn phụng Xuân Thu coi như kinh điển của hậu
nhân xem ra có khác, Tả Truyện và Xuân Thu đều là kinh nên bằng nhau, còn quan
hệ giữa Công Dương Truyện và Cốc Lương Truyện không giống nhau. Vì tác giả Tả
Truyện và Khổng Tử đồng thời đại, đều là người nước Lỗ nên truyện của Tả Khưu
Minh sau một quá trình dài giảng tập, hậu nhân đã tăng gia, bổ sung và tu đính
liên tục, sau cùng viết thành sách khoảng đầu thời Chiến Quốc.
Các trước tác thời kỳ
Tiên Tần rất ít khi chỉ là của một người soạn, đa số đều qua một quá trình biên
tập, Tả Truyện cũng giống như thế. Cũng vì tình huống đó các sử liệu trong Tả
Truyện đều phải phân tích và giám biệt. Nói chung, văn chương xem ra giản khiết
bình dị, khi ghi thời gian đều viết rõ năm tháng ngày, chắc đây là cách sử quan
thời đó ghi chép, sử liệu do đó giá trị tối cao. Kế đó là văn tự ghi chép sự việc,
bao gồm rất nhiều sự kiện lịch sử linh động nhưng thỉnh thoảng không ghi rõ thời
gian. Những truyện đó đa số từ ký lục của tư nhân các nước, trong đó có lịch sử,
có truyện kể, phần nhiều cũng là việc đáng tin. Một số ít là do hậu nhân thêm
vào, những việc đó cần phải phân tích. Lại cũng có những đoạn trường thiên đại
luận, văn chương phần nhiều phù phiếm khoa trương, thích dùng những số mục và
câu biền ngẫu, rất giống với phong cách văn chương thời Chiến Quốc. Khi dẫn các
sử liệu như vậy để chứng minh thì phải hết sức cẩn thận, tốt nhất là tham khảo thêm
các tư liệu khác.
Trong Tả Truyện có nhiều
chuyện bốc phệ, dự ngôn, hầu như chỗ nào cũng linh nghiệm, ấy là do người đời
sau bịa đặt thêm vào và đây cũng là chứng cứ là sách này đã bị thay đổi. Những
dự ngôn đoán trúng là vì chính người bịa ra đã trải qua và một số dự ngôn không
thành vì lịch sử biến chuyển mà người tiên đoán cũng không lường trước được,
nên không thấy được sự việc xảy ra sau này. Hiện nay, nhiều học giả đã phân
tích căn cứ vào những lời tiên tri trong Tả Truyện, chỗ nào ứng nghiệm, chỗ nào
không để biết được thời gian được viết ra.
Vì chưng Tả Truyện có
những giá trị trân quí trong cả sử liệu lẫn văn học nên được người đời sau rất
coi trọng, số người chú giải cũng không phải là ít. Bản chú giải thông dụng nhất
trích ra từ Thập Tam Kinh Chú Sớ (十三經注疏) là bộ Xuân Thu Tả
Truyện Chú Sớ (春秋左傳注疏) do Đỗ Dự (杜預)
đời Tấn chú âm, Khổng Dĩnh Đạt (孔穎達) đời Đường giải thích
là bản có ảnh hưởng nhất trong các bản chú thích. Trung Hoa thư cục ở Bắc Kinh
gần đây có xuất bản Xuân Thu Tả Truyện Chú (春秋左傳注) do Dương Bá Tuấn (楊伯峻) biên soạn. Quyển này
tác giả tham khảo rất nhiều thành quả nghiên cứu của các học giả cổ kim trong
và ngoài nước nên đã chú thích Tả Truyện rất tường tận. Nếu thấy khó khăn khi đọc
bộ sách này thì có thể tham khảo Tả Truyện Dịch Văn (左傳譯文) của Thẩm Ngọc Thành (沈玉成), quyển này căn cứ vào chú
thích vào phiên dịch của Dương Bá Tuấn, văn dịch chuẩn xác, đọc rất thuận lợi,
thông sướng, là bộ Tả Truyện toàn văn dịch thành bạch thoại hay vào bậc nhất.
Hán Ký và Hậu Hán Ký
Thời kỳ nhà Tần thì sách sử cơ bản đều là loại sử biên niên. Từ khi Tây
Hán Tư Mã Thiên (Sử Ký) khởi đầu ra thể loại kỷ truyện, đến Ban Cố trở đi các sử
học gia đều mô phỏng thể lệ đó. Kỷ truyện thể có tính ưu việt như sử gia đời Đườg
là Lưu Tri Cơ (劉知幾) đã nói:
Kỷ thì bao trùm được các đầu mối lớn, truyện thì quanh co các việc nhỏ
nhoi, biểu thì bày ra theo từng năm tháng cấp bậc, chí thì kết nối những chuyện
thiếu sót. (紀以包舉大端,傳以委曲細事,表以譜列年爵,志以總括遺漏) (Sử Thông – Nhị
Thể Thiên).
Thể loại này hoàn bị, ghi chép toàn diện, to lớn rộng rãi, lấy bản kỷ
làm giềng mối, là thực địa phản ảnh thời đại phong kiến trong đó đế vương là
trung tâm của cơ cấu chính trị. Vì thế, thể kỷ truyện bao gồm cả sử biên niên
thể là dòng chính của công việc soạn sử đời Hán Đường.
Cuối đời Đông
Hán, Hán Hiến Đế (漢獻帝) thấy các thiên của Hán Thư quá nhiều, không tiện cho việc đọc nên đã
ra lệnh cho Tuân Duyệt (荀悅) dựa theo thể lệ của Tả Truyện để thu gọn sách
Hán Thư. Tuân Duyệt bắt đầu từ năm Kiến An 3 (CN 198), cho đến năm Kiến An 5
(CN 200), dùng rất nhiều thời gian trong 2 năm đem hơn 80 vạn chữ của Hán Thư cải
biên rút gọn thành Hán Kỷ (漢紀) chỉ còn hơn 18 vạn chữ. Văn tự năm phần cắt bớt
bốn, nhưng các sự kiện trọng đại, nhân vật, chế độ đời Tây Hán đều ghi chép xuống
rất chu đáo nên đã được ca ngợi là “từ ước sự tường” (辭約事詳) [ chữ giảm đi mà việc
thì vẫn rõ ràng].
Toàn bộ sách bao
gồm 30 quyển, theo đế vương từ trước tới sau phân chia thành 12 kỷ, lấy việc
Vương Mãng (王莽) phụ vào sau kỷ Bình Đế (平帝), tổng cộng 231 năm. Tuân Duyệt không theo năm
tháng mà sắp đặt các sự việc mà dùng phương pháp so sánh, đem các nhân vật cùng
một loại hoặc sự việc có liên hệ chép chung với nhau khiến cho có những nhân vật
không thể xác định được năm tháng hay chế độ điển chương ghi chép vào một nơi
phù hợp trong sách. Trên cơ sở phục vụ chính quyền để giải thích ý nghĩa “thiên
nhân chi tế, sự vật chi nghi” (天人之際,事物之宜) nghĩa là trời với người liên quan với nhau nên sự vật đều có chỗ thích
hợp, Tuân Duyệt đã hết sức coi trọng phần luận và tán.
Trong toàn bộ cuốn
sách, “Tuân Duyệt nói” có đến gần 40 chỗ, dài ngắn không đều nhưng cách
viết linh hoạt, tuỳ theo sự việc mà trải ra, không chỉ câu chấp vào một lối
nào, cộng chung ước chừng hơn một vạn chữ, chiếm 1/18 của toàn bộ, đều là tinh
tâm của Tuân Duyệt viết ra cả. Hán Ký bố cục nghiêm mật, văn chương giản dị, là
bộ sử kế đại viết theo thể biên niên. Tuy đã có từ lâu nhưng sử biên niên đã được
hồi sinh sau một thời kỳ bị bỏ quên.
Sau Tuân Duyệt, người đời Đông
Tấn là Viên Hoành (袁宏) đã soạn bộ Hậu Hán Ký (後漢記), là một bộ kế đại sử viết
theo lối biên niên. Toàn bộ sách này gồm 30 quyển, ước chừng hơn 21 vạn chữ,
ghi lại từ Nguyên Phượng 4 (CN 17) đời Tân Mãng khi có cuộc nổi dậy ở Lục Lâm (綠林),
cho đến Diên Khang nguyên niên (CN 220) đời Hán Hiến Đế, Tào Nguỵ thay nhà Hán
thì chấm dứt, tổng cộng 204 năm, án theo đế vương các đời trước sau chia ra
thành Đế Kỷ không đồng đều, lấy những chỗ quan trọng để thêm vào trong đời Đông
Hán.
Thái độ soạn sách của Viên Hoành nghiêm cẩn, tham
khảo rộng rãi Đông Quan Hán Ký (東觀漢記) và các trước tác lịch sử của Tạ Thừa
(謝承),
Tư Mã Bưu (司馬彪), Hoa Kiểu (華嶠), Tạ Thẩm (謝沈), Trương Phan (張璠),
tính ra phải đến hơn một trăm quyển.
Ông khảo chứng các sự việc lịch sử và kham chước
văn tự không sơ sót chút nào, trước tác 21 vạn chữ, thời gian kéo dài đến tám
năm. Sách này ghi chép sự việc rõ ràng, thích đáng, những điểm quan trọng được
nổi bật, ngôn ngữ sinh động, là một bộ biên niên sử ưu tú đời Đông Hán. Về sau
Phạm Diệp (范曄) soạn ra Hậu Hán Thư theo thể kỷ truyện, thu góp tinh
hoa trong Hậu Hán Thư của Viên Hoành. Tuy nhiên Viên Hoành có tư tưởng danh phận
phong kiến rất đậm nét nên sử luận nhiều nhưng xem ra cổ hủ mà không tinh tấn.
Từ đó về sau, sử thư viết theo thể biên niên không có
tác phẩm nào tạo ảnh hưởng sâu rộng, tình trạng đó kéo dài hơn 500 năm, cho đến
thời Tống Tư Mã Quang (司馬光) biên soạn Tư Trị Thông Giám (資治通鑑) ra
đời thì mới có một bộ sử biên niên quán thông cổ kim, là một thành tựu chưa từng
có. Từ Tư Trị Thông Giám trở về sau, thể sử biên niên đã chính thức thay thế thể
kỷ truyện trong lối viết chính sử.
TƯ TRỊ THÔNG GIÁM
Tư Trị Thông Giám (資治通鑑) là một bộ sử theo thể biên niên do sử gia
trứ danh đời Tống Tư Mã Quang () chủ biên, bắt đầu từ năm Uy Liệt Vương nhà Chu
(周威烈王) thứ 23 (TCN 403), cho
đến Hiển Đức 6 (TCN 959) đời Hậu Chu thì chấm dứt, toàn bộ sách này gồm 294 quyển,
300 vạn chữ, chép về 1362 năm lịch sử, văn tự giản luyện, nếu nói về đương thời
thì là một bộ sách biên niên sử qui mô trước nay chưa từng có.
Khởi đầu việc biên soạn Tư Trị Thông
Giám
Tư Mã Quang (1019-1086)
Tư Mã Quang, tự Quân
Thực (君實) người làng Thúc Thuỷ (涑水) Hạ huyện (夏縣), Thiểm Châu (陝州) [nay là Hạ huyện, Sơn
Tây], sinh năm Thiên Hi 3 (CN 1019), chết năm Nguyên Hựu nguyên niên (CN 1086)
đời Tống Triết Tông (宋哲宗), hưởng thọ 68 tuổi. Sau khi chết ông được
truy tặng tước Ôn Quốc Công (溫國公), thuỵ hiệu Văn Chính (文正) cho nên học giả đời
sau gọi ông là Tư Mã Ôn Công (司馬溫公) hoặc Tư Mã Văn Chính Công (司馬文正公).
Ông xuất thân từ một
gia đình quan liêu quí tộc, năm 20 tuổi đỗ tiến sĩ, làm quan trước sau đảm nhiệm
nhiều chức vụ trọng yếu. Dưới thời Tống Thần Tông, Vương An Thạch (王安石) chủ trương biến pháp,
các quan phái thủ cựu nườm nượp dâng biểu phản đối, Tư Mã Quang chính là đại biểu
cho phái thủ cựu chống lại biến pháp này. Vì chính kiến bất đồng, ông bị bãi chức,
về sau thoái cư ở Lạc Dương (洛陽) chuyên tâm biên soạn Tư Trị Thông Giám.
Sau khi Tống Thần Tông
qua đời, Tư Mã Quang được gọi về kinh đảm nhiệm chức vụ tể tướng, chủ trì chính
sự, chỉ trong mấy tháng ngắn ngủi, ông đã hoàn toàn phế bỏ tân pháp của Vương
An Thạch nhưng tháng Chín năm đó ông cũng bị bệnh mà mất. Ông một đời trước tác
rất nhiều, lưu truyền đến ngày nay còn lại Kê Cổ Lục (稽古錄), Thúc Thuỷ Kỷ Văn (涑水紀聞), Truyền Gia Tập (傳家集) nhiều loại nhưng nổi
danh và quan trọng hơn cả là Tư Trị Thông Giám (資治通鑑).
Tư Mã Quang từ nhỏ đã
đặc biệt yêu thích sử học, sau khi làm quan cũng vẫn tiếp tục nghiên cứu lịch sử
không gián đoạn. Thời đó việc đọc sách cực kỳ khó khăn, rất nhiều sách lịch sử ở
trong dân gian khó tìm thấy. Lại nữa, trước tác sử học ở Trung Hoa đến đời Tống
đã rất là phong phú, riêng thể kỷ truyện thuộc loại “chính sử” qui mô cũng đã
nhiều đến hơn 1500 quyển. Vì thế nếu là người đọc sách thì khó có thể nào đọc hết
các sách sử, lại càng không thể tinh thông tất cả. Giữa đời Bắc Tống xã hội
càng ngày càng nguy cơ, Tư Mã Quang hi vọng thông qua việc biên soạn lịch sử,
ông có thể cắt bỏ những chỗ rườm rà chỉ giữ lại những phần quan trọng (刪削冗長,舉撮機要) để triều đình có thể đọc sử mà trông gương
khi gặp những vấn đề trọng yếu.
Ngay từ thời Gia Hựu
(CN 1056-1063), Tư Mã Quang đã từng nói với Lưu Thứ (劉恕):
Tôi muốn khởi đầu
vào đời Uy Liệt Vương nhà Chu nhận Hàn, Nguỵ, Triệu làm chư hầu, chấm dứt vào đời
Ngũ Đại, dựa theo thể biên niên của Khưu Minh, phỏng theo lối văn giản yếu của
Tuân Duyệt, tạo thành một nhà.
Đến năm Trị Bình 3 (CN
1066), Tư Mã Quang một mình viết một bộ tám quyển, vốn là sử biên niên, từ thời
Chiến Quốc xuống đến Tần Nhị Thế, đặt tên ban đầu là Thông Chí (通志), dâng lên cho vua Tống
Anh Tông xem. Tống Anh Tông rất tán thưởng ra lệnh cho Tư Mã Quang tiếp tục
biên tu sự tích danh thần các đời, lại đồng ý cho ông chọn thêm người cộng sự,
thiết lập Thư Cục, chấp thuận cho ông được dùng thư viện của hoàng gia, lại thưởng
cho bút mực và lụa vẽ. Tống Thần Tông (CN 1067) lên ngôi, Tư Mã Quang đưa Thông
Chí cho vua đọc, Tống Thần Tông cho là “xem việc đời trước, có thể dùng làm
đạo trị nước” (鑑於往事,有資於治道) rồi đích thân viết
bài Tựa cho bộ sách ấy, lại đổi tên sách thành Tư Trị Thông Giám (資治通鑑) và khuyến khích ông
tiếp tục viết cho xong bộ sách này. Được hoàng đế kính trọng và giúp đỡ, Tư Trị
Thông Giám nay đã vào một giai đoạn mới do tập thể biên soạn.
Biên soạn xuất sắc, tổ chức tinh mật
Các phụ tá quan
trọng nhất giúp Tư Mã Quang biên tả Tư Trị Thông Giám trước hết có Lưu Thứ (劉恕), Lưu Ban (劉攽), Phạm Tổ Vũ (范祖禹). Khi thành lập Thư Cục,
người mà Tư Mã Quang tiến cử trước hết là Lưu Thứ.
Lưu Thứ (CN 1032-
1078) tự là Đạo Nguyên, người Cao An, Quân Châu, đỗ tiến sĩ. Ông rất am tường lịch
sử các đời Nguỵ Tấn, Nam Bắc Triều, khảo chứng vấn đề rất tinh tế. Ông yêu
thích nhiều môn, hiểu biết uyên bác, học rộng lại có trí nhớ tốt, liếc mắt qua
là thuộc. Lưu Thứ vào làm ở Thư Cục khi mới 35 tuổi, trừ Tư Mã Quang ra, ông là
người góp công nhiều nhất trong việc soạn Thông Giám, cống hiến rất nhiều.
Không chỉ thảo luận toàn thể cuốn sách, thể lệ và định chế, nhiều vấn đề khác ý
kiến của Lưu Thứ cũng được kết nạp. Vì thế mỗi khi có vấn đề phức tạp và rắc rồi
thì cũng lại giao cho Lưu Thứ phụ trách. Lưu Thứ chủ yếu phụ trách Nguỵ Tấn Nam
Bắc Triều nhưng đến khi khởi thảo công tác đời Tuỳ, đời Ngũ Đại, Thập Quốc thì
cũng giao cho Lưu Thứ. Tiếc thay, ông bị bệnh qua đời năm 47 tuổi. Ông trước
tác Thập Quốc Kỷ Niên (十國紀年), Thông Giám Ngoại Kỷ
(通鑑外紀).
Lưu Ban (CN 1022-1088), tự là Cống Phụ, người Tân Dụ, Lâm Giang, tiến sĩ
xuất thân, đã từng làm quan ở các châu huyện hơn 20 năm. Lưu Ban soạn sách Đông
Hán San Ngộ (東漢刊誤), về sau lại cùng anh là Lưu Sưởng (劉敞), và cháu là Lưu Phụng
Thế (劉奉世) hợp tác soạn sách Hán Thư Tiêu Chú (漢書標注), là một chuyên gia
về sử đời Hán. Ông vào làm trong Thư Cục khi đã 44 tuổi, chủ yếu phụ trách bộ
phận khởi thảo về thời Lưỡng Hán. Ông ở Thư Cục chỉ có 5 năm, đến năm Hi Ninh 3
(CN 1070) thì vì phản đối biến pháp nên họ Lưu bị biếm đuổi ra ngoài. Tháng Sáu
năm đó, Thư Cục có một người khác là Phạm Tổ Vũ.
Phạm Tổ Vũ (CN
1041-1098), tự là Thuần Phủ (淳甫), còn tên khác là Mộng Đắc (夢得) người Hoa Dương,
Thành Đô, tiến sĩ xuất thân. Khi ông vào Thư Cục thì mới 30 tuổi, là người ít
tuổi nhất, cũng là người công tác ở Thư Cục lâu nhất. Ông thông minh hiếu học,
suy nghĩ bén nhạy, biết làm văn chương. Trong khi tham gia biên tả Thông Giám
suốt 15 năm, Phạm Tổ Vũ chuyên tâm chí ý, chủ yếu phụ trách công việc khởi thảo
bộ phận đời Đường. Năm Hi Ninh 5 (CN 1072) đời vua Thần Tông, Thư Cục di chuyển
xuống Lạc Dương thì năm thứ hai Phạm Tổ Vũ cũng đến Lạc Dương. Từ đó về sau,
ông chuyên tâm đi theo Tư Mã Quang cùng ở một nơi, trở thành người phụ tá chủ yếu
cho ông này. Sau khi Tư Trị Thông Giám hoàn thành, ông tự soạn một bộ Đường
Giám (唐鑑) được nhiều người nghe tiếng, người đương thời vì thế đặt tên Phạm Tổ
Vũ là Đường Giám Công (唐鑑公).
Một trong những
nguyên nhân khiến việc biên tả Tư Trị Thông Giám được thành công là vì những
người được tuyển chọn đều thích đáng nên phát huy được sở trường. Tư Mã Quang
chế định trình tự biên tả Thông Giám và phương pháp công tác rất nghiêm mật. Ấy
là làm một dàn bài chi tiết, cắt bớt chi tiết trong những thiên dài và sửa lại
bản thảo. Đó là ba bước của công tác.
Tác tùng mục là
biên tả đề cương và thu thập tư liệu, yêu cầu các nơi tập trung các loại tư liệu
lịch sử, chiếu theo năm tháng thời gian thứ tự để đặt rõ các mục rồi dàn trải
tư liệu ra. Các loại sử liệu, bất luận là quan tu chính sử hay là tư nhân trước
tác, truyện ký tiểu thuyết hay văn tập của người ngoài, nếu đã có liên quan đến
thời sự thì cứ theo năm tháng rồi ghi chú lại trong dàn bài. Nếu như ngày không
rõ thì dựa theo tháng, tháng không rõ thì án theo năm, nếu như năm cũng không
thể xác định thì sẽ căn cứ vào nội dung để cài vào việc có liên quan ở nơi mở đầu
hay kết thúc. Tư Mã Quang rất trọng thị việc chuẩn bị tư liệu cho đầy đủ, ông từng
nói:
Bất cứ việc gì có
liên quan đến sự việc đều cần ghi chú, nhiều quá cũng không hại.
Tư liệu nếu không
sưu tập được đầy đủ thì chưa thể bắt đầu tiến thêm một bước là việc sửa đổi những
chỗ viết quá dài. Tu trường biên là việc đầu trong việc chỉnh lý các tư liệu có
liên quan khi viết bản thảo đầu tiên. Khi tu trường biên thì phải đem dàn bài
ra so sánh các tư liệu có liên quan đem ra hết để kiểm duyệt một lần, sau đó
phân tích xem xét và xếp loại rồi tuyển chọn lấy chỗ nào, bỏ chỗ nào sau đó mới
viết ra thành văn. Nguyên tắc biên tả là những việc nào tương đồng nhưng văn tự
bất đồng thì chỉ chọn một chỗ đem chép xuống, còn như chỗ nọ chỗ kia hai bên hỗ
tương nhau thì lấy chỗ dài bù chỗ ngắn, qua lại sửa sang viết thành một câu mới,
còn như chỗ này và chỗ kia năm tháng và sự việc có chỗ mâu thuẫn thì phải chọn
lựa một chứng cứ phân minh so sánh có hợp nhau không, tình lý chỗ nào chính
đáng, để những chỗ bất đồng vào phụ chú ở bên dưới đồng thời giải thích cho rõ
ràng tại sao lại chọn chỗ này mà bỏ chỗ khác.
Tư Mã Quang chủ
trương cần có thái độ khách quan để phân tích các tài liệu đã thu thập được và
xử lý các sử liệu đó cần một phương pháp nghiêm cẩn và thận trọng. Ông từng
nói:
Chính sử trong Thực
Lục chưa chắc đã đáng tin, tạp sử trong tiểu thuyết vị tất đã vô bằng, chỉ có
xem xét kỹ mới chọn được hay không.
Ông cũng nói:
Nói chung là viết
dài thà rườm rà còn hơn là giản lược.
Ấy là những lời
ông dặn đi dặn lại các cộng sự viên. Hiện nay còn một phần thủ cảo Tư Trị Thông
Giám do chính tay Tư Mã Quang viết, bộ phận tàn cảo này ghi chép về đời Nguyên
đế nhà Đông Tấn Vĩnh Xương nguyên niên (CN 332) các đề cương đại sự, tự tích
công chính chỉnh tề, một hàng cũng không cẩu thả. Điều đó cho ta thấy rõ thái độ
làm việc của ông rất nghiêm cẩn, cũng rõ ràng là khi làm tổng lãm toàn thư ông
đã rất chăm chỉ khi soạn dàn bài cho bộ sách này. Sau cùng bộ phận biên tả sẽ
khảo đính lại những chỗ dị đồng để viết thành bản sau cùng.
Đây là một công
tác khó khăn và chi li, số lượng công việc rất lớn. Theo ghi chép trong sử liệu,
bộ Tư Trị Thông Giám riêng về kỷ nhà Đường ghi chép rất dài, tổng cộng lên đến
sáu, bảy trăm quyển, Tư Mã Quang đã mất ít nhất là bốn năm để rút gọn xuống
thành 81 quyển. Con của Lưu Thứ là Lưu Hi Trọng (劉羲仲) trong Thông Giám Vấn
Nghi (通鑑問疑) có viết rằng:
Cha tôi ở Thư Cục
chỉ xếp loại các sự việc chép lại thành một trường biên, còn việc phân định
đúng sai thì tất cả đều do Quân Thực (tên tự của Tư Mã Quang) cắt xén.
Việc đó cho thấy
thay đổi sau cùng và cải định bản thảo hoàn toàn do Tư Mã Quang tổng tập đại
thành.
Tư Mã Quang từ
năm Trị Bình 3 phụng mệnh biên soạn Thông Giám, mỗi khi viết xong một đời thì lại
đưa lên triều đình một bộ, đến năm Nguyên Phong 7 (CN 1084) đời Tống Thần Tông
thì toàn bộ hoàn thành, trước sau mất cả thảy 19 năm. Nếu như quả từ khi Tư Mã
Quang có ý định trước thuật trở đi, tất cả mât 30 năm. Bộ Thông Giám ngưng tụ
tâm huyết một đời của Tư Mã Quang, các trợ thủ trọng yếu của ông như Lưu Thứ,
Phạm Tổ Vũ cũng bỏ cả một thời thanh xuân cống hiến cho bộ lịch sử to lớn này.
Tư Trị Thông Giám khởi đầu từ khi Chu Uy Liệt
Vương 23 phong cho các nước Hàn, Nguỵ, Triệu làm chư hầu. Lưu Thứ cũng đã từng
hỏi Tư Mã Quang:
Sách của ông không bắt đầu từ thời thượng cổ
hay thời Nghiêu Thuấn, ấy là cớ gì?
Tư Mã Quang đáp:
Từ Chu Bình Vương trở đi thì mọi việc đã ghi
trong kinh Xuân Thu là kinh của Khổng Tử rồi, không thể thêm bớt gì nữa.
Lưu Thứ lại hỏi:
Vậy tại làm sao không viết tiếp theo Xuân Thu
trở xuống?
Tư Mã Quang đáp:
Kinh thì không thể viết nối theo được.
Chỉ những câu hỏi đáp đó cũng đã biểu hiện Tư
Mã Quang đặt nặng tư tưởng Nho gia tôn kinh sùng thánh. Ông chọn thời điểm Chu
Uy Liệt Vương 23 để mở đầu vì Tam Gia đã chia theo tiêu chí lúc ấy uy quyền
thiên tử nhà Chu đã suy, Chu vương triều đã đến lúc “lễ băng nhạc hoại” (禮崩樂壞). Khi Hàn, Nguỵ, Triệu đứng riêng thành một
chư hầu, lịch sử đã tiến vào thế thất quốc tranh hùng của thời Chiến Quốc. Tư
Mã Quang giữ tư tưởng thủ cựu, biểu hiện sự bảo vệ vương quyền thời phong kiến
đồng thời biểu hiện nhãn quan lịch sử rất sắc bén. Tư Trị Thông Giám chấm dứt
vào cuối thời Ngũ Đại vì lúc đó nhà Tống đã có quốc sử, Tư Mã Quang là người
nhà Tống nên không tiện đem sử của nước mình ra bàn luận.
Thành tựu to lớn của Thông Giám
Sự cống hiến và thành tựu của Tư Trị Thông
Giám có nhiều phương diện. Trước hết, tài liệu thu thập để soạn sách rất phong
phú và rộng rãi. Tư Mã Quang trong Tiến Tư Trị Thông Giám Biểu (進資治通鑑表) có nói rằng “đọc hết các sách cổ, trong
kho chứa đầy các thẻ chép, mông mênh như khói trên biển” (遍閱舊史,旁採小説, 簡牘盈積,浩如煙海) Phàm tư liệu đương thời có thể thu góp vào
Thư Cục, họ đều hết sức tìm kiếm đến tham khảo. Theo như các học giả khảo chứng,
Thông Giám thu thập ngoài chính sử ra, số sách vở tạp sử cũng đến 300 nhà. Khi
tham khảo dẫn dụng một số lớn sách vở và sử liệu, không ít sách vở ngày nay đã
bị mất, hoặc không còn tồn tại nhưng chính vì Thông Giám dùng đến nên còn bảo tồn
được một số tư liệu lịch sử trân quí ở trong đó.
Chẳng hạn như Liễu Phương (柳芳) đời Đường đã soạn 40 quyển Đường Lịch (唐曆) ghi chép lịch sử từ Nghĩa Ninh nguyên niên
(CN 617) đời Tuỳ đến đời Đường Tông Đại Lịch 14 (CN 779). Tư Mã Quang đã dùng bộ
sách này làm căn cứ khảo đính sử liệu đúng hay sai, trong Thông Giám Khảo Dị (通鑑考異) có hơn một trăm chỗ trưng dẫn Đường Lịch.
Có thể nói, bộ sách này tuy là sử tịch đã thất truyền nhưng trên thực tế vẫn
còn được bảo tồn trong Tư Trị Thông Giám. Cựu Ngũ Đại Sử (舊五代史) của Tiết Cư Chính (薛居正) cũng thuộc một loại tình hình như vậy. Ngoại
trừ chính sử quan tu và Thực Lục chủ yếu ra, Tư Mã Quang cũng dám đột phá
phương pháp sử học truyền thống vốn có cái nhìn hẹp hòi để đem tinh thần trưng
thực và khách quan, thu thập rộng rãi và bảo tồn các loại tư liệu dân gian, biểu
hiện dũng khí phi phàm và hiểu biết trác việt. Cũng vì thu thập được một mạng
lưới tư liệu rộng lớn và phong phú nên Thông Giám đã vượt qua các bộ sử khác.
Thông Giám cũng thừa kế ưu điểm truyền thống
“lược cổ tường kim” (viết sơ lược thời cổ, viết kỹ càng đời nay) của Sử Ký nên
những việc càng gần thì ghi chép càng tường tận, giá trị sử liệu cũng lớn hơn
việc trước. Nhân vì việc càng sau, sử liệu còn tồn tại càng phong phú, khảo định,
thu thập và sửa soạn bảo thảo càng thêm khó khăn. Theo như nghiên cứu của học
giả cận đại Chương Bính Lân (章炳麟), bộ phận Tây Hán trong Thông Giám đều lấy từ Sử Ký, Hán Thư, còn bộ
phận Đông Hán thì bảy, tám phần mười lấy từ Hậu Hán Thư, Nguỵ Tấn đến đời Tuỳ
thì lấy từ tư liệu chính sử sáu, bảy phần mười còn đời Đường thì lấy từ chính sử
chưa đến một nửa. Chính vì thế bộ phận đời Đường trong Thông Giám giá trị sử liệu
rất cao, vì họ có thể dùng Tân Đường Thư và Cựu Đường Thư như ba chân vạc, người
nghiên cứu về đời Đường không thể bỏ qua không đọc Thông Giám.
Thêm phần Khảo Dị (考異) nói rõ tài liệu thu thập ở đâu, ấy là một điều
sáng tạo của Tư Trị Thông Giám. Tư Trị Thông Giám tham khảo và thu thập tài liệu
vô cùng phong phú, có khi chỉ lấy một sự kiện nhưng tham duyệt bốn năm loại ghi
chép bất đồng khác nhau. Cho nên làm sao khảo đính chân nguỵ, dị đồng, làm sao
quyết định chọn tài liệu nào? Các sử gia trước đây tự mình quyết định thu thập
nhưng không nói rõ họ đã theo những lý do nào nên người sau không có cách nào
tra xét, khảo cứu. Tác phong nghiêm cẩn của Tư Mã Quang thì không thế, ông nói
rõ các loại tư liệu cùng một việc nhưng khác nhau ra sao và biện biệt thị phi để
quyết định lý do căn cứ vào đó mà thu nhận, sau đó đem những thành quả của việc
khảo đính tập hợp thành một bộ Thông Giám Khảo Dị (通鑑考異). Tư Mã Quang tự soạn bộ Khảo Dị mở đầu cho
phong khí, đối với các sử gia về sau có ảnh hưởng sâu rộng, hình thành truyền
thống tốt đẹp cho sử học thời cổ.
Tôn trọng lịch sử, không nguỵ tạo chi tiết đó
là đặc điểm trọng yếu của Tư Trị Thông Giám và cũng là ưu điểm so với một số bản
gọi là chính sử. Trước Tư Mã Quang, nhiều người đã nêu ra “chính nhuận luận”[1] (正閏論), đem các chính
quyền trong thời đại phân liệt, cát cứ nhưng cùng tồn tại phân ra thành chính
thống và phi chính thống. Tư Mã Quang căn cứ vào thực tế lịch sử, phi bác chính
nhuận luận là hư vọng không đúng sự thực. Ông nói:
Thần hiện nay thuật ra chính là để viết về
hưng suy của quốc gia, đời sống dân chúng hạnh phúc hay khốn khổ để mong kẻ đọc
những việc đó biết chọn điều thiện ác đắc thất mà răn mình, không phải là kinh
Xuân Thu dùng khen chê để thay đổi đời loạn quay về nẻo chính. Việc chính hay
nhuận thần không dám biết, chỉ căn cứ theo công nghiệp mà nói ra vậy thôi.
臣今所述,止欲敍國家之興衰,著生民之休戚,使觀者自擇其善惡得失以爲勸戒,非若《春秋》立褒貶之法,撥亂世反之正也。正閏之際,非所敢知,但據其功業之實而言之。[2]
Việc có sao nói vậy để
chép sử khiến cho Tư Trị Thông Giám có yếu tố khách quan toàn diện phản ảnh
chân thực lịch sử.
Vì người đứng đầu một
nước có thể “xem các đời trước hưng suy thế nào có thể khảo sát được hiện nay
còn hay mất” (鑑前世之興衰,考當今之得失) nên Tư Trị Thông
Giám có thể coi như một bộ sách thiên về lịch sử chính trị. Đối với việc hưng
vong của quốc gia, chính trị tốt đẹp hay hủ bại, vua hiền hay ngu, quan lại
trung hay gian thì Thông Giám viết rất nhiều. Đối với những hoàng đế có công
nghiệp to lớn, Thông Giám tả cũng rất tường tận. Vì lợi ích lâu dài của việc bảo
hộ giai cấp phong kiến thống trị, Thông Giám cũng miêu tả những vị vua hoang
dâm vô sỉ, tàn nhẫn bạo ngược, sai lầm việc nước, tàn hại dân chúng thì những tội
ác cũng được tường thuật linh động, cụ thể rất là lâm ly. Những việc “vì tôn
kính nên né tránh, vì thân cận nên né tránh, vì người hiền nên né tránh” (爲尊者諱,爲親者諱,爲賢者諱) rất khó tìm thấy trong chính sử.
Thông Giám cũng ghi
chép những việc nổi dậy theo tình hình thì các thủ lãnh cũng được ghi chép
tương đối khách quan, chân thực. Lấy việc Hoàng Sào (黃巢) khởi sự cuối đời Đường,
Thông Giám ghi lại so với Tân Cựu Đường Thư thì linh động và đầy đủ hơn nhiều,
cũng khách quan hơn vẽ ra được một giai đoạn sóng gió của quần chúng. Tư Mã
Quang tuy đứng trên lập trường “dẹp giặc” để ghi chép việc khởi sự của nông dân
nhưng miêu tả thanh thế cuồn cuộn khiến cho nhà Đường phải kinh hoàng không biết
đối phó như thế nào, chẳng hạn “quân tiền phong của Hoàng Sào tới cửa quan rồi,
cờ trắng đầy đồng nhìn không thấy cuối …” (黃巢前鋒軍抵關下,白旗滿野,不見其際) hay Hoàng Sào vào Tràng An “giáp kỵ như nước
chảy, xe nặng chật đường, liên tiếp nghìn dặm không dứt. Dân chúng ra xem đầy
đường”( 甲騎如流,輜重塞塗,千里絡繹不絕。民夾道聚觀).
Những ghi chép sinh động
chân thực đó trong khung cảnh của một sử gia truyền thống thật không chỉ khó mà
còn quí giá. Thông Giám đối với quan hệ lịch sử, mâu thuẫn của các dân tộc cũng
ghi nhận rất rõ ràng có thể vạch ra những hủ bại mời tối của giới thống trị, chẳng
hạn Cao Tổ Thạch Kính Đường (石敬瑭) đời Hậu Tấn cam chịu nỗi nhục để làm một ông
vua bù nhìn. Về việc dân chúng chống lại dị tộc xấm chiếm, Thông Giám cũng ghi
nhận không ít. Những việc tường thuật ở trên đã chứng minh Tư Trị Thông Giám có
một giá trị cực kỳ quí giá.
Dung hợp trăm nhà, lời
giản dị nhưng sự việc minh bạch, ấy là một đặc điểm của Tư Trị Thông Giám. Tuy
nhiên vì tài liệu rộng rãi, phạm vi bao trùm mà lại do tập thể biên soạn nhưng
Tư Mã Quang vẫn đưa ra thể lệ cho toàn bộ cuốn sách, cách viết, cho chì khảo chứng
sử liệu thế nào, gọt dũa văn chương ra sao, cho chí việc dùng chữ ông đều để ý
từng li từng tí, một câu một chữ không đâu là không đích thân sửa bản thảo cho
đến khi bộ sách hoàn thành. Do đó, các loại tư liệu dù là không cùng thời đại,
không cùng nguồn gốc, không cùng cách hành văn nhưng vẫn tan chảy trong một lò,
trộn lẫn thành một khối. Cái công dung hợp trăm nhà làm một và làm cho những điều
sâu sắc nay thành dễ dàng, phức tạp và giản dị thích nghi, thể lệ thống nhất,
trước sau như cùng một người viết. Sự thành công của Tư Trị Thông Giám thât là
một kinh nghiệm quí để lại cho những người biên soạn lịch sử.
Trước khi Thông Giám
ra đời, đã có đến 17 bộ chính sử viết theo thể kỷ truyện nhưng đều là trường
thiên cự chế, văn tự rất là phức tạp. Tư Trị Thông Giám dùng văn tự giản khiết,
sắp xếp rõ ràng. Học giả trứ danh đời Thanh là Tiền Đại Hân (錢大昕) đã nói: Sự việc nhiều
hơn các đời trước mà văn chương lại giảm hơn xưa, chỉ có Thông Giám mới có thể
làm nổi (事增於前,文省於舊,唯《通鑑》可以當之。). Lời bình luận đó thật mười phần xác đáng.
Thông Giám tuy ghi chép việc chính trị, quân sự làm chủ nhưng các vấn đề xã hội,
kinh tế, văn hoá, chế độ cũng không những chỗ quan trọng nào bị bỏ quên. Thông
Giám miêu tả chiến tranh rất xuất sắc, không chỉ viết nhiều mà viết cũng rất
hay. Các chiến dịch trứ danh trong lịch sử, như trận chiến Xích Bích (赤壁), trận chiến Phì Thuỷ
(淝水)
đều viết rất thành công.
Lấy chuyện trận đánh ở
Xích Bích (赤壁), Nguỵ, Thục, Ngô ba nước bao gồm Tào Tháo (曹操), Lưu Bị (劉備), Tôn Quyền (孫權) và thêm Chư Cát Lượng
(諸葛亮),
Chu Du (周瑜), Hoàng Cái (黃蓋) các văn thần, võ tướng trước sau có đến mấy
chục nhân vật. Những sự tích liên quan đến những người này, có thể xem rải rác
trong nhiều kỷ, truyện tại Hậu Hán Thư, Tam Quốc Chí, phân tán cắt xén, khó có
thể biết rõ ngọn ngành. Thông Giám chọn những tài liệu tập trung lại, qua cắt
xén nhuận sắc, rèn đúc không những chỉ ra được nguyên nhân gây ra chiến tranh,
kết cục và diễn tiến giảng giải rành mạch đâu ra đấy, vẽ ra rất nhiều nhân vật
lịch sử một cách sống động nổi trội hẳn lên. Mặc dù đây là một cuốn sách danh
tiếng về sử học nhưng đây cũng là một tác phẩm văn học. Các loại chiến tranh,
không kể lớn hay nhỏ, Thông Giám đều tả ra có đầu có đuôi, cả thanh lẫn sắc.
Thông Giám là bộ sử nghiên cứu quân sự của thời cổ Trung Hoa cung ứng tư liệu
quí giá, vừa phong phú, vừa linh động.
Thông Giám cũng có nhiều
lập luận phản ảnh quan điểm chính trị bảo thủ của Tư Mã Quang. Chẳng hạn như
trong quyển 1, thiên đệ Nhất trong phần tán đã đề xuất trong Khai Tông Minh
Nghĩa: Chức vụ thiên tử thì không có gì to lớn bằng lễ, lễ không gì to lớn bằng
phận, phận không có gì to lớn bằng danh. (天子之職莫大於禮,禮莫大於分,分莫大於名) ông dùng quan điểm
cương thường để công kích thiên tử nhà Chu chấp nhận chia nước Tấn ra cho ba
gia đình. Tư Mã Quang đã mượn cổ chê kim, tỏ lộ sự bất mãn của ông đối với biến
pháp của Vương An Thạch. Còn việc Trí Bá (智伯) diệt vong, ông đã đưa
ra bài Tài Đức Luận nổi danh, nhận định rằng nếu có tài mà không có đức thì sẽ
suy bại, ám chỉ đời Tống những người chủ trương biến pháp đều là những kẻ có
tài mà không có đức.
Thông Giám cũng có những
khuyết điểm trong phương pháp ghi nhận niên kỷ. Tư Mã Quang tuy phủ định chính
nhuận luận, nói rằng chỉ dùng niên hiệu để ghi nhớ sự việc nhưng ở thời đại
phân liệt cát cứ, dùng niêu hiệu của triều đại một nước để ghi chép sự tích của
nhiều nước thì không khoa học, khó tránh được vấn đề thực tế tôn ti trên dưới.
Ngoài ra, một năm nhiều khi có hai ba niên hiệu, Thông Giám chỉ dùng niên hiệu
sau cùng để làm kỷ niên, phương pháp đó không chính xác phản ảnh được thời
gian, lại tạo thành việc dùng niên hiệu truyền sau để ghi nhận sự tích triều
trước gây ra tình huống mâu thuẫn. Nếu như người đọc không lưu tâm thì rất dễ
nhầm lẫn chuyện trước ra chuyện sau. Nội dung của toàn bộ Thông Giám thì đầy đủ
rõ ràng về chính trị, quân sự nhưng lại sơ sài về kinh tế, văn hoá. Việc ghi
chép lịch sử vì thế cũng có những chỗ thiếu sót và sai lầm, những học giả đời
sau cũng đã phê bình, đính chính và bổ túc.
Từ khi Tư Trị Thông
Giám ra đời, những người chú thích bộ sử này không phải là ít. Trong số đó, thời
Tống mạt Nguyên sơ có sử gia Hồ Tam Tỉnh (胡三省) viết Tư Trị Thông
Giám Âm Chú (資治通鑑音注) là sách rất kỹ càng chu đáo. Ông đem Thông Giám Khảo Dị (通鑑考異) phân ra phụ vào
chính văn, rất tiện lợi cho người đọc. Khắc bản của Thông Giám trước đây có bản
đời Thanh Gia Khánh do Hồ Khắc Gia (胡克家) hiệu khắc, có phụ thêm Âm Chú của Hồ Tam Tỉnh
là bản tốt nhất. Trung Hoa thư cục ở Bắc Kinh xuất bản dùng bản Tư Trị Thông
Giám này làm bản nền, có các chuyên gia tiêu điểm và chỉnh lý là bản tiện lợi
nhất để đọc hiện nay.
Sự thành công của Tư
Trị Thông Giám khiến cho sách sử thể biên niên phát triển mạnh mẽ trở lại. Rất
nhiều sử thư của các thế hệ sau đi theo thể lệ của Thông Giám và lấy tên là Tục
Thông Giám (續通鑑), trong đó bộ sách mang tính tiêu biểu nhất là bộ Tục Tư Trị Thông Giám
Trường Biên (續資治通鑑長編) của Lý Đảo (李燾), ghi chép kỹ lưỡng chín triều đại, 168 năm của
nhà Bắc Tống. Kế đó lại có Lý Tâm Truyện (李心傳) viết Kiến Viêm Dĩ
Lai Hệ Niên Yếu Lục (建炎以來繫年要錄) và Từ Mộng Tân (徐夢莘) viết Tam Triều Bắc
Minh Hội Biên (三朝北盟會編).Ba bộ sách đó viết vào đời Nam Tống sơ niên, là kho tàng quí báu về tư
liệu liên quan đến lịch sử đời Bắc Tống. Đời Minh có Tiết Ứng Kỳ (薛應旂) viết Tống Nguyên Tư
Trị Thông Giám (宋元資治通鑑), Vương Tông Mộc (王宗沐) viết Tục Tư Trị Thông Giám (續資治通鑑) và sau đó có Từ
Càn Học (徐乾學) đời Thanh viết Tư Trị Thông Giám Hậu Biên (資治通鑑後編), đều có liên quan
đến lịch sử hai triều Tống, Nguyên theo biên niên thể.
Có điều là cả ba bộ
sách trên thành tựu không cao, chỉ có Hậu Biên của Từ Càn Học là nhỉnh hơn một
chút. Tất Nguyên (畢沅) đời Thanh viết Tục Tư Trị Thông Giám (續資治通鑑) dựa trên cơ sở của
những người đi trước rồi biên tập, tăng bổ nên thành tựu đáng xem hơn các sách
khác. Sách này sao lục trực tiếp cựu văn các sách sử cũ, dùng hình thức biên
niên để tu lý và thêm vào sử thực của đời Tống, Nguyên rồi tự mình soạn Khảo Dị
(考異)
để soi xét phân biêt các loại sử liệu. Cuối đời Minh, đầu đời Thanh có Quốc Các
(國榷)
của Đàm Thiên (談遷) là biên niên sử nhà Minh, tiếc rằng đời Thanh bị liệt vào hạng cấm thư
nên có lẽ đã bị mất rồi.
Trần Hạc (陳鶴) đời Thanh viết Minh
Ký (明紀) quá giản lược, không tiện cho người mới học. Minh Thông Giám (明通鑑) của Hạ Nhiếp (夏燮) thì kỹ lưỡng và thích
hợp hơn nhưng quan điểm hơi cũ kỹ. Những sách đó vốn từ Tư Trị Thông Giám của
Tư Mã Quang mở đầu, dần dần hình thành một hệ thống biên niên sử từ cổ chí kim,
ở bên ngoài 24 bộ chính sử thể kỷ truyện, hình thành một khu vực độc lập theo
thể hệ mới, điều đó không thể không thuộc về công lao thành tựu trác việt và ảnh
hưởng sâu xa của Tư Trị Thông Giám.
KỶ SỰ BẢN MẠT THỂ
Kỷ Sử Bản Mạt Thể (紀事本末) là sách dùng các sự kiện lịch sử làm sợi
dây xuyên suốt mãi đến đời Nam Tống mới bắt đầu. Thể tài viết sử mới mẻ này có
liên quan mật thiết với Tư Trị Thông Giám.
Thông Giám Kỷ Sự Bản Mạt
Tác giả của Thông Giám Kỷ Sự Bản Mạt (通鑑紀事本末) là Viên Khu (袁樞), tự là Cơ Trọng (機仲), người Kiến An đời
Nam Tống (nay là huyện Kiến Âu, tỉnh Phúc Kiến), sinh năm Thiệu Hưng nguyên
niên (CN 1131) đời vua Cao Tông, chết năm Khai Hi nguyên niên (CN 1205) đời vua
Ninh Tông, thọ 75 tuổi. Ông là tiến sĩ xuất thân, cả đời không làm chức quan
nào lớn, chỉ là người chính trực, quan tâm đến đời sống tật khổ của người dân
và là người có lòng yêu nước. Ông từ nhỏ hiếu học, bình thời ưa đọc Tư Trị
Thông Giám nên quyết tâm tu dưỡng sử học.
Về tình hình sách ông biên soạn Thông Giám Kỷ
Sự Bản Mạt thì sử sách chép rất sơ sài, chỉ viết:
Khu thường thích tụng đọc Tư Trị Thông Giám của
Tư Mã Quang nhưng thấy sách này quá bao la không thể quán thông hết được nên soạn
Thông Giám Kỷ Sự Bản Mạt. (Tống Sử, quyển 389).
Viên Khu thực tế đã đem bộ Tư Trị Thông Giám
hơn 300 vạn chữ, gỡ ra biên soạn lại, dựa theo các sự việc lập theo mục lục,
đem các tư liệu có liên quan sao lại từ nguyên bản, đến văn tự một chữ cũng
không đổi, xếp lại thành 239 sự mục, mỗi sự mục chiếu theo thời gian thứ tự tường
thuật từ đầu đến cuối. Việc phân chia thành sự mục xác định trên tiêu đề, Viên
Khu hao tổn rất nhiều tâm lực. Sử quan biên tập Tứ Khố Toàn Thư đời Thanh đã từng
bình phẩm như sau:
Sách biên tập của Khu, tuy không lấy nguyên
văn từ Thông Giám, nhưng cắt xén, lấy hay bỏ, sắp xếp cực kỳ tinh mật … người
đi sau như Trần Bang Chiêm (陳邦瞻), Cốc Ứng Thái (谷應泰) cũng phỏng theo nhưng bao trùm suốt một mạch, không thiếu sót, không
thừa thãi cũng đều noi theo từ sách này. (Tứ Khố Toàn Thư Tổng Mục, q. 49)
Nếu không thâm hiểu và quán thông dung hợp được
Tư Trị Thông Giám, làm một bộ tân biên như thế không thể được. Toàn bộ sách mỗi
việc, mỗi mục có tiêu đề đều đưa ra được ý nghĩa của toàn bộ, lời giản dị mà ý
đầy đủ, chữ bao trùm khen chê nên đã đi xa thêm một bước dung luyện được chủ đề
của Tư Trị Thông Giám.
Toàn bộ Thông Giám Kỷ Sự Bản Mạt chia thành mục,
đặt tựa đề lấy ý tổng quát chẳng hạn thời Chiến Quốc và Tần chia ra thành Tam
Gia Phân Tấn (三家分晉) [Ba nhà chia
nước Tấn], Tần Bính Lục Quốc (秦併六國) [Tần thôn tính sáu nước], Hào Kiệt Vong Tần (豪傑亡秦) [Hào kiệt diệt nhà Tần] ba mục; thời kỳ Lưỡng
Hán thì chia thành Cao Đế Diệt Sở (高帝滅楚) [vua Hán Cao Tổ diệt nước Sở] đến Viên Thiệu Thảo Công Hệ (袁紹討公係) [Viên Thiệu diệt các phái cha truyền con nối]
tất cả 43 mục, thời Nguỵ Tấn chia ra thành Tào Thị Soán Hán (曹氏篡漢) [Họ Tào chiếm ngôi nhà Hán] đến Nguỵ Diệt Cừu
Trì (魏滅仇池) [nhà Nguỵ diệt
nước Cừu Trì] tất cả 62 mục, thời Nam Bắc Triều phân ra thành Lưu Dụ Soán Tấn (劉裕篡晉) [Lưu Dụ chiếm ngôi nhà Tấn] đến Tuỳ Diệt Trần
(隋滅陳) [nước Tuỳ diệt nước Trần]
tất cả 43 mục, thời kỳ Tuỳ Đường chia ra thành Tuỳ Dịch Thái Tử (隋易太子) [nhà Tuỳ thay thái tử] đến Chu Ôn Thủ Truy
Thanh (朱溫取淄青) [Chu Ôn lấy
đất Truy Thanh] tất cả 65 mục, thời Ngũ Đại chia ra thành Chu Ôn Soán Đường (朱溫篡唐) [Chu Ôn soán ngôi nhà Đường] đến Thế Tông
Chinh Hoài Nam (世宗征淮南) [vua Thế
Tông đánh Hoài Nam] tất cả 23 mục.
Việc cải biên Tư Trị Thông Giám của Viên Khu
có ý nghĩa trọng đại trong việc phát minh và ý nghĩa lịch sử. Do cống hiến của
ông, sử thư truyền thống đã tăng thêm một thể tài là thể kỷ sự bản mạt. Ưu điểm
chủ yếu của kỷ sự bản mạt là lấy sự kiện làm tâm điểm cốt lõi, soạn tiêu đề và
lập mục rồi sau đó mới thêm vào theo hệ thống, tập trung nội dung và trình bày
các điểm quan trọng cho rõ ràng. Một sự kiện có đầu dây mối nhợ, nguyên nhân hậu
quả và những giai đoạn biến chuyển đi theo cách trình bày như thế này có thể
giúp người đọc chỉ lướt qua là hiểu, lại tránh được những mâu thuẫn, trùng hợp
của lối biên soạn theo kỷ truyện thể, lại cũng tránh được lối viết tản mạn, cắt
xén của thể biên niên.
Thể tài biên soạn lịch sử này dễ đọc, dễ nhớ,
đối với người mới học thì rất tiện lợi. Tuy nhiên, vì việc theo sự kiện mà lập
mục thì chỉ nên thu thập toàn bộ một phương diện trong lịch sử lập thành hệ thống
để ghi chép chứ không thể diễn tả được toàn thể diện mạo và đầy đủ các phương
diện. Do đó, đứng trên phương diện bảo tồn sử liệu, để phản ảnh được sự phát
triển và tính chất phong phú của lịch sử thì nội dung trong thể kỷ truyện và thể
biên niên bao la đầy đủ hơn nhiều. Ba loại thể tài cơ bản sủa sử thư có thể nói
rằng đều đã có hàng ngàn năm, hỗ tương lẫn nhau, thể nào cũng có sở đoản sở trường,
thể này không thể thay thể kia được.
Vì chưng Thông Giám Kỷ
Sự Bản Mạt chỉ hoàn toàn sao tập lại sách của Tư Mã Quang mà thành, theo
đúng sự việc mà lập thành từng mục, tài liệu được tập trung, do đó những quan
điểm có trong Tư Trị Thông Giám đều được tập trung vào nổi bật trong Thông Giám
Kỷ Sự Bản Mạt, chẳng hạn như đề cao người Hán, khinh miệt những cuộc nổi loạn
và sùng bái cương thường danh giáo của Nho gia. Vì những giới hạn đó, Thông
Giám Kỷ Sự Bản Mạt đã bỏ qua nhiều sử liệu trong một số sử mục khiến cho những
chi tiết về chính trị, quân sự, kinh tế trong Thông Giám đã bị lược bỏ, lộ ra
những nhược điểm văn hoá.
Tống Sử Bản Mạt
Tống Sử Kỷ Sự Bản Mạt (宋史紀事本末) và Nguyên Sử Kỷ Sự Bản Mạt (元史紀事本末) do cùng một người viết. Tác giả là Trần
Bang Chiêm (陳邦瞻), tự Đức Viễn (德遠), người Cao An (nay là huyện Cao An, Giang
Tây) đời Minh. Ông là tiến sĩ xuất thân, từng đảm nhiệm chức Binh bộ tả thị lang.
Trước Trần Bang Chiêm thì đã có Phùng Kỳ (馮琦) khởi thảo Tống Sử Kỷ Sự Bản Mạt (宋史紀事本末) và Thẩm Việt (沈越) biên lục Sự Kỷ (事紀) đều là dùng thể kỷ sự bản mạt để ghi chép về
lịch sử đời Tống nhưng cả hai bộ sách này đều chưa hoàn thành. Do người khác đề
nghị, Trần Bang Chiêm đã đem sách của Phùng Kỳ và Thẩm Việt ra tăng đính, hợp
chung lại làm một quyển, bắt đầu từ năm Vạn Lịch 22 (CN 1604), mất hơn một năm
thì hoàn thành, tổng cộng tất cả 109 sự mục, ước chừng 60 vạn chữ.
Sau khi Tống Sử Kỷ Sự Bản Mạt in ra, Trần Bang
Chiêm lại dùng thêm khoảng một năm nữa để hoàn thành sơ cảo Nguyên Sử Kỷ Sự Bản
Mạt có Tang Mậu Tuần (臧懋循) tham gia việc tăng bổ và hiệu đính. Tang Mậu Tuần chủ biên và viết
thêm vào một thiên Luật Lệnh Chi Định (律令之定). Toàn bộ sách này bao gồm 27 sự mục, ước chừng
10 vạn chữ. Ở đầu sách trong mục Phàm Lệ có nói rõ, đến năm Chí Nguyên 16 (CN
1279), Tống triều diệt vong thì những việc gì xảy ra từ năm đó về trước xếp vào
phần sử nhà Tống, còn từ Chu Nguyên Chương khởi binh trở về sau thì xếp vào sử
nhà Minh nên nội dung của Nguyên Sử Kỷ Sự Bản Mạt có phần giản lược.
Tống Sử Kỷ Sự Bản Mạt và Nguyên Sử Kỷ Sự Bản Mạt
trong việc thu thập tài liệu chủ yếu tham khảo sử quan tu đời Minh Tục Thông
Giám Cương Mục (續通鑑綱目) và Tống
Nguyên Tư Trị Thông Giám (宋元資治通鑑) của lý học gia Tiết Ứng Kỳ (和理學家薛應旂), do đó quan điểm có vẻ lạc hậu, không có thiện cảm với những cuộc nổi
dậy, chống lại việc đổi mới, sùng thượng lý học, bảo vệ cương thường danh giáo
và những khuynh hướng tiêu cực. Vì thế hai bộ sách này ghi chép hai đời Tống
Nguyên chỉ là phần bên ngoài và những sự kiện lịch sử trọng đại, còn việc giải
thích lịch sử của hai triều đại này chỉ có thể dùng tham khảo. Về việc chọn đề
lập mục và tổ chức biên soạn, tác giả cũng đạt được những thành tích khả quan.
Nguyên Sử Bản Mạt
Tống Sử là bộ sách do triều đình nhà Nguyên
biên soạn có đến hơn 500 quyển, so với một số bộ sử trứ danh đời Tống thì có phần
phong phú hơn. Sử quan tu Nguyên Sử cũng có phần hỗn tạp, do đó những người mới
học đều cảm thấy khó khăn. Hai bộ sách của Trần Bang Chiêm số lượng ít hơn,
theo sự kiện mà lập mục, đem phần lớn các sử liệu cắt bỏ đi, chỉnh lý và tập
trung, biểu hiện đặc sắc việc sắp xếp phân minh, dễ dàng nắm bắt của thể bản mạt
“trước sau từ đầu chí cuối, xem là biết ngay”. Về điển chương chế độ, doanh điền
trị thuỷ, học hiệu khoa cử, lễ nhạc tế tự, thiên văn lịch pháp, học thuật, tôn
giáo cũng đều xếp thành những thiên riêng để ghi chép.
Những việc nổi dậy trọng đại chẳng hạn như đời
Tống có Vương Tiểu Ba (王小波), Lý Thuận (李順) đưa ra khẩu hiệu quân bần phú (均貧富), như Vương Tắc Hoà (王則和), Phương Lạp (方臘) lợi dụng tôn giáo để phát động hay như Chung
Tương (鍾相), Dương Yêu (楊么) cho chí cuối đời Nguyên có giặc Khăn Đỏ (紅巾軍) khởi sự thì trong sách đều có những thiên
riêng để ghi chép. Còn như việc mâu thuẫn giữa các dân tộc và vấn đề chiến
tranh, đối với việc bảo vệ lãnh thổ, kiên trì kháng chiến, đề ngự ngoại xâm của
các nhân sĩ trung dũng, chẳng hạn tán dương Khấu Chuẩn (寇準), Lý Cương (李綱), Chung Sư Đạo (鍾師道), Tông Trạch (宗澤), Nhạc Phi (岳飛), Trần Lượng (陳亮) đời Tống, còn phủ định những hành vi xâm lược
và bành trướng, chẳng hạn như việc Nguyên Thế Tổ dùng binh với Nhật Bản và
Chiêm Thành. Ngoài ra, vì chưng cùng do một người viết, cả hai bộ sách có thể
tiếp nối, sách nọ bổ túc sách kia như hai phần trên và dưới của cùng một quyển.
Dưới đời Sùng Trinh, danh sĩ ở Thái Thương đất
Giang Tô là Trương Phổ (張溥) đã đem hai bộ sách này biên soạn thành hai bộ sách, lại soạn những
bài sử luận phụ vào sau chính văn, rồi san khắc bản mới đổi thành từng thiên
thay vì quyển. Về sau lưu truyền rộng rãi rất nhiều bản khác căn cứ trên bản sửa
đổi của Trương Phổ được san khắc. Trung Hoa thư cục ở Bắc Kinh gần đây đã ấn
hành hai bộ tiêu điểm bản, sửa lại những sai lầm từ các bản cũ, tiện cho người
xem.
Trong đời Quang tự nhà Thanh, hai cha con Lý
Minh Hán (李銘漢), Lý Vu Khải (李于鍇) hai người biên soạn Tục Thông Giám Kỷ Sự Bản
Mạt (續通鑑紀事本末), tổng cộng
110 quyển. Ngoài hai bộ sách của Trần Bang Chiêm còn tăng bổ thêm nhiều tài liệu
sử, đặc biệt là về các nước Liêu, Hạ, Kim để xem chung với hai bộ sách trên.
Minh Sử Bản Mạt
Minh Sử Kỷ Sự Bản Mạt (明史紀事本末) do Cốc Ứng Thái (谷應泰) đầu đời Thanh chủ biên, toàn bộ 80 quyển,
theo thể kỷ sự bản mạt để tường thuật lịch sử đời Minh, bắt đầu từ đời Nguyên
Chí Chính 12 (CN 1352) khi Chu Nguyên Chương (朱元璋) khởi binh, kết thúc vào đời Minh Sùng Trinh
17 (CN 1644) là lúc Minh triều diệt vong là một trong những sách lịch sử cơ bản
để nghiên cứu về đời Minh.
Chủ biên Cốc Ứng Thái, tự là Canh Ngu (賡虞), hiệu Lâm Thương (霖倉), người huyện Phong Nhuận, phủ Thuận Thiên, tỉnh
Trực Lệ (nay là Phong Nhuận tỉnh Hà Bắc), tiến sĩ xuất thân, năm Thuận Trị 13
(CN 1656) xuất nhiệm đề đốc học chính tỉnh Chiết Giang, lập thư xá ở bên bờ Tây
Hồ, đặt tên là Cốc Lâm Thương Trứ Thư Xứ (谷霖倉著書處), mời gọi danh sĩ Lưỡng Chiết, bắt tay vào
việc biên soạn Minh Sử.
Mùa đông năm Thuận Trị 15 (CN 1658), sách viết
xong được in ra. Trước đây có một thuyết nói rằng bộ sách này Cốc Ứng Thái dùng
một món tiền lớn để mua lại bộ sách Thạch Quĩ Tàng Thư (石匱藏書) do Trương Đại (張岱) biên tập, cải biên thành. Cũng có thuyết là
ông lấy bộ Quốc Các (國榷) của Đàm Thiên (談遷) mà làm thành. Lại cũng có thuyết nói rằng vì Từ Trác (徐倬) cảm kích việc đề bạt của Cốc Ứng Thái nên đã
đền đáp bằng sách này.
Những thuyết đó đều là truyền miệng và suy
đoán chứ không có căn cứ nào cả. Quan liêu thời xưa biên soạn sách phần nhiều
chỉ nhận vai trò chủ biên còn do người khác chấp bút. Minh Sử Kỷ Lược Bản Mạt nội
dung sung thực, kết cấu tinh mật, hiển nhiên không thể do một đại quan bận bịu
công vụ chỉ mất hai năm cả công lẫn tư mà có thể hoàn thành được. Vì thế, toàn
thư thể lệ chu mật, biên soạn rất chu đáo, từ đầu đến cuối liền nhau, nếu Cốc Ứng
Thái có làm chủ biên thì cũng bỏ nhiều công lao trong đó.
Khi Cốc Ứng Thái chủ trì biên soạn Minh Sử Kỷ
Lược Bản Mạt chính là lúc nhà Thanh bắt đầu, loạn lạc chưa yên, Minh Sử do triều
đình soạn thảo còn chưa bắt đầu, tài liệu dã sử của triều Minh để lại rất nhiều,
Cốc Ứng Thái có thể thu thập rộng rãi. Ngoại trừ tham khảo Thạch Quĩ Tàng Thư của
Trương Đại, Quốc Các của Đàm Thiên ra cũng còn nhiều tài liệu khác có thể thu
thập được như Hồng Du Lục (鴻猷錄) của Cao Đại (高岱), Chiêu Đại Võ Công Biên (昭代武功編) của Phạm Ảnh Văn (范景文). Đến như tài liệu sử viết về đời vua Sùng Trinh, rất nhiều tài liệu
trực tiếp trong 17 năm bao gồm báo cáo, chương tấu nên những sử liệu đó vô cùng
quí giá.
Vì bản sử thư này phần nhiều lấy từ tài liệu
bên ngoài triều đình nên giá trị so với Tống Sử Kỷ Sự Bản Mạt, Minh Sử Kỷ Sự Bản
Mạt tuy tư tưởng phong kiến quan liêu vẫn đậm nét nhưng văn bút giản dị, sàng sủa,
viết khái quát được một triều đại nhà Minh, thành một bản kế đại sử của Minh
triều. Trong 80 chuyên đề, đề cương khế lãnh, tường thuật tương đối hoàn chỉnh
một triều đại từ khi khai quốc đến khi diệt vong, và những sự kiện lịch sử trọng
đại. Về việc ghi lại các cuộc nổi dậy, sách đã chép tới 15 chuyên đề, từ tiền kỳ
Đường Trại Nhi (唐賽兒) ở Sơn Đông,
phu mỏ ở Chiết Mân (浙閩), lưu dân ở Vân Dương (鄖陽) đến trung kỳ thì có các vụ nổi dậy ở Hà Bắc, Thục Trung, Giang Tây, đến
mạt niên có các vụ nổi loạn của Lý Tự Thành (李自成), Trương Hiến Trung (張獻忠) tất cả đều ghi chép tập trung thành một
thiên riêng biệt, đưa ra được những tư liệu lịch sử có giá trị.
Trong sách có những chuyên đề về hoạn quan
chuyên quyền đời Minh, nội bộ hoàng thất anh em tàn sát lẫn nhau cho chí quan lại
chia phe đảng tranh nhau khốc liệt. Sách cũng ghi chép bao quát chính trị, quân
sự, cơ bản nội dung chế độ điển chương và cả đến vận chuyển đường sông, đê điều,
khai mỏ, thuế khoá và những vấn đề liên quan đến quốc kế dân sinh của triều
Minh.
Cuối đời Minh khi người Mãn Châu ở đông bắc
hưng khởi và hai bên tranh chấp có liên quan đến lịch sử, trong sách cũng nói
qua nhưng không ghi chép. Thiệu Ý Thần (昭懿辰) viết:
Bản đang lưu hành mất các phần Liêu Tả Binh
Đoan (遼左兵端), Hùng Vương
Công Tội (熊王功罪), Tháp Hán Khấu
Biên (插漢寇邊), Mao Soái
Đông Giang (毛帥東江), Cẩm Ninh Chiến
Thủ (錦寧戰守), Đông Binh Nhập
Khẩu (東兵人口) sáu thiên.
Bái Kinh Lâu có bản sao. [Tăng Đính Tứ Khố Giản Minh Mục Lục Tiêu Chú, quyển 5].
Theo như phán đoán của nhà văn hiến học là Phó Dĩ Lễ (傅以禮) thì sáu thiên về lịch sử cuối triều Minh đã
được Cốc Ứng Thái viết xong vốn chung làm một bộ nhưng vì liên quan đến việc biến
thiên triều đại, sợ rằng đắc tội với Thanh triều nên khi san khắc bản đã bỏ đi
không in. Về sau họ Phó đổi đề tài thành Minh Sử Ký Sự Bản Mạt Bổ Di (明史紀事本末補遺), bao gồm 6 quyển.
Đầu đời Thanh, việc cấm đoán văn tự rất nghiêm
nhặt, Minh Sử Kỷ Sự Bản Mạt có thiếu những việc cuối đời Minh, ấy cũng là do áp
lực của tình hình chính trị đương thời mà ra, không phải là người soạn sử đã
không chép. Toàn thư tất cả 80 thiên, nhựng thiên sau cùng bỏ nhiều tâm sức soạn
thành luận tán theo thể biền ngẫu, đọc lên rất du dương, có điều nội dung không
được tinh thái dài ngắn không đều.
Gần đây Trung Hoa thư cục ở Bắc Kinh có ấn
hành bản hiệu điểm Minh Sử Kỷ Lược Bản Mạt (明史紀事本末) từ nguyên thư 80 quyển và 6 quyển Bổ Di (補遺) ngoài ra còn thêm vào sách của Bành Hệ Di (彭係貽) đời Thanh sơ soạn Minh Triều Kỷ Sự Bản Mạt Bổ
Biên (明朝紀事本末補編) 5 quyển,
tài liệu dồi dào, đọc rất tiện lợi.
Ngoại trừ Minh Sử Kỷ Sự Bản Mạt, đời Thanh viết
theo thể kỷ sự bản mạt biên soạn sách sử rất nhiều nhưng đại đa số chỉ bình thường,
giúp cho độc giả giải thích được tổng quát một số việc, nay chỉ giới thiệu sơ
qua.
Nguỵ Nguyên (魏源) viết Thánh Võ Ký (聖武記) tường thuật qua về hoạt động quân sự thời kỳ
trung điệp nhà Thanh trở về trước, liên quan đến việc đàn áp một số hoạt động
chống lại nhà Thanh, tuy đứng ở lập trường quan phương nhưng ghi chép tương đối
hoàn chỉnh khẳng định được giá trị học thuật.
Biên soạn theo thể kỷ sự bản mạt đầu đời Thanh
có Cao Sĩ Kỳ (高士奇) viết Tả Truyện
Kỷ Sự Bản Mạt (左傳紀事本末) và Mã Túc (馬驌) viết Tả Truyện Sự Vĩ (左傳事緯), cả hai đều lấy tài liệu từ Tả Truyện là
chính. Sách của họ Cao lấy nước làm trung tâm, tại mỗi nước lại định sự mục, mỗi
sự mục thành một quyển, tổng cộng 53 quyển. Sách họ Mã thì đại lược lấy thời
gian trước sau làm thứ tự, cộng chia ra làm 20 quyển, 108 mục. Dưa trên phương
pháp biên soạn, so sánh hai bộ sách thì bộ sau hay hơn bộ trước một chút.
Dương Lục Vinh (楊陸榮) có Tam Phiên Kỷ Sự Bản Mạt (三藩紀事本末), tương đối tập trung vào thời kỳ nhà Nam
Minh nên tài liệu đưa vào cũng có chỗ dùng được. Vãn kỳ nhà Thanh, Lý Hữu Đường
(李有棠) có Liêu Sử Kỷ Sự Bản Mạt
(遼史紀事本末), Kim Sử Kỷ Sự Bản Mạt
(金史紀事本末) và Trương Giám (張鑑) có Tây Hạ Kỷ Sự Bản Mạt (西夏紀事本末) đều viết theo dạng quyển, tường thuật những
điều cốt yếu liên quan đến ba nước Liêu, Kim, Tây Hạ.
Từ khi Viên Khu viết Thông Giám Kỷ Sự Bản Mạt
đến nay, sách viết theo thể kỷ sự bản mạt liên tục được sáng tác, tiếp nối hoàn
chỉnh từ thượng cổ đến đời Thanh. Thể kỷ sự bản mạt nay chia ba chân vạc với chính
sử thể kỷ truyện và biên niên sử trong đó đa số dựa theo một bộ hay hai bộ
nguyên thư rồi cải biên, chỉ có một số ít là tự mình thu gom sử liệu ngay từ đầu.
Do đó, giá trị sử liệu cần được phân biệt đánh giá riêng. Khi soạn thảo sách sử
truyền thống, giá trị sách chủ yếu là tài liệu mới thêm vào.
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHÍNH THƯ
Chính thư (政書)[3]
là tên gọi được đặt ra khi nhà Thanh soạn Tứ Khố Toàn Thư (四庫全書) mới bắt đầu sử dụng. Chính thư chỉ chuyên
môn ký thuật về sự thay đổi trong chế độ điển chương các vương triều, biến hoá
ra sao cho chí sự phát triển trong kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật
các loại tình huống đều được sắp xếp ghi lại các tư liệu vào sách sử.
Các loại sách vở này và phạm vi rất rộng, tất
cả các mục chí và thư trong Nhị Thập Ngũ Sử cũng đều nằm trong đó. Thế nhưng
trong mục chí của Nhị Thập Ngũ Sử thì ghi nhiều hay ít không giống nhau, có nhiều
bộ hoàn toàn không có mục chí (志). Theo như thể lệ, trong mục chí thì không thể chép nguyên văn đáng án
nguyên thuỷ, tuy bảo tồn được sự phong phú của sử liệu là nguyên tắc vô cùng trọng
yếu nhưng lại không thuộc về phương diện hệ thống, tập trung, nghiên cứu chuyên
môn của một bộ sách chuyên môn.
Chính thư là một thể đứng bên ngoài chí, một
loại sách sử chuyên giảng về chế độ điển chương. Có những bộ giảng giải tất cả
liên hệ xuyên suốt từ cổ chí kim như Thông Điển (通典), Thông Chí Nhị Thập Lược (通志二十略), Văn Hiến Thông Khảo (文獻通考) mà người Trung Hoa gọi là Thập Thông (十通). Cũng có sách chỉ biên soạn chia thành từng
môn, từng loại của chỉ một triều đại chẳng hạn như Đường Hội Yếu (唐會要), Ngũ Đại Hội Yếu (五代會要); cũng có khi tập hợp văn kiện mỗi chế độ của
một loại như Đường Luật Sớ Nghị (唐律疏議), Tống Hình Thống (宋刑統). Thể lệ biên soạn chính thư đều chia ra thành từng môn, từng loại, mỗi
môn loại lại theo thời đại mà sắp xếp trước sau, so sánh để tiện việc tra cứu.
Những loại sách này tiện lợi cho triều đình và quan lại tham khảo hay vay mượn
để biên soạn.
Thông Điển
Bộ chính thư sớm nhất của Trung Hoa còn tồn tại
là bộ Thông Điển (通典) do Đỗ Hựu (杜佑) đời Đường biên soạn. Đây là bộ thông sử ghi
chép sớm nhất về chế độ điển chương của Trung Hoa. Trong Tứ Khố Toàn Thư, Thông
Điển là bộ chính thư về điển chí đầu tiên.
Đỗ Hựu (CN 735-812) tự là Quân Khanh (君卿), người Vạn Niên, đất Kinh Triệu đời Đường
(nay là huyện Tràng An, Thiểm Tây), ông cha nhiều đời làm quan, chính ông cũng
cả đời làm quan, từng giữ chức tiết độ sứ Hoài Nam, lại nhiều năm là quan chức
chuyên trách về phương diện kinh tế trông coi việc vận tải, diêm thiết. Năm
Trinh Nguyên 19 (CN 803), ông làm tể tướng, năm Nguyên Hoà sơ niên được phong
tước Kỳ Quốc Công (岐國公).
Ông làm quan trải bốn đời Đại Tông, Đức Tông,
Thuận Tông, Hiến Tông nhà Đường nên việc chính vụ phức tạp đến chừng nào. Thế
nhưng ông một đời cần mẫn, hiếu học, tay không lúc nào rời quyển sách, luôn
luôn chong đèn viết sách, suốt hơn 30 năm tâm huyết viết thành Thông Điển.
Ngoài ra ông còn soạn Lý Tài Yếu Quyết (理財要訣), Quản Thị Chỉ Lược (管氏指略).
Thông Điển tổng cộng 200 quyển, là bộ thông sử
đầu tiên ghi chép về thay đổi, biến cách các chế độ kinh tế, chính trị của
Trung Hoa từ các triều đại truyền thuyết như Đường Ngu (唐虞) cho đến đời Đường các vua Túc Tông, Đại Tông,
Đức Tông, là tổng kết lịch sử điển chương của Trung Hoa thời cổ đại. Theo lịch
sử ghi chép thì con trai của Lưu Tri Cơ (劉知幾) [tự Tử Huyền] đầu đời Đường là Lưu Trật (劉秩) cũng đã từng biên soạn một bộ Chính Điển (政典) tổng cộng 30 quyển, bộ sách này thu thập các
sách khác, lấy trách nhiệm của lục quan trong Chu Thư (周書), chia ra từng loại, từng môn soạn thành rất
được người đương thời khen ngợi.
Đỗ Hựu đọc rồi thấy chưa được tường tận, quyết
tâm tăng gia môn loại, làm cho nội dung phong phú hơn nên tham khảo thêm Đại Đường
Khai Nguyên Lễ (大唐開元禮), Nhạc Thư (樂書) tăng thêm và mở rộng viết thành Thông Điển
200 quyển. Chính Điển vốn đã thất truyền, phân lượng nhỏ hơn Thông Điển nhiều,
nội dung chắc hẳn đã nằm trong Thông Điển. Đỗ Hựu mất 30 năm để soạn Thông Điển
cho thấy ông đã dụng công dụng lực rất nhiều. Khách quan mà nói, hoàn cảnh của
Đỗ Hựu, sinh hoạt và từng trải là những điều kiện giúp cho ông soạn Thông Điển.
Đỗ Hựu từ một quan chức tại địa phương lên đến
Hoài Nam tiết độ sứ, về sau lại làm tể tướng, là một nhân vật cao cấp trong guồng
máy quan lại. Ông am tường các chế độ chính trị, kinh tế đời Đường và sự thay đổi
trong các phương diện lễ, nhạc, binh, hình một cách rõ rệt và thường có những
cơ hội chính mình tham dự hoặc tai nghe mắt thấy những biến cách đó. Hơn nữa, đối
với điển chương các đời ông lại chuyên tâm nghiên cứu nên những gì viết ra đều
chân thực đáng tin, chứng cớ rõ ràng.
Về phương diện phát triển của Trung Hoa thì từ
đời Đường khởi đầu, đời Thiên Bảo thì chính trị, kinh tế phát triển mạnh, các
loại điển chương chế độ ở rải rác ghi chép lẻ tẻ không còn đáp ứng được nhu cầu
của xã hội nữa. Việc hệ thống hoá và tổng kết toàn diện các loại chế độ điển
chương chính là một đòi hỏi khách quan. Mục đích của Đỗ Hựu tiềm tâm nghiên cứu,
tổng kết là để dùng trong triều đình nên nhiều phần nội dung phản ảnh kiến giải
theo cách của người đương thời.
Toàn bộ sách này chia ra làm thực hoá, tuyển cử,
chức quan, lễ, nhạc, binh, hình, châu quận, biên phòng tất cả chín bộ phận. Mỗi
bộ phận lại phân ra vài mục con khác nhau. Thu thập các tài liệu có liên quan
trong phần chí nơi các sách sử trước đời Đường, loại nào ra loại nấy, sắp xếp lại
theo cách mới, dựa theo triều đại thứ tự mà trình bày, nguồn gốc và tiến hoá, gộp
từ cổ chí kim thành một thiên. Trong đó, tài liệu của đời Đường thì thu thập từ
thực lục, quốc sử và đáng án, công văn có liên quan nên nội dung rất phong phú
rõ ràng. Mỗi loại đều có lời tựa, luận, trình bày kiến giải của Đỗ Hựu, rất nhiều
đoạn mười phần tinh tế và sâu sắc. Chẳng hạn như Thực Hoá Môn (食貨門) bài luận kết thúc chủ trương tiết kiệm, thuế
má nhẹ để an dân. Trong phân loại Chức Quan (職官) thì viết:
是以一人而治天下,非以天下奉一人。
Ấy là lấy một người để trị thiên hạ chứ
không phải đem cả thiên hạ phụng sự một người.
Lại viết:
君主、官吏是治理國家的,並非是被天下百姓侍奉的。
Vua làm chủ và quan lại là để cai trị quốc
gia, không phải là để cho bách tính trong thiên hạ phụng sự mình.
Ông cũng chủ trương giản hoá cơ cấu, giảm nhẹ
gánh nặng cho dân, những quan điểm đó rất tiến bộ thể hiện tư tưởng thương xót
dân tình. Ông cũng chủ trương tuỳ theo tình hình phát triển của lịch sử mà chế
độ điển chương cũng phải thay đổi theo nên tại Thông Điển đã đem mục Thực Hoá
Môn đưa lên đầu để thay thế quan niệm trước có lễ nhạc sau mới có miếng ăn, ấy
là việc mà sử thư trước nay không hề nói đến. Ông cũng đưa ra Hồng Phạm (洪範) tám chính sách “một ngày thực phẩm, hai
ngày hàng hoá” (一日食,二日貨) và Quản Tử “thương
khố đầy thì mới biết lễ tiết, y thực đủ thì mới biết vinh nhục” (倉廩實,知禮節,衣食足,知榮辱) để làm luận cứ, đề xuất căn bản của giáo hoá
là phải cho dân ấm no trước. Trong Thông Điển cũng ghi chép thiên văn, ngũ hành
không có liên quan gì đến chính trị, kinh tế và đã bị trộn lẫn với mê tín, những
quan điểm đó rất đáng quí.
Sau khi Thông Điển ra đời, vì là được dùng để
kinh bang tế thế nên được rất nhiều người coi trọng. Người ta bình luận rằng nếu
có được bộ Thông Điển thì “không cần ra khỏi nhà cũng biết được thiên hạ,
chưa theo nghiệp chính trị cũng hiểu thấu được nhân tình” (不出戶,知天下;未從政,達人情) [bài Tựa của Lý Hàn (李翰)].
Tứ Khố Toàn Thư Tổng Mục Đề Yếu cũng xưng tán
sách này “ghi chép những việc từ xưa đến nay về duyên cách, rõ ràng mà không
phức tạp, giản dị mà vẫn đủ những chỗ quan trọng mọi sự đều thực học mà dùng được,
kẻ chỉ biết ghi chép và thắc mắc không thể bì được, khắp các việc trước đời Đường,
đi hết vực sâu biển lớn” (凡歷代沿革悉爲記載,詳而不煩,簡而有要,元元本本,皆爲有用之實學。非徒資記問者可比,考唐以前之掌故者,兹編其淵海矣!).
Lời bình luận đó rất
xác đáng và phù hợp với thực tế.
Trung Hoa thư cục ở Bắc
Kinh năm 1988 ấn hành Thông Điển điểm hiệu bản, do nhóm Vương Văn Cẩm (王文錦)
khảo sát và xem xét kỹ càng, chú thích đầy đủ là bản nay dùng tốt hơn cả. Thông
Điển và Thông Giám, một bên viết về chế độ, một bên viết về sự kiện lịch sử,
khi nghiên cứu hợp cả hai lại để đọc, hỗ tương tham chiếu rất có ích. Đời Thanh
cũng đi theo thể lệ biên tập Thông Điển để soạn Tục Thông Điển và Thanh Triều
Thông Điển [tên gốc là Hoàng Triều Thông Điển để tỏ sự tôn kính bản triều].
Thông Chí
Thông Chí có tên ban đầu
là Thông Sử tổng cộng 200 quyển, tác giả là Trịnh Tiều (鄭樵)
(CN 1104 – 1162). Ông tự là Ngư Trọng (漁仲)
nhưng vì trường kỳ ở tại núi Giáp Tế (夾漈) đọc sách, trước tác nên
người đời gọi ông là Giáp Tiên Sinh. Ông người huyện Hưng Hoá, Hưng Hoá quân, lộ
Phúc Kiến (nay là huyện Bồ Điền, Phúc Kiến), các đời ông cha đều làm quan. Trịnh
Tiều từ nhỏ đã ham đọc sách, tự cho rằng tài khí không thua gì Lưu Hướng (劉向),
Dương Hùng (楊雄). Từ năm 16 tuổi, ông ở tại quê hương là núi
Giáp Tế đóng cửa đọc sách, dụng tâm nghiên cứu, sau đó ra khỏi nhà viễn du các
danh sơn đại xuyên, hỏi han về các chuyện cổ, sưu tầm điều lạ, gặp ai nhà có chứa
sách thì đều ở lại mượn đọc đến hết mới đi cho nên sở học rất uyên bác. Ông lập
chí muốn gom hết sách trong thiên hạ làm thành một quyển (集天下之書爲一書), trải qua 30 năm mới viết xong Thông Chí.
Ông một đời trước thuật
rất nhiều, hiện nay ngoài Thông Chí ra, có thể khảo thì còn Giáp Tế Di Cảo (夾漈遺稿), Nhĩ Nhã Chú (爾雅注) tất cả hơn 50 loại.
Khi nhà Tống di chuyển xuống miền Nam, Trịnh Tiều từng ôm lòng báo quốc nên
dâng thư tự tiến cử nhưng không được dùng. Sau khi Thông Chí hoàn thành ông hiến
cho hoàng đế, được lưu dụng làm biên tu Khu Mật Viện, cả đời không được giữ chức
vụ cao để tỏ lộ kiến thức, khứ thế năm 59 tuổi. Trịnh Tiều chủ trương Thông Sử,
chống lại cách viết đời này sang đời khác, tán dương Tư Mã Thiên, chê bai Ban Cố,
đưa ra quan điểm sử học cần quảng bác và dễ hiểu.
Thông Chí chép từ đời
Tam Hoàng xuống đến Tuỳ Đường là một bộ thông sử tổng hợp sử liệu nhiều thời đại,
thể lệ theo cách thức của Sử Ký, chia ra bốn bộ phận Bản Kỷ, Liệt Truyện (ghi
chép tổng quát), Niên Phổ và Tóm Lược. Niên Phổ tương đương với phần Biểu của
các bộ sử khác, Lược tương đương với phần Chí của các bộ sử khác. Bộ phận Kỷ
Truyện, sử liệu lấy từ chính sử các triều, ông dùng các phần Kỷ, Truyện trong sử
tìm liên quan với nhau, theo thời đại thuận theo thứ tự xắp xếp, loại bỏ những
phần luận, tán và nội dung trùng nhau, tuỳ chỗ mà tăng bổ rồi biên tập mới lại
thành sách.
Đối với phương pháp
này của Trịnh Tiều xưa nay có nhiều lời bình phẩm không đồng nhất, có người cho
là phần lớn là cắt ra từ sử cũ, nối với nhau thành sách nên giá trị không nhiều,
thế nhưng cũng có người cho rằng Trịnh Tiều đem hết tâm huyết, quán thông cổ
kim, là một bộ thông sử tiếp theo Sử Ký, tuy với Sử Ký không thể coi như ngang
nhau nhưng cũng là một nhà riêng. Huống chi ông không phải chỉ giản dị là chép
từ sách cũ mà cũng có phần chọn lựa, cắt bớt, bổ sung, khảo chứng, không thể phủ
định tất cả. Thông Chí tuy là thông sử nhưng các bộ phận Kỷ, Truyện, Phổ xưa
nay ít người đọc tới.
Thông Chí – Nhị Thập
Lược là phần mà Trịnh Tiều một đời bỏ công lao tâm huyết nhiều hơn cả, là phần
ông đắc ý nhất, cũng là tinh hoa của bộ Thông Chí. Trong Nhị Thập Lược có lễ,
nhạc, chức quan, tuyển cử, hình pháp, thực hoá nhiều nguồn lấy từ Thông Điển;
thiên văn, địa lý, khí phục, nghệ văn, hiệu thù phần nhiều lấy từ chí của sử
các đời. Chỉ có thị tộc, lục thư, thất âm, đô ấp, côn trùng, thảo mộc là những
điều mà sách sử quá khứ chưa từng có là những phần Trịnh Tiều đầu tiên nêu ra.
Chẳng hạn Thị Tộc Lược phân chia theo họ mà ra, chia ra thành 32 loại. Côn
Trùng Thảo Mộc Lược bên dưới chia ra làm 8 loại, tường thuật thảo, sơ, đạo quả,
mộc quả, trùng ngư, cầm, thú các chủng loại, mỗi chủng loại chia ra động, thực
vật các đặc tính, trạng thái, dụng đồ, sản địa …
Bên trong Nhị Thập Lược
có lục thư, thất âm, nghệ văn, hiệu thù, kim thạch, đồ phổ, côn trùng, thảo mộc,
các lược đó liên quan đến tư liệu trọng yếu thuộc phương diện học thuật và văn
hoá sử, so với Thông Điển thì phong phú, cho thấy Trịnh Tiều đã coi trọng những
phương diện này hơn Đỗ Hựu, đó cũng là chỗ bác học ưu điểm của ông. Ông chú trọng
thực tiễn, khảo chứng chặt chẽ, ở các loại lược tả về thiên văn, địa lý, xa dư
(xe kiệu), phục sức, côn trùng, thảo mộc, chức quan đã sửa chữa được rất nhiều
sai lầm trong các sách vở trong quá khứ.
Thông Chí tuy nội dung
phong phú, sách vở tham khảo nhiều, chủ trương hội thông (nối liền các nơi lại
làm một) nhưng chỉ viết về đời Đường mà tránh nói về đời Tống, trong sách cũng
không dám nói thẳng ý kiến của mình, bóc trần những tệ hại ra. Sở dĩ người xưa
nói Thông Chí “bác học nhi quả yếu” (博學而寡要) (rộng rãi nhưng không cần đến nhiều) [Tống Sử - Bản Truyện], trong Tam
Thông thì không bằng được Thông Điển và Văn Hiến Thông Khảo.
Sở dĩ như thế vì Trịnh
Tiều cả đời phần nhiều sống ở chốn sơn lâm, đóng cửa đọc sách, tách rời ra khỏi
hiện thực xã hội. Cho nên trong sách tuy không phải không có những chỗ tinh tế
nhưng phần nhiều là tri thức lấy từ sách vở ra nên không có được cái nhìn rộng
rãi để đưa ra vấn đề, giải quyết vấn đề. Thế nhưng tại điển chương chế độ thì
Thông Chí không mất đi vị thế của một danh trứ sử học.
Dưới đời Thanh đi theo
thể lệ Thông Chí, quan tu có Tục Thông Chí (續通志),
Thanh Triều Thông Chí (清朝通志) [tên gốc Hoàng Triều
Thông Chí (皇朝通志)]. Thời kỳ Minh Thanh còn lấy riêng Nhị Thập
Lược tách riêng ra khắc bản ấn hành gọi là Thông Chí Lược (通志略).
Văn Hiến Thông Khảo
Văn Hiến Thông Khảo
bao gồm 348 quyển. Trong phần Tự (序) có viết: Trong sách dẫn dùng cổ kinh, sử,
hội yếu, truyện ký của trăm nhà nên gọi là văn, tham khảo các tấu sớ của bầy
tôi, các nghị luận của chư nho ấy là hiến, cho nên tên sách mới gọi là Văn Hiến
Thông Khảo (書中所引用古經、史、會要、百家傳記謂之文, 參以臣僚奏疏、諸儒議論謂之獻,故書名爲《文獻通考》。). Tác giả của
Văn Hiến Thông Khảo là Mã Đoan Lâm (馬端臨) [khoảng chừng CN 1254 – 1323), tự là Quí Dư (貴與), người Lạc Bình,
Nhiêu Châu đời Nam Tống (nay là huyện Lạc Bình, Giang Tây).
Nhân vì cả Tống Sử lẫn
Nguyên Sử đều không nơi nào lập truyện cho ông nên đời sống, sự tích về ông
không rõ. Thế nhưng theo Tống Nguyên Học Án (宋元學案), Thông Khảo (通考) [Văn Hiến Thông Khảo (文獻通考) gọi tắt là Thông Khảo] các bài Tiến Thư Biểu (進書表),
Sao Bạch (抄白) và Lạc Bình Huyện Chí (樂平縣志) trong đó có một số tài liệu linh tinh thì biết rằng ông là con thứ hai
của tể tướng Mã Đình Loan (馬廷鸞) cuối đời Nam Tống, từng
làm chức thừa sự lang, năm Độ Tông Hàm Thuần 9 (CN 1273) đỗ đầu kỳ thi tào.
Cùng năm đó, Mã Đình Loan nhân vì không chịu cùng làm chuyện xấu xa với Giả Tự
Đạo (賈似道) nên bị bắt buộc phải từ chức, trở về nhà ở Lạc
Bình nhàn cư, Đoan Lâm cũng đi theo cha về quê. Mã Đình Loan từng làm sử quan đời
Tống, trong nhà sách vở rất nhiều.
Dưới sự chỉ đạo của cha, Mã Đoan Lâm cần cù đọc
sách, sau khi nhà Nam Tống diệt vong lại càng chuyên tâm chỉnh lý điển tịch để
gửi gấm nỗi khổ của chính trị lên bút mực. Bị ảnh hưởng của cha, vào khoảng năm
30 tuổi, ông bắt đầu biên tả Văn Hiến Thông Khảo, trải qua hơn 20 năm cố gắng
thì đã hoàn thành. Năm Chí Nguyên 26 nhà Nguyên (CN 1289) cha ông qua đời, sau
đó Mã Đoan Lâm cũng có ra làm Từ Hồ (慈湖) thư viện trưởng, Kha
Sơn (柯山) thư viện trưởng, giáo thụ một thời gian ngắn,
bồi dưỡng rất nhiều nhân tài.
Trong Lạc Bình Huyện
Chí có chép rằng ông giảng bài thao thao bất tuyệt, lời nói như suối chảy khiến
cho người nghe ai nấy đều thu nhập được điều gì cho thấy ông học thức uyên
thâm, tài hoa xuất chúng. Ông một đời phần nhiều chủ yếu ẩn cư đọc sách, sau 50
tuổi mới viết xong Thông Khảo. Về sau một đạo sĩ là Vương Thọ Diễn (王壽衍)
hỏi biết được sách này, tâu lên triều đình, năm Nguyên Chí Trị 2 (1322) triều
đình cho san khắc, đến năm Thái Định nguyên niên (CN 1324) thì hoàn thành, như
thế Mã Đoan Lâm cũng chính mắt nhìn thấy bộ sách này khi in ra.
Thông Khảo chia thành
24 phần trong đó có 5 thiên mới làm ra là kinh tịch (經籍),
đế hệ (帝系), phong kiến (封建),
tượng vĩ (象緯), vật dị (物異),
còn 19 thiên khác thì có sẵn trong Thông Điển. Nội dung từ thượng cổ bắt đầu, đến
đời Ninh Tông Gia Định thời Nam Tống thì chấm dứt. Toàn thư có thể nói là Thông
Điển mở rộng và tiếp theo. Sử liệu viết trong sách từ thời Trung Đường trở về
trước phần nhiều dùng Thông Điển làm cơ sở rồi xem chỗ nào cần thì bổ sung,
Trung Đường trở về sau do chính Mã Đoan Lâm thu góp rộng rãi các kiệt tác, nhân
vì đời Tống sử liệu phong phú, quốc sử, hội yếu, nghị luận của các nhà nho lại
thêm các kiến giải của cha ông là Mã Đình Loan trong nhiều vấn đề cũng đều được
tập trung vào đây, rất nhiều phần Tống Sử chưa từng có. Khi đó Tống Sử chưa viết
xong, về sau phần Chí trong Tống Sử đã dựa vào Thông Khảo để biên soạn nên về
phương diện sử liệu thì Thông Khảo trội hơn Tống Sử.
Thông Khảo dùng cơ sở
của Thông Điển để phát triển nhưng có những tiến bộ. Thông Khảo cũng đưa thiên
Thực Hoá (食貨) đặt lên đầu rồi sau mới đến chính trị, văn
hoá. Phần Lễ Điển trong Thông Điển chiếm một nửa sách, trong Thông Khảo thì bộ
phận đó chỉ chưa đầy 1/5, so sánh với các môn loại, bố cục so với Thông Điển
cũng hợp lý hơn. Phần Binh Khảo trong Thông Khảo ghi chép đầy đủ sự thay đổi
trong binh chế từ xưa tới nay, điều chỉnh lại Binh Điển chỉ thiên về binh pháp
mà thôi. Thông Khảo biên tập sắp xếp có thứ tự, trước dẫn sự thực trong các
sách sử, sau đó bổ sung tài liệu, rồi kế đó là các lời nghị luận của chư nho,
còn nghị luận của Mã Đoan Lâm thì đưa vào mục “án” để phân biệt, cũng có chỗ
còn thêm mục “tiểu chú”, việc điều lý vô cùng rõ ràng tiện lợi cho tra cứu hơn
Thông Điển rất nhiều.
Thông Khảo dựa theo
phép tắc của Thông Điển nhưng chia lại môn loại, điều chỉnh bố cục, tăng bổ sử
liệu, xem xét biện luận đúng sai. Đồng thời cũng hấp thu ưu điểm của Thông Chí
– Nhị Thập Lược, tăng thêm nội dung phần văn hoá sử. Thông Khảo lấy chỗ sở trường
của Thông Điển, Thông Chí, dùng điển chí thể của Đỗ Hựu khai mở, tự mình hình
thành và hoàn thiện về dung nạp nội dung.
Vương Kỳ (王圻)
đời Minh biên soạn Tục Văn Hiến Thông Khảo (續文獻通考) so với Thông Khảo thì có thêm sáu môn loại, sử liệu cũng rất phong
phú, đặc biệt có những sử liệu cực kỳ quí giá đời Minh. Vì trong sách có những
phần viết về đời Thanh nên bị triều Thanh liệt vào cấm thư, không cho lưu hành.
Sách quan tu đời Thanh có Tục Văn Hiến Thông Khảo (續文獻通考), Thanh Văn Hiến Thông Khảo (清文獻通考) [nguyên danh Hoàng
Triều Văn Hiến Thông Khảo]. Cuối đời Thanh, đầu đời Dân Quốc Lưu Cẩm Tảo (劉錦藻)
biên soạn Thanh Triều Tục Văn Hiến Thông Khảo (清朝續文獻通考) [nguyên danh Hoàng Triều Tục Văn Hiến Thông Khảo] thời gian cho đến cuối
đời Thanh.
Đỗ Hựu đời Đường soạn
Thông Điển, Trịnh Tiều đời Tống soạn Thông Chí, Mã Đoan Lâm đời Ngũ Đại soạn
Văn Hiến Thông Khảo, cả ba bộ sách này gọi chung là Tam Thông, là những chính
thư có tên tuổi nhất trong Điển Chí Thể (典志體).
Ngoài ra đời Thanh sử quan tu thì có Tục Thông Điển, Tục Thông Chí, Tục Văn Hiến
Thông Khảo, Thanh Triều Thông Điển, Thanh Triều Thông Chí, Thanh Triều Văn Hiến
Thông Khảo, gọi chung là Cửu Thông. Lưu Cẩm Tảo soạn Thanh Triều Tục Văn Hiến
Thông Khảo cho nên mới gọi là Thập Thông. Thập Thông là những sách rất trọng yếu
trong các loại chính thư, tất cả đến 2600 quyển, nội dung quảng bác, tra xem
không dễ, Thương Vụ Ấn Thư Quán đã soạn Thập Thông Sách Dẫn (十通索引), dùng hiệu mã tứ giác (bốn góc) và phân loại hai phương thức kiềm sách
(檢索) để cho chúng ta tra duyệt Thập Thông được tiện
lợi.
Hội Yếu
Sử thư nếu cứ theo triều
đại mà ghi chép chế độ điển chương thì gọi là Hội Điển (會要)
là một bộ phận trọng yếu thuộc về chính thư.
Thể lệ Hội Điển mở đầu
là đời Đường Tô Miện (蘇冕) biên soạn Hội Yếu (會要)
[từ Đường Cao Tổ cho đến thời Đức Tông], về sau Dương Thiệu Phục (楊紹復),
Thôi Huyền (崔弦) tục biên từ đời Đường Đức Tông đến đời Tuyên
Tông gọi tên là Tục Hội Yếu (續會要). Sang đời Tống, Vương
Phổ (王溥) soạn bổ túc từ sau Tuyên Tông đến cuối đời Đường,
là Đường Hội Yếu (唐會要), bộ Hội Yếu sớm nhất của Trung Hoa.
Vương Phổ (CN 922 –
982), tự Tề Vật (齊物) người đất Kỳ, Tịnh Châu (nay là Kỳ Huyện, Sơn
Tây), đầu đời Tống từng làm tể tướng.
Đường Hội Yếu tổng cộng
100 quyển, không chia thành môn loại, trực tiếp chia thành 514 mục, dưới mỗi mục
lại chia thành điều ghi chép chi tiết lịch sử và các sự tích có liên quan. Những
điển cố nhỏ thì biên soạn thành phần tạp lục, phụ vào sau các điều. Đường Hội Yếu
ký thuật các loại chế độ điển chương đời Đường, việc thay đổi biến thiên, giữ
được các sử liệu phi thường phong phú. So với Tân, Cựu Đường Thư thì bộ sách
này viết trước, rất nhiều sử liệu viết thời kỳ biên soạn Đường Thư nay đã mất,
may nhờ Đường Hội Yếu mà còn tồn tại đến ngày nay.
Một bộ sách khác cũng
do Vương Phổ soạn là Ngũ Đại Hội Yếu 30 quyển. Sau khi viết xong Đường Hội Yếu
ông lại thu thập sử liệu về đời Ngũ Đại biên soạn thành. Ngũ Đại Hội Yếu viết
xong trước khi Tân Cựu Ngũ Đại Sử ra đời, tiếc rằng những sử liệu bảo tồn được
trong bộ sách này lại chưa được ghi lại trong Ngũ Đại Sử. Ngũ Đại Hội Yếu là
sách nghiên cứu tối trọng yếu về điển chương chế độ đời Ngũ Đại, chứa đựng rất
nhiều tư liệu nguyên thuỷ.
Đời Tống việc soạn thảo
Hội Yếu rất được coi trọng, trước sau có đến 10 lần tu bổ Hội Điển, soạn thành
hơn 2200 quyển, nhưng chưa được san khắc thì quân Nguyên diệt nhà Tống, bản thảo
được đưa về phương bắc, về sau phần nhiều mất mát cả. Khi nhà Minh biên soạn
Vĩnh Lạc Đại Điển (永樂大典) thì cho người đi tìm kiếm nguyên cảo còn sót
lại, sang đời Gia Khánh nhà Thanh, Từ Tùng (徐松)
chủ trì biên tập Toàn Đường Văn (全唐文) giả thác danh nghĩa
sai người sao lại các bản tàn khuyết trong Vĩnh Lạc Đại Điển, tổng cộng được chừng
5, 600 quyển, ấy là Tống Hội Yếu Tập Cảo (宋會要輯稿).
Bản này về sau lưu lạc
tại các nhà sách dân gian, được nhà sưu tập sách Lưu Thừa Cán (劉承幹)
mua được. Ông mời người sắp xếp chỉnh lý lại, đưa thêm tài liệu vào biên soạn
thành 460 quyển. Bản chỉnh lý của Lưu Thừa Cán vì đã san cải nhiều, tăng thêm
tài liệu mà lại không ghi chú rõ xuất xứ nên giới học giả không coi những lời
bình chú là có giá trị, trái lại bản biên tập nguyên cảo của Từ Tùng lại được học
giới coi trọng hơn, gần đây đã được Trung Hoa Thư Cục Bắc Kinh in lại theo lối ảnh
ấn, tiện cho việc sử dụng.
Từ đời Tống đến nay,
nhiều sách viết theo thể tài Hội Yếu để ghi chép điển chương chế độ các triều đại
đã xuất hiện, có khi không gọi là Hội Yếu nhưng thể lệ, nội dung cùng một cách,
hình thành một bộ Hội Yếu hoàn chỉnh bao trùm tất cả các triều đại. Trừ các
sách trên đây đã đề cập đến thì còn có Xuân Thu Hội Yếu (春秋會要), Thất Quốc Khảo (七國考), Tần Hội Yếu (秦會要),
Lưỡng Hán Hội Yếu (兩漢會要), Đông Hán Hội Yếu (東漢會要), Tam Quốc Hội Yếu (三國會要), Tấn Hội Yếu (晉會要),
Nam Triều Tống Hội Yếu (南朝宋會要), Nam Triều Tề Hội Yếu
(南朝齊會要), Nam Triều Lương Hội Yếu (南朝梁會要), Nam Triều Trần Hội Yếu (南朝陳會要), Nguyên Điển Chương
(元典章), Minh Hội Yếu (明會要)
… là những sách giúp chúng ta hiểu rõ chế độ điển chương của từng triều đại.
Đường Luật Sớ Nghị
Trong các sử thư thuộc
loại chính thư lại còn có những sách chuyên môn ghi chép từng loại điển chương,
có loại ghi chép văn kiện nguyên bản của mỗi chế độ, chẳng hạn Đường Lục Điển (唐六典)
là sách ghi chép rõ ràng về quan chế đời Đường. Đại Đường Khai Nguyên Lễ (大唐開元禮) ghi chép đầy đủ năm loại lễ thời nhà Đường. Bộ sách nổi tiếng là bộ Đường
Luật Sớ Nghị (唐律疏議), ghi chép tường tận pháp luật đời Đường. Ba bộ
sách đó đều dùng những văn kiện nguyên thuỷ có liên quan đời Đường, pháp lệnh
luật lệ, không phải do lịch sử ghi chép, ngày nay trở thành loại tư liệu tiên
nguyên vô cùng quí giá.
Đường Luật Sớ Nghị là
các điều văn pháp luật cùng tập hợp các bản sớ giải thích luật lệ. Bộ phận chủ
yếu chia ra thành luật (律) và sớ nghị (疏議).
Đường luật (唐律) là do Trưởng Tôn Vô Kỵ (長孫無忌) vào năm Đường Cao Tông Vĩnh Huy thứ 2 (CN 651) phụng chỉ chế định ban
hành. Trong quá trình chấp hành, việc giải thích luật văn có chỗ khác nhau cho
nên vua Đường sai Trưởng Tôn Vô Kỵ đem Đường Luật ra sớ giải, soạn thành Đường
Luật Sớ Nghị 30 quyển, phân ra thành 12 môn, 502 điều.
Dưới mỗi điều đều có
phụ lời thuyết minh và giải thích, khi luật đời Tuỳ được ban hành và được thi
hành thì sớ nghị và luật văn đều có hiệu lực như nhau. Đường Luật Sớ Nghị là
pháp điển Á Châu tối cổ còn tồn tại, không những lâu năm mà cũng hoàn chỉnh nữa.
Sách theo truyền thống của Tuỳ Luật (隨律), khơi chảy cho các bộ
luật Tống Hình Thống (宋刑統), Đại Minh Luật (大明律),
Đại Thanh Luật Lệ (大清律例) đi theo và đều có giá trị học thuật rất cao.
CÁC DANH TRỨ SỬ HỌC KHÁC
Hoa Dương Quốc Chí
Hoa Dương Quốc Chí (華陽國志) còn có tên là Hoa Dương Quốc Kỷ (華陽國記) là sách địa phương chí tối cổ của Trung Hoa
hiện nay còn tồn tại. Tác giả Thường Cừ (常璩), tự Đạo Tương (道將), người Giang Nguyên đời Đông Tấn (nay là huyện
Sùng Khánh, Tứ Xuyên), vốn là thủ hạ của tán kỵ thường thị Lý Thế (李勢) nhà Thục Hán. Năm Vĩnh Hoà 3 (CN 347), đại tướng
Đông Tấn Hoàn Ôn (桓溫) phạt Thục, Thường
Cừ khuyên Lý Thế qui hàng, về sau được làm tham sự ở Đông Tấn. Khi còn ở Thục
đã viết bộ Hán Chi Thư (漢之書) 10 quyển, sang Tấn rồi dựa theo cơ sở bộ sách này mở rộng phạm vi, đến
năm Ninh Khang 2 (CN 374) nhà Tấn viết thành bộ Hoa Dương Quốc Chí. Cái tên Hoa
Dương (華陽) rút ra từ sách
Vũ Cống (禹貢), chỉ là phía
đông tới đất Dương ở Hoa Sơn, tây đến bờ sông Hắc Thuỷ, ấy là một trong chín
châu trong Vũ Cống là một dải Lương Châu thời cổ.
Toàn bộ quyển sách bao gồm 10 thiên, Kinh Tịch
Chí (經籍志) trong Tuỳ Thư
(隋書) làm thành 12 quyển, đời
Tống chỉ còn tàn khuyết, Lý Ký (李塈) đời Nam Tống căn cứ vào hai bộ sử thư nhà Hán bổ túc thành 12 quyển,
chính là bản Hoa Dương Quốc Chí ngày nay. Trong đó Ba Chí (巴志), Hán Trung Chí (漢中士), Thục Chí (蜀志), Nam Trung Chí (南中志) là tinh hoa của toàn bộ sách, có rất nhiều sử
liệu có giá trị được bảo tồn trong bộ phận này. Trong các chí này ghi chép lịch
sử các châu, duyên cách các quận huyện, các thành trấn chủ yếu, các dân tộc chủ
yếu, các họ lớn của mỗi dân tộc, chính tích của các quan và hình thể địa lý của
từng địa phương, sông núi đường sá, kinh tế vật sản, phong tục dân tình … Qua đến
địa khu tây nam, nội dung trọng yếu về địa lý thời cổ, chính trị, kinh tế, dân
tộc các phương diện, có thể bổ túc cho Hán Thư, Tam Quốc Chí, Tấn Thư, lại cũng
có thể bổ túc cho lịch sử đời Tiên Tần của một dải Ba Thục.
Chẳng hạn như lịch sử cổ Ba Thục trước khi nhà
Tần thống nhất, quá trình thống nhất Ba Thục của nhà Tần, sau khi Tần thống nhất
rồi thực hành chính sách quận huyện, Hoa Dương Quốc Chí đều ghi lại thật sinh động,
trung thực. Lại cũng có Chư Cát Lượng đánh Nam Trung, Tam Quốc Chí cũng nói qua
nhưng Hoa Dương Quốc Chí đã ký thuật cả lộ tuyến Chư Cát Lượng chinh nam, tình
tiết sinh động của chiến tranh và việc cai trị Nam Trung sau cuộc chiến cho người
đọc một ấn tượng hoàn chỉnh.
Trong sách cũng ghi nhận việc cha con Lý Băng
(李冰) làm cách nào mà đưa
nhân công đến trị thuỷ, tu sửa đập Đô Giang, tình huống rõ ràng việc dẫn nước
vào tưới ở bình nguyên Ba Thục (tức Thành Đô ngày nay), các thuỷ đạo ở bình
nguyên Ba Thục, khoáng sản, nhân dân làm thế nào nấu muối lấy dưới giếng lên,
làm sao sử dụng được những khí đốt từ các giếng (khí thiên nhiên) … Các sử liệu
trọng yếu đó, các sách sử khác hoặc là ghi chép không rõ rệt, hoặc không ghi
chép gì cả, cũng nhờ Hoa Dương Quốc Chí mà lưu lại được những tư liệu cực kỳ
quí giá. Tân Nam Trung Chí sách cũng ghi chép về tình trạng các dân tộc thiểu số
vùng tây nam.
Trong bốn Chí này, phân bố địa lý, lịch sử,
truyền thuyết, phong tục cho chí việc lai vãng của họ với các vương triều ở
trung nguyên như thế nào của hơn 30 dân tộc thiểu số vùng địa khu tây nam đều
được ghi lại rất trung thực. Nói chung, bốn quyển này chứa đựng sử liệu phong
phú đang chờ khai thác và sử dụng. Trong Hoa Dương Quốc Chí có Công Tôn Thuật (公孫述), Lưu Nhị Mục Chí (劉二牧志), Lưu Tiên Chủ Chí (劉先主志), Lưu Hậu Chủ Chí (劉後主志), Đại Đồng Chí (大同志), và thế chí của các họ Lý, họ Đặc, họ Hùng, họ
Kỳ, họ Thọ dùng thể biên niên để viết, chủ yếu ghi chép từ thời những năm cuối
thời Tây Hán đến Đông Tấn Vĩnh Hoà 3 (CN 347) về triều đại nhà Thục hưng thịnh,
suy vong, gống như Bản Kỷ trong chính sử. Tiên Hiền Liệt Nữ Tổng Tán (先賢士女總贊), Hậu Hiền Chí (後賢志), Tự Chí (序志) và mục lục nhân vật từ đời Tiên Hán trở về
sau của ba châu Ích (益), Lương (梁), Ninh (寧) chủ yếu là để giới thiệu các phương diện của
nhà Thục, các danh nhân hiền sĩ, đàn bà trinh liệt, giống như Liệt Truyện trong
chính sử.
Khi Thường Cừ soạn sách này ông đã tham khảo
các sách Đông Quan Hán Ký (東觀漢記) phần nhiều đã không còn nữa. Thường Cừ là người ghi chép về đất, về
người ngay tại đây, ông ở Ba Thục làm chức vụ về sử nhiều năm, có các cơ hội
tham duyệt một số lượng lớn văn thư đáng án, lại đích thân từng trải và điều
tra thu thập, việc ghi chép sự việc lại càng rõ ràng minh bạch đáng tin. Trong
sách những nhân vật được ghi chép đến gần 400 người, hiếm khi tìm thấy trong
các sách phương chí. Vào đầu đời Đường khi tu soạn Tấn Thư, Tư Mã Quang soạn Tư
Trị Thông Giám thì cũng đều có lấy tài liệu từ đây.
Về phương pháp biên soạn Hoa Dương Quốc Chí, kết
hợp cả lịch sử, địa lý, nhân vật hợp chung lại, dùng cả địa lý chí, biên niên sử,
nhân vật truyện ba loại thể tài để biên tả, chỗ thì chia ra, chỗ thì hợp lại,
có khi nhiều vùng nối lại với nhau hình thành một phương chí hoàn chỉnh. Đó là
một cách biên soạn phương chí lần đầu của Trung Hoa, để lại một thể lệ cho đời
sau. Hoa Dương Quốc Chí là phương chí cổ từ đời Tuỳ trở về trước còn để lại hậu
quả to lớn. Bộ sách nội dung rộng rãi, qui mô hoằng đại, tài liệu phong phú, sử
liệu chân thực, thể lệ hoàn bị từ khi thành sách vẫn được các học giả xưa nay
coi trọng.
Những năm gần đây, Ba Thục Thư Xã ở Tứ Xuyên
và Thượng Hải Cổ Tịch xuất bản xã tiếp nối nhau in các bộ Hoa Dương Quốc Chí Hiệu
Chú (華陽國志校注) và Hoa
Dương Quốc Chí Hiệu Bổ Đồ Chú (華陽國志校補圖注), bản sau đặc biệt phụ thêm 18 bức vẽ hình thể các châu quận rất tiện
tham khảo.
Thủy Kinh Chú
Thuỷ Kinh Chú (水經注), gốc 40 quyển, 100 vạn chữ, hiện nay tồn tại
độ chừng 30 vạn, tác giả là Lịch Đạo Nguyên (酈道元), tự Thiện Trường (善長), ước chừng sinh năm CN 465 – CN 472, chết khoảng
năm CN 527, người Trác huyện, Phạm Dương, đời Bắc Nguỵ. Ông từng làm thứ sử
Đông Kinh Châu, ngự sử trung uý. Khi thứ sử Ung Châu là Tiêu Bảo (蕭寶) chuẩn bị chống lại nhà Nguỵ, triều đình ra lệnh
cho Lịch Đạo Nguyên ra làm đại sứ Quan Hữu, thành ra bị Tiêu Bảo sát hại. Ông cần
mẫn hiếu học, bác lãm quần thư, lại thích đọc những sách lạ, hiểu biết uyên
bác, rất có tài, là địa lý học gia nổi danh của Trung Hoa. Ngoại trừ soạn Thuỷ
Kinh Chú (水經注) ra, ông còn viết
Bản Chí (本志), Thất Sính (七聘) nhưng tiếc rằng đều đã thất truyền.
Thời cổ, Trung Hoa có một bộ sách liên quan đến
địa lý đường thuỷ tên là Thuỷ Kinh (水經) nhưng nội dung quá đơn giản, lại cũng có nhiều sai lầm. Lịch Đạo
Nguyên lấy Thuỷ Kinh làm mối giềng, tham chiếu và tập trung các chi tiết trong
Sơn Hải Kinh (山海經), Vũ Cống (禹貢), Địa Lý Chí (地理志) trong Hán Thư tất cả hơn 400 tác phẩm có từ
trước, lấy những văn hiến tư liệu nào có liên quan, trong đó riêng về thư tịch
địa lý cũng đã hơn 90 quyển, phần nhiều không thấy ghi chép lại trong Kinh Tịch
Chí (經籍志) trong Tuỳ Thư
nên từ Thuỷ Kinh Chú mà người sau có thể biết được.
Dưới góc độ văn hiến mà xét, Thuỷ Kinh Chú có
thể coi như một tác phẩm tập đại thành về địa lý thời Nam Bắc Triều. Lịch Đạo
Nguyên cũng rất chú trọng đến thực tiễn, đích thân đi quan sát các địa phương
miền bắc, đi đến đâu cũng hỏi han, xem xét, trong sách ghi chép hơn 300 tấm bia
đá, phần nhiều do chính ông tự mình tìm hiểu. Ông cũng tự mình đến Tam Hạp (Hiệp)
sông Trường Giang, Long Môn của Hoàng Hà viết thành những chương sách linh động.
Thuỷ Kinh Chú ông viết ra thực tế là một bộ
sách mới về lịch sử địa lý. Trong sách ghi chép hơn 1200 thuỷ đạo, so với Thuỷ
Kinh thì nhiều gấp tám lần, chữ dùng cũng gấp hai mươi lần. Từ sông lớn, sông
nhỏ cho chí khe ngòi, tất cả đều thu vào trong sách, ông cũng cẩn thận ghi cả đầu
nguồn các con sông, dòng chảy đi đâu, các dòng nước thời trước, nước ngầm trồi
lên ở chỗ nào và tình huống biến hoá của mực nước, ngày nay vẫn có những giá trị
khoa học. Liên quan đến lưu vực của dòng nước để điều hoà thuỷ lợi, núi non,
thành thị, sản vật, thậm chí truyền thuyết dân gian, bia khắc, phương ngôn, ca
dao ông cũng đều ghi lại, đó là những sử liệu rất quí giá, chẳng hạn như những
ghi chép về sông Cao Lương (高梁) là thuỷ đạo quan trọng gần Bắc Kinh mà trước đây sách vở ghi chép rất
sơ sài.
Thuỷ Kinh Chú cũng dẫn ra bi văn trên tấm bia
do Lưu Tĩnh (劉靖) lập ra thời Tấn
Huệ Đế, giúp chúng ta giải thích được tại sao thời kỳ Tào Nguỵ ở đó người ta đã
xây dựng hồ chứa nước (水朅), và khơi kênh đào. Năm Cảnh Nguyên 3 (CN 262) lại sửa rạch Xa Sương (車箱渠) dẫn nước tưới ruộng, đào rạch từ tây bắc đất
Kế (薊) chảy xuống Xương
Bình (昌平), phía đông đến
huyện Lộ (潞縣) Ngư Dương (漁陽) dài ba, bốn trăm dặm, tưới hơn vạn khoảnh đất.
Những tài liệu chân thực và cụ thể đó, cho đến
nay khi nghiên cứu về sông ngòi biến hoá của vùng phụ cận Bắc Kinh, vẫn còn những
giá trị hiện thực để tham khảo về sự thay đổi địa hình. Thuỷ Kinh Chú cũng củ
chính được những sai lầm trong Thuỷ Kinh và Địa Lý Chí của Hán Thư chẳng hạn
như đầu nguồn của sông Tứ (泗水) mà cả hai bộ sách đều chép sai, Lịch Đạo Nguyên đích thân khảo sát,
tìm ra khởi nguyên thực sự của dòng sông này.
Lịch Đạo Nguyên sống vào thời Bắc Nguỵ nhưng
Thuỷ Kinh Chú không chỉ giới hạn vào cương vực nước Nguỵ mà đưa tầm mắt ra khắp
cả nước, nói rằng Vũ Vực (禹域) mới là giới hạn, cho thấy kiến thức xa xôi và trác tuyệt của ông. Lẽ
dĩ nhiên Lịch Đạo Nguyên không thể đến phương nam để đích thân tra xét nên có
những tư liệu không thật chuẩn xác. Do đó, chuyện trên mặt bắc rõ ràng minh bạch
mà chuyện ở phương nam thì sơ lược cũng là khuyết điểm khách quan do lịch sử tạo
thành, không nên xét nét thái quá. Thuỷ Kinh Chú văn chương tuyệt hảo, trong
văn học sử có địa vị rất cao, đối với tản văn du ký các đời sau ảnh hưởng rất
sâu xa.
Thuỷ Kinh Chú cũng là một trước tác địa lý, có
tính khoa học rất cao, lại là một tác phẩm văn học nên tính nghệ thuật cũng
không kém. Trộn lẫn địa lý, lịch sử, văn học vào chung một lò, thực là một kỳ
thư nghìn năm có một. Bao năm qua, người ta đọc sách này không khác gì đọc tản
văn, du ký, vui thích chẳng khác gì chính mắt trông thấy cảnh sắc Tam Hạp vực
sâu núi cao bảy trăm dặm, non nước trùng trùng mà miêu tả giản khiết trơn tru,
thật là tuyệt phẩm cực kỳ tinh diệu.
Từ khi Thuỷ Kinh Chú ra đời, các đời học giả đều
coi trọng chẳng hạn Hồ Tam Tỉnh (胡三省) khi chú thích Tư Trị Thông Giám đã dẫn dụng không ít sử liệu trích từ
Thuỷ Kinh Chú. Thế nhưng việc lưu truyền Thuỷ Kinh Chú cũng không tốt đẹp, truyền
sao sai lầm, kinh và chú lẫn lộn, bộ phận tàn khuyết, rất ít bản in rõ ràng. Việc
này đã khiến nhiều học giả quan tâm nên người nghiên cứu Thuỷ Kinh Chú rất
đông.
Những thành quả trứ danh nhất thì đời Thanh có
Toàn Tổ Vọng (全祖望) viết Thuỷ Kinh
Chú Hiệu Chính (水經注校正), Triệu Nhất
Thanh (趙一清) viết Thuỷ Kinh
Chú Thích (水經注釋), Đái Chấn (戴震) viết Thuỷ Kinh Chú Hiệu (水經注校), Dương Thủ Kính (楊守敬), Hùng Hội Trinh (熊會貞) viết Thuỷ Kinh Chú Sớ (水經注疏). Gần đây thì có Vương Quốc Duy (王國維) viết Thuỷ Kinh Chú Hiệu (水經注校).
Sử Thông
Lưu Tri Cơ (劉知幾) (CN 661 – 721), tự Tử Huyền (子玄), người Bành Thành đời Đường (nay là Từ Châu,
Giang Tô), sử học gia trứ danh là con nhà thế gia nhiều đời làm quan, từ bé đã
thích đọc sử học, năm 20 tuổi đỗ tiến sĩ nhưng cả đời không được trọng dụng,
nhiều năm làm việc tu soạn quốc sử. Sử Thông (史通) là bộ sách ông tổng kết nhiều năm nghiên cứu
và kinh nghiệm cá nhân viết xong đời Trung Tông Cảnh Long 4 (CN 1710), tổng cộng
20 quyển, 49 thiên, bao gồm 36 nội thiên và 13 ngoại thiên.
Nội thiên chủ yếu từ phương diện lý luận sử học
mà bình thuật các loại sách sử bao gồm sử pháp, thư pháp, thể tài, thể lệ còn
ngoại thiên thì chủ yếu thêm vào nguồn gốc các sử tịch, tạp bình cái được cái mất
của cổ nhân khi soạn sử, chỉ ra những chỗ sai lầm và đặt câu hỏi những điều
đáng nghi.
Lưu Tri Cơ cả đời ham thích sử học, bác lãm quần
thư, đối với sử cũ thì chính mình tìm đến được những chỗ độc đáo, lại nhiều năm
công tác ở Sử Quán, thâm hiểu những sai lầm đầy rẫy trong Sử Quán. Tác giả đem
chính những kiến giải của mình để sàng lọc, đem sử học trước đời Đường tiến
hành phân tích, tổng kết và trần thuật những điều hay điều dở, can đảm phê
phán, trách cứ những sai lầm và kiên trì giữ quan điểm tiến bộ của mình chẳng hạn
như ông dám đưa ra những nghi ngờ đối với các bộ kinh điển cũ như Nghiêu Điển (堯典), Luận Ngữ (論語) dám đề xuất cả nghi ngờ về thuyết Ngũ Hành
đúng hay sai, coi là mê tín, cho rằng chỉ “bịt tai đi ăn cắp chuông” (掩耳盜鐘) [xem Thư Chí – Ngũ Hành], để lừa dối người.
Lưu Tri Cơ nhận xét rằng nếu muốn làm sử gia
thì cần có đủ sử tài (史才), sử học (史學), sử thức (史識) gọi là tam trường (ba sở trường). Nếu như
trong ba món này thiếu một thì không thể được. Trong ba điều đó, sử thức là
quan trọng nhất. Quan điểm đó được các sử học gia đời sau xưng tụng và noi
theo. Sử học gia đời Thanh Chương Học Thành (章學誠) lại bổ sung thêm một điều là sử đức (史德), tiến bộ hơn quan điểm của Lưu Tri Cơ. Thực
ra họ Lưu đưa ra quan điểm “thích điều chính trực, thiện ác gì cũng phải viết
ra” (好是正直,善惡必書), phản đối việc “bẻ cong ngòi bút, viết
điều sai lầm” (曲筆誣書) thì trong ý
đó cũng đã nói lên truyền thống ưu lương trong việc tổng kết và phát triển sử học.
Trong suốt bộ Sử Thông ta thấy ông quán triệt tư tưởng đó.
Ông cũng từ góc độ rộng rãi để nhìn các sử thư
trước đời Đường, vẫn được coi như kinh điển trong sử sách, từ nội dung đến
phương pháp biên soạn tiến hành phân tích và phê bình, chỉ ra những điều được
hay mất, tổng kết từ Lục Gia (六家) [tức Thượng Thư (尚書), Xuân Thu (春秋), Tả Truyện (左傳), Quốc Ngữ (國語), Sử Ký (史記), Hán Thư (漢書) là sáu bộ sách đại diện hình thức biên soạn],
Nhị Thể (二體) [tức Kỷ Truyện
(紀傳), Biên Niên (編年) hai loại thể tài] rồi tiến hành phương pháp cụ
thể phân tích luận thuật các thể thức sử học, đề xuất những kiến giải độc đáo,
nhấn mạnh vào thông thức (kiến thức thông thường) là văn không nên câu nệ phép
tắc, nên tuỳ thời đại biến hoá mà biến đổi theo, thu thập tài liệu thì cả tổng
quát lẫn chọn lựa, thêm vào thì nên đi thẳng vào tâm điểm, tu sửa thì nói gì phải
có chứng cớ thì mới có thể tin được. Đó là những chủ trương rất tốt đẹp cho đến
ngày nay cũng vẫn còn có ý nghĩa để noi theo.
Sử Thông không chỉ là một quyển sách về lý luận
chuyên môn của sử học mà cả trên phương diện văn học cũng có những kiến giải tinh
tường như chủ trương “bỏ những chỗ phù phiếm mà đi vào chất phác” (反浮辭於質樸) [Tạp Thuyết Hạ], phản đối cách thức biền
lệ chi phong (viết câu song song và hư mỹ) trong việc biên tập đời Lục Triều và
Sơ Đường, đề xướng việc viết phác thực mà không hoa mỹ, chủ trương dùng “tiếng
nói của người thường” (當世口語) để ghi chép sự việc. Sử Thông văn chương chất phác, hành văn lưu
loát, nghị luận thấu đáo, đem việc yêu ghét trộn vào trong chữ dùng và cách
hành văn là kiệt tác đời Sơ Đường. Người đời sau nghiên cứu Sử Thông có Phổ Khởi
Long (浦起龍) đời Thanh viết
Sử Thông Thông Thích (史通通釋) rất nổi tiếng. Thượng Hải Cổ Tịch xuất bản xã có bản đã chỉnh lý và
biên tập dùng rất tốt.
Mộng Khê Bút Đàm
Bút ký tạp lục vốn là hình thức trước tác thời
cổ để bảo tồn sử liệu rất phong phú, viết rất tự do. Bút ký được truyền lại số
lượng rất nhiều mà Mộng Khê Bút Đàm là một tác phẩm trứ danh, bảo tồn được tài
liệu rất nhiều. Tác giả Thẩm Quát (沈括) (CN 1031 – 1095), tự là Tồn Trung (存中), người Tiền Đường (nay là Hàng Châu), từ nhỏ
đã theo cha là Thẩm Chu (沈周) người làm quan lâu năm, đi khắp các vùng đất phía đông nam nên được mở
rộng tầm mắt hiểu biết tăng lên rất nhiều. Năm 33 tuổi ông đỗ tiến sĩ, từng đảm
nhiệm chức biên hiệu Chiêu Văn Quán (昭文館), lại được đề cử làm Ty Thiên Giám, được vào nghiên cứu thiên văn và
toán học. Sau ông đi sứ sang nước Liêu, cầm quân tại Diên Châu (延州) phòng ngự một dải Tây Hạ.
Về sau vì tướng ở biên cương là Từ Hi (徐禧) ở Vĩnh Lạc bị người Tây Hạ đánh bại, Thẩm
Quát bị liên lụy nên mất chức, từ đó ông thoát ly quan trường, về Kinh Khẩu (京口) [nay là Sảng Giang thuộc Giang Tô] cất nhà ở
Mộng Khê Viên (夢溪園), bế môn tạ
khách, chuyên tâm trước thuật. Thẩm Quát cả đời chuyên cần học tập, từng làm rất
nhiều công việc khác nhau, lại đi qua rất nhiều địa phương, việc gì cũng lưu ý,
mà mỗi việc đều thực tiễn cho nên Tống Sử nói ông là ”học rộng, giỏi văn
chương, dù là thiên văn, phương chí, luật lịch, âm nhạc, y dược, bói toán,
không môn gì là không thông”. Tới lúc già, ông ở Mộng Khê Viên hồi ức lại
những việc đã qua, ghi xuống bằng bút mực “muốn nói chuyện thì bạn chỉ có
bút và nghiên, cho nên gọi là bút đàm”. Ấy là đầu nguồn của Mộng Khê Bút
Đàm. Thẩm Quát một đời trước tác rất phong phú, tiếc rằng tuyệt đại đa số nay đều
mất cả, chỉ còn Tô Thẩm Lương Phương (蘇沈良方) và Mộng Khê Bút Đàm (夢溪筆談) còn tồn tại.
Mộng Khê Bút Đàm hiện nay còn 26 quyển, có
thêm Bổ Bút Đàm (補筆談) ba quyển, Tục
Bút Đàm (續筆談) 11 điều. Sách
của người đời Tống dẫn văn trong Bút Đàm ngày nay không thấy trong bản hiện nay
cho thấy Mộng Khê Bút Đàm có lẽ đã bị mất một phần rồi. Hiện nay biên mục còn tồn
tại thì có cố sự, biện chứng, nhạc luật, tượng số, nhân sự, quan chính, quyền
trí, nghệ văn, thư hoạ, kỹ nghệ, khí dụng, thần kỳ, dị sự, mậu ngộ, ky hước, tạp
chí, nhạc nghị 17 thiên, tổng cộng hơn 6000 điều, chia thành 26 quyển. Theo
biên mục ta thấy rằng bộ tuỳ bút tạp ký này nội dung rất là quảng bác. Thẩm
Quát có thái độ trị học nghiêm cẩn, nội dung ghi lại rất thành thực đáng tin,
có nhiều kiến giải độc đáo với nhiều bộ môn khoa học là những môn mà thời đó có
địa vị tiên phong so với thế giới.
Trong Mộng Khê Bút Đàm, những tư liệu khoa học
kỹ thuật được lưu lại thật là quí giá, rất có giá trị, chẳng hạn đời Khánh Lịch
nhà Tống đã phát minh ra thuật ấn loát dùng chữ rời (活字排版印刷術) là phát minh được cả thế giới biết tiếng,
mọi việc từ chế tạo hoạt tự đến khi xếp thành trang thì Mộng Khê Bút Đàm là
sách duy nhất ghi chép lại cho đời sau. Ngày hôm nay Lịch Sử Bác Vật Quán có
trưng bày các món phỏng chế, đều là dùng những ghi chép về phương pháp chế tạo
của Thẩm Quát.
Về một trong tứ đại phát minh là phương pháp
chế tạo kim chỉ nam, Mộng Khê Bút Đàm cũng lưu lại rõ rệt. Người nổi tiếng là Lỗ
Ban (魯班), một kiến trúc
sư khéo léo đã tổng kết kinh nghiệm xây nhà bằng gỗ trong cuốn Mộc Kinh (木經) và Cao Siêu (高超) là người phát minh ra phương pháp chặn sông
Hoàng Hà nhưng chỉ nghe tên mà không thấy kinh truyền, Thẩm Quát là người ghi
rõ trên giấy nên ông đã lưu danh và cả sự tích nữa.
Người đầu tiên phát hiện cầu vồng (mống trời)
là do chiết xạ hiện tượng trong không khí là học giả Tôn Tư Cung (思恭), xuất thân bình dân và người biên soạn lịch
pháp rất tiến bộ thời đó là Vệ Phác (衞樸) cũng đều là nhờ Thẩm Quát đã ghi lại sự tích của họ. Đời Thanh, Nguyễn
Nguyên (阮元) biên soạn Trù
Nhân Truyện (疇人傳) là bộ truyện
ký về khoa học gia, Lục Tâm Nguyên (陸心源) biên soạn Tống Sử Dực (宋史翼) cũng lấy rất nhiều tài liệu từ Mộng Khê Bút Đàm.
Thẩm Quát bác học đa tài, học thuật rất có cơ
sở, nhưng nhiều trước thuật chuyên môn của ông bị mất mát, may nhờ Mộng Khê Bút
Đàm mà chúng ta có thể biết được một đề cương tổng quát những gì ông đã làm, chẳng
hạn như khi ông đi qua Thái Hàng Sơn, nhìn thấy đá núi trên vách chằng chịt những
vỏ sò và đá cuội hình quả trứng chạy ngang thành như cái đai nên cho rằng trước
đây đời thái cổ phải là bờ biển, trên núi nay còn di tích (hoá thạch) do các vỏ
sò ở bờ biển và đất bùn tích lại mà thành.
Những kiến thức khoa học đó so với người Âu
Châu thì đã sớm hơn 400 năm. Tại Diên Châu (延州) [nay là Diên An, Thiểm Tây] phát hiện ra dưới
đất có rất nhiều hoá thạch hình giống như thân tre, ông đã liên tưởng đến cổ
kim khi hậu không giống nhau, kiến giải đó thật là tiến bộ vào thời đó, mở đầu
cho thuyết đất và biển của địa cầu di chuyển. Đối với những vùng đất trũng có
hiện tượng ảnh ngược trong nguyên lý quang học, mặt trăng bản thân không có ánh
sáng mà chỉ phản ảnh ánh sáng mặt trời chiếu vào nên mới phát quang, cho chí
nguyên nhân của nhật thực, nguyệt thực ông đều có kiến giải chính xác.
Về hình dạng Nhạn Đãng Sơn (雁蕩山) là do đâu ông cũng có nhận thức sớm hơn 600
năm so với học giả người Anh Hách Đăng. Ông cũng là một nhà dược vật học, địa
lý học, nông nghiệp, sinh vật, khí tượng, thiên văn học các phương diện đều có
nhiều phát kiến, phát minh nhưng tiếc rằng những ghi chép trong Mộng Khê Bút
Đàm quá đơn giản. Lịch sử quan của Thẩm Quát so ra cũng tiến bộ, tại Mộng Khê
Bút Đàm ông tường thuật về Vương Tiểu Ba (王小波), Lý Thuận (李順) nổi dậy ở Tứ Xuyên, được một số đông hưởng ứng,
thi hành chính sách quân bần phú, quân kỷ nghiêm minh và sau khi bị đánh dẹp
người dân vẫn còn bảo hộ Lý Thuận trong ba mươi năm, cho thấy họ được nhân dân
đồng tình, những chi tiết đó rất quí.
Văn bút của Thẩm Quát rất hay, văn tự giản dị,
sinh động trơn tru. Mộng Khê Bút Đàm dùng thể bút ký để viết, khiến người đọc
tán thưởng. Câu văn tuy ngắn nhưng nội dung phong phú, người đọc thấy hứng thú
và tăng thêm nhiều kiến thức. Hiện nay có bản Tân Hiệu Chính Mộng Khê Bút Đàm (新校正夢溪筆談) do Hồ Đạo Tĩnh (胡道靜) hiệu chú là bản đọc tiện lợi hơn cả.
[1] Trong lịch sử, tiêu chuẩn
phán đoán của sử quan đời xưa phân biệt ra chính quyền nào được truyền thừa
chính thống thì được coi như hợp pháp, nếu cướp ngôi thì là tiếm nguỵ. Theo lịch
pháp, năm bình thường gọi là bình niên, có thêm tháng nhuận [13 tháng] gọi là
chính niên.
[2] Thông Giám, q. 69: Thần
Quang viết.
[3] Chính (政)
ở đây là chính trị, không phải chính (正) là ngay thẳng, chính
đáng.